Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về kiểm toán các khoản phải thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính và thực tế thực tế tiến hành kiểm toán các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính. Các khoản phải thu là tài sản sẽ thu được trong tương lai của công ty do vậy một yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là các khoản phải thu được trình bày trên Bảng cân đối kế toán phải phản ánh đúng giá trị thực của các khoản phải thu của đơn vị và các khoản phải thu này phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Các khoản phải thu thường có quan hệ với nhiều khoản mục khác nhau đặc biệt là khoản mục doanh thu, do vậy khi xây dựng chương trình kiểm toán đối với các khoản phải thu cần phải liên hệ, xem xét chương trình kiểm toán doanh thu.
Chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty được xây dựng và thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm giảm rủi ro kiểm toán và tăng chất lượng của cuộc kiểm toán.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, căn cứ vào cơ sở lý luận và thực trạng kiểm toán các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện, em đã mạnh dạn đưa ra một số đánh giá và kiến nghị mang tính định hướng nhằm góp phần hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.S Bùi Thị Minh Hải và các anh chị trong Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
146 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện kiểm toán khoản phải thu khách hàng do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ta, việc kiểm soát chất lượng kiểm toán còn nhiều hạn chế. Mặc dù các doanh nghiệp kiểm toán đều quan tâm đến việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ kiểm toán nhưng việc thực hiện nghiêm ngặt quy trình kiểm toán và kiểm soát chất lượng hồ sơ kiểm toán thì không phải doanh nghiệp nào cũng được thực hiện.
Công ty kiểm toán và định giá Việt Nam đang từng bước phát triển cả về quy mô và chất lượng dịch vụ do đó công ty đang tiến đến việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý của mình. Sau một thời gian hoạt động, do nhu cầu mở rộng quy mô công ty thấy rằng việc quản lý theo mô hình cũ (quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn khác nhau như: kiểm toán tài chính, tư vấn và định giá, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản) là không còn phù hợp nữa, nên đến năm 2004 công ty đã thực hiên quản lý theo mô hình mới (quản lý theo từng phòng nghiệp vụ). Đó là việc Công ty thực hiện việc khoán doanh thu cho từng phòng nghiệp vụ, các phòng nghiệp vụ sẽ được hưởng lương theo tỷ lệ doanh thu mà phòng thu được, công ty cũng thực hiện việc khoán quỹ lương cho từng phòng, và các phòng phải tự chi trả các khoản chi phí vượt quá mức chi phí mà công ty phân bổ cho từng phòng theo tỷ lệ doanh thu của các phòng đó, do đó một số khoản chi phí giảm hẳn như chi cho văn phòng phẩm, chi điện thoại.... Mô hình quản lý mới này đã mang lại hiệu quả cao trong công việc, thể hiện là, trong năm 2004 và năm 2005 công ty đã tăng doanh thu lên nhiều và một số chi phí khác giảm. Với mô hình quản lý mới này sẽ nâng cao ý thức, trách nhiệm của các nhân viên trong từng phòng ban, cũng như việc nâng cao trách nhiệm của những người quản lý. Công ty có một ưu điểm nữa trong quản lý là việc mở các văn phòng đại diện ở một số tỉnh để khai thác và ký kết hợp đồng, các hợp đồng đã được ký kết sẽ được phân bổ cho các phòng nghiệp vụ cho phù hợp góp phần làm giảm bớt các nhược điểm trên, thêm vào đó công ty thường xuyên xây dựng các chiến lược, định hướng phát triển và phổ biến cho các phòng, điều này cũng góp phần định hướng cho các phòng nghiệp vụ trong quá trình thực hiện mục tiêu riêng của mình. Mặt khác với mô hình tổ chức mới này các phòng không chỉ chuyên về một lĩnh vực nhất định mà bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo điều kiện phát triển đồng đều trong công ty.
Trong một số hợp đồng kiểm toán lớn, để nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán các phòng nghiệp vụ có sự phối hợp về chuyên môn để thực hiện, điều này không chỉ làm tăng chất lượng dịch vụ do công ty cung cấp, tạo uy tín với khách hàng mà còn tạo nên một mối liên hệ, liên kết giữa các phòng nghiệp vụ trong công ty.
Do đặc thù về ngành nghề kinh doanh do đó công ty có bộ máy kế toán nhỏ gọn nhất, tuy nhiên vẫn đảm bảo việc hạch toán đầy đủ và đúng chế độ kế toán hiện hành.
Về kiểm soát chất lượng trong công ty: Công ty đã xây dựng được hệ thống kiểm soát chất lượng chặt chẽ, chính điều này đã làm nên chất lượng các dịch vụ mà công ty cung cấp, tạo uy tín của công ty trên thị trường và tạo niềm tin cho các khách hàng của công ty. Việc kiểm soát chất lượng của cuộc kiểm toán đều được thực hiện thông qua các giấy tờ bảng mẫu có sẵn, hay nói cách khác là theo một trình tự sẵn có đã được xây dựng trước đó và được quy định trong quy chế của công ty. Tuy nhiên việc kiểm soát này cũng phải được thực hiện tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của cuộc kiểm toán.
Công ty có đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao, có đạo đức, có kiến thức và thường xuyên được cập nhật các kiến thức mới thông qua các lớp giảng dạy do Công ty tổ chức.
Bên cạnh đó, Công ty đã và đang ngày càng hoàn thiện quy trình kiểm soát Báo cáo kiểm toán, điều này làm giảm tối đa các nhược điểm tạo ra do cơ chế quản lý mới của công ty. Qúa trình kiểm soát này đặt chất lượng của các báo cáo kiểm toán phát hành lên hàng đầu hay đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu do đó làm giảm khả năng các phòng nghiệp vụ chỉ quan tâm tới mục tiêu lợi nhuận mà không quan tâm tới mục tiêu phát triển chung của công ty. Quá trình kiểm soát này còn nâng cao trách nhiệm của nhà quản lý các cấp như trưởng nhóm kiểm toán phải chịu trách nhiệm về các báo cáo kiểm toán do nhóm thực hiện kiểm toán của mình phát hành và đã được mình soát xét, các Phó Giám đốc phụ trách phải chịu trách nhiệm về các báo cáo kiểm toán do mình soát xét được trình lên ban giám đốc và cuối cùng là ban giám đốc phải chịu trách nhiệm trước khách hàng về báo cáo kiểm toán do công ty phát hành. Do các trách nhiệm như vậy nên buộc các cấp soát xét phải quan tâm và thận trọng đối với việc soát xét. Và cũng chính trách nhiệm này cũng buộc các phòng nghiệp vụ ngoài việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận của phòng còn phải quan tâm tới mục tiêu chất lượng chung của cả công ty.
Công việc đánh giá rủi ro kiểm soát của công ty đối với khách hàng ít được thực hiện thông qua thủ tục phân tích mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của kiểm toán viên, công việc này thường được thực hiện bởi chủ nhiệm kiểm toán sau khi xem xét sơ bộ về khách hàng, điều này được lưu ý đối với các kiểm toán viên thực hiện từng phần hành có liên quan.
Công ty đã xây dựng được chương trình kiểm toán chung cho mình, đây là định hướng ban đầu cho các kiểm toán viên khi tiến hành kiểm toán. Việc xây dựng chương trình kiểm toán cũng góp phần kiểm soát chất lượng của các cuộc kiểm toán. Trong chương trình kiểm toán chung của công ty xây dựng, chúng ta cũng có thể thấy rằng công ty thực hiện các thủ tục phân tích là rất ít mà chủ yếu là tiến hành kiểm tra chi tiết các mẫu chọn, việc này có thể dẫn đến việc kiểm tra không hiệu quả khi mẫu chọn không mang tính đại diện, tuy nhiên việc sử dụng ít thủ tục phân tích được giải thích rằng: thủ tục phân tích là rất khó, đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ rất cao mới có thể thực hiện có hiệu quả, thêm vào đó là do các con số thể hiện trên các báo cáo tài chính của khách hàng phần lớn là không chính xác do đó việc thực hiện thủ tục phân tích có thể khiến kiểm toán viên đi sai hướng, có thể bỏ qua các khoản mục chứa đựng rủi ro.
Việc xây dựng một chương trình kiểm toán chung của công ty giúp các nhà quản lý công ty kiểm soát tốt hơn chất lượng của cuộc kiểm toán thông qua mức độ thực hiện các chương trình kiểm toán đã được xây dựng cho các cuộc kiểm toán cụ thể theo chương trình chung của công ty.
Tất cả các khách hàng của công ty đều được kiểm toán căn cứ vào chương trình kiểm toán chung của công ty mà ít có sự xem xét ảnh hưởng của ngành nghề kinh doanh của khách hàng tới chương trình kiểm toán chung này, đây là một nhược điểm do chương trình kiểm toán này không phải là phù hợp với mọi loại hình doanh nghiệp.
Do một số hạn chế nhất định nên khi tiến hành một cuộc kiểm toán đối với các khách hàng mới cũng như các khách hàng thường xuyên, công ty đều tiến hành kiểm toán tất các các khoản mục công ty đã xây dựng trong chương trình kiểm toán chung của công ty mà không có sự đánh giá các khoản mục theo hồ sơ kiểm toán do công ty đã thực hiện đối với các khách hàng thường xuyên để giảm khối lượng công việc cần thực hiện cho kiểm toán viên.
Công ty có quy trình kiểm toán và quy trình kiểm soát chất lượng hợp lý đã được xây dựng từ trước, đây là một lợi thế, một ưu điểm, một thế mạnh của công ty. Công ty cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy trình trên để càng ngày càng nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán sau này.
1.2. Đánh giá chung về chương trình kiểm toán các khoản phải thu do công ty thực hiện
Trong quá trình thực hiện kiểm toán công ty có thu thập và sử dụng các giải trình của Ban Giám đốc Công ty khách hàng, đây là sự cam kết của Ban Giám đốc Công ty khách hàng về tính trung thực và hợp lý của các thông tin tài chính do Công ty cung cấp. Bằng chứng kiểm toán này góp phần tăng trách nhiệm của Ban Giám đốc Công ty khách hàng đối với các thông tin tài chính mà họ cung cấp.
Do Công ty thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính theo khoản mục nên tạo điều kiện thuận lợi cho các kiểm toán viên khi tiếp cận đối tượng kiểm toán. Với việc hạn chế về kinh nghiệm thì cách thức tiếp cận này là hợp lý, hơn nữa khi tiếp cận theo cách này thì một kiểm toán viên có thể thực hiện kiểm toán nhiều khoản mục vì thế tiết kiệm thời gian khi công ty kiểm toán gặp sức ép về thời gian. Tuy nhiên chính cách thức tiếp cận này lại dẫn đến việc kiểm toán viên không thấy được mối quan hệ giữa các khoản mục do các kiểm toán viên được phân công kiểm toán các khoản mục khác nhau.
Trong chương trình kiểm toán chung của Công ty, Công ty có xây dựng chương trình đánh giá rủi ro kiểm toán cho Báo cáo tài chính của Công ty khách hàng. Khi tiến hành kiểm toán tại Công ty khách hàng, trưởng nhóm kiểm toán thu thập các tài liệu liên quan đến nghĩa vụ pháp lý của Công ty khách hàng và một số các giấy tờ chung của khách hàng, thông qua các tài liệu đã thu được kiểm toán viên có được những hiểu biết sơ bộ nhất về Công ty khách hàng, căn cứ vào những hiểu biết này kiểm toán viên có các đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát của đơn vị (được thể hiện trên các tờ kiểm soát nội bộ). Các công việc trên được thực hiện trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, còn trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, mức rủi ro kiểm soát không thể xác định được (đối với các khách hàng mới) hoặc xác định không phù hợp, thích đáng (đối với các khách hàng cũ) do kiểm toán viên chưa có được nhũng hiểu biết tổng quát nhất về Công ty khách hàng. Cũng trong chương trình kiểm toán chung này, Công ty có xây dựng chương trình đánh giá tính trọng yếu của các khoản mục và đánh giá tính hoạt động liên tục của Công ty khách hàng, tuy nhiên trên thực tế, các công việc này ít được thực hiện. Tất cả các công việc liên quan đến việc đánh giá rủi ro và xét đoán mức trọng yếu chỉ là các thảo luận giữa các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán các khoản mục và đều không được thể hiện trên giấy tờ làm việc của họ.
Kiểm soát nội bộ của Công ty khách hàng cũng như kiểm soát nội bộ đối với khoản phải thu khách hàng được các kiểm toán viên phát hiện và đánh giá trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, khi kiểm toán viên kiểm tra chi tiết khoản phải thu khách hàng, đi ngược lại với trình tự chung (kiểm soát nội bộ được đánh giá trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán để làm cơ sở cho các quyết định kiểm tra chi tiết). Trên thực tế, kiểm toán viên đã thực hiện đầy đủ các thủ tục kiểm soát theo như hướng dẫn trong chương trình kiểm toán mẫu để kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ của các khoản phải thu khách hàng trong giai đoạn thực hiện kiểm toán.
Công ty áp dụng chương trình kiểm toán chung cho tất cả các khách hàng, không xét đến tính đặc thù về ngành nghề kinh doanh, tình hình tài chính, loại hình doanh nghiêp, đặc thù về kiểm soát của từng khách hàng cụ thể, điều này là không hợp lý do chương trình kiểm toán đó không phải có thể áp dụng đối với mọi loại hình doanh nghiệp và phù hợp với mọi tình huống.
Mặc dù Công ty đã xây dựng cho mình một chương trình kiểm toán chung, tuy nhiên thực tế cho thấy các công việc kiểm toán viên của công ty đang thực hiện chỉ là các công việc kiểm tra hệ thống kế toán, kiểm tra các số liệu kế toán của Công ty khách hàng, đây là tình trạng chung của các công ty kiểm toán tại Việt Nam hiện nay.
Trong chương trình kiểm toán khoản phải thu nói riêng và chương trình kiểm toán các khoản mục nói chung, công ty sử dụng ít các thủ tục phân tích mà chủ yếu dùng thủ tục kiểm tra chi tiết, điều này làm tăng khối lượng công việc kiểm toán viên phải thực hiện. Mặt khác các thủ tục kiểm soát mới chỉ dừng lại ở việc xem xét trình tự, quy trình hạch toán, tìm hiểu các quy định, quy chế của Công ty liên quan đến các khoản phải thu, chưa thực hiện đánh giá rủi ro kiểm soát, do công việc này đòi hỏi các kiểm toán viên phải có kinh nghiệm và chuyên môn nghiệp vụ cao.
Công ty xây dựng chương trình chung trong kiểm toán khoản phải thu khách hàng nhằm làm tăng chất lượng của cuộc kiểm toán và làm giảm rủi ro kiểm toán khi thực hiện kiểm toán khoản mục này, do kiểm toán viên thực hiện kiểm toán đã có định hướng, hướng dẫn các công việc khi kiểm toán khoản mục này còn các trưởng nhóm kiểm toán có cơ sở để kiểm tra các công việc mà các kiểm toán viên trong nhóm mình đã thực hiện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi thực hiện kiểm toán các khoản phải thu khách hàng kiểm toán viên chưa thực hiện một số các bước công việc trong chương trình kiểm toán mẫu như: các kiểm toán viên hầu như không thực hiện các thủ tục phân tích, chưa áp dụng thủ tục gửi thư xác nhận theo hướng dẫn, ...
Chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty được xây dựng trên cơ sở chế độ kế toán cũ (trong chế độ kế toán cũ, khoản phải thu khách hàng chưa được chia thành các khoản phải thu ngắn hạn và các khoản phải thu dài hạn). Các khoản phải thu hiện tại được chia làm các khoản phải thu ngắn hạn và các khoản phải thu dài hạn, do đó, nếu chỉ với các hướng dẫn trên các kiểm toán viên có thể gặp khó khăn trong việc kiểm tra, xem xét. Theo chế độ mới, các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính thay đổi, đặc biệt là chỉ tiêu phải thu khác, do vậy khi thực hiện kiểm toán nếu kiểm toán viên chỉ áp dụng các thủ tục cũ là không đầy đủ, kiểm toán viên phải áp dụng thêm cả các thủ tục kiểm toán mà Công ty đã xây dựng trong chương trình kiểm toán các tài sản lưu động khác.
Trong chương trình kiểm toán các khoản phải thu của khách hàng Công ty có hướng dẫn thu thập bằng chứng kiểm toán thông qua kỹ thuật gửi thư xác nhận, đây là một kỹ thuật quan trọng khi thực hiện kiểm toán các khoản phải thu, do kỹ thuật này cung cấp cho kiểm toán viên các bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy để đưa ra ý kiến của mình về khoản mục này.
Do việc không nhận được thư xác nhận phản hồi hoặc không nhận được kịp thời thường xuyên xảy ra nên kỹ thuật gửi thư xác nhận tại công ty VAE ít được thực hiện. Công ty đã khắc phục khó khăn này bằng cách, gửi thư xác nhận số dư các khoản công nợ trước cuộc kiểm toán chính thức đối với các hợp đồng kiểm toán được ký kết trước ngày khoá sổ kế toán của khách hàng. Ngược lại đối với các hợp đồng kiểm toán được ký kết sau ngày khóa sổ kế toán thì việc gửi thư xác nhận sẽ được tiến hành ngay trong cuộc kiểm toán, tuy nhiên không thể áp dụng đầy đủ các nguyên tắc kỹ thuật chung về gửi thư xác nhận.
Thực tế công ty chỉ thực hiện gửi thư xác nhận đối với các số dư không có sự đối chiếu của đơn vị được kiểm toán với các bên có liên quan. Ví dụ: đối với các khoản công nợ phải thu của khách hàng đã có biên bản đối chiếu công nợ cuối kỳ với người mua thì không gửi thư xác nhận nữa.
Giá trị của các khoản phải thu khách hàng được gửi thư xác nhận có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn 60% tổng số dư khoản phải thu khách hàng. Kiểm toán viên sẽ gửi thư xác nhận nhiều hơn 60% tổng số dư nếu kiểm toán viên thấy cần thiêt và nhỏ hơn 60% nếu thấy không cần thiết hoặc có một số khoản phải thu khách hàng đã được đối chiếu công nợ với khách hàng. Thực tế kiểm toán cho thấy, quyết định sử dụng kỹ thuật gửi thư xác nhận và quy mô của số dư khoản phải thu khách hàng được gửi thư xác nhận phụ thuộc vào việc các khoản phải thu đã được đối chiếu với khách hàng hay chưa, và phụ thuộc vào xét đoán của từng kiểm toán viên thực hiện kiểm toán khoản mục phải thu khách hàng đó.
Do giới hạn về thời gian kiểm toán trong mỗi cuộc kiểm toán nên việc không thu hồi đủ các thư xác nhận đã gửi đi thường xuyên xảy ra, do đó kiểm toán viên thường phải thực hiện ngay các thủ tục kiểm toán bổ sung để kịp thời gian phát hành báo cáo kiểm toán cho khách hàng.
Công ty chưa thực hiện gửi thư xác nhận đối với bên thứ ba có số dư bằng 0, đây là do giới hạn về thời gian kiểm toán cũng như chi phí kiểm toán.
Công ty chủ yếu gửi thư xác nhận đối với số dư cuối kỳ của các khoản mục, còn đối với các số phát sinh trong kỳ thì hầu như ít được thực hiện, đây cũng là do giới hạn về mặt thời gian. Theo VSA 505 – Thông tin xác nhận từ bên ngoài, kiểm toán viên có thể thực hiện gửi thư xác nhận đối với cả các giao dịch phức tạp hoặc bất thường, tuy nhiên trên thực tế các Công ty ít thực hiện xác nhận đối với vấn đề này.
Các thư xác nhận đối với các khoản phải thu đều được gửi và thu hồi bởi một kiểm toán viên phụ trách riêng việc gửi thư xác nhận, do đó giúp kiểm soát tốt hơn đối với việc gửi và thu hồi thư xác nhận.
Kiểm toán viên phụ trách theo dõi việc gửi thư xác nhận, lập một bảng tổng hợp các thư xác nhận đã gửi và các thư xác nhận đã nhận được, đồng thời theo dõi cả số liệu trên thư xác nhận và số liệu trên sổ sách của khách hàng từ đó nâng cao độ tin cậy cho bằng chứng kiểm toán thu được từ kỹ thuật gửi thư xác nhận.
Sau khi lập thư xác nhận đối với các khoản phải thu khách hàng kiểm toán viên thường nhờ Công ty khách hàng gửi thư xác nhận đến các đối tượng cần xác nhận để tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, kiểm toán viên phải đảm bảo kiểm soát được quá trình này. Nếu kiểm toán viên không thể kiểm soát được quá trình này thì các bằng chứng kiểm toán thu thập được từ kỹ thuật gửi thư xác nhận sẽ có độ tin cậy không cao.
Các mẫu được chọn để gửi thư xác nhận thường được chọn theo cảm nhận của kiểm toán viên mà không phải chọn theo các nguyên tắc như chọn mẫu xác suất hoặc chọn mẫu phi xác suất, điều này có thể dẫn đến việc chọn mẫu không mang tính điển hình, vì vậy khó phát hiện ra các sai phạm.
Đối với các khách hàng cũ, trong quá trình gửi thư xác nhận, công ty có xem xét kết quả gửi thư xác nhận của năm cũ để có quyết định hợp lý. Nếu như tỷ lệ nhận được thư xác nhận của năm cũ thấp thì kiểm toán viên cần quyết định liệu có nên sử dụng tiếp kỹ thuật này hay không. Còn ngược lại thì kiểm toán viên xem xét nên gửi thư xác nhận như thế nào cho hợp lý. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán.
KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHƯƠNG TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN PHẢI THU KHÁCH HÀNG DO CÔNG TY VAE THỰC HIỆN
2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu khách hàng
Các khoản phải thu nói chung và khoản phải thu khách hàng nói riêng là một phần tài sản của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể thu được trong tương lai, do vậy việc hạch toán đầy đủ và hợp lý các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính vô cùng quan trọng đối với người sử dụng các thông tin tài chính.
Các khoản phải thu khách hàng không những là một phần tài sản quan trọng của Công ty mà nó còn có quan hệ chặt chẽ với khoản mục doanh thu trên Báo cáo tài chính, các sai phạm trên các khoản phải thu có thể được bắt nguồn từ các sai phạm về doanh thu, do vậy việc hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu khách hàng là cần thiết để từ đó có thể phát hiện ra các sai phạm liên quan đến các khoản doanh thu.
Các khoản phải thu khách hàng thường bị ghi khống hoặc ghi thiếu trong kỳ, để ghi nhận một khoản doanh thu không có thật hay không phản ánh một khoản doanh thu, do đó làm ảnh hưởng tới lợi nhuận trong kỳ của đơn vị và vì thế có thế làm ảnh hưuởng tới các quyết định của người sử dụng thông tin trên Báo cáo tài chính của đơn vị, chính vì vậy không chỉ Công ty VAE mà các Công ty kiểm toán khác cũng không ngừng hoàn thiện chương trình kiểm toán khoản phải thu khách hàng kết hợp với việc hoàn thiện chương trình kiểm toán doanh thu để thu được các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở đưa ra các ý kiến kiểm toán tin cậy nhất.
Việc xoá sổ các khoản phải thu không tuân theo chế độ hiện hành cũng có thể là tăng chi phí trong kỳ và do vậy làm giảm lợi nhuận của Công ty, từ đó ảnh hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính, vì vậy cũng là một trong những nguyên nhân khiến Công ty phải không ngừng hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu để cung cấp cho những người quan tâm đến vấn đề tài chính những thông tin đáng tin cậy nhất.
2.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện chương trình kiểm toán khoản phải thu khách hàng do Công ty VAE thực hiện
Qua nghiên cứu chương trình kiểm toán các khoản phải thu trong thời gian thực tập tại Công ty VAE em mạnh dạn đưa ra một số các kiến nghị nhằm hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu mà đặc biệt là các khoản phải thu khách hàng do Công ty VAE thực hiên như sau:
2.2.1. Kiến nghị về kế hoạch kiểm toán
Xây dựng kế hoạch kiểm toán
Kiểm toán viên nên có kế hoạch khảo sát đơn vị khách hàng một cách cụ thể, vì vậy kiểm toán viên sẽ đánh giá hợp lý hơn mức rủi ro đối với từng khoản mục để có kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán hợp lý cho từng khoản mục đó, vì thế kiểm toán viên cũng có thể xác định được kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán cần áp dụng cho từng khoản mục hay các công việc cụ thể cần thực hiện khi kiểm toán cũng như các mục tiêu kiểm toán tương ứng với các khoản mục trên cơ sở kết quả của cuộc khảo sát trên. Tuy nhiên việc khảo sát này cần được giao cho một kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, để có những đánh giá và cái nhìn tổng quan nhất về Công ty khách hàng.
Kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán Công ty khách hàng nên có một sự hiểu biết sơ bộ về khách hàng trước khi lập kế hoạch kiểm toán chi tiết để xây dựng được kế hoạch kiểm toán chi tiết cụ thể nhất, xác thực nhất. Từ đó, kiểm toán viên có thể đánh giá chính xác hơn đối với mức độ rủi ro kiểm toán và đưa ra các công việc hay phương pháp cần thực hiện khi kiểm toán các khoản mục được chính xác hơn, phù hợp hơn.
Trong chương trình kiểm toán cho các khách hàng cụ thể, Công ty có hướng dẫn thực hiện một số các thủ tục cần làm đối với một số khoản mục, tuy nhiên các hướng dẫn này cũng chưa tính đến tình hình cụ thể đối với từng khách hàng, vì vậy chưa hiệu quả. Do vậy, kiểm toán viên phải có sự hiểu biết về Công ty khách hàng để cụ thể hoá các hướng dẫn trên đối với từng khách hàng cụ thể để cuộc kiểm toán được thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch kiểm toán chi tiết cho các cuộc kiểm toán cụ thể, các chủ nhiệm kiểm toán phải xây dựng thêm các thủ tục kiểm toán bổ sung để đề phòng khi không thể sử dụng kỹ thuật gửi thư xác nhận.
Kiến nghị về việc đánh giá mức rủi ro và trọng yếu
Mức trọng yếu và rủi ro phải được xây dựng căn cứ vào một phương pháp khoa học hơn, để đảm bảo độ tin cậy của các thông tin đưa ra đồng thời làm giảm bớt khối lượng công việc cho các kiểm toán viên. Công ty phải đưa ra một hướng dẫn cụ thể để đánh giá mức trọng yếu và rủi ro của các khoản mục, giảm bớt việc đánh giá rủi ro dựa vào xét đoán của kiểm toán viên vì các xét đoán thường mang tính chủ quan của mỗi kiểm toán viên thực hiện kiểm toán khoản mục. Trong tương lai, Công ty nên đầu tư phần mềm về đánh giá mức rủi ro và trọng yếu dựa vào các thông tin tài chính của khách hàng, để nâng cao chất lượng của mỗi cuộc kiểm toán và giảm rủi ro kiểm toán đến mức thấp nhất có thể. Thông qua việc đánh giá này, kiểm toán viên có thể đưa ra các quyết định về mẫu chọn để kiểm tra chi tiết hợp lý và mang tính đại diện nhất cho tổng thể, từ đó thu được các bằng chứng kiểm toán có tính thuyết phục cao. Công ty cũng có thể đưa ra các căn cứ, các chỉ tiêu nhất định cho việc đánh gía mức trọng yếu của các khoản mục để có thể có các quyết định phù hợp nhất.
Đối với các khách hàng thường xuyên, kiểm toán viên phải có sự xem xét sơ bộ về những thay đổi chung của Công ty khách hàng trong năm kiểm toán để đánh giá mức rủi ro hợp lý về Báo cáo tài chính của khách hàng, kiểm toán viên cần có sự đánh giá thích đáng đối với những khách hàng này để giảm bớt khối lượng công việc cần thực hiện trên cơ sở xem xét kết quả của cuộc kiểm toán trước đó.
Kiến nghị về chương trình kiểm toán chung đối với khoản phải thu khách hàng.
Để khắc phục nhược điểm do Công ty thực hiện kiểm toán theo khoản mục, khi phân công công việc cho các kiểm toán viên trong các cuộc kiểm toán cụ thể, trưởng nhóm kiểm toán phân công cho các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán các khoản mục có liên quan đến nhau như: kiểm toán khoản mục doanh thu và phải thu khách hàng, kiểm toán hàng tồn kho với giá vốn và thuế GTGT được khấu trừ, kiểm toán tiền và chi phí hoạt động và tạm ứng,...
Mục tiêu kiểm toán đối với khoản phải thu khách hàng không chỉ căn cứ vào các mục tiêu chung trong chương trình kiểm toán mẫu mà còn cần phải được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán đặc thù đối với khoản phải thu khách hàng của từng khách hàng cụ thể, thông qua việc tìm hiểu sơ bộ về các khách hàng trước khi lập kế hoạch kiểm toán.
Chương trình kiểm toán của Công ty cũng phải thường xuyên được cập nhật theo chế độ kế toán mới, do đây là những hướng dẫn chung cho các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán đồng thời đây là cơ sở cho việc kiểm tra, soát xét chất lượng của cuộc kiểm toán. Theo thông tư 23/2005 của bộ tài chính, các khoản phải thu khác không chỉ có số dư nợ tài khoản 1388 và 3388 mà còn bao gồm cả số dư tài khoản 141, 144, 244, và các khoản phải thu được chia ra làm các khoản phải thu ngắn hạn và các khoản phải thu dài hạn do đó công ty phải xây dựng thêm các thủ tục kiểm toán khác để có thể thu thập được các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao nhất cho việc đưa ra ý kiến kiểm toán.
Công ty đã xây dựng chương trình kiểm toán chung đối với khoản phải thu khách hàng và các khoản khác tuy nhiên không phải khách hàng nào chương trình kiểm toán đó cũng phù hợp do đó kiểm toán viên cần phải có sự hiểu biết sơ bộ về Công ty khách hàng để có thể lập kế hoạch kiểm toán cụ thể, hướng dẫn cho kiểm toán viên các công việc cần thực hiện khi kiểm toán đối với khách hàng cụ thể đó để có thể có được các bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy nhất, làm giảm rủi ro kiểm toán cho kiểm toán viên và Công ty kiểm toán.
Hoàn thiện chương trình kiểm toán chung của công ty cũng như quy trình kiểm soát chất lượng trong kiểm toán báo cáo tài chính của công ty. Từ đó không ngừng nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán, tạo dựng uy tín của Công ty. Kiểm soát chất lượng của các Báo cáo kiểm toán phát hành là vấn đề quan trọng, tuy nhiên việc soát xét hồ sơ kiểm toán và kiểm tra các công việc kiểm toán viên đã thực hiện cũng vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao trách nhiệm của các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán các khoản mục. Hiện nay, kiểm toán đang ngày càng phát triển vì thế việc không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán là một xu thế tất yếu.
Trong năm 2005, kiểm toán viên kiểm toán khoản dự phòng phải thu khó đòi vẫn áp dụng theo thông tư số 107/2001/TT – BTC. Tuy nhiên bắt đầu từ năm 2006, các kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán khoản mục trên phải áp dụng theo thông tư số 13/2006/TT – BTC và vì vậy chương trình kiểm toán các khoản phải thu cũng cần phải được cập nhật để phù hợp với các quy định hiện hành. Thông tư số 13/2006/TT - BTC có một số quy định mới về lập dự phòng đối với các khoản phải thu quá hạn như:
Quy định về tỷ lệ trích lập dự phòng để giảm bớt các sai sót xảy ra do việc lập dự phòng phụ thuộc vào các ước tính chủ quan của nhà quản lý, và do đó làm giảm rủi ro tiềm tàng của các khoản dự phòng này. Mức trích lập dự phòng đối với các khoản phải thu quá hạn như sau:
30% giá trị đối với khoản phải thu quá hạn từ 3 tháng đến dưới 1 năm
50% giá trị đối với khoản phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm
70% giá trị đối với khoản phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm
Đối với các khoản phải thu đã quá hạn từ 3 năm trở lên thì được coi là khoản phải thu không có khả năng thu hồi và được xử lý.
Quy định một số nguyên tắc ghi nhận các khoản phải thu là các khoản phải thu khó đòi. Các khoản phải thu được coi là khoản phải thu khó đòi khi:
Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng, các khế ước vay nợ hoặc các cam kết nợ khác.
Nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế (các công ty, doanh nghiệp tư nhân,...) đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan chức pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử, đang thi hành án hoặc đã chết.
Các khoản nợ quá hạn từ 3 năm trở lên được coi như không có khả năng thu hồi.
Quy định việc hoàn nhập đối với các khoản dự phòng phải thu khó đòi đã trích lập. Việc hoàn nhập các khoản phải thu khó đòi được ghi tăng thu nhập khác, vì thế giúp doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn đối với các khoản dự phòng.
Thông tư này ra đời góp phần hướng dẫn rõ ràng hơn cho các doanh nghiệp trong việc lập dự phòng các khoản phải thu đồng thời các quy định trong thông tư này cũng góp phần làm giảm thiểu các rủi ro cho các doanh nghiệp. Thông tư này có hiệu lực sẽ giúp các kiểm toán viên kiểm tra, kiểm soát tốt hơn đối với việc kiểm toán các ước tính kế toán liên quan đến việc lập dự phòng nói chung và dự phòng các khoản phải thu khó đòi nói riêng.
2.2.2. Kiến nghị về thực hiện kiểm toán khoản phải thu khách hàng
Kiến nghị về kỹ thuật gửi thư xác nhận
Kỹ thuật gửi thư xác nhận là một kỹ thuật quan trọng trong kiểm toán tài chính nói chung và trong kiểm toán khoản phải thu khách hàng nói riêng, góp phần thu được bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao, giúp các kiểm toán viên đưa ra các ý kiến thích đáng về khoản mục phải thu khách hàng. Vì vậy, nhà nước ta phải có cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc quy định các bên có liên quan có trách nhiệm cung cấp các thông tin cần thiết, kịp thời cho kiểm toán viên khi họ cần đến, có quy định xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp thông đồng giữa bên thứ ba và đơn vị được kiểm toán.
Nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên bằng cách gắn trách nhiệm của họ với ý kiến mà họ đưa ra, có nghĩa là kiểm toán viên phải có trách nhiệm với ý kiến của mình, và Công ty kiểm toán phải có trách nhiệm trước báo cáo kiểm toán đã phát hành, do đó các công ty kiểm toán có ý thức hơn trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Do đó, các kỹ thuật thu được các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao như kỹ thuật gửi thư xác nhận sẽ được sử dụng hợp lý hơn.
Tăng cường kiểm soát hơn nữa đối với quá trình gửi thư xác nhận, để đảm bảo rằng thu thập được các bằng chứng kiểm toán có tính thuyết phục cao trong việc đưa ra các ý kiến kiểm toán.
Công ty nên thực hiện việc xác nhận đối với các số phát sinh lớn hoặc các số phát sinh không hợp lý, không đầy đủ chứng từ... do mức độ rủi ro trong các phát sinh này rất lớn, có thể ảnh hưởng trọng yếu đến số dư khoản mục được kiểm toán và cũng có thể làm ảnh hưởng liên đới đến số dư của các khoản mục khác trong báo cáo tài chính. Do đó để có được cái nhìn tổng quan hơn về số dư các khoản mục kiểm toán, kiểm toán viên cần phải thu thập các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao, làm cơ sở cho việc đưa ra các ý kiến kiểm toán.
Cần hạn chế tối đa việc không thu hồi kịp các thư xác nhận đã gửi mà nguyên nhân là do giới hạn về thời gian phát hành báo cáo kiểm toán cho đơn vị được kiểm toán. Thông thường, các chủ nhiệm kiểm toán sẽ thoả thuận với khách hàng về thời gian phát hành báo cáo kiểm toán. Trong một khoảng thời gian nhất định đó nhóm kiểm toán phải hoàn thành cuộc kiểm toán và phát hành báo cáo kiểm toán cho khách hàng nên việc không thu hồi được các thư xác nhận trong khoảng thời gian này không thể tránh khỏi. Việc không thu hồi đủ các thư xác nhận cần thiết sẽ ảnh hưởng tới độ tin cậy của các bằng chứng kiểm toán thu thập được. Mặt khác, việc không thu hồi kịp các thư xác nhận sẽ được đưa vào giới hạn của cuộc kiểm toán để giảm rủi ro kiểm toán cho Công ty, tuy nhiên việc này ảnh hưởng tới tính chính xác của các khoản mục kiểm toán.
Gửi thư xác nhận trước đối với số dư các tài khoản trước khi cuộc kiểm toán chính thức bắt đầu, điều này sẽ giúp cho kỹ thuật gửi thư xác nhận được thực hiện theo đúng trình tự chung khi gửi thư xác nhận, do không bị giới hạn về thời gian kiểm toán, kiểm toán viên có thể gửi thư xác nhận lần hai, hoặc nếu vẫn không nhận được thư xác nhận thì khi tiến hành cuộc kiểm toán chính thức, kiểm toán viên sẽ thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung đầy đủ để thu thập bằng chứng kiểm toán đối với các khoản mục này. Vì thế nâng cao độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán thu đuợc từ phương pháp kỹ thuật này.
Cần có kế hoạch gửi thư xác nhận hợp lý để thu được bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao nhưng với chi phí thấp nhất. Kiểm toán viên phải có kế hoạch liên hệ với Ban Giám đốc Công ty khách hàng để việc thu hồi thư xác nhận được thực hiện thuận lợi nhất.
Kiến nghị về việc nâng cao chất lượng của các kiểm toán viên
Không ngừng nâng cao trình độ của các kiểm toán viên thông qua các lớp đào tạo do Công ty tổ chức, thường xuyên cập nhật các thay đổi về chế độ tài chính cho các nhân viên trong Công ty. Nếu các nhân viên của Công ty có trình độ nghiệp vụ cao và thường xuyên được cập nhật các văn bản mới có liên quan thì chất lượng của cuộc kiểm toán do Công ty thực hiện sẽ tăng lên, vì thế nâng cao uy tín của công ty và tạo niềm tin cho các khách hàng.
Khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên cần tăng cường việc sử dụng các thủ tục phân tích thay vì chủ yếu sử dụng thủ tục kiểm tra chi tiết để giảm bớt các công việc cho kiểm toán viên. Việc thực hiện thủ tục phân tích một cách hiệu quả giúp kiểm toán viên đi đúng hướng tránh tình trạng kiểm tra dàn trải. Tuy nhiên, để thực hiện thủ tục phân tích đạt hiệu quả đòi hỏi các kiểm toán viên phải có trình độ nghiệp vụ cao, có khả năng xét đoán. Do đó Công ty phải tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhân viên.
Kiến nghị về việc sử dụng các thủ tục kiểm toán
Công ty nên thực hiện nhiều hơn nữa các thủ tục phân tích và các thủ tục kiểm soát để giảm bớt khối lượng công việc do phải thực hiện quá nhiều thủ tục kiểm tra chi tiết số dư.
Các thủ tục phân tích mà các kiểm toán viên sử dụng chủ yếu chỉ phục vụ việc chọn mẫu các nghiệp vụ để kiểm tra chi tiết, thông qua việc đánh giá các phát sinh theo thời gian hoặc theo đối ứng tài khoản mà chưa có sự xem xét về tính phù hợp giữa các khoản mục phát sinh. Do vậy, Công ty cần xây dựng một mô hình phân tích các chỉ tiêu dựa vào các thông tin tài chính và thông tin phi tài chính của khách hàng để không chỉ phục vụ cho việc chọn mẫu mà còn phục vụ cho việc đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty khách hàng.
Các đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty khách hàng phải được kiểm toán viên thu thập dưới nhiều hình thức khác nhau chứ không chỉ thu thập thông qua việc kiểm tra hệ thống kế toán của Công ty.
Khi kiểm tra chi tiết các khoản phải thu khách hàng kiểm toán viên cần kết hợp giữa việc kiểm tra tính trọn vẹn và hiện hữu của khoản phải thu khách hàng để thu được bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy nhất. Kiểm toán viên phải thực hiện kiểm tra chi tiết từ sổ sách đối chiếu với các chứng từ gốc kết hợp với việc kiểm tra đối chiếu từ các chứng từ gốc lên sổ sách kế toán.
Trong quá trình thực hiện các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên cần tham chiếu kết quả kiểm toán khoản phải thu khách hàng với kết quả kiểm toán của các khoản mục khác có liên quan để giảm bớt khối lượng các công việc phải thực hiện cho các kiểm toán viên đồng thời làm giảm rủi ro kiểm toán (rủi ro phát hiện) từ đó nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán.
Kiểm toán viên phải kết hợp một cách hợp lý các thủ tục kiểm toán cũng như các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán để thu được các bằng chứng kiểm toán có tính thuyết phục nhất.
Kiến nghị về việc chọn mẫu các nghiệp vụ để kiểm tra chi tiết
Kiểm toán viên nên tiến hành chọn mẫu các nghiệp vụ để kiểm tra chi tiết theo các phương pháp khoa hoc như chọn mẫu xác suất và chọn mẫu phi xác suất để chọn được mẫu có tính đại diện cao cho tổng thể các nghiệp vụ xảy ra, trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể chọn thêm vào mẫu một số nghiệp vụ mà kiểm toán viên cho rằng nó chứa đựng nhiều sai phạm theo kinh nghiệm của mình.
2.2.3. Kiến nghị về việc kết thúc kiểm toán
Các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán khoản phải thu khách hàng cần phải xem xét tới các sự kiện có thể xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán của Công ty khách hàng, có liên quan tới các khoản phải thu như: kiểm toán viên phải xem xét việc có tồn tại các khoản phải thu khách hàng đang bị tranh chấp hay không, hay việc tồn tại các khoản phải thu có khả năng không thu hồi được do một nguyên nhân khách quan nào đó hay không.
2.2.4. Kiến nghị đối với cơ quan chức năng
Để phục vụ cho việc nâng cao chất lượng kiểm toán, các cơ quan quản lý phải sớm đưa ra các quy định chính thức về việc quản lý, kiểm tra soát xét chất lượng các dịch vụ kiểm toán.
Không ngừng hoàn thiện các quy định, các hướng dẫn về kiểm toán để đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của dịch vụ kiểm toán và phục vụ cho việc sử dụng kiểm toán như là một công cụ quản lý nền kinh tế của nhà nước.
Cần tập trung hơn nữa các nguồn lực nâng cao trình độ của đội ngũ kiểm toán viên, bằng việc xây dựng các chính sách đào tạo và thi tuyển kiểm toán viên chặt chẽ để có được đội ngũ kiểm toán viên có tiêu chuẩn cao, tiến dần đến các tiêu chuẩn kiểm toán viên quốc tế nhằm thoả mãn nhu cầu về hội nhập vào nền kinh tế trên thế giới, đồng thời tạo điều kiện cho các Công ty kiểm toán trong nước có khả năng cạnh tranh với các Công ty kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam. Tạo môi trường kinh doanh công bằng giữa các Công ty kiểm toán, góp phần thúc đẩy chất lượng kiểm toán của các Công ty kiểm toán và tạo điều kiện cho dịch vụ kiểm toán ngày càng phát triển mạnh mẽ.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về kiểm toán các khoản phải thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính và thực tế thực tế tiến hành kiểm toán các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính. Các khoản phải thu là tài sản sẽ thu được trong tương lai của công ty do vậy một yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là các khoản phải thu được trình bày trên Bảng cân đối kế toán phải phản ánh đúng giá trị thực của các khoản phải thu của đơn vị và các khoản phải thu này phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Các khoản phải thu thường có quan hệ với nhiều khoản mục khác nhau đặc biệt là khoản mục doanh thu, do vậy khi xây dựng chương trình kiểm toán đối với các khoản phải thu cần phải liên hệ, xem xét chương trình kiểm toán doanh thu.
Chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty được xây dựng và thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm giảm rủi ro kiểm toán và tăng chất lượng của cuộc kiểm toán.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, căn cứ vào cơ sở lý luận và thực trạng kiểm toán các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện, em đã mạnh dạn đưa ra một số đánh giá và kiến nghị mang tính định hướng nhằm góp phần hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.S Bùi Thị Minh Hải và các anh chị trong Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Sinh viên thực hiện
Hoàng Thanh Tâm
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kiểm toán – ALVIN A. ARENS/ JAMES K. LOEBBECKE do Đặng Kim Cương và Phạm Văn Dược dịch và biên soạn. Nhà Xuất Bản Thống Kê
Lý thuết kiểm toán – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh (2003). Nhà Xuất Bản Tài Chính
Kiểm toán tài chính – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh (2001). Nhà Xuất Bản Tài Chính
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế
Kiểm toán - ĐH. kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Các tạp chí Kế toán, Kiểm toán
Kiểm toán tài chính – GS.TS. Vương Đình Huệ, Học viện Tài chính (2004). Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội
Tài liệu kiểm toán nội bộ của công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam
Kiểm toán - ĐH. kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2004) xuất bản lần thứ 3. Nhà xuất bản Thống kê
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam, các thông tư và các qui định về kế toán
Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp – PGS.TS Đặng Thị Loan, Đại học Kinh tế quốc dân (2004). Nhà xuất bản Thống kê
Kế toán doanh nghiệp – PGS.TS Ngô Thế Chi – TS Chương Thị Thuỷ, Học viện Tài chính (2005). Nhà xuất bản Thống kê.
PHỤ LỤC SỐ 01
(Mẫu thư yêu cầu xác nhận số dư – thư xác nhận dạng khẳng định)
Ngày. ... tháng..... năm
Kính gửi: Công ty:......................................(Khách nợ)
Địa chỉ:.................................
Fax:.............................................
Thư: Yêu cầu xác nhận số dư
Theo yêu cầu kiểm toán, chúng tôi đề nghị quý công ty đối chiếu số dư dưới đây với số dư của công ty tại thời điểm ngày..................... và xác nhận số dư này (1/ công ty phải thu và 2/ công ty phải trả) là đúng, hoặc bằng bao nhiêu. Thư xác nhận gửi trực tiếp hoặc fax cho kiểm toán viên của chúng tôi theo địa chỉ trên mẫu xác nhận dưới đây:
Nợ phải trả...........................( bằng chữ......................................)
Nợ phải thu............................(bằng chữ......................................)
Thư xác nhận này không phải là yêu cầu thanh toán mà chỉ nhằm phục vụ mục đích kiểm toán. Các khoản nợ và các khoản thanh toán sau ngày nói trên không bao gồm trong số dư xác nhận.
Giám đốc hoặc người đại diện
(Đơn vị được kiểm toán)
(Họ tên, chữ ký và đóng dấu)
Kính gửi: Công ty kiểm toán. .......................................................
(Họ và tên kiểm toán viên: ...........................................)
Địa chỉ:...........................................................................
Fax:.................................................................................
Chúng tôi xác nhận số dư trên sổ sách kế toán ngày.......................... của chúng tôi là đúng với sổ sách nói trên, hoặc là:
.............................................................................................................
..............................................................................................................
Giám đốc hoặc người đại diện (khách nợ)
(Họ và tên, chữ ký và đóng dấu)
PHỤ LỤC SỐ 02
(Mẫu thư yêu cầu xác nhận số dư – thư xác nhận dạng phủ định)
Ngày. .........tháng........năm
Kính gửi: Công ty:.................................................(Khách nợ)
Địa chỉ:.................................................................
Fax:.......................................................................
Thư: Yêu cầu xác nhận số dư
Theo yêu cầu kiểm toán, chúng tôi đề nghị quý công ty đối chiếu số dư trên sổ kế toán của công ty tại thời điểm ngày..................... và xác nhận số dư hoặc có ý kiến khác vào mẫu dưới đây. Thư xác nhận gửi trực tiếp hoặc fax cho kiểm toán viên của chúng tôi theo địa chỉ ghi dưới:
Thư xác nhận này không phải là yêu cầu thanh toán mà chỉ nhằm phục vụ mục đích kiểm toán. Các khoản nợ và các khoản thanh toán sau ngày nói trên không bao gồm trong số dư xác nhận.
Giám đốc hoặc người đại diện
(Đơn vị được kiểm toán)
(Họ tên, chữ ký và đóng dấu)
Kính gửi: Công ty kiểm toán. .............................................
(Họ và tên kiểm toán viên: ...........................................)
Địa chỉ:...........................................................................
Fax:.................................................................................
Chúng tôi xác nhận số dư trên sổ sách kế toán ngày.......................... của chúng tôi là:
Nợ chúng tôi phải thu:...................(bằng chữ....................................)
Nợ chúng tôi phải trả:.....................(bằng chữ...................................)
ý kiến khác:........................................................................
Giám đốc hoặc người đại diện (khách nợ)
(Họ và tên, chữ ký và đóng dấu)
PHỤ LỤC SỐ 03
(Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và
Công ty TNHH united motor VN)
Công ty ABC Ngày 27/12/2005
Điện thoại: Fax:
Số hiệu tài khoản:
Tại ngân hàng:
BIÊN BẢN ĐỐI CHIẾU CÔNG NỢ PHẢI THU
(giữa Công ty ABC và Công ty TNHH united motor VN)
Hoá đơn
Ngày
Nội dung
Phát sinh tăng
Phát sinh giảm
Số còn nợ
Số còn nợ (01/01/2005)
240.787.030
GG/2005B
22/11
Bán bộ phát điện và cụm truyền hộp số chưa thu tiền
546.562.555
Số tiền đã thanh toán
240.787.030
Cộng phát sinh
546.562.555
240.787.030
Số còn nợ (31/12/2005)
546.562.555
Đến hết ngày 27/12/2005 Công ty TNHH united motor VN còn nợ Công ty ABC là 546.562.555 đ (Năm trăm bốn sáu triệu năm trăm sáu hai nghìn năm trăm năm lăm đồng)
Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty TNHH united motor VN
PHỤ LỤC SỐ 04
(Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và
Công ty cổ phần điện máy Phương Đông)
Công ty ABC Ngày 31/12/2005
Điện thoại: Fax:
Số hiệu tài khoản:
Tại ngân hàng:
BIÊN BẢN ĐỐI CHIẾU CÔNG NỢ PHẢI THU
(giữa Công ty ABC và Công ty cổ phần điện máy Phương Đông)
Hoá đơn
Ngày
Nội dung
Phát sinh tăng
Phát sinh giảm
Số còn nợ
Số còn nợ (1/12/2005)
3.069.252.872
94918
16/12
154.201.080
94919
16/12
178.474.999
94925
22/12
186.271.250
94927
26/12
118.932.000
94932
29/12
133.798.500
94936
30/12
374.372.460
94937
31/12
7.920.000
05/12
341.393.250
07/12
375.706.100
19/12
296.876.250
19/12
393.207.100
28/12
337.555.086
31/12
323.770.288
Cộng phát sinh
1.153.970.289
2.068.508.074
Số còn nợ (31/12/2005)
2.154.715.088
Tính đến ngày 31/12 Công ty cổ phần điện máy Phương Đông còn nợ Công ty ABC là 1.958.831.989 đ (Một tỷ chín trăm năm tám triệu tám trăm ba mốt nghì chín trăm tám chín đồng).
Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty cổ phần điện máy Phương Đông
PHỤ LỤC SỐ 05
(Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và
Công ty cổ phần điện máy Phương Đông GT)
Công ty ABC Ngày 31/12/2005
Điện thoại: Fax:
Số hiệu tài khoản:
Tại ngân hàng:
BIÊN BẢN ĐỐI CHIẾU CÔNG NỢ PHẢI THU
(giữa Công ty ABC và Công ty cổ phần điện máy Phương Đông GT)
Hoá đơn
Ngày
Nội dung
Phát sinh tăng
Phát sinh giảm
Số còn nợ
Số còn nợ (1/12/2005)
755.744.660
09/12
107.827.500
20/12
183.437.100
31/12
91.776.300
Cộng phát sinh
0
2.275.358.881
Số còn nợ (31/12/2005)
372.703.760
Tính đến ngày 31/12 Công ty cổ phần điện máy Phương Đông (GT) còn nợ Công ty ABC là 372.703.760 đ (Ba trăm bẩy hai triệu bẩy trăm linh ba nghìn bảy trăm sáu mươi đồng).
Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty cổ phần điện máy
Phương Đông (GT)
PHỤ LỤC SỐ 06
(Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC
và Công ty TNHH Sufat)
Công ty ABC Ngày 31/12/2005
Điện thoại: Fax:
Số hiệu tài khoản:
Tại ngân hàng:
BIÊN BẢN ĐỐI CHIẾU CÔNG NỢ PHẢI THU
(giữa Công ty ABC và Công ty TNHH Sufat)
Nội dung
Phát sinh tăng
Phát sinh giảm
Số còn nợ
Số còn nợ (1/1/2005)
3.215.255.040
Phát sinh trong năm
10.374.876.492
9.901.270.410
Số còn nợ (31/12/2005)
3.688.861.122
Tính đến ngày 31/12 Công ty TNHH Sufat còn nợ Công ty ABC là 3.688.861.122 đ (Ba tỷ sáu trăm tám tám triệu tám trăm sáu mốt nghìn một trăm hai hai đồng).
Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty TNHH Sufat
PHỤ LỤC SỐ 07
(Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC
và Công ty Lifan)
Công ty ABC Ngày 31/12/2005
Điện thoại: Fax:
Số hiệu tài khoản:
Tại ngân hàng:
BIÊN BẢN ĐỐI CHIẾU CÔNG NỢ PHẢI THU
(giữa Công ty ABC và Công ty Lifan)
Nội dung
Phát sinh tăng
Phát sinh giảm
Số còn nợ
Số còn nợ (1/1/2005)
4.792.841.084
Phát sinh trong năm
39.870.963.094
36.149.539.907
Số còn nợ (31/12/2005)
8.514.264.271
Tính đến ngày 31/12 Công ty Lifan còn nợ Công ty ABC là 8.514.264.271 đ (Tám tỷ năm trăm mười bốn triệu hai trăm sáu tư nghìn hai trăm bảy mốt đồng).
Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty Lifan
PHỤ LỤC SỐ 08
(Thư xác nhận Phải thu do công ty VAE lập)
Tên công ty : Công ty XYZ
Địa chỉ : Hải Phòng
Số điện thoại: (031)2594315
Fax : (031)2594316
Ngày 07 tháng 03 năm 2006
Kính gửi: Ông (Bà) kế toán trưởng Công ty Nhật Hải Đăng
V/v: Xác nhận số dư nợ với công ty
Kính thưa Quý Ông (Bà)
Theo sổ sách của chúng tôi tại thời điểm 31/12/2005 số dư của Quý Công ty với Công ty XY như sau:
Số dư đến ngày 31/12/2005
Khoản phải thu của Quý công ty là 138.270.000đ (VND). Một trăm ba tám triệu hai trăm bẩy mươi nghìn đồng.
Để phục vụ cho công tác kiểm toán báo cáo tài chính , đề nghị Quý công ty xác nhận các số liệu nêu trên.
Nếu Quý công ty đồng ý với số liệu trên, đề nghị Quý công ty xác nhận vào phần để trống dưới đây và gửi trực tiếp cho kiểm toán viên của chúng tôi theo địa chỉ:
Kiểm toán viên
Phạm Văn D
Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam
Tầng 11 toà nhà Sông Đà, số 165 đường Cầu Giấy, phường Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Tel: (84-04) 2670.491/492/493
Fax: (84-04) 2670494
Nếu Quý công ty không nhất trí với số liệu trên, xin vui lòng trả lời trực tiếp cho kiểm toán viên của chúng tôi và cung cấp đầy đủ chi tiết của sự khác biệt.
Tất cả các xác nhận qua Fax phải được gửi kèm theo bằng bản xác nhận gốc qua đường bưu điện.
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Quý công ty.
Kính thư!
Công ty XYZ
Giám đốc
Hoàng Văn T
(Ký và đóng dấu)
(ý kiến của Công ty Nhật Hải Đăng)
Số thực nợ của Công ty chúng tôi phải trả cho Công ty XYZ là: 138.270.000 đ (Một trăm ba tám triệu hai trăm bẩy mươi nghìn đồng).
Giám đốc
Nguyễn Văn P
(Ký và đóng dấu)
PHỤ LỤC SỐ 09
(Thư xác nhận Phải thu do công ty VAE lập)
Tên công ty : Công ty XYZ
Địa chỉ : Hải Phòng
Số điện thoại: (031)2594315
Fax : (031)2594316
Ngày 07 tháng 03 năm 2006
Kính gửi: Ông (Bà) kế toán trưởng Công ty Vĩnh Phước
V/v: Xác nhận số dư nợ với công ty
Kính thưa Quý Ông (Bà)
Theo sổ sách của chúng tôi tại thời điểm 31/12/2005 số dư của Quý Công ty với Công ty XY như sau:
Số dư đến ngày 31/12/2005
Khoản phải thu của Quý công ty là 114.530.350 đ (VND). Một trăm mười bốn triệu năm trăm ba mươi nghìn ba trăm năm mươi đồng.
Để phục vụ cho công tác kiểm toán báo cáo tài chính , đề nghị Quý công ty xác nhận các số liệu nêu trên.
Nếu Quý công ty đồng ý với số liệu trên, đề nghị Quý công ty xác nhận vào phần để trống dưới đây và gửi trực tiếp cho kiểm toán viên của chúng tôi theo địa chỉ:
Kiểm toán viên
Phạm Văn D
Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam
Tầng 11 toà nhà Sông Đà, số 165 đường Cầu Giấy, phường Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Tel: (84-04) 2670.491/492/493
Fax: (84-04) 2670494
Nếu Quý công ty không nhất trí với số liệu trên, xin vui lòng trả lời trực tiếp cho kiểm toán viên của chúng tôi và cung cấp đầy đủ chi tiết của sự khác biệt.
Tất cả các xác nhận qua Fax phải được gửi kèm theo bằng bản xác nhận gốc qua đường bưu điện.
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Quý công ty.
Kính thư!
Công ty XYZ
Giám đốc
Hoàng Văn T
(Ký và đóng dấu)
(ý kiến của Công ty Vĩnh Phước)
Số thực nợ của Công ty chúng tôi phải trả cho Công ty XYZ là: 114.530.350 đ (Một trăm mười bốn triệu năm trăm ba mươi nghìn ba trăm năm mươi đồng).
Giám đốc
Phùng văn K
(Ký và đóng dấu)
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36439.doc