Luận văn Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn áp dụng

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, nhiều người cần huy động vốn nhanh để đầu tư kinh doanh, trong khi việc vay vốn ở các ngân hàng và tổ chức tín dụng còn một số hạn chế như thủ tục phiền hà, cần thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Một số khác có đồng vốn nhàn rỗi, nhưng không có nhu cầu kinh doanh, không muốn gửi ngân hàng nhưng vẫn muốn đồng tiền sinh lãi, khi cần lại có thể rút vốn nhanh chứ không bị ràng buộc như hợp đồng vay tài sản. Một số người khác, đời sống đang gặp khó khăn, muốn có một hình thức tiết kiệm hiệu quả để cải thiện đời sống của mình Tất cả những mong muốn nêu trên đều có thể được đáp ứng khi tham gia giao dịch hụi, họ, biêu, phường - một hình thức giao dịch theo tập quán hình thành từ rất lâu đời trong đời sống nhân dân ta ở khắp tất cả các vùng miền. Tuy vậy, đường lối xử lý của Nhà nước ta đối với hụi, họ, biêu, phường qua các thời kỳ lịch sử lại có những thay đổi khác nhau. Để có một hành lang pháp lý phù hợp với thực tiễn cuộc sống đã có rất nhiều tranh luận gay gắt về vấn đề này. Thế nhưng pháp luật nước ta chính thức quy định về hụi, họ, biêu, phường mới chỉ bắt đầu có từ khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời. Trong khi đó, từ trước đến nay mới chỉ có những bài viết đề cập đến các khía cạnh nhất định của hụi, họ, biêu, phường chứ chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống về vấn đề hụi họ. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập. Hụi, họ, biêu, phường cũng có những chuyển biến mới, từ việc chơi hụi họ nhằm mục đích tiết kiệm, tương trợ là chủ yếu, ngày nay hình thức hụi có lãi đã phát triển nhanh chóng. Kéo theo đó, các tranh chấp về lĩnh vực này cũng diễn ra nhiều và phức tạp. Trong khi hiện nay, trình độ hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của những người tham gia hụi, họ, biêu, phường còn rất hạn chế, do đó có lúc đã để cho quyền và lợi ích pháp hợp pháp của mình bị xâm phạm một cách đáng tiếc và nhiều khi xẩy ra những tranh chấp mà lẽ ra có thể ngăn ngừa được. Mặt khác hiện nay, các quy định của pháp luật hiện hành về hụi, họ, biêu, phường còn một số bất cập cần sửa đổi bổ sung. Với những lý do nêu trên, và mong muốn bước đầu tiếp cận sâu hơn về pháp luật Dân sự, pháp luật Hợp đồng nói chung và pháp luật về Hụi, họ, biêu, phường nói riêng, tôi chọn đề tài “Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn áp dụng” để nghiên cứu và trình bày trong Luận văn này. Tuy đây là kết quả nghiên cứu bước đầu, nhưng tác giả cũng mong muốn góp phần nhỏ bé vào nhiệm vụ xây dựng một môi trường pháp lý nước nhà lành mạnh và khoa học. Hi vọng Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu pháp luật có liên quan - và là sự gợi ý, hướng dẫn cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật hụi, họ, biêu, phường. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4. Phương pháp nghiên cứu 3 5. Bố cục đề tài 3 PHẦN NỘI DUNG 5 CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ HỤI, HỌ, BIÊU, PHƯỜNG 5 1.1 Khái niệm về hụi, họ, biêu, phường theo pháp luật Việt Nam 5 1.1.1 Khái niệm chung về hụi, họ, biêu, phường 5 1.1.2 Chủ thể tham gia quan hệ hụi, họ, biêu, phường 7 1.1.3 Đặc điểm pháp lý của hụi họ 8 1.1.4 Điều kiện để quan hệ hụi, họ, biêu, phường có hiệu lực 10 1.1.5 Phân loại hụi, họ, biêu, phường 12 1.1.5.1 Hụi không có lãi 13 1.1.5.2 Hụi có lãi 13 1.2 Đường lối xử lý hụi, họ, biêu, phường của Nhà nước ta các thời kỳ 16 1.2.1 Hụi, họ, biêu, phường trước năm 1996 16 1.2.2 Hụi, họ, biêu, phường từ năm 1996 đến 2006 17 1.2.3 Hụi, họ, biêu, phường từ 2006 đến nay 20 1.3 Những quy định của pháp luật hiện hành về hụi, họ, biêu, phường 21 1.3.1 Quy định chung của pháp luật về hụi, họ, biêu, phường 21 1.3.1.1 Hình thức và nội dung thoả thuận về hụi 22 1.3.1.2 Sổ hụi 24 1.3.1.3 Lãi suất trong hụi họ 25 1.3.1.4 Thời hiệu giải quyết tranh chấp hụi họ 27 1.3.2 Quyền và nghĩa vụ của những người tham gia hụi 28 1.3.2.1 Đối với hụi không có lãi 28 1.3.2.2 Đối với hụi có lãi 31 1.3.3 Căn cứ pháp lý và giải quyết tranh chấp 34 1.4 Phân biệt hợp đồng vay tài sản thông thường và hụi, họ, biêu, phường 35 CHƯƠNG 2 : THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỤI, HỌ, BIÊU, PHƯỜNG TRONG CẢ NƯỚC NÓI CHUNG, THÀNH PHỐ HUẾ NÓI RIÊNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT 38 2.1 Tình hình chung thực hiện và áp dụng pháp luật về hụi, họ, biêu, phường 38 2.1.1 Tình hình chung về giao dịch hụi, họ, biêu, phường ở nước ta hiện nay 38 2.1.2 Tình hình giải quyết tranh chấp hụi họ tại thành phố Huế. 43 2.2 Một số vướng mắc qua giải quyết các vụ tranh chấp hụi, họ, biêu, phường 47 2.2.1 Vấn đề thời hiệu trong hụi, họ, biêu, phường 47 2.2.2 Vấn đề lãi suất trong hụi, họ, biêu, phường 48 2.2.3 Lạm dụng tín nhiệm trong các vụ án về hụi họ 51 2.2.4 Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong các vụ án hụi họ 56 2.2.5 Khó khăn trong việc giải quyết hậu quả 60 2.3 Nguyên nhân của những vướng mắc khi giải quyết tranh chấp hụi, họ, biêu, phường 62 2.3.1 Nguyên nhân bất cập về mặt xã hội 62 2.3.2 Nguyên nhân về mặt pháp luật 63 2.4 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hụi, họ, biêu, phường 64 2.4.1 Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật 64 2.4.2 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật 67 PHẦN KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71 Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn áp dụng

doc74 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3141 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn áp dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Ví dụ vụ án tranh chấp hụi họ giữa: Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thanh Phượng, Sinh năm 1975 Trú tại đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hoà, Thành phố Huế Bị đơn: Đỗ Thị Minh Thuỷ, Sinh 1975 Trú tại đường Nguyễn Trãi, phường Thuận Hòa, Thành phố Huế Trong khoảng thời gian từ 30/7/2005 đến 30/7/2006 bà Phượng có góp cho bà Thuỷ 3 chân hụi, trong đó: Một chân hụi năm, một chân hụi kỳ và một chân hụi tháng. Tổng số tiền góp là 77.000.000đ. Trong quá trình chơi hụi bà Thuỷ có trả cho bà Phượng 50.000.000đ, do khi hốt hụi bà Phượng có bỏ lãi tổng số tiền 13.000.000đ (bằng 16,8%) nên còn lại 14.000.000đ chưa trả. Do phía bà Thuỷ vỡ hụi không có khả năng thanh toán nên ngày 21/5/2007 bà Phượng có đơn khởi kiện yêu cầu bà Thuỷ và ông Nguyễn Xuân Hùng (là chồng bà Thuỷ) phải có nghĩa vụ trả nợ hụi cho bà. Tại bản khai ngày 21/6/2007 và tại biên bản hoà giải ngày 17/7/2007 bà Thuỷ thừa nhận quá trình giao dịch hụi với bà Phượng nhưng do hiện nay hoàn cảnh khó khăn không thể trả nợ nên bà yêu cầu Toà giải quyết theo quy định của pháp luật. Bà Phượng đồng ý không đòi số tiền lãi trong thời gian bà Thuỷ chậm trả tiền nợ hụi. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Hùng, cho rằng việc giao dịch hụi họ giữa bà Thuỷ và bà Phượng ông không biết nên đề nghị toà giải quyết theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà ngày 15/10/2007, mặc dù đã được Toà án Thành phố Huế triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng bà Đỗ Thị Minh Thuỷ vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 200 và khoản 1 Điều 202 BLTTDS 2004 xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật. Toà án xét thấy yêu cầu của bà bà Nguyễn Thị Hoa Phượng là có căn cứ pháp luật nên cần chấp nhận. Mặc dù ông Hùng không tham gia giao dịch hụi nhưng có thừa nhận khoản tiền thu được từ giao dịch hụi của bà Thuỷ được sử dụng chi tiêu trong gia đình, quan hệ giữa bà Thuỷ và ông Hùng là vợ chồng. Hội đồng xét xử áp dụng Điều 25 luật Hôn nhân gia đình 2000, Điều 479 BLDS buộc ông Hùng có trách nhiệm liên đới cùng bà Thuỷ có nghĩa vụ trả nợ hụi cho bà Phượng. Toà án Nhân dân Thành phố Huế căn cứ các Điều 305, Điều 479 (hụi,họ, biêu, phường) của BLDS; Điều 131, Khoản 2 Điều 200, Khoản 1 Điều 202 của BLTTDS 2004; NĐ144 ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường tuyên xử: + Buộc bà Đỗ Thị Minh Thuỷ và ông Nguyễn Xuân Hùng phải trả cho bà Nguyễn Thị Thanh Phượng số tiền nợ hụi gốc là 14.000.000đ. + Về lãi suất: Toà xác định việc bỏ lãi của bà Phượng là vượt quá quy định của pháp luật (Lãi suất NHNN tại thời điểm đó là 6,5% / năm) nên chỉ chấp nhận lãi suất 6,5% x 150% = 9,75%. Tức là chỉ chấp nhận mức bỏ lãi của bà Phượng là 77.000.000đ x 9,75% = 7.507.500đ. Số tiền chênh lệch 13.000.000 - 7.507.500 = 5.492.500đ buộc bà Thuỷ phải trả lại cho bà Phượng. + Như vậy, tuyên xử tổng cộng bà Thuỷ phải trả cho bà Phượng số tiền 19.492.500đ + Kể từ ngày bà Nguyễn Thị Thanh Phượng có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Thuỷ và ông Hùng chậm trả khoản tiền phải thi hành án thì phải chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án. + Buộc bà Đỗ Thị Minh Thuỷ và ông Nguyễn Xuân Hùng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 975.000đ. (5% số tiền phải thi hành án). Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 415.000đ bà Nguyễn Thị Thanh Phượng đã nộp tại Cơ quan Thi hành án dân sự Thành phố Huế. Qua vụ án trên ta thấy, việc bà Phượng bỏ lãi để hốt hụi là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc của bà Thuỷ. Khi vỡ hụi, Toà án căn cứ vào quy định của pháp luật để tính lại lãi theo đúng mức lãi suất. Quyết định của Toà án là không sai, nhưng lại mâu thuẫn với nguyên tắc tự do ý chí, thoả thuận và tự định đoạt theo tinh thần chung của BLDS 2005. Bà Thuỷ là người chịu thiệt hại trong trường hợp này trong khi bà không có lỗi. Bà Phương đặt lãi suất cao thì lại có lợi khi phát sinh tranh chấp. Đây là một bất cập mà QH, Chính phủ và TAND TC cần lưu ý khi sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về hụi, họ, biêu, phường. Một vấn đề nữa về lãi suất mà thực tiễn cũng thường vướng mắc là vấn đề cho vay nặng lãi. Theo Khoản 3 Điều 470 BLDS 2005 và Khoản 2 Điều 2 Nghị định 144 thì Nhà nước nghiêm cấm tổ chức họ để cho vay nặng lãi. Tuy nhiên một thực tế là những người cho vay trong hụi lại không đặt ra lãi suất mà chính người đi vay tự nguyện bỏ lãi, vì vậy khi giải quyết các Toà thường lúng túng do luật chỉ cấm cho vay nặng lãi chứ không cấm vay nặng lãi. Ví dụ vụ vỡ hụi 25 tỷ đồng vì chơi hụi và vay nặng lãi tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 12 năm 2008: Bà Huỳnh Thị Nguyệt, 46 tuổi, nhân viên Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật máy bay ở quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh, bị hàng trăm đồng nghiệp gửi đơn tố cáo tới công an là đã chiếm đoạt khoảng 25 tỷ đồng, thông qua hình thức chơi hụi và huy động vốn. Theo đơn tố cáo, bà Huỳnh Thị Nguyệt, ngụ phường 2, quận Tân Bình, tổ chức 63 dây hụi (mỗi dây 51 phần) với hơn 500 người tham gia bắt đầu từ năm 1998 đến nay. Tạo được lòng tin của nhiều người trong hoạt động dây hụi nên đầu năm 2007, bà Nguyệt bắt đầu huy động vốn của nhiều người và hứa sẽ trả lãi suất cao. Có sự tin cậy và ham lời nên nhiều người sau khi lĩnh lương, thưởng đã lén gia đình trích bớt tiền, thậm chí đi vay mượn bên ngoài để đưa tiền cho chủ hụi. Người thấp nhất là vài chục triệu đồng, có trường hợp hai vợ chồng đều làm chung công ty đã cho bà Nguyệt vay đến gần 1 tỷ đồng. Ngày 10/11/2008, thời điểm các hụi viên đến lượt hốt hụi cũng như nhận lại số tiền đã cho vay thì chủ hụi nói chưa có tiền để trả và hẹn vài hôm sau sẽ thanh toán nhưng sau đó tiếp tục thất hứa. Đầu tháng 12, khi mọi người đòi tiền quyết liệt, bà Nguyệt tuyên bố đã mất khả năng chi trả rồi cáo bệnh, xin nghỉ phép tại nơi làm việc. Hiện công an Tân Bình đang thụ lý vụ việc. Trường hợp này ta thấy, nếu giải quyết theo quy định của pháp luật thì khi tính lại lãi, bà Nguyệt lại có lợi mà không bị xử lý gì vì không có chế tài. Trong khi đó bà Nguyệt vì vay lãi suất cao dẫn đến mất khả năng thanh toán cho các chủ nợ, gây thiệt hại đến lợi ích của người cho vay. Ngoài ra, trường hợp khi thành viên đã hốt hụi rồi sau đó không đóng hụi nữa nên bị các thành viên khác khởi kiện. Một số Toà khi buộc thành viên đó phải trả số tiền hụi gốc mà thành viên đó có nghĩa vụ phải nộp còn tuyên phải trả lãi cho các thành viên khác. Theo ý kiến của chúng tôi, lãi suất là do thành viên được lĩnh hụi tự đặt ra, các thành viên khác được trả lãi khi đóng hụi sống. Do đó, số tiền hụi chết mà thành viên đã lĩnh hụi trước đó phải nộp bao gồm cả tiền lãi, nên không tính lãi tiếp đối với số tiền hụi còn thiếu mà chủ hụi hoặc thành viên khác kiện đòi thành viên đó. 2.2.3 Lạm dụng tín nhiệm trong các vụ án về hụi họ Khi các vụ vỡ hụi xẩy ra, thường có các dạng tranh chấp như sau: Một là tranh chấp giữa chủ hụi với thành viên, do một số thành viên sau khi đã hốt hụi xong nhưng không đóng tiền hụi chết nên chủ hụi khởi kiện đòi tiền hụi các thành viên này. Hai là tranh chấp giữa thành viên với chủ hụi, do chủ hụi sau khi đã thu tiền các hụi viên đã không giao tiền hoặc giao không đầy đủ cho thành viên được lĩnh. Khi xẩy ra các tranh chấp này, nhiều người thường tố cáo chủ hụi không giao tiền hoặc hụi viên không đóng tiền hụi chết đó vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 (BLHS 1999). Một số cơ quan công an, toà án, viện kiểm sát cũng thường xác định theo hướng những người giật hụi, hoặc tuyên bố vỡ hụi để không trả tiền cho các hụi viên khác là vi phạm vào tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nói trên. Nếu bị xác định là phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo BLHS 1999, ngoài giải quyết trách nhiệm dân sự, bị cáo có thể chịu một trong những hình phạt: Cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm (khoản 1, Điều 140), cao nhất có thể bị tù chung thân (khoản 4), ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này (khoản 5). Tuy vậy trong quá trình giải quyết các vụ án về hụi họ liên quan đến lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thường gặp những vấn đề sau. Vấn đề thứ nhất, không phải vụ vỡ hụi nào, hụi viên và thông thường là chủ hụi cũng phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Điều này cần xác định rõ là chủ hụi mất khả năng thanh toán do đâu, đã dùng số tiền hụi ấy vào mục đích gì. Nhiều vụ vỡ hụi lớn, ảnh hưởng đến nhiều người nhưng do chủ hụi huy động số tiền hụi ấy đầu tư làm ăn nhưng thua lỗ dẫn đến mất khả năng chi trả. Nếu những người khởi kiện và nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng ngay từ đầu đã có định kiến các chủ hụi này phạm tội hình sự thì có thể dẫn đến xét xử oan sai. Nhiều người do định kiến từ đầu, lại mất tiền nên sẵn sàng làm chứng dối để buộc chủ hụi vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong thực tế, nhiều con nợ đến hạn trả nhưng không trả được nợ, khi bị khởi kiện đã bị các cơ quan tố tụng hình sự tiến hành khởi tố, điều tra một cách oan uổng, khiến nhiều người không có điều kiện để làm ăn trả nợ dần, mặt khác bên cho vay cũng không có khả năng thu hồi được vốn. Trong hoàn cảnh ngày nay, việc không có khả năng trả nợ có thể do nhiều nguyên nhân như: kinh doanh thua lỗ, bị người khác chiếm đoạt, do thiên tai... “Nếu vì những nguyên nhân khác quan mà không có khả năng trả được nợ dẫn đến bị xử lý về hình sự là trái pháp luật, vi phạm nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự” [14]. Theo điều 140 BLHS 1999, “Tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản” cấu thành khi người nào có một trong những hành vi sau đây: - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó (điểm a, khoản 1, Điều 140). Như vậy ta thấy phải có 3 điều kiện: Nhận được tài sản theo thoả thuận; dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn; nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản đó. Lưu ý là nếu chủ hụi bỏ trốn nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản thì cũng không phạm tội trên. - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản khác bằng hình thức hợp đồng và sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản (điểm b, khoản 1, Điều 140). Cần chú ý là người đó phải sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp như buôn lậu, đánh đề, cá độ bóng đá... dẫn tới vỡ nợ, còn nếu đầu tư làm ăn dẫn đến thua lỗ thì không phải là mục đích bất hợp pháp. Ví dụ vụ vỡ hụi của chủ hụi Nguyễn Thị Ngọc Tuý Vân trú tại đường Phan Bội Châu, thành phố Huế: Năm 2004 bà Vân lập dây hụi tháng, sau đó làm ăn phát đạt nên bà lập thêm nhiều dây hụi kỳ, hụi năm với tổng số thành viên lên đến 93 người. Trong đó có cả hình thức hụi heo, các “con hụi” đóng tiền hụi hàng tháng nhưng cuối năm mới nhận một lần. Bà Vân đã dùng số tiền hụi trong thời gian chưa khui hụi để đầu tư vào bất động sản. Tháng 10 năm 2006 do làm ăn thua lỗ nên bà Vân mất khả năng thanh toán cho các hụi viên. Nhiều người đến đòi nợ hụi nhưng do chưa có tiền để trả nên bà Vân khất dần, một số người đã dùng hình thức đe dọa để đòi lại tài sản vì vậy bà Vân tuyên bố vỡ hụi và bỏ vào Bình Dương nhằm tránh sức ép từ các chủ nợ. Vụ vỡ hụi đã gây chấn động lớn trên thành phố Huế. Nhiều người tố cáo bà Vân lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Một số tờ báo nêu nghi vấn vì sao chủ hụi không bị cơ quan công an khởi tố điều tra, hay có sự bao biện, che chở của các cơ quan nhà nước trong trường hợp này. Nhiều người còn sẵn sàng làm chứng về việc bà Vân bỏ trốn là nhằm chiếm đoạt tài sản, có người còn nói có chứng cứ cho thấy bà Vân đã dùng số tiền hụi vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến vỡ hụi. Tuy vậy sau khi xem xét, công an thành phố Huế xác định chưa đủ căn cứ cho thấy bà Túy Vân có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên không khởi tố hình sự mà hướng dẫn cho các đương sự khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Sau đó bà Vân trở về, ngày 15/1/2007 nhiều người đã đồng loạt có đơn khởi kiện đến Tòa án thành phố Huế yêu cầu giải quyết tranh chấp nợ hụi, mở đầu là bà Tôn Nữ Thu Dung ở đường Đặng Văn Ngữ, rồi Hồ Thị Như Phương ở đường Bà Triệu, Công Tôn Huyền Nữ Kiều Nga ở đường Đào Tấn, Nguyễn Thị Bảy ở đường Phan Đình Phùng... sau đó nhiều người khác cũng có đơn khởi kiện đến Tòa án, đến 20/6/2008 bà Ngô Thị Thủy ở đường Duy Tân là người cuối cùng khởi kiện, tổng cộng có đến 71 nguyên đơn khởi kiện bà Nguyễn Thị Ngọc Túy Vân trong vụ vỡ hụi này. Hiện nay Tòa án thành phố Huế đã hòa giải và xét xử xong các vụ tranh chấp này nhưng việc thi hành án còn gặp nhiều khó khăn do bà Vân chưa thể có đủ tiền để thi hành án. Qua vụ việc trên ta thấy quyết định không khởi tố của cơ quan công an thành phố Huế là hợp tình, hợp lý. Nhiều người thường nghĩ đến vỡ hụi như một tệ nạn xấu xa, trong đó phải có những thủ phạm lạm dụng tín nhiệm hoặc lừa đảo để chiếm đoạt tài sản người khác. Từ suy nghĩ này đã gây ra những cách nhìn lệch lạc về hụi họ, vì thế một thời chúng ta từng muốn xóa bỏ hình thức giao dịch này. Vấn đề thứ hai của vấn đề lạm dụng tín nhiệm trong các vụ tranh chấp về hụi họ là: Có nhiều vụ vỡ hụi là do chủ hụi có ý thức lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản các hụi viên nhưng không đủ căn cứ để buộc tội những chủ hụi này do những người này đã có sự chuẩn bị đối phó hoặc che dấu từ trước. Xin dẫn vụ việc xẩy ra vào tháng 11 năm 2008 tại xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh, Nha Trang do Bùi Sỹ và vợ là Nguyễn Thị Sen làm chủ hụi (người dân ở đây gọi là chơi huê). Sau khi tạo được lòng tin của những người tham gia chơi hụi, vợ chồng Sỹ - Sen đã dùng số tiền hụi thu được để xây nhà, mua sắm đồ dùng cá nhân và ăn chơi sau đó tuyên bố vỡ hụi. Vợ chồng Sỹ - Sen bị tố cáo lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt hàng tỷ đồng của các hụi viên. Chị Nguyễn Thị Út đóng hụi và cho vợ chồng Sỹ - Sen vay 78 triệu đồng, khi sự việc đổ vỡ, bà Sen tìm gặp chị Út xin xem lại sổ nợ, lợi dụng lúc sơ hở bà Sen đã lấy bút gạch xóa nợ. Chị Võ Thị Ngọc nộp hụi cho bà Sen 60 triệu làm đơn kiện vợ chồng Sỹ - Sen. Tại Tòa, hai vợ chồng đã chối không nhận tiền của chị Ngọc do khi tham gia hụi không có giấy tờ gì. Đến khi chị Ngọc đưa ra Tòa cuốn băng ghi âm, vợ chồng Sỹ - Sen vẫn phủ nhận. Chỉ đến khi Tòa ghi âm để giám định thì vợ chồng Sỹ - Sen mới không chối cãi. Trường hợp của chị Nguyễn Thị Bích, cho vợ chồng Sỹ - Sen mượn 200 triệu cùng với 12 suất hụi - mỗi suất gần 30 triệu đồng (tổng cộng trên 540 triệu đồng), nhưng khi ra tòa, vợ chồng Sỹ – Sen cũng chối bay chối biến. Nhiều bà con ở chợ Thành còn chứng kiến bà Sen xé vụn tờ giấy ghi nợ của một nạn nhân (400 triệu) sau khi giả vờ hỏi cho bà xem sổ nợ, bà còn dọa nếu viết đơn kiện bà sẽ không trả nợ. Nhiều nạn nhân khác không khai báo do bị vợ chồng Sỹ - Sen dọa nạt nếu tố cáo sẽ không trả nợ, hoặc không đủ chứng cứ nên đành im lặng. Số tiền Bùi Sỹ và Nguyễn Thị Sen chiếm đoạt ước tính lên tới khoảng 2 tỷ đồng với số nạn nhân lên tới hơn hơn 100 người. Lúc đầu những người bị hại có đơn gửi Công an huyện Diên Khánh yêu cầu cơ quan chức năng điều tra hành vi của vợ chồng Sỹ - Sen. Số lượng đơn thư tố cáo với số nợ càng tăng lên nhưng Công an huyện Diên Khánh cho rằng không đủ chứng cứ nên ngừng điều tra, một số người dân bức xúc, sẵn sàng đứng ra làm chứng nhưng không được chấp nhận. Cuối cùng công an huyện Diên Khánh đã chuyển sang Tòa án giải quyết theo quan hệ dân sự. Theo công an các quận, huyện hiện nay pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể cách xử lý các vụ việc liên quan đến hụi. Đối với những vụ bể hụi lớn, các chủ hụi không có khả năng chi trả thường bị khởi tố về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, các yếu tố cấu thành tội danh này đối với chủ hụi thường rất yếu. Một phần do chủ hụi và các hụi viên thỏa thuận bằng miệng, khi xảy ra “bể hụi” lại không có giấy tờ, biên lai chứng minh. Chưa kể, khi bể hụi, chủ hụi luôn hứa hẹn sẽ hoàn trả cho con nợ và không thể hiện ý định bỏ trốn. Vì thế, cơ quan pháp luật không đủ cơ sở để xử lý hình sự mà chỉ xem đó là giao dịch dân sự. 2.2.4 Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong các vụ án hụi họ Một trong các tranh chấp về nợ hụi thường được chuyển sang toà hình sự đó là, có dấu hiệu của “tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 BLHS 1999. Theo điều luật này, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được cấu thành bởi thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản người khác, mức hình phạt cao nhất của tội này là tử hình. Để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền tỷ, các chủ hụi có toan tính hết sức tinh vi. Chủ hụi thường dùng mọi cách khuếch trương cơ sở kinh doanh, thời gian đầu chủ hụi thường trả tiền sòng phẳng để lấy lòng tin của các hụi viên. Chính vì vậy hụi viên giao hàng tỷ đồng cho chủ hụi mà không có biên nhận. Sau khi chủ hụi tuyên bố "bể hụi" thì nạn nhân mới tìm đến cơ quan điều tra nhờ can thiệp. Các cơ quan bảo về pháp luật khi xem xét dấu hiệu của “tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thường căn cứ vào các dấu hiệu đặc trưng về mặt khách quan như sau: Thứ nhất, người phạm tội đưa ra những thông tin không đúng sự thật để người khác tin là thật. Thứ hai, hành vi chiếm đoạt được thể hiện ở hai dạng giao nhầm và nhận nhầm. Thứ ba, Người quản lý tài sản do bị lừa dối nên đã tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội. Ngoài ra cần lưu ý, hành vi gian dối phải thực hiện trước thời điểm chuyển giao tài sản, nghĩa là ngay từ đầu người phạm tội đã có âm mưu để chiếm đoạt tài sản. [15] Tháng 10 năm 2008 ở chợ Vỹ Dạ, thành phố Huế xẩy ra vụ vỡ hụi gần 4 tỷ đồng có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi phát hiện chủ hụi đã bỏ trốn, các nạn nhân ở chợ Vỹ Dạ và khu vực Cồn Hến, phường Vỹ Dạ, Thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên-Huế) đã có đơn trình báo gửi cơ quan công an nhờ can thiệp. Người làm chủ dây hụi là Hồ Thị Xuân Hương (tên thường gọi là Lớn), 41 tuổi, ở đường Tùng Thiện Vương, phường Vỹ Dạ. Theo nhiều nạn nhân, bà Hương cầm hụi ở chợ Vỹ Dạ và khu vực Cồn Hến đã hơn chục năm nay. Sở dĩ nhiều người tin, góp hụi vì toàn bộ gia đình bà Hương đều định cư ở Mỹ, bà Hương thường khoe gia đình rất có tiềm lực kinh tế. Những năm trước, bà Hương làm ăn đàng hoàng, trả tiền lãi và tiền hụi góp đúng kỳ hạn, nên nhiều người tin tưởng. Năm 2008, số người chơi hụi ở chợ Vỹ Dạ và phường này tăng lên gấp nhiều lần, mỗi ngày bà Hương cầm quyển sổ ra chợ, cơ sở kinh doanh hay vào nhà người dân để thu tiền hụi. Mỗi khi bà con góp tiền, bà Hương chỉ cần đánh dấu nhân (X) vào sau phần ghi họ tên người ấy. Hàng tháng bà Hương vẫn thông báo cho các “con hụi” về việc lĩnh hụi của các thành viên. Tuy nhiên, đến tháng 10 vừa qua, những người tham gia hụi không thấy bà Hương đâu nữa, bèn tìm đến nhà thì thấy cửa khóa cả trong lẫn ngoài rất cẩn thận. Sự việc được xác định, khoảng tháng 10 năm 2008, bà Hương có người thân từ nước ngoài về thăm nhà. Sau đó, lợi dụng việc đưa tiễn người nhà, bà Hương vào TP Hồ Chí Minh và trốn luôn từ bấy đến nay. Số điện thoại của bà Hương cũng ngừng liên lạc. Thấy nhiều dấu hiệu khả nghi, một số con hụi lớn đã có đơn trình lên Công an phường Vỹ Dạ nhờ can thiệp. Tính đến ngày bà Hương biệt tích, số tiền hụi ước lên đến gần 4 tỉ đồng, trong số đó, người ít nhất 7,2 triệu đồng, nhiều nhất hơn 100 triệu đồng. Ngoài ra, có không ít người dân ở phường này chơi hụi với số tiền lớn từ vài trăm triệu đồng, cá biệt như bà Tý (tổ 4, khu vực 2) 739 triệu đồng. Hơn 90% tiểu thương ở chợ Vỹ Dạ, từ người lao động gánh thuê đến chủ tiệm vàng đều bị mất tiền qua dây hụi này. Hàng loạt gia đình ở khu vực Cồn Hến cũng “dính” nạn hàng trăm triệu đồng. Xung quanh vụ vỡ hụi này, trung tá Trương Minh Sáng, Trưởng công an phường Vỹ Dạ khẳng định: “Đây là vụ án lừa đảo. Sau khi bà Hương bỏ trốn khỏi địa phương, công an phường đã nhận 7 đơn trình báo sự việc của các cá nhân bị mất tiền trong dây hụi này. Công an phường đã báo cáo vụ việc lên Công an Thành phố Huế, đồng thời hướng dẫn người dân đến Công an Thành phố Huế để tố cáo. Hiện Công an Thành phố Huế đang tập hợp hồ sơ để làm rõ hành vi lừa tiền của bà Hương, nhằm có hướng xử lý". Qua vụ việc nêu trên ta thấy, để chiếm đoạt tài sản người khác, chủ hụi đã cố tình hư trương tiềm lực kinh tế của mình nhằm tạo lòng tin ban đầu của hụi viên. Sau khi các hụi viên đã tin vào tiềm lực kinh tế và uy tín của chủ hụi đã tự nguyện giao tiền triệu mà không cần biên lai. Chủ hụi chiếm đoạt được tiền liên bỏ trốn. Mặt khác do có toan tính từ trước nên khi thu tiền hụi chủ hụi chỉ đánh dấu vào sổ mà không có chữ ký, điểm chỉ của người nộp, cũng không có biên lai của chủ hụi. Do vậy khi khởi tố ra Tòa, chứng cứ buộc chủ hụi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường không đủ sức thuyết phục. Cũng liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong việc chơi hụi họ, vừa qua ở Đồng Tháp, một chủ hụi đã bị phạt 8 năm tù vì lập hụi ma để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vụ việc như sau: Nguyễn Thị Thùy Linh ngụ tại xã An Long, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp làm chủ hụi từ năm 2003 đến khoảng tháng 5 năm 2007. Do có một số người đã hốt trước nhưng sau đó không đóng lại tiền hụi đã hốt. Để không bị bể hụi Linh đã dùng thủ đoạn gian dối là ghi tên những người không có tham gia chơi để hốt hụi. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 2007 đến tháng 6 năm 2008, Linh đã nhiều lần hốt hụi để chiếm đoạt số tiền trên 400 triệu đồng. Án sơ thẩm của TAND huyện Tam Nông đã tuyên phạt Linh 9 năm tù giam. Sau đó, Linh đã có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Mới đây, TAND tỉnh Đồng Tháp đưa ra xét xử phúc thẩm tuyên phạt Linh 8 năm tù giam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều vụ vỡ hụi do chủ hụi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi vụ việc vỡ lỡ thì chủ hụi đã bỏ trốn nên thiệt hại do hụi viên gánh chịu do sụ nhẹ dạ, cả tin và chủ quan của mình. Chẳng hạn ở Cà Mau, công an vừa khởi tố vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của một chủ hụi tại thị trấn Sông Đốc, nơi trước nay nổi tiếng với nhiều vụ bể hụi. Trong tờ tường trình gửi công an, 34 người ký tên tố cáo họ bị chủ hụi Trần Kim Phụng lừa trên 1,6 tỉ đồng. Trong đó, vợ chồng cụ bà Phạm Thị Nhanh khai bị lừa 71 triệu đồng, đó là số tiền chắt mót cả đời cộng với số nợ hàng chục triệu mà ông bà phải gánh trong thời gian đóng hụi cho Phụng. Nạn nhân này trình bày vợ chồng Phụng đến nói có mở 3 dây hụi tháng và 2 dây hụi ngày và mời tham gia với những hứa hẹn chênh lệch hấp dẫn. Nghe vậy, ông bà Nhanh đã lấy hết số tiền dành dụm để tham gia với ý định kiếm ít tiền lãi. Trong thời gian này, nhiều hụi viên cần tiền đến bỏ hụi để hốt nhưng rất hiếm ai có thể hốt được. Khi có người bỏ cao mấy thì Phụng cũng nói có một người nào đó bỏ cao hơn, hốt trước. Thế là họ đành tiếp tục đóng tiền vào để nuôi hụi sống. Đến khi vợ chồng Phụng ôm tiền đóng hụi bỏ trốn, những nạn nhân có dịp họp lại với nhau và phát hiện ra đã có gần 30 hụi viên “ảo” được Phụng bịa ra để hốt hụi, nhằm ngăn các hụi viên thật bỏ cao lấy tiền. Cho đến khi số tiền chiếm đoạt đã nhiều, mọi chuyện vỡ lẽ thì vợ chồng Phụng đã cao chạy xa bay. Hiện nay vẫn chưa bắt được chủ hụi để xét xử vụ án. Người chơi hụi gọi hình thức dựng lên chân hụi giả của chủ hụi là “hụi ma”. Phần lớn những vụ bể hụi đều có dấu hiệu hình sự, các chủ hụi đều thừa nhận mình đã “phù phép” cho những hụi viên thật chơi chung đường dây hụi với những hụi viên “ảo” để những hụi viên chưa hề tồn tại này hốt hụi khi đến kỳ hạn khui. Bằng cách này, tiền đóng của hụi viên thật bị chủ hụi chiếm trọn. Phần lớn những nạn nhân của các vụ bể hụi đều thiếu chứng từ ghi nợ. Họ chỉ nhớ đã đóng bao nhiêu lần, bao nhiêu chân rồi quy ra bấy nhiêu tiền. Tiền trăm triệu, tiền tỉ hầu hết chỉ được chủ hụi ghi vắn tắt vào sổ tay, không đầu, không đuôi, thiếu điều kiện ràng buộc... Thế cho nên không ít lần sau khi nổ ra bể hụi, chính quyền địa phương mời hai bên đến đối chiếu số tiền bị chiếm đoạt thì cuộc gặp gỡ cũng chỉ trở thành cuộc cãi vã giữa chủ hụi và hụi viên chứ không thống nhất được số tiền bị chiếm đoạt. Nhiều trường hợp, vỡ hụi chỉ là cái cớ, thực tế, nhằm thu hút được nhiều tiền, một vài chủ hụi lớn đã dùng thủ đoạn đưa ra mức lãi suất vay rất cao, thậm chí lên tới vài chục phần trăm/tháng để đánh vào lòng tham của một số người dân. Thủ đoạn này đã tạo ra sức cám dỗ, giúp các chủ hụi thu gom tiền của người dân như: tiền tiết kiệm, tiền từ đền bù, giải phóng mặt bằng dự án mở rộng đường... Khi cơn sốt lãi suất lên đến đỉnh điểm, không ít người dân liều lĩnh thế chấp tài sản, vay cả vốn ngân hàng nộp cho chủ hụi, rồi chỉ cầm lại trong tay tờ giấy nhận nợ viết nguệch ngoạc. Khi tạo dựng một cớ nhỏ, các chủ hụi tuyên bố vỡ hụi để chiếm đoạt số tiền này, khiến những người dân nhẹ dạ, tham lãi suất cao, gom góp tiền gửi vào các chủ hụi, phút chốc trở nên trắng tay. Qua nhiều vụ việc tương tự chúng tôi rút ra một số thủ đoạn của nhũng chủ hụi lừa đảo chiếm đoạt tài sản các hụi viên như sau: - Chủ hụi tạo cho mình một bình phong để người khác tin tưởng vào tiềm lực kinh tế của mình và tham gia hụi. Trong thời gian đầu các chủ hụi thường để các thành viên góp và lĩnh hụi đúng kỳ hạn để tạo uy tín. - Trong quá trình chơi hụi, thành viên nộp hụi mà không có giấy chứng nhận hay biên lai của chủ hụi, thay vào đó chủ hụi chỉ đánh dấu vào sổ hụi với những lời hứa đảm bảo ngon ngọt. - Các chủ hụi thường lập ra các thành viên ảo để hốt hụi, khi có thành viên khác muốn hốt hụi thì chủ hụi thông báo đã có thành viên khác bỏ lãi cao hơn và hốt trước. Khi sự việc tranh chấp xẩy ra, thường không có chứng cứ để buộc tội các chủ hụi này, việc giải quyết hậu quả dân sự cũng rất khó khăn vì chủ hụi đã tẩu tán tài sản trước đó hoặc bỏ trốn. Đây là điều cần hết sức lưu ý đối với những người tham gia hụi để tránh hậu quả đáng tiếc xẩy ra. 2.2.5 Khó khăn trong việc giải quyết hậu quả Theo một số thẩm phán tại Tòa án thành phố Huế, khi giải quyết tranh chấp về nợ hụi, vấn đề giải quyết hậu quả rất nan giải. Chẳng hạn như vụ Nguyễn Ngọc Túy Vân mà chúng tôi đã nêu phần trên của Luận văn, bà Nguyễn Ngọc Túy Vân là chủ hụi, sau khi vỡ hụi có tới 71 thành viên của dây hụi khởi kiện yêu cầu trả nợ hụi. Trong quá trình giải quyết, Tòa án thành phố Huế đã triệu tập để tiến hành hòa giải. Tuy nhiên việc hòa giải thường khó thành. Chủ hụi bị vỡ hụi mất khả năng thanh toán thì xin được kiếm tiền trả dần, trả từ từ hoặc trả khi có khả năng, trong khi hụi viên lại đòi phải trả ngay. Một số đồng ý không đòi tiền lãi nhưng không chấp nhận trả dần. Tòa án khi xét xử buộc phải tuyên xử chủ hụi phải trả tiền nợ hụi cho hụi viên theo quy định của pháp luật, đồng thời còn tuyên: “Kể từ ngày người có quyền yêu cầu có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả khoản tiền phải thi hành án thì phải chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án”. Trong quá trình thi hành án, nhiều người than phiền vụ việc của họ chậm được giải quyết hoặc cơ quan chức năng “thiếu nhiệt tình” khi xem xét các yêu cầu của họ. Nhưng nếu xét một cách khách quan thì không thể làm khác được, bởi vì khi bể hụi thường thì số hụi viên khởi kiện khá đông, lên đến hàng chục, thậm chí có vụ lên đến hàng trăm người. Tổng số tiền mà chủ hụi phải thi hành án lên đến hàng tỷ đồng. Trong khi đó, tài sản của chủ hụi lại mất hết trong quá trình làm ăn nên cũng không còn gì đáng kể để kê biên thi hành án. Thử đặt ra ngoài những chủ hụi phải thi hành án vì lạm dụng tín nhiệm hoặc lừa đảo để thi hành án, ta thử xét đến những chủ hụi làm ăn chân chính nhưng thua lỗ dẫn tới mất khả năng chi trả, lúc này chủ hụi đó phải chịu tới 5 khoản phải trả: Nợ hụi gốc, khoản lãi do chậm trao tiền cho thành viên lĩnh hụi, khoản tiền lãi phải tính lại do thành viên khi hốt hụi bỏ lãi quá cao, tiền án phí, tiền lãi do chậm thi hành án. Theo chúng tôi, nếu buộc họ phải trả nợ ngay cho các chủ nợ là góp phần đẩy họ vào bước đường cùng, đây là quyết định thiếu tính nhân đạo không phù hợp với tinh thần pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đối với những tranh chấp hụi được cho là chủ hụi, hụi viên có dấu hiệu phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì việc giải quyết hậu quả cũng không phải dễ dàng. Bởi vì như đã nói ở trên những người này khi phạm tội đã có sự chuẩn bị trước nên họ thường tẩu tán tài sản hoặc che dấu việc phạm tội. Theo trung tá Ngô Thành Thái, Đội trưởng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Công an thị xã Bạc Liêu cho rằng: “Nạn nhân của những vụ bể hụi thường mong muốn các cơ quan công an vào cuộc, vì như thế chủ hụi mới “sợ” mà trả tiền cho họ. Tuy nhiên, không phải vụ bể hụi nào cũng có dấu hiệu của tội phạm hình sự và những “dấu hiệu tội phạm” ấy không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ xác định nên cơ quan buộc phải cẩn trọng để tránh hình sự hóa các quan hệ dân sự khác. Cũng không thiếu những trường hợp khi cơ quan công an vào cuộc thì đối tượng đã bỏ trốn, hoặc có những trường hợp đưa ra xử lý theo pháp luật thì tài sản của chủ hụi cũng chẳng còn gì để thi hành án”. Trở lại vụ việc của vợ chồng Bùi Sỹ và Nguyễn Thị Sen ở huyện Diên Khánh, Nha Trang mà chúng tôi đã nêu ở phần trên của Luận văn, ngay sau khi bị tuyên phải trả nợ cho các chủ nợ, ông Sỹ đã tìm cách kéo dài thời gian thi hành án bằng cách khởi kiện các chủ nợ ra tòa. Ông Nguyễn Phước Thiện - Trưởng Thi hành án Diên Khánh nói: Hiện đơn vị không thể chuyển số tài sản đã kê biên cho Trung tâm Bán đấu giá vì người bị thi hành án có đơn yêu cầu ngừng thi hành án vì đang khởi kiện ra tòa. Tòa án huyện Diên Khánh cũng nhận được đơn của Bùi Thanh Phong (con bà Sen) đòi Quyền sở hữu nhà đất do cha mẹ đã cho anh ta… Hiện hai nguyên đơn này đã nộp tạm ứng án phí và Tòa án Nhân dân huyện Diên Khánh đang thụ lý vụ án và sẽ đưa ra xét xử trong thời gian tới. Đây là những thủ đoạn lợi dụng sơ hở của pháp luật để tẩu tán tài sản và trốn tránh việc thi hành án làm cho việc giải quyết tranh chấp hụi họ trở nên phức tạp và kéo dài. 2.3 Nguyên nhân của những vướng mắc khi giải quyết tranh chấp hụi, họ, biêu, phường 2.3.1 Nguyên nhân bất cập về mặt xã hội Những vướng mắc mà chúng tôi nêu trên đây nguyên nhân có nhiều, bao gồm cả nguyên nhân bất cập về mặt xã hội và nguyên nhân bất cập về mặt pháp luật. Do điều kiện và nhận thức còn hạn chế nên người viết chỉ xin nêu một số nguyên nhân đã tìm hiểu được trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Thứ nhất, do người dân chưa biết về các quy định của pháp luật đối với vấn đề hụi, họ, biêu, phường. Thực tế cho thấy nhiều người tham gia chơi hụi, nhất là chơi hụi có lãi thường xuyên phải đối mặt với rủi ro, nhưng họ không hề biết và không quan tâm Nhà nước có quy định về vấn đề này hay không, quy định như thế nào. Chính vì vậy khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, họ tìm đến các cơ quan chức năng để yêu cầu giải quyết thì hoặc là đã hết thời hiệu khởi kiện, hoặc là không đủ bằng chứng để thụ lý giải quyết. Thứ hai, do một số người lợi dụng sơ hở của pháp luật để trục lợi. Chẳng hạn như các hụi viên khi bỏ lãi thường bỏ rất cao để hốt hụi, sau đó không đóng hụi chết. Nếu có tranh chấp khởi kiện ra tòa thì họ lại có lợi khi Tòa tính lại mức lãi suất theo quy định của pháp luật thì họ lại có lợi vì BLDS 2005 và NĐ144 chỉ cấm cho vay nặng lãi mà không cấm vay nặng lãi. Thứ ba, do định kiến của một số người, khi vỡ hụi xẩy ra thường tố cáo chủ hụi hoặc hụi viên lạm dụng tín nhiệm hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi các cơ quan chức năng xác định không đủ căn cứ để truy tố hình sự thì những người này, thậm chí có khi cả báo chí, thường khiếu nại kéo dài gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội. Thứ tư, do sự tin tưởng vào các mối quan hệ của những người tham gia hụi. Đây là nguyên nhân rất hay gặp đối với các vụ vỡ hụi. Các hụi viên khi nộp tiền hụi thường không đòi hỏi hóa đơn, chứng từ gì đảm bảo. Nếu có, thì chủ hụi thường chỉ đánh dấu vào sổ hụi và đảm bảo suông bằng miệng. Chính vì điều này mà nhiều người đành chịu mất tài sản vì các cơ quan chức năng không có bằng chứng gì để giải quyết khi tranh chấp xẩy ra. 2.3.2 Nguyên nhân về mặt pháp luật Nguyên nhân về mặt pháp luật bắt nguồn từ những bất cập của các quy định hụi, họ, biêu, phường như chúng tôi đã phân tích ở Chương 1 của Luận văn, xin tổng hợp lại một số nguyên nhân dẫn đến vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp án hụi họ ở các Tòa như sau. Thứ nhất, một số quy định của pháp luật chưa phù hợp với thực tế cuộc sống, trước hết là vấn đề thời hiệu. Theo chúng tôi, việc quy định thời hiệu đối với hụi phát sinh trước ngày NĐ144 có hiệu lực là 2 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực là quá ngắn, vừa không đủ thời gian để những người tham gia hụi biết bảo vệ quyền lợi của mình, vừa gây sức ép lên các cơ quan chức năng khi phải giải quyết các vụ việc bị dồn lại từ hơn 10 năm trước. Thứ hai, Nhà nước chỉ công nhận bản chất tương trợ trong nhân dân mà không công nhận bản chấp kinh doanh là không hợp lý, trong khi hình thức hụi có lãi ngày càng phát triển, người chơi hụi nhiều khi không quen biết nhau mà chỉ thông qua chủ hụi. Việc nhà nước chỉ cấm tổ chức hụi để cho vay nặng lãi mà không cấm vay nặng lãi cũng là một sơ hở tạo nên một số vướng mặc khi giải quyết án hụi họ. Thứ ba, là việc thiếu các quy định về quản lý nhà nước đối với hụi họ. Chính vì thế, một người có thể lập nhiều dây hụi tạo nên mạng lưới chồng chéo nhau mà chủ hụi không có sự ràng buộc nào với nhà nước. Do đó, khi vỡ hụi thường có phản ứng dây chuyền gây tác động xấu đến kinh tế và xã hội, nhiều người lợi dụng để lạm dụng hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Thứ tư, việc quy định về lập sổ hụi cũng thiếu chặt chẽ tạo nên vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp. Thường thì chỉ chủ hụi mới lập và giữ sổ hụi, do đó khi phát sinh tranh chấp, nếu chủ hụi hủy sổ hụi thì không còn căn cứ pháp lý nào để giải quyết. Nhiều người khi nộp hụi cũng không nhớ là mình đã nộp bao nhiêu do nộp hụi nhiều đợt và kéo dài. Vấn đề này cũng cần sớm được sửa đổi bổ sung cho phù hợp. 2.4 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hụi, họ, biêu, phường Từ những bất cập về mặt pháp luật cũng như những vướng mắc thực tiễn trong quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp hụi họ như đã nêu, sau khi phân tích nguyên nhân, chúng tôi mạnh dạn nêu một số kiến nghị sau nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hụi, họ, biêu, phường. 2.4.1 Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật Một là, cần có sự nghiên cứu lý luận một cách khách quan, đầy đủ về hụi, họ, biêu, phường. Phân tích những mặt tích cực, tiêu cực của hụi họ, từ đó mới có những quy định đúng đắn, nhằm định hướng mục đích lành mạnh, tốt đẹp của hình thức giao dịch hụi họ trong nhân dân ta. Tiếp đó cần sửa đổi, bổ sung các quy định về hụi họ hiện hành cho phù hợp với thực tiễn của cuộc sống. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng và toàn diện các vấn đề vướng vắc, bất cập của BLDS 2005 nói chung và các quy định về hụi họ nói riêng để có một lộ trình hoàn thiện pháp luật một cách khoa học và bên vững, tranh tư tưởng nóng vội “sai đâu sửa đó” tạo nên nhiều mảnh chắp vá của pháp luật. Hai là, về vấn đề bản chất của hụi họ, chúng tôi cho rằng Nhà nước cần công nhận cả bản chất kinh doanh có lãi của hụi họ, chứ không nên chỉ công nhận bản chất tương trợ như hiên nay để phù hợp với thực tế cuộc sống. Theo đó, nên quy định: Nhà nước khuyến khích hụi nhằm mực đích tương trợ trong nhân dân. Quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia hụi nhằm mục đích tương trợ và mục đích kinh doanh theo đúng các quy định của Pháp luật về hụi, họ, biêu, phường được Nhà nước bảo vệ. Ba là, về vấn đề lãi suất, như đã nói ở chương 1, việc quy định lãi suất theo Điều 476 như hiện nay là quá thấp, trái với lệ chơi hụi đã được chấp nhận trong thời gian dài. Do đó theo chúng tôi có hai phương án như sau: Phương án thứ nhất là không quy định về lãi suất mà cần nghiên cứu một cơ chế nào đó ràng buộc để tránh việc người chơi bỏ lãi quá cao dẫn tới vỡ hụi, cơ chế này cần được các chuyên gia lập pháp nghiên cứu một cách đầy đủ và khoa học. Phương án thứ hai là nên quy định một mức lãi trần để tránh việc bỏ lãi quá cao, đồng thời mức lãi suất trần đó có thể chấp nhận được trong thực tế chơi hụi trong nhân dân. Theo ý kiến của chúng tôi, mức lãi trần nên quy định là 20%, nghĩa là nếu dây hụi có giá trị 10.000.000đ/tháng thì người chơi không được bỏ lãi quá 2.000.000đ. Bốn là, Nhà nước cần có sự quản lý đối với hoạt động hụi họ. Việc bắt buộc phải đăng ký và nộp thuế đối với tất cả các dây hụi là điều rất khó thực hiện, do đó theo chúng tôi cần có sự phân loại cho hợp lý. Đối với hình thức hụi không có lãi, đơn thuần nhằm mục đích tiết kiệm và tương trợ lẫn nhau trong nhân dân, ít khi xẩy ra tranh chấp do đó không cần thiết phải đăng ký quản lý. Đối với hụi có lãi, nên quy định một dây hụi có bao nhiêu thành viên trở lên, giá trị dây hụi bao nhiêu tiền trở lên thì phải đăng ký và nộp phí. Việc nộp phí nên phù hợp, vì lấy cao thì dẫn tới các chủ hụi tìm cách lách luật, trốn tránh không đăng ký. Đồng thời phải có chế tài nghiêm minh để đủ sức răn đe những người không đăng ký theo quy định của pháp luật. Năm là, pháp luật nên quy định cụ thể những trường hợp nào thì thỏa thuận tham gia hụi phải bằng văn bản, trường hợp nào thì văn bản thỏa thuận phải công chứng, chứng thực. Chẳng hạn theo chúng tôi nên có điều luật: Điều... : Trường hợp dây hụi từ 20 người trở lên hoặc phần hụi góp một lần từ 1 triệu đồng trở lên thì thỏa thuận phải bằng văn bản. Dây hụi từ 50 người trở lên hoặc phần hụi góp từ 10 triệu trở lên thì văn bản thỏa thận phải có công chứng, chứng thực. Sáu là, về vấn đề sổ hụi, nên quy định phải có ít nhất 2 sổ hụi. Một sổ chính do chủ hụi lập và giữ, một sổ hụi luân phiên giao cho hụi viên được hốt hụi giữ. Như vậy sẽ hạn chế phần nào việc chủ hụi lập ra “hụi ma” để lạm dụng tín nhiệm hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cũng nên quy định khi hụi viên góp hụi từ bao nhiêu trở lên thì chủ hụi phải có biên lai chứng nhận. Nếu quá trình giao dịch các bên làm trái với quy định này tức là từ bỏ sự bảo vệ quyền lợi của mình, các cơ quan bảo vệ pháp luật có căn cứ để bác yêu cầu giải quyết việc tranh chấp do không có bằng chứng, như vậy sẽ làm cho công tác giải quyết án hụi họ đỡ phức tạp hơn. Bảy là, về thời hiệu, theo chúng tôi kiến nghị nên sửa đổi mục 1.1 của Công văn số 04 ngày 6/4/2007 như sau: 1.1. Đối với tranh chấp hụi phát sinh trước ngày (hiện tại là: Đối với hụi được xác lập trước ngày) Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành thì căn cứ vào khoản 3 Điều 159 của BLTTDS và Điều 427 của BLDS, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết đối với các tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ là năm năm (hiện tại là hai năm), kể từ ngày Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành. Ngoài ra, để các quy định của pháp luật nói chung và các quy định về hụi họ nói riêng được thực thi nghiêm túc, các nhà làm luật ngoài việc nghiên cứu các quy định phù hợp với thực tiễn cuộc sống và phù hợp với quy luật khách quan thì cần có các quy định về chế tài nghiêm minh, đủ sức răn đe. Có như vậy mới phát huy được vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và bảo vệ quyền lợi của Nhân dân. 2.4.2 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Nhằm hạn chế và giải quyết một số vướng mắc về thực tiễn giải quyết tranh chấp hụi họ hiện nay. Chúng tôi xin nêu một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật như sau. Một là, phải nâng cao nhận thức của mọi người về pháp luật nói chung. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc giáo dục pháp luật trong các nhà trường. Hiện nay chúng tôi thấy việc học pháp luật ở các trường cấp 3 và các trường cao đẳng, đại học không phải chuyên ngành luật còn rất ít nội dung và thời lượng. Học sinh, sinh viên lại có thái độ khá thờ ơ vì cho rằng đây không phải là môn học trong tâm. Một phần cũng do phương pháp giảng dạy, truyền đạt con đơn điệu, nhàm chán, học sinh còn tiếp thu thụ động nên không thích học. Ngoài ra cũng cần tuyên truyền pháp luật cho nhân dân qua nhiều kênh như sách báo, truyền hình, tổ chức các cuộc thi… Khi trình độ nhận thức pháp luật được nâng cao, ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật hụi, họ, biêu, phường cũng được cải thiện cũng sẽ được cải thiện. Hai là, về việc tuyên truyền pháp luật hụi họ nói riêng, theo chúng tôi, thỉnh thoảng nên có những chương trình tuyên truyền pháp luật về lĩnh vực này trên truyền hình, truyền thanh và sách báo với nhiều hình thức để những người tham gia hụi họ biết về các quy định của pháp luật và tự bảo vệ quyền lợi cho mình. Hiện nay chúng tôi thấy hầu như trên các chương trình truyền hình và truyền thanh rất ít nói đến vấn đề này, trong khi các vụ vỡ hụi lại xẩy ra rất nhiều, gây ảnh hưởng khá lớn đến tình hình kinh tế, xã hội. Một số báo chuyên nghành như Tạp chí Tòa án, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Luật học... và một số điện tử có đề cập đến vần đề hụi họ, song những tờ báo này chỉ có người nghiên cứu chuyên ngành mới tiếp cận được, còn những người dân trực tiếp tham gia chơi hụi họ thì không có điều kiện tiếp xúc nên không biết. Ở một số chợ hoặc trung tâm công nghiệp, nơi việc chơi hụi và vỡ hụi diễn ra phổ biến, theo chúng tôi các cơ quan chức năng nên có những chương trình tuyên truyền như dán các khuyến cáo và các quy định về hụi họ một cách ngắn ngọn, súc tích để những người chơi được tiếp cận, từ đó có thể hạn chế được phần nào việc vỡ hụi đáng tiếc xẩy ra. Ba là, Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp nên tổ chức các hình thức tiết kiệm và cho vay tín dụng đối với thành viên của mình. Một người dân ở Bố Trạch, Quảng Bình cho biết, một số chi hội phụ nữ ở đây có tổ chức cho vay vốn tín dụng tương tự như việc chơi hụi họ có lãi: Các hội viên tùy theo điều kiện kinh tế sẽ góp tiền lại cho hội trưởng, sau đó thành viên nào có nhu cầu vay vốn thì đăng ký để vay và trả lãi cho cho hội với mức lãi suất hợp lý, một kỳ có thể có hai đến ba người được vay chứ không phải chỉ một người hốt như chơi hụi. Nếu ai có nhu cầu rút vốn thì cũng khá dễ dàng do mỗi kỳ các hội viên họp lại để quyết định việc cho vay trong kỳ tiếp theo. Đây cũng là một hình thức tiết kiệm khá hiệu quả của các hội viên. Nếu hình thức này được nhân rộng ở các chi hội phụ nữ và trong các tổ chức công đoàn các doanh nghiệp ở các khu công nghiệp thì sẽ hạn chế được rủi ro cho các hội viên và công nhân khi tham gia chơi hụi. Bốn là, cần thống nhất áp dụng pháp luật trong các tòa án, viện kiểm sát, công an nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hụi, họ, biêu, phường. TAND TC, VKSND TC, Bộ Công an cần phối hợp để có hướng dẫn cụ thể về cách tính thời hiệu cho thống nhất trong cả nước, tránh tình trang mỗi tòa hiểu và giải quyết theo mỗi cách khác nhau. Ngoài ra, cũng cần có những quy định cụ thể cách xử lý các vụ việc liên quan đến hụi họ, nhất là các vụ việc liên quan đến hình sự. Có như vậy mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự, đồng thời tạo niềm tin trong nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên, những kiến nghị nêu trên chỉ là quan điểm còn hạn chế của người viết được rút ra trong quá trình nghiên cứu lý luận cũng như thực tế về đề tài hụi, họ, biêu, phường. Để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật nói chung cũng như pháp luật về hụi họ nói riêng, còn cần sự nghiên cứu và đóng góp của các nhà khoa học và những người làm việc chuyên sâu trong lĩnh vực này, cũng như cần lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. PHẦN KẾT LUẬN Qua nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tiễn về giao dịch hụi, họ, biêu, phường thấy rằng, hình thức giao dịch này thỏa mãn các điều kiện của giao dịch dân sự theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005, thực chất hụi, họ, biêu, phường là một hình thức của HĐ VTS. Luận văn đã giải quyết và đóng góp được những vấn đề sau. Đầu tiên, chúng tôi đã làm rõ một số khái niệm, thuật ngữ thường gặp và việc phân loại hụi, họ, biêu, phường để thuận tiện trong việc tiếp cận và nghiên cứu đề tài. Chúng tôi cũng đã trình bày đường lối xử lý về hụi họ của Nhà nước ta qua các thời kỳ lịch sử theo các giai đoạn: Trước 1996, từ 1996 đến 2006 và từ 2006 đến nay để có cái nhìn tổng quan về các quy định liện quan đến hụi họ từ trước đến nay. Từ đó làm nổi bật tình hình giao dịch về hụi họ trong nhân dân và nêu lên những bất cập, bức xúc trong giai đoạn chúng ta chưa chính thức quy định hụi họ trong Bộ luật Dân sự. Việc quy định hụi họ trong BLDS 2005 và NĐ144, Công văn số 04 là một chủ trương đúng đắn, cho thấy vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội khi được quy định phù hợp với quy luật khách quan sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo được trật tự, an toàn xã hội. Từ các quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi đã trình bày một số nội dung cơ bản nhất cần lưu ý khi tham gia hụi họ, đó là những vấn đề như chính sách của nhà nước, hình thức và nội dung thỏa thuận về hụi họ, vấn đề lãi suất, quyền và nghĩa vụ cơ bản của chủ hụi và các thành viên, vấn đề giải quyết tranh chấp hụi họ. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đã có sự liên hệ, so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật có liên quan đến hụi họ như các quy định về giao dịch dân sự và HĐ VTS. Chúng tôi đã có sự so sánh hình thức giao dịch hụi, họ, biêu, phường với HĐ VTS để làm rõ bản chất của giao dịch này. Đặc biệt trong Luận văn, chúng tôi đã mạnh dạn nêu lên một số vấn đề bất cập về mặt pháp luật mà chúng tôi nghĩ cần có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đó là các vấn đề: Vấn đề về công nhận bản chất kinh doanh của hụi họ, vấn đề về lãi suất, vấn đề về quản lý nhà nước và vấn đề về thời hiệu trong hụi, họ, biêu, phường. Khi nghiên cứu về thực tiễn, chúng tôi đã nêu lên thực tế việc chơi hụi họ trong nhân dân hiện nay để khẳng định lại tầm quan trọng của việc quy định hụi, họ, biêu, phường trong Pháp luật Dân sự. Qua tình hình giải quyết các tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường trên địa bàn thành phố Huế và qua một số vụ án khác trên phạm vi cả nước, chúng tôi đã rút ra một số vướng mắc thực tiễn: Đó là vướng mắc về việc hiểu và áp dụng quy định về thời hiệu thiếu thống nhất ở các tòa án, viện kiểm sát và cơ quan công an; vướng mắc về vấn đề lãi suất trong tranh chấp hụi họ; vướng mắc khi xác định có dấu hiệu của “tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; và nhất và vướng mắc trong việc giải quyết hậu quả của các vụ tranh chấp hụi họ trong giai đoạn xét xử và thi hành án. Từ những vướng mắc đó, Luận văn đã có sự phân tích nguyên nhân về mặt pháp luật cũng như mặt xã hội và nêu lên một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hụi, họ, biêu, phường. Theo chúng tôi, để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này cần có sự nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn một cách khoa học, toàn diện và khách quan, từ đó mới phân tích thấu đáo những hạn chế của pháp luật hiện hành và đề ra những sửa đổi bổ sung đúng đắn, phù hợp với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu và nhận thức còn hạn chế nên Luận văn còn nhiều vấn đề chưa đề cập thấu đáo, rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu chuyên ngành cũng như sự góp ý của bạn bè để người viết có sự nhận thức đề tài được đầy đủ hơn. Xin chân thành cảm ơn ! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1995), Bộ luật Dân sự 1995, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1999), Bộ luật Hình sự 1999, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2006), Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về hụi, họ, biêu, phường, Công báo. Tòa án Nhân dân Tối cao (2007), Công văn số 04/KHXX ngày 6 tháng 4 năm 2007, hướng dẫn thụ lý giải quyết tranh chấp về họ, Công báo. Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng (1990), Thông báo số 2590/PPCT ngày 10 tháng 8 năm 1990, Công báo. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân tối cao (1992), Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 8 tháng 8 năm 1992, hướng dẫn toàn ngành thống nhất đường lối giải quyết tranh chấp về nợ hụi, Công báo. II. TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC Vũ Việt Phương (2007), Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hụi, họ trên cơ sở Bộ luật Dân sự 2005, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7. Tưởng Duy Lượng (2007), Một số vấn đề về hụi, họ, biêu, phường, Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 9. Viện kiểm sát Nhân dân thành phố Huế, Thống kê kiểm sát giải quyết sơ thẩm án dân sự, từ năm 2006 đến 2008. Tòa án Nhân dân thành phố Huế, Thống kê tình hình thụ lý và giải quyết các vụ tranh chấp nợ hụi từ 2007 đến quý I năm 2009 Khoa Luật trường Đại học Khoa học Huế, Pháp luật Việt Nam Đại cương. Đoàn Đức Lương, Pháp luật Hợp đồng, Tài liệu học tập Luật Dân sự, Trường Đại học Khoa học Huế. Nguyễn Sơn Hải, Hợp đồng vay tài sản, một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, Trường Đại học Khoa học Huế. Nguyễn Thị Xuân, Tập bài giảng Luật Hình sự, Trường Đại học Khoa học Huế. Diễn đàn Ngân hàng ngày 3/1/2008, Tín dụng là gì? Trần Văn Biên, Mấy ý kiến góp ý cho các quy định của dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về Hợp đồng vay tài sản, Viện nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 1/2005. Việt Nam net ngày 19/5/2005, Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự, Việt Báo ngày 6/5/2005, Thông qua Bộ luật Dân sự. Việt Báo ngày 6/5/2005, Hụi, họ: Cần quy định rõ ràng, cụ thể. Hoàng Khương, Thâm nhập thế giới hụi: Ai bảo vệ quyền lợi người chơi hụi, Báo Tuổi trẻ điện tử, ngày 5/2/2007. Báo Sài Gòn giải phóng ngày 19/12/2006, Nghị định chính phủ về hụi, họ - Chốt chặn pháp lý cần thiết. Phương Anh, Chơi hụi, họ ở Việt Nam, Đài ACTD ngày 12/12/2006. Như Trang, Nhà nước sẽ bảo vệ việc chơi hụi, Vnexpress.net ngày 17/2/2005 Bá Tú, Nghị định về họ hụi, biêu, phường, Thông tin Pháp luật dân sự ngày 19/1/2008 Mỹ Thiện, Không quay lưng lại với hụi, Sài Gòn tiếp thị số 18/2005 Đồi Đông - Lê Hoa, Khi công nhân mê... hụi, Vietnamnet.vn ngày 28/2/2009. Thiên Bảo, Bấp bênh chơi hụi, Đời sống Pháp luật ngày 18/9/2006. Xã Luận ngày 24/11/2007, Chơi hụi có ngày “bại xụi”. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNGUYEN DINH GIAP - HUI HO BIEU PHUONG.doc
Tài liệu liên quan