Luận văn Khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An

Chương 1: BỆNH KINH NGHIỆM Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ LONG AN - BẢN CHẤT, BIỂU HIỆN VÀ NGUYÊN NHÂN1.1. Bản chất và những biểu hiện chủ yếu của bệnh kinh nghiệm 1.1.1. Bản chất của bệnh kinh nghiệm 1.1.2. Những biểu hiệu chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An 1.2. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Long An 1.2.1. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cũng như trình độ văn hóa và khoa học còn thấp ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 1.2.2. Sự yếu kém về trình độ lý luận, sự thiếu ý thức phấn đấu, học tập rèn luyện vươn lên của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An 1.2.3. Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý nông dân 1.2.4. Những hạn chế của công tác đào tạo cán bộ và chính sách cán bộ đối với cấp cơ sở Long An Chương 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TỪNG BƯỚC KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ LONG AN 2.1. Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tạo nền tảng biến đổi về kinh tế - xã hội nông thôn và nâng cao trình độ văn hóa khoa học kỹ thuật, cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An 2.2. Từng bước nâng cao trình độ lý luận và tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng 2.3. Tăng cường tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An 2.4 Tiếp tục đổi mới chính sách cán bộ cấp cơ sở, đồng thời khuyến khích động viên họ tích cực phấn đấu học tập, rèn luyện vươn lên về mọi mặt KẾT LUẬN

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 6781 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o điều và trong chỉ đạo thực tiễn. Như chúng ta đã biết, kinh nghiệm được nảy sinh một cách trực tiếp từ một thực tiễn cụ thể, một hoàn cảnh cục bộ, riêng biệt. Vì vậy bên cạnh những ưu điểm, kinh nghiệm nói chung còn rời rạc, chắp vá, thiếu tính hệ thống trong nhiều trường hợp chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên. Cho nên, chỉ trên cơ sở của tổng kết kinh nghiệm thực tiễn chúng ta mới thấy được những ưu điểm của kinh nghiệm đồng thời phát hiện được những hạn chế của nó; mới có căn cứ để không ngừng xem xét lại bổ sung sửa đổi chủ trương, chính sách cũ, có cơ sở để không mắc phải những sai lầm đã có góp phần định hướng mới cho hoạt động tổ chức thực tiễn tiếp theo. Như vậy, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn giúp chúng ta không bị dừng lại ở những kinh nghiệm cụ thể, cá biệt, không bị trói buộc vào một thực tiễn cụ thể hay vào những tình huống cá biệt với những cách thức, phương pháp hành động cũ. Qua đây chúng ta có thể thấy, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn có tác dụng to lớn như thế nào trong việc khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn có hiệu quả thì phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau: - Trước hết phải có tính khách quan. Đây là yêu cầu cơ bản nhất của công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Bởi lẽ, kết quả của việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phải được dùng làm căn cứ cho việc hoạch định cũng như xây dựng chủ trương, đường lối chính sách để tổ chức thực tiễn tiếp theo. Nếu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn thiếu khách quan thì việc xây dựng chương trình hành động hoặc cụ thể hóa đường lối, chính sách của cấp trên sẽ bị hoặc bệnh kinh nghiệm hoặc bệnh chủ quan duy ý chí chi phối. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phải xác định tầm quan trọng của việc tổng kết kinh nghiệm, phải phân tích sâu sắc nguyên nhân của các tình huống có liên quan trực tiếp đến người lãnh đạo hoặc cấp lãnh đạo. Muốn tổng kết kinh nghiệm được tốt, cần phải có thái độ trung thực thẳng thắn tôn trọng sự thật, phải dân chủ, lắng nghe được nhiều ý kiến, khuyến khích tranh luận thật sự trên cơ sở có điều tra nghiên cứu. Nếu thiếu trung thực, thiếu trình độ hiểu biết, thiếu tầm nhìn, thiếu tranh luận, thiếu nhạy cảm thì khó tổng kết sâu sắc được kinh nghiệm của chính đơn vị mình, bản thân mình. Cần tổng kết những mặt tốt và những mặt khuyết điểm sai lầm, nêu ra cả những kinh nghiệm thất bại ở cơ sở mình. Phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dù là sự thật đáng buồn nhất đi nữa thì mới học được cách tiến lên như Lênin đã dạy. Qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, mỗi người sẽ trưởng thành về trình độ và phương pháp công tác. Tổng kết và học tập kinh nghiệm là "thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới" [48, tr. 243] nhằm khắc phục được bệnh kinh nghiệm và bệnh chủ quan. Đồng thời thông qua đó mà tạo ra năng lực tư duy nhất định cho họ. Với ý nghĩa như vậy, hoạt động lãnh đạo và quản lý được tổng kết, nâng lên thành bài học kinh nghiệm có tính lý luận là một trường học thật sự để rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng, cán bộ lãnh đạo quản lý nói chung. Vấn đề quan trọng trong tổng kết kinh nghiệm không phải là nắm lấy những sự kiện riêng lẻ, mặc dù là có thật mà phải nắm lấy toàn bộ các sự kiện trong mối liên hệ chính thể giữa chúng, phải biết phân tích chúng một cách khách quan, khoa học. Lênin cũng đã có ý kiến cho rằng "Các hiện tượng trong đời sống xã hội cực kỳ phức tạp, nên bao giờ người ta cũng có thể tìm được, với một số lượng bao nhiêu cũng có, những ví dụ hoặc tài liệu lẻ tẻ để chứng minh cho bất cứ một "luận điểm nào" [40, tr. 388]. Chính vì vậy, yêu cầu khách quan đòi hỏi những người làm công tác chỉ đạo và thực hiện tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phải có tấm lòng trung thực. Trung thực không chỉ là tiêu chuẩn của đạo đức, của nhân cách mà còn là điều kiện không thể thiếu để hình thành thái độ phê phán và tự phê phán, tôn trọng sự thật, đánh giá đúng sự thật. Chỉ với tấm lòng trung thực dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật thì mới đảm bảo tính khách quan trong tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Cho nên không được lấy ý đồ có sẵn để áp đặt cho việc tổng kết kinh nghiệm, không được lấy việc tổng kết kinh nghiệm để chứng minh cho ý muốn chủ quan của mình. Phải tôn trọng kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, dù kết quả có trái với ý muốn của người lãnh đạo thậm chí trái với đường lối hiện có. Cần phải khắc phục tình trạng là khi phân tích, đánh giá tình hình hoặc là chỉ đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan, hoặc chỉ đổ lỗi cho những thiếu sót, khuyết điểm chủ quan. - Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn còn đòi hỏi phải có tính khái quát sâu sắc. Đây là yêu cầu thứ hai quan trọng không thể thiếu được trong công tác tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn. Để khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm có hiệu quả cần thực hiện triệt để yêu cầu này. Trước đây, những kết luận được rút ra, sau khi các lãnh đạo ở cơ sở Long An tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương chưa có tính khái quát cao. Chẳng hạn, trong tổng kết kinh nghiệm thực tiễn thường nói đến nguyên nhân thắng lợi hay nguyên nhân của tồn tại một cách rất chung chung, đặc biệt là khi đề cập đến nguyên nhân chủ quan. Hầu hết lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Long An khi phân tích nguyên nhân sai lầm, hạn chế v.v... thì họ cố tình tránh né. Nếu khái quát thực tiễn không trúng và chưa đến tầm khái quát thì chúng ta sẽ mãi mãi bị bệnh kinh nghiệm níu kéo, từ đó tổng kết kinh nghiệm thực tiễn không thực hiện được vai trò cũng như mục đích của mình. Để tổng kết được kinh nghiệm thực tiễn đúng và rút ra được những kết luận có tính khái quát cần phải có lý luận, nghĩa là bản thân việc tổng kết kinh nghiệm đã đòi hỏi phải có một trình độ lý luận nhất định ở những người tham gia tổng kết. Tính khái quát cao trong tổng kết thực tiễn được thể hiện ở chỗ, qua phân tích, khái quát các sự kiện thực tế phải rút ra được những vấn đề có tính quy luật, tức là phải nắm được các mối quan hệ bản chất nhất có giá trị cho chỉ đạo tổ chức thực tiễn tiếp theo cũng như cho việc bổ sung, hoàn thiện chính sách. Trên cơ sở đó mới khẳng định được những quan điểm cơ bản nhất để chỉ đạo hoạt động thực tiễn, góp phần định hướng, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách. Những kết luận được rút ra từ tổng kết kinh nghiệm thực tiễn có tính khái quát cao là những kết luận phải có tính phổ biến, điển hình và có giá trị thực tiễn cao, tức là phải có tác dụng định hướng, dẫn đường, chỉ đạo hoạt động thực tiễn đối với cơ sở mình không chỉ trước mắt mà còn cho giai đoạn tiếp theo. Tất nhiên, tính khái quát của những kết luận cụ thể được rút ra, được giới hạn bởi phạm vi và quy mô mà cấp cơ sở tiến hành tổng kết. Tùy thuộc vào cấp độ và quy mô của từng vấn đề tổng kết mà những kết luận được rút ra sẽ có tính khái quát và phổ biến khác nhau. Tuy nhiên, dù ở cấp độ nào, tính khái quát của những kết luận rút ra cũng phải thể hiện được tính chất điển hình, phổ biến của cái cần tổng kết và có giá trị chỉ đạo hoạt động thực tiễn tiếp theo cũng như phát huy vai trò định hướng. Điều này đòi hỏi việc lựa chọn vấn đề phải đúng và trúng. Để nâng cao năng lực khái quát thực tiễn, đòi hỏi những người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở khi tham gia tổng kết thì phải không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ lý luận, nâng cao năng lực tư duy, trau dồi phương pháp tư duy biện chứng duy vật, rèn luyện khả năng phân tích đánh giá, tổng hợp, khái quát v.v.... - Trong công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phải đạt yêu cầu thứ ba là tính mục đích đúng đắn, phải thực hiện vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ sở mình phụ trách. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phải phục vụ cho những mục đích đúng đắn là phát triển kinh tế - xã hội địa phương chứ không phải phục vụ cho những ý đồ không trong sáng, lợi ích vị kỷ của một nhóm người hay một cá nhân nào ở cơ sở cũng như cấp trên. Thực tế cho thấy nhiều Chủ tịch, bí thư cấp xã ở các huyện Tân Thạnh, Đức Huệ, Bến Lức, Tân Trụ, v.v... vì chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, lối sống buông thả mắc bệnh thành tích v.v... nên đã dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tổ chức thực tiễn, cuối cùng đội ngũ cán bộ chủ chốt này bị kỷ luật. Cho nên, mọi việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phải được định hướng bởi, tính mục đích đúng đắn. Điều này đòi hỏi cấp ủy cơ sở phải tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác này, đồng thời phải hình thành thái độ khoa học đối với công tác này. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn giúp cho cấp ủy cơ sở lãnh đạo việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của cấp trên một cách đúng đắn phục vụ cho sự phát triển ở cơ sở chứ không phải là tổng kết là để có tổng kết. Cho nên phải coi việc tổng kết như là một mắt khâu quan trọng, một nhiệm vụ tất yếu trong việc lãnh đạo của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân cấp cơ sở. Tổng kết kinh nghiệm cũng là đối chiếu, so sánh đường lối, chủ trương chính sách của cấp trên đã được cụ thể hóa và thực hiện ở địa phương của mình đã phù hợp chưa có gì chưa phù hợp. Trên cơ sở đó, góp phần bổ sung và kiến nghị đối với cấp trên về đường lối, chủ trương, chính sách đối với cấp cơ sở sao cho phù hợp với điều kiện từng khu vực, từng vùng. Những yêu cầu trên là những yêu cầu cơ bản có tính nguyên tắc của quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Chúng gắn bó chặt chẽ với nhau. Quán triệt và thực hiện tốt những yêu cầu này thì công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mới đạt được hiệu quả mong muốn và mục đích góp phần chỉ đạo thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện chủ trương chính sách, khắc phục bệnh kinh nghiệm, cũng như bệnh giáo điều v.v... Trên cơ sở định hướng đúng đắn của Đảng mà các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở phải coi trọng công tác tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực tiễn, phải hiểu đây không phải là việc riêng của cấp ủy hay của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, Bí thư Đảng ủy xã, mà là công việc thường xuyên của tất cả các tổ chức trong cấp cơ sở dưới sự lãnh đạo của cấp ủy; đồng thời phải có sự kiểm tra, đánh giá khen thưởng, kỷ luật công minh đối với việc thực hiện công tác ở cơ sở, và phải có kinh phí cho việc thực hiện công tác này. Phải nâng cao năng lực tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, vì nếu thiếu năng lực tổng kết kinh nghiệm thực tiễn một cách khoa học thì không thể tiến hành công việc này có kết quả. Muốn vậy, mỗi cán bộ phải không ngừng học tập nâng cao năng lực tư duy khoa học để có khả năng nắm bắt, phân tích, khái quát những vấn đề thực tiễn đúng và trúng. Mặt khác, cần phải xây dựng và hoàn thiện quy trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn theo những yêu cầu khách quan của nó và phải quán triệt tới từng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở. Quy trình này có thể bao gồm những bước cơ bản sau: + Thứ nhất, là lựa chọn vấn đề xác định mục đích, phạm vi tổng kết. Đây là yêu cầu quan trọng trước hết, chi phối toàn bộ quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Nếu không xác định chính xác vấn đề, mục đích, phạm vi tổng kết thì khó có thể đạt được hiệu quả về mặt lý luận cũng như giúp cho công tác chỉ đạo thực tiễn. Chọn vấn đề đúng và trúng thì mới bảo đảm được tính mục đích, tính thực tiễn của vấn đề tổng kết. Công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phải hướng vào những vấn đề cấp bách mà thực tiễn cuộc sống ở địa phương, chủ trương, chính sách đang đòi hỏi phải có lời giải đáp đúng đắn. + Thứ hai, xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức lực lượng tổng kết. Bước này giúp cho tổng kết được tiến hành khoa học chặt chẽ, tránh rơi vào tùy tiện, hời hợt, thậm chí "nửa vời". Đối với cơ sở phải có sự tham gia của tất cả các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, các trưởng ấp, các đội trưởng đội sản xuất và một số đại biểu được nhân dân bầu cử ra. Đảng ủy xã, phường, thị trấn phải trực tiếp chỉ đạo công tác này cả về mặt xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức lực lượng tổng kết. + Thứ ba, tiến hành điều tra, thu thập tư liệu, khảo sát thực tế. Bước này đòi hỏi người tổng kết phải thu thập được đầy đủ, chính xác những tư liệu, dữ kiện, những con số v.v... Liên quan tới vấn đề đã chọn. Các tư liệu, dữ kiện càng đầy đủ, chính xác bao nhiêu thì càng có cơ sở để rút ra những kết luận đúng đắn bấy nhiêu. Ở bước này, việc khảo sát thực tế đóng vai trò rất quan trọng. Để có những tư liệu, dữ kiện chính xác, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở có thể dùng các biện pháp khác như phát phiếu thăm dò điều tra xã hội học, thống kê, phỏng vấn trực tiếp v.v... + Thứ tư, là xử lý, phân tích tư liệu, dữ kiện, rút ra kết luận và bài học. Bước này đòi hỏi người tổng kết phải biết vận dụng sáng tạo phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng như các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu v.v... để rút ra những kết luận chính xác, có tính khái quát cao tức là có tính điển hình, tính phổ biến, từ những tư liệu, dữ kiện đã có. Nếu nâng cao đặc tính khái quát của những kết luận được rút ra thì sẽ càng có điều kiện để khắc phục ảnh hưởng của bệnh kinh nghiệm. + Thứ năm, là tổ chức, hướng dẫn vận dụng kinh nghiệm đã được rút ra. Đây là bước đối chiếu những kết luận được rút ra của đường lối, chủ trương, chính sách để kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khi thực hiện cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của cấp trên phù hợp với điều kiện ở cơ sở. Đồng thời, mỗi cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải tự mình vận dụng những bài học kinh nghiệm được rút ra, đồng thời tổ chức, hướng dẫn quần chúng học các bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại địa phương. Để làm tốt công tác này nên tổ chức tham quan, học hỏi giữa các ấp, giữa các xã, phường với nhau. Tất nhiên, trong toàn bộ các bước này đều phải quán triệt tốt những yêu cầu mà chúng ta đã đề cập ở trên. Nhưng cần lưu ý rằng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là một quá trình không có giới hạn. Bởi lẽ, thực tiễn cuộc sống luôn luôn vận động và phát triển. Để đẩy mạnh công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn thì cũng phải cần tăng cường đầu tư về kinh phí, phương tiện và tạo điều kiện thích đáng cho tổng kết. Không có đầu tư tương xứng với nội dung, phạm vi tổng kết thì không thể đạt hiệu quả mong muốn. Phải có cơ chế, chính sách thỏa đáng nhằm huy động, lôi cuốn đội ngũ cán bộ ở cơ sở vào công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Đồng thời, phải tạo ra sự kết hợp chặt chẽ giữa đội ngũ cán bộ có lý luận và cán bộ hoạt động thực tiễn; giữa các cấp, các tổ chức nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình tổng kết. Phải có sự chỉ đạo lãnh đạo thống nhất từ cấp ủy cơ sở xuống tận ấp. Lãnh đạo các cấp trên cần phải quan tâm thiết thực đến công tác này ở cấp cơ sở. Quán triệt tốt các yêu cầu và các bước đi trong tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là điều kiện quan trọng để rút ra được những kết luận đúng góp phần khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Long An. 2.4. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ, ĐỒNG THỜI KHUYẾN KHÍCH ĐỘNG VIÊN HỌ TÍCH CỰC PHẤN ĐẤU HỌC TẬP, RÈN LUYỆN VƯƠN LÊN VỀ MỌI MẶT Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là lực lượng nòng cốt của các tổ chức trong hệ thống bộ máy ở cơ sở trực tiếp lãnh đạo, quản lý và chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội ở cơ sở. Đảng, Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến đội ngũ này. Thực hiện đường lối của Đảng, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Long An rất quan tâm đến đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nước ta nói chung ở Long An nói riêng đã đáp ứng được yêu cầu cách mạng trong từng giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch, tuyển chọn, tạo nguồn và chính sách cán bộ đối với cấp cơ sở, đồng thời khuyến khích đội ngũ này tích cực, phấn đấu, học tập, rèn luyện vươn lên về mọi mặt. "Muốn có đủ cán bộ có chất lượng để chủ động đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ thì vấn đề cơ bản là phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu trước mắt và lâu dài, không phải chỉ 5 năm, 10 năm mà còn xa hơn nữa. Đây là khâu trung tâm của toàn bộ công tác cán bộ" [8, tr. 111]. Quy hoạch cán bộ là một nội dung quan trọng trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) đã xác định: "Quy hoạch cán bộ là nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài" [16, tr. 82]. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu xây dựng cán bộ chủ chốt có chất lượng, đảm bảo tính kế thừa và liên tục trong cán bộ chủ chốt nói chung, cấp cơ sở nói riêng. Để quy hoạch cán bộ tốt thì phải xác định nguồn và tạo nguồn để quy hoạch cán bộ. Quy hoạch cán bộ phải có nguồn cán bộ. Nếu không có nguồn cán bộ, công tác quy hoạch cán bộ vẫn chỉ là chắp vá, thụ động. Cần tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch cán bộ; không thể quy hoạch cán bộ như trước đây - chỉ là việc lựa chọn quy hoạch một số cán bộ dự bị để bổ sung, thay thế cho những cán bộ thôi giữ chức vụ trong từng nhiệm kỳ của cấp ủy và từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Quy hoạch cán bộ cơ sở phải đảm bảo chuẩn bị được đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đồng bộ, đông đảo, đáp ứng được những yêu cầu khác nhau của sự nghiệp cách mạng có đức có tài, có đủ trình độ và năng lực lãnh đạo nhân dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Có xây dựng và tạo được nguồn cán bộ cho trước mắt và lâu dài trên cơ sở rà soát, đánh giá, xác định chính xác thì mới có kế hoạch cụ thể, phù hợp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mới hình thành được đội ngũ cán bộ có phẩm chất, có năng lực. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác mới có thể được ngăn ngừa và khắc phục có hiệu quả. Thực tế ở tỉnh Long An nhiều năm qua cho thấy, nguồn cán bộ ở cơ sở đủ điều kiện, tiêu chuẩn để thay thế khi cần thiết còn hẫng hụt nhiều. Bởi lẽ, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An được đưa đi đào tạo ở các trường trong tỉnh cũng nhiều nhưng đội ngũ dự nguồn không có. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ trẻ chưa được đào tạo một cách cơ bản, và chưa được rèn luyện trong thực tiễn v.v... Chính vì vậy khi gặp vấn đề khó khăn thường hoang mang, dao động, thậm chí xin từ chức, chẳng hạn: Có một cán bộ trẻ chưa được đào tạo khi được bầu vào cấp ủy với cương vị Bí thư Đảng uỷ xã thì sau thời gian ngắn công tác tỏ ra không đảm đương nổi đành xin rút (xã Vĩnh công, huyện Châu Thành); có nơi thiếu cán bộ nên có cán bộ cấp huyện nghỉ chế độ tại địa phương lại được trúng cử Chủ tịch UBND xã. Do trình độ văn hóa thấp lại mắc bệnh kinh nghiệm nên đồng chí cán bộ này đã không hoàn thành nhiệm vụ v.v... Thực tế đó cho thấy, ở Long An chưa tạo được nguồn dự trữ cán bộ cho cấp cơ sở. Vì vậy, xác định nguồn và tạo nguồn cán bộ để quy hoạch là một đòi hỏi cấp bách đối với Long An hiện nay. Long An cần có kế hoạch tìm nguồn cán bộ ngay tại địa phương. Chọn nguồn cán bộ cho quy hoạch phải theo hai hướng ngắn hạn và dài hạn. Nguồn quy hoạch ngắn hạn là những cán bộ, nhân viên trong mỗi ngành, mỗi tổ chức ở xã, ấp có triển vọng phát triển, những người được thử thách và trưởng thành trong quân ngũ, từ phong trào lao động sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đó là những người ít nhiều tích lũy được vốn sống, kinh nghiệm trong công tác, quản lý, sản xuất và vận động quần chúng ở cơ sở. Trách nhiệm tạo nguồn cán bộ ngắn hạn trước hết thuộc về bản thân người cán bộ chủ chốt trong từng tổ chức cơ sở. Mỗi cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải coi việc phát hiện, giới thiệu tìm người thay thế chức vụ của mình là một trong những nhiệm vụ bắt buộc. Nghĩa là mỗi chức danh chủ chốt tìm 3 đối tượng để được đào tạo bồi dưỡng cơ bản để sẵn sàng thay thế. Nguồn quy hoạch đào tạo dài hạn cán bộ cấp cơ sở Long An hiện nay là phải chọn chính con em nông dân tại địa phương đang học ở các trường phổ thông trung học, trường Cao đẳng sư phạm v.v... Đây là nguồn đông đảo và cơ bản. Họ là những người trẻ có học vấn cơ bản, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương sâu nặng nghĩa tình. Trong lớp trẻ chú ý con em, các gia đình cách mạng, những người có công với nước. Hàng năm, cần phải đưa lực lượng trẻ đi đào tạo ở Trường Chính trị tỉnh hoặc tạo điều kiện giúp đỡ lực lượng này để các em học tập có hệ thống ở các trường khác như: Trường Cao đẳng sư phạm, trường Trung học y tế, Trung tâm giáo dục thường xuyên v.v... Chúng tôi nghĩ rằng, cán bộ cấp cơ sở là con em của nông dân ở địa phương sẽ có nhiều thuận lợi. Cuộc sống và gia đình của họ luôn gắn liền với bà con lối xóm, với họ hàng ở nông thôn. Họ không "xa lạ" với nhân dân, nhân dân hiểu rất rõ họ. Nếu phát huy được trí tuệ tập thể, có sự tham gia rộng rãi, tích cực của cán bộ, đảng viên và quần chúng thì tuyển chọn cán bộ tạo nguồn có chất lượng và có tác dụng tích cực. Ngoài việc hình thành cơ chế tạo nguồn quy hoạch cán bộ đưa đi đào tạo bồi dưỡng ở các trường trong tỉnh thì chúng tôi nghĩ rằng Tỉnh ủy, ủy ban Nhân dân tỉnh Long An phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ cấp cơ sở. Chính sách đãi ngộ cán bộ cấp cơ sở phải phù hợp với quan điểm của Đảng và điều kiện địa phương. Chính sách cán bộ chính là sự cụ thể hóa đường lối tổ chức của Đảng trong thời kỳ lịch sử nhất định. Những quy định cụ thể của chính sách cán bộ làm chuẩn mực cho các hoạt động công tác cán bộ, nó là điểm xuất phát và cũng là đích cuối cùng của công tác cán bộ. Có chính sách cán bộ đúng và tổ chức thực hiện tốt sẽ là một động lực, phát huy sự nỗ lực của cán bộ đem tài năng cống hiến cho sự nghiệp chung. Vì vậy, nhận thức sâu sắc và thực hiện thắng lợi chính sách cán bộ của Đảng là vấn đề trọng yếu để làm tốt công tác cán bộ. Vai trò của cán bộ được phát huy đầy đủ và lâu dài hay không tùy thuộc vào chính sách đối với cán bộ như thế nào. Bác Hồ dạy: "Cách đối với cán bộ có khéo, có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc vấn đề cán bộ quyết định mọi việc" [48, tr. 284]. Chính sách cán bộ có nhiều nội dung quan hệ mật thiết với nhau như chính sách đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng, chăm sóc, đời sống vật chất tinh thần của cán bộ v.v... Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách cán bộ nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng, tuy nhiên, trước tình hình và nhiệm vụ mới, nhiều vấn đề về chính sách cán bộ đòi hỏi phải được khẩn trương nghiên cứu và giải quyết. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đã chỉ rõ, cần đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý, về đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ. Thực hiện chính sách cán bộ phải đồng bộ, trong đó chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần có ý nghĩa rất quan trọng. Nó quyết định trực tiếp đến tinh thần và chất lượng công tác của cán bộ đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Nó góp phần thu hút những người thực sự có năng lực cống hiến tài năng cho đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phải biết yêu thương cán bộ, nhưng yêu thương không nghĩa là nuông chiều, thả mặc mà chính là ngoài việc theo dõi giúp đỡ cán bộ học tập, tiến bộ còn phải giúp cán bộ giải quyết những khó khăn trong sinh hoạt, tạo điều kiện sinh sống đầy đủ để làm việc, khi ốm đau được chăm nom, tuỳ theo hoàn ảnh mà giúp gia đình họ khỏi khốn quẫn. Người cho rằng: "Những điều đó rất quan hệ với tinh thần cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng" [48, tr. 277; 283]. Nhờ có chính sách đúng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nên Đảng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến Cơ sở trung thành với sự nghiệp cách mạng, vượt qua nhiều gian khó, hăng hái, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần cán bộ còn nhiều bất hợp lý, còn thiếu công bằng, chưa thực hiện, chưa thống nhất và đồng bộ. Vì vậy chưa khuyến khích được cán bộ làm việc có hiệu quả nhất là những cán bộ công tác ở cơ sở, ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Do đó, một mặt chưa tạo được động lực để tập hợp, thu hút nhân tài cũng như sự phấn đấu của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, mặt khác, sự chênh lệch khá lớn về thu nhập làm cho nguy cơ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An cũng có sự phân hóa giàu nghèo, một trong những yếu tố dẫn đến mất đoàn kết. Đối với cấp xã Nghị định 09/1998-NĐ/CP thay cho Nghị dịnh 50/CP của Chính phủ tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng thực hiện việc chi trả phụ cấp cho cán bộ cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, còn mang tính bình quân, mức phụ cấp của nhiều đối tượng cũng chưa phù hợp..., nên chưa thật sự khuyến khích được cán bộ công tác ở cơ sở tự phấn đấu, học tập, rèn luyện vươn lên về mọi mặt. Chính sách, chế độ đối với cán bộ cấp cơ sở có ý nghĩa rất lớn, nếu giải quyết không phù hợp sẽ dẫn đến tiêu cực, cán bộ cơ sở thiếu hăng hái; làm việc "cầm chừng" cho xong nghĩa vụ. Cán bộ đang công tác ở cơ sở nhưng tâm dạ hướng đi nơi khác, muốn chuyển đến nơi có chế độ tốt hơn và khi có điều kiện thì sẵn sàng rời cơ sở. Hơn nữa, do chế độ chưa thỏa đáng với lượng công sức mà cán bộ cơ sở bỏ ra, trong khi cuộc sống đời thường còn nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy. Hậu quả là cán bộ sẽ làm mất tín nhiệm trước dân, và Đảng sẽ mất dần cán bộ.Vì vậy, đổi mới cơ bản chính sách cán bộ phải đảm bảo được lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ cấp cơ sở. Khen thưởng kịp thời, đúng mức những cán bộ có thành tích cùng với việc giáo dục lý tưởng, tinh thần trách nhiệm, của cán bộ; động viên nhiệt tình hăng hái của họ để góp phần khắc phục lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền hiện nay và củng cố đoàn kết thống nhất trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và trong Đảng. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ cấp cơ sở phù hợp với thực tế về thực chất là biết đối xử với con người có tình, có nghĩa và góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần đối với cán bộ cấp cơ sở ở Long An hiện nay cần thấu suốt những quan điểm sau: - Chính sách đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần phải phù hợp với vai trò vị trí của cán bộ cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ này có vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt, hoạt động đặc thù của họ tuy không trực tiếp nguy hiểm đến tính mạng nhưng gặp không ít khó khăn, vất vả. Họ chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân về những quyết định của mình đối với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Long An là một tỉnh có ba vùng rõ rệt vùng Đồng Tháp Mười mùa khô nắng cháy da người, mùa mưa thì nước lũ tràn về, giao thông kém phát triển. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đây đi lại gặp nhiều khó khăn. Vùng thứ hai là vùng hạ mạng lướng giao thông kém phát triển, cán bộ chủ chốt ở những xã vùng này đến với dân phải đi bộ hàng giờ thậm chí cả ngày. Vùng thứ ba là vùng thượng gồm những xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, trong khi mức phụ cấp và sinh hoạt phí chưa tương xứng với giá trị lao động của họ. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách chăm lo đời sống và điều kiện đi lại, làm việc để họ hoàn thành nhiệm vụ. - Chính sách đãi ngộ vật chất đối với cán bộ chủ chốt, cấp cơ sở phải quán triệt quan điểm mà Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) đã nêu: "Tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển; góp phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu suất công tác. Bảo đảm giá trị thực của tiền lương và từng bước cải thiện theo sự phát triển của kinh tế - xã hội [18, tr. 42-43]. - Trên cơ sở phát triển các ngành nghề kinh tế để tạo nguồn thu, cùng với việc tinh giảm bộ máy, bố trí cán bộ kiêm nhiệm để tăng thêm phần tự cấp ở địa phương. Mức phụ cấp cho cán bộ cấp xã không chỉ dựa vào tính chất đặc biệt, tầm quan trọng của từng loại xã mà còn tính đến trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, đảm bảo mức sống của cán bộ không tách rời thực tế ở cơ sở cũng như giữa cán bộ với nhân dân. Trên những định hướng đó, Long An cần phải tập trung đổi mới, một số chính sách cụ thể sau: - Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cần nghiên cứu và ban hành chế độ phụ cấp đặc biệt cho các xã ở vùng Đồng Tháp Mười, vùng sâu, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng. Có như vậy mới có thể kêu gọi, động viên được cán bộ về công tác ở những nơi đó. Đồng thời động viên, khuyến khích được họ phấn đấu rèn luyện vươn lên về mọi mặt. - Có chế độ bảo trợ kinh phí về học tập hợp lý hơn giữa cán bộ đi học tập trung với học tại chức, học ở huyện, ở tỉnh, ở khu vực và ở xa thành phố v.v... để cán bộ đi học không thiệt thòi về kinh tế, có lợi nhiều hơn về kiến thức. - Trong thời đại bùng nổ thông tin và thông tin được coi là dạng quyền lực, người cán bộ ở cơ sở cần có chế độ cung cấp thông tin một cách thường xuyên, kịp thời. Ngoài các công văn, chỉ thị cấp trên, còn có chế độ được cung cấp tài liệu sinh hoạt Đảng, thông tin tư liệu của các ngành, các cơ quan của tỉnh, huyện, các tạp chí và sách báo thiết yếu khác. - Có chính sách tạo điều kiện cho cán bộ xã phát triển kinh tế gia đình, làm giàu chính đáng. Xóa đói giảm nghèo, xóa nghèo làm giàu. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn hiện nay đang đòi hỏi cán bộ và gia đình cán bộ cấp cơ sở phải biết làm kinh tế có hiệu quả, phải biết vươn lên làm giàu chính đáng. Điều đó vừa đảm bảo cho cán bộ thêm yên tâm công tác, gắn bó hơn với cơ sở, với xóm làng; vừa nêu gương và gây được uy tín đối với đảng viên và nhân dân trong xã. Đồng thời, từ kinh nghiệm làm ăn của gia đình mình, sẽ gợi mở cho cán bộ cấp cơ sở có những chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế nông thôn của Đảng. Từ chỗ khai thác tiềm năng lao động, sản xuất, kinh doanh của gia đình mà có kinh nghiệm khai thác tiềm năng kinh tế, thế mạnh của địa phương có hiệu quả, tạo ra nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân ở địa phương. Trong tình hình hiện nay cần có những chính sách cụ thể như: + Chính sách hỗ trợ vốn, ngoài vốn xóa đói giảm nghèo cho nhân dân nói chung, cần có chính sách cho vay ưu đãi đối với cán bộ cấp cơ sở giúp gia đình họ tiết kiệm, bảo toàn vốn và nâng cao hiệu quả kinh tế. + Chính sách hỗ trợ về chi phí và kỹ năng ứng dụng khoa học, kỹ thuật, tiếp nhận công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp như: Cải tạo, sử dụng đất, giống cây trồng,vật nuôi mới, đem lại năng suất và chất lượng cao, kỹ thuật thâm canh, công nghệ bảo quản v.v... Để thực hiện cuộc sống giúp cán bộ cơ sở phát triển kinh tế gia đình, phải tăng cường đưa thông tin kỹ thuật, khoa học về cơ sở, đẩy mạnh hoạt động của các tổ công tác khuyến nông, lồng ghép nhiều chương trình kỹ thuật sản xuất ở địa phương... không tính lãi hoặc thu sản phẩm trong một thời gian nhất định đối với những hộ sản xuất theo quy trình kỹ thuật mới và có chế độ tín dụng, thích hợp để các hộ đổi mới công cụ sản xuất, mua sắm, sử dụng công cụ tiên tiến. - Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Long An cần phải có chính sách và biện pháp thiết thực mở các lớp bổ túc văn hóa tại các huyện để phổ cập văn hóa phổ thông trung học cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, có chính sách hỗ trợ tạo điều kiện khuyến khích, động viên những cán bộ trẻ có trình độ, có tài có đức, tình nguyện về xã công tác; hoặc con em địa phương đi học ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp về công tác tại quê hương. - Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Long An phải có chỉ thị, quyết định đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được cử đi học tập trung hoặc tại chức được hưởng các chế độ hưởng nguyên lương hoặc trợ cấp theo chức danh, được hưởng tiền trợ cấp đi học theo quy định của tỉnh, đồng thời được hỗ trợ một phần kinh phí cho việc đi nghiên cứu, tham quan các địa phương khác để học tập kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý sản xuất kinh doanh để nâng cao thêm kiến thức và năng lực công tác. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vừa là cán bộ lãnh đạo, vừa là lao động chính của gia đình, vì thế ban tổ chức tỉnh ủy phải phối hợp cùng Trường Chính trị tỉnh chiêu sinh mở lớp đào tạo và bố trí thời gian học tập thích hợp theo mùa, theo vụ để tạo điều kiện cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở yên tâm học tập và cũng lo được kinh tế gia đình. - Cần phải có chính sách tiền lương cho cán bộ cấp cơ sở (thay tên gọi phụ cấp sinh hoạt phí). Cán bộ cấp cơ sở được tính và trả lương theo hệ thống thang bảng lương như cơ quan Nhà nước. Nghĩa là có lương cơ bản được xét duyệt nâng lương, để họ có điều kiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... - Đối với cán bộ được tăng cường từ trên xuống hoặc cán bộ tốt nghiệp Đại học về xã công tác cần có chính sách ưu đãi hợp lý, có quy định cụ thể rõ ràng. Chẳng hạn, quy định cán bộ về xã công tác là một nghĩa vụ bắt buộc; trên cơ sở luật lao động và những quy định khác của Nhà nước. Các địa phương cần định thời gian cán bộ về xã công tác ít nhất là mấy năm. Ngoài lương ra, có phụ cấp ưu đãi thêm là bao nhiêu; thời hạn nâng lương, nâng bậc được rút ngắn ra sao, thâm niên công tác được cộng thêm như thế nào; khi xong nghĩa vụ thì được ưu tiên lựa chọn, bố trí công tác ở đâu... Làm tốt điều này sẽ góp phần quan trọng khắc phục tình trạng "chảy chất xám" ở các xã trong tỉnh Long An về thành phố. Đây là một giải pháp vừa cấp bách vừa cụ thể và thiết thực cho nên trong quá trình tổ chức thực hiện thì Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân Long An phải tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện đến xã, tạo nên sự khép kín và nhất quán. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần từng bước khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Đồng thời với việc tiếp tục đổi mới chính sách cán bộ cấp cơ sở thì các cấp ủy Đảng, Chính quyền phải tăng cường động viên, khuyến khích đội ngũ này tích cực phấn đấu rèn luyện vươn lên về mọi mặt. Trên cơ sở đó mới từng bước khắc phục được bệnh kinh nghiệm ở họ. Bởi lẽ, thiếu sự chủ động, tích cực, sự tự phấn đấu, rèn luyện vươn lên của chính đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, chúng ta không bao giờ khắc phục được bệnh kinh nghiệm ở họ. Mọi giải pháp từ phía Đảng, Nhà nước, đoàn thể chỉ có tác dụng khi chính đội ngũ này quyết tâm phấn đấu tự khắc phục bệnh kinh nghiệm. Muốn vậy, chúng ta phải bằng các chính sách cán bộ cụ thể động viên, cổ vũ, khơi dậy được ở họ tình cảm, nhiệt tình cách mạng cũng như phẩm chất đạo đức, để họ dám vượt khó khăn, thiếu thốn ra sức học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận. Có như vậy, họ mới bớt mò mẫm, sự vụ, ỷ lại vào thói quen, vào kinh nghiệm trong tổ chức thực tiễn. Trên đây là một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An. Những giải pháp này phải được tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện trên thực tế mới đem lại hiệu quả thiết thực. Khắc phục bệnh kinh nghiệm là việc làm lâu dài, không thể ngày một ngày hai, nhưng thực hiện tốt những giải pháp trên là từng bước hiện thực hóa công việc này. KẾT LUẬN Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Long An trong những năm qua cho thấy, cùng với những căn bệnh khác đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở nói riêng đã mắc phải bệnh kinh nghiệm. Theo hướng tiếp cận tương đối có hệ thống cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn bệnh kinh nghiệm và tác hại to lớn của nó cả trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An là một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. Để từng bước khắc phục, ngăn ngừa có hiệu quả bệnh kinh nghiệm, toàn Đảng bộ cũng như mỗi cán bộ đảng viên ở Long An phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cũng như trình độ lý luận, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên, nhân dân Long An nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng; tăng cường tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực tiễn cũng như tiếp tục đổi mới chính sách cán bộ cấp cơ sở... có ý nghĩa quyết định cơ bản. Cuộc đấu tranh khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm phải được tiến hành một cách tích cực thường xuyên, liên tục, bền bỉ và gắn bó hữu cơ với quá trình đổi mới xã hội trên mọi lĩnh vực, đồng thời phải gắn liền với đấu tranh chống những ảnh hưởng độc hại của tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng phong kiến, bảo thủ, cục bộ địa phương, chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa cá nhân, thói ỷ lại, bệnh lười học tập v.v... Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước mà trong đó phương pháp tư duy biện chứng duy vật là nền tảng là điều kiện cốt yếu nhất để khắc phục, ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm có hiệu quả. Bệnh kinh nghiệm còn tồn tại, gây ảnh hưởng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng đến mức độ nào là tùy thuộc trước hết vào toàn Đảng bộ cũng như từng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An. Nếu mỗi cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Long An thường xuyên chăm lo nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, vững vàng về chính trị, mẫn cảm trước thực tiễn rèn luyện đạo đức của người cán bộ cách mạng, tiếp cận nhanh nhạy đúng với những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, có khả năng nhận thức và vận dụng những chủ trương, đường lối, chính sách đó vào địa bàn mình phụ trách thì bệnh kinh nghiệm sẽ từng bước bị hạn chế và đẩy lùi. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Long An đòi hỏi sự nỗ lực, sáng tạo rất cao của toàn Đảng bộ, toàn dân và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở Long An. Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Long An cần hướng sự lãnh đạo của mình vào việc xây dựng những điều kiện thuận lợi của tỉnh cho việc nâng cao trình độ về mọi mặt của đội ngũ cán bộ các cấp và phát huy được mọi tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ cũng như của nhân dân Long An để khắc phục, ngăn ngừa có hiệu quả bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Ngọc Anh (1999), "Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam", Triết học, (3), tr. 19-21. Hoàng Chí Bảo (1988), "Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận", Thông tin lý luận, (6), tr. 54-62. Nguyễn Đức Bình (1992), "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 5-15. Nguyễn Quang Du (1992), "Nâng cao dân trí nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (12), tr.37-38 và 41. Lê Duẩn (1976), Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Trần Sĩ Dương (1997), Tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay và phương hướng khắc phục (qua thực tế tỉnh Thái Bình), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa thông tin. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện hội nghị lần thứ 6 (lần 2) khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Long An (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ V, Nxb Long An. Đảng bộ tỉnh Long An (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VI, Nxb Long An. Đảng bộ tỉnh Long An (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VII, Nxb Long An. Đảng bộ huyện Tân Hưng (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ huyện Tân Hưng lần thứ II. Đảng bộ huyện Vĩnh Hưng (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ huyện Vĩnh Hưng lần thứ VIII. Đảng bộ huyện Mộc Hóa (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Mộc Hóa lần thứ VIII. Đảng bộ huyện Đức Huệ (2000), Báo cáo Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Đức Huệ lần thứ VIII. Trần Bạch Đằng (1996), Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu (1991), "Tư tưởng thủ cựu của Nho giáo, trước sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc", trong sách: Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Văn Hai (1997), Nâng cao năng lực tổ chức, thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (Qua thực tế tỉnh Long An), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Dương Phú Hiệp (1987), "Góp phần phân tích nguyên nhân của sự lạc hậu về nhận thức và sự yếu kém vận dụng các quy luật", Nghiên cứu lý luận, (6), tr. 19-25. Đỗ Trọng Hưng (1999), "Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quan niệm của Hồ Chí Minh", Triết học, (2), tr. 17-20. Vũ Nhật Khải (1996), "Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn mới", Nghiên cứu lý luận, (4), tr. 6-9. Nguyễn Văn Khiết (2000), Những biểu hiện đặc thù của tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. Vũ Khiêu (1971), "Nền sản xuất nhỏ Việt Nam và hậu quả của nó trong tâm lý dân tộc", Thông báo triết học, (22), tr. 62-102. Nguyễn Thế Kiệt (1996), "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Triết học, (6), tr. 9-11. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 9, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Long (1984), "Kinh nghiệm và lý luận", Nghiên cứu lý luận, (1)., tr. 33-37. Nguyễn Ngọc Long (1988), "Chống bệnh kinh nghiệm, giáo điều, đổi mới tư duy lý luận", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 34-38. Nguyễn Ngọc Long (1988), "Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận", Trong sách: Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội. C.Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Chí Mỳ (1990), Tư tưởng tiểu tư sản ở Việt Nam hiện nay. Những biểu biện tiêu cực đặc trưng và con đường khắc phục nó, Luận án Phó tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa (1988), "Về những khuyết điểm và yếu kém trong tư duy lý luận ở cán bộ ta", Trong sách: Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới, tư duy lý luận, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa (1988), "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta", Triết học, (2), tr. 21-26 Lê Hữu Nghĩa (1992), "Quan hệ giữa lý luận và chính trị", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 21-23. Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở cán bộ nước ta, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trần Văn Phòng (1993), "Vài suy nghĩ về tổng kết thực tiễn", Trong sách: Góp phần tìm hiểu một số vấn đề kinh tế - xã hội. Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Phòng (1997), "Đạo đức một bộ phận cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Thông tin lý luận, (6), tr. 9-12. Steptulin (1987), Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin. Hoàng Thị Xuân Thanh (1998), Nâng cao trình độ lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ đảng viên ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Thi (1988), "Thực trạng tư duy cán bộ đảng viên ta và căn nguyên của nó", Triết học, (4), tr. 11-14 và 19. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tỉnh ủy Long An (1996), Nghị quyết 05 về công tác cán bộ của Tỉnh Long An. Tỉnh ủy Long An (2000), Báo cáo số 114 BC/CT ngày 25/7/2000. Kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra nhiệm kỳ Đại hội VI (1996 - 2000). Tỉnh ủy Long An (2000), Chương trình hành động số 35 CTR/TU, Thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị. Tỉnh ủy Long An (1997), Chương trình hành động số 05 CT/TU Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỉnh ủy Long An (2000), Báo cáo số 01BC/NCKH ngày 9/5/2000 Kết quả khảo sát trình độ, kiến thức trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn. Lại Văn Toàn (1988), "Đổi mới tư duy lý luận, Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới", Triết học, (1), tr. 26-34. Nguyễn Đình Trãi (1999),"Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên Mác-Lênin ở các Trường Chính trị hiện nay", Triết học, (1), tr. 50-52. Đỗ Tư (1988), "Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận", Trong sách: Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội. Từ điển tiếng Việt (1997), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Huỳnh Khái Vinh (1999), "Xây dựng đạo đức lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát triển toàn diện con người", Thông tin lý luận, (3), tr. 3-5. Trần Quốc Vượng (1991), "Nho giáo và văn hóa Việt Nam", Trong sách: Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phụ lục 1 Điều kiện tự nhiên kinh tế Long An. - Diện tích tự nhiên: 4.44/8,6km2 chiếm 1,3% diện tích cả nước và 14,5% diện tích đồng bằng sông Cửu Long. - Dân số 1999: 1.306.202 người. - 13 huyện, 1 thị xã, 15 thị trấn, 6 phường, 162 xã. Có 57% diện tích nằm trong khu vực Đồng Tháp Mười 298.243 ha. - Có 138 km đường biên giới giáp Campuchia (có 19 xã biên giới). - 23 xã tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. - Cơ cấu kinh tế: 1996 2001 + Nông nghiệp: 55,4% 50,1% + Công nghiệp: 15,6% 21,4% + Dịch vụ: 29% 28,5% Nếu so với cả nước thì Long An là tỉnh còn mang nặng tính thuần nông và kém phát triển phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Cả nước năm 2000 cơ cấu kinh tế là: + Nông nghiệp: 24,3% + Công nghiệp: 36,6% + Dịch vụ: 39,1%. - 115/183 xã, phường chưa có chợ (62,84%). - 28/183 xã chưa có đường giao thông đến trung tâm xã (15,30%). (Theo số liệu UBND tỉnh Long An 5/2001). Phụ lục 2 VĂN HÓA, GIÁO DỤC, LAO ĐỘNG - Dân số lao động việc làm: + Dân số nông thôn chiếm: 1.006.000/1.306.202 người chiếm 77,81%. + Lao động: 775.000 người, trong đó ở nông thôn 650.000 người chiếm 83,87%. 15,6% lao động đã qua đào tạo. - 183/183 xã có điện thoại. - Diện nghèo theo điều tra năm 2000: 8,5% trên tổng số hộ. Trong đó nông thôn chiếm 87,6% có 27 xã nghèo. - Trình độ học vấn trong nhân dân: 46,8% cấp I; 25,8% cấp II; 8,6% cấp III. (Số liệu UBND tỉnh 5/2001). Phụ lục 3 Bảng tổng hợp trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch HĐND) Chức danh Tổng số Trình độ học vấn Trình độ chuyên môn Trình độ chính trị CI CII CIII TH CĐ ĐH Sơ cấp Trung cấp Cao cấp ĐH Bí thư 183 14 76 93 4 1 8 17 116 44 10 Chủ tịch UBND 183 4 62 117 12 6 5 29 137 16 1 Phó Chủ tịch UBND 183 5 76 102 14 1 2 82 100 1 Phó chủ tịch HĐND 180 9 79 92 11 3 2 85 97 1 Phụ lục 4 Bảng tổng hợp phân tích chất lượng cán bộ chủ chốt 140 xã ở 10 huyện Long An STT Các chỉ tiêu Bí thư Phó bí thư Chủ tịch UBND 1 Số lượng 140 128 138 2 Ngoài Đảng 0 0 0 3 Nữ 2 7 1 4 Tuổi đời Dưới 41 37 55 67 41 - 45 47 39 44 46 - 50 39 23 19 51 - 55 14 8 7 56 - 60 2 2 Trên 60 1 1 5 Trình độ học vấn - Cấp I 15 16 10 - Cấp II 60 67 47 - Cấp III 65 45 80 6 Trình độ lý luận chính trị - Chưa học 13 22 - Sơ cấp 6 18 13 - Trung cấp 82 85 93 - Cao cấp 36 4 8 - Cử nhân 3 1 7 Trình độ chuyên môn - Trung học - Cao đẳng 1 3 - Đại học 3 1 3 8 Trình độ nghiệp vụ - Quản lý nhà nước 26 12 57 - Quản lý kinh tế 1 - Tin học 0 0 0 - Ngoại ngữ 0 0 0 Phụ lục 5 Trình độ cán bộ chủ chốt với các chức danh: Bí thư, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch HĐND Học vấn Cấp I: 4,38% Cấp II: 40,10% Cấp III: 55,4% Chuyên môn Trung học: 5,62% Cao đẳng: 1,5% Đại học: 2,33% Chính trị Trung cấp: 62,72% Cao cấp: 8,23% Cử nhân: 1,5% Theo số liệu điều tra 3/2001 ở 729 cán bộ của 183 xã, phường, thị trấn. Phụ lục 6 Số liệu về kỷ luật đảng viên từ 1996 - 2000 928 đảng viên/17.263 đảng viên - Trong đó có 291 cấp ủy viên: 40 bị xử lý về pháp luật 38 bị phạt tù 2 cải tạo không giam giữ 17 xử phạt hành chính. - Phẩm chất đạo đức: 234 chiếm 25% - Cố ý làm trái: 174 chiếm 19% - Thiếu tinh thần trách nhiệm: 197 chiếm 21% - Không chấp hành Nghị quyết: 105 chiếm 11% - Mất dân chủ nội bộ: 80 chiếm 9% - Tham ô: 59 chiếm 6% - Cụ thể: + 1996 : 31 cấp ủy viên bị kỷ luật + 1997 : 62 cấp ủy viên bị kỷ luật + 1998 : 76 cấp ủy viên bị kỷ luật + 1999 : 79 cấp ủy viên bị kỷ luật + 2000 : 43 cấp ủy viên bị kỷ luật Theo số liệu của ủy ban kiểm tra tỉnh ủy 25/7/2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van khac phuc benh kinh nghiem o Long An.doc
Tài liệu liên quan