Đề tài: Không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những sáng tác dân gian, ca dao là một thể loại khá tiêu biểu và có một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Tìm hiểu và nghiên cứu ca dao, ta sẽ thấy cách thể hiện độc đáo và sâu sắc về đời sống tâm hồn con người Việt Nam qua bao thế hệ.
Trong tiến trình lịch sử, thể loại ca dao đã có sự vận động rõ rệt từ bộ phận ca dao truyền thống đến bộ phận ca dao hiện đại. Đặc biệt bộ phận ca dao hiện đại. Đây thực sự là một “chân trời mới lạ” nên có nhiều điều để khám phá. Nó có sức cuốn hút mạnh mẽ và lạ lùng đối với tác giả luận văn.
Theo các nhà nghiên cứu, bộ phận ca dao hiện đại được tính từ năm
1945 đến nay. Vì đây là một bộ phận mới nên còn ít các công trình nghiên cứu về nó. Và càng hiếm hoi hơn những công trình nghiên cứu ca dao hiện đại theo hướng tiếp cận của Thi pháp học - một khoa học văn học có tính thời đại. Nghiên cứu ca dao hiện đại theo hướng tiếp cận thi pháp, người ta có thể tìm hiểu ở các phương diện đề tài, cảm hứng sáng tác, nhân vật trữ tình, không gian - thời gian nghệ thuật, hình thức diễn xướng Trong đó không gian nghệ thuật được coi là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện nội dung và ý đồ nghệ thuật của tác phẩm. Vì thế chúng tôi quyết định chọn: Không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
Ở luận văn này, chúng tôi mới bước đầu nghiên cứu những tác phẩm cụ thể đã được biên soạn và sưu tầm, với mong muốn chỉ ra được đặc điểm của không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại. Từ đó thấy được sự kế thừa và sáng tạo trong việc thể hiện của không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại với ca dao cổ truyền. Ý nghĩa của nó với việc thể hiện không gian nghệ thuật của thể loại ca dao nói chung. Và như vậy chúng tôi có thể khám phá được hết
chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật đặc sắc của những lời ca dao hiện đại trong quá trình nghiên cứu.
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu . 8
6. Phương pháp nghiên cứu 8
7. Bố cục luận văn 9
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 10
1.1. Khái niệm thi pháp văn học dân gian 10
1.2. Khái niệm ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại . 13
1.2.1. Ca dao cổ truyền . 13
1.2.2. Ca dao hiện đại . 14
1.3. Khái niệm không gian nghệ thuật và vấn đề nghiên cứu không gian
nghệ thuật trong ca dao . 15
1.3.1. Khái niệm không gian nghệ thuật 15
1.3.2. Vấn đề nghiên cứu không gian nghệ thuật trong ca dao. . 17
1.4. Đời sống và sinh mệnh của ca dao hiện đại 18
1.4.1. Đời sống của ca dao hiện đại qua các thời kỳ lịch sử 18
1.4.2. Những yếu tố tạo tiền đề để ca dao hiện đại tồn tại và phát triển . 27
Tiểu kết 30
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CA
DAO HIỆN ĐẠI 31
2.1. Tính phiếm chỉ và tính cá biệt hoá của không gian nghệ thuật . 31
2.1.1. Tính phiếm chỉ 31
2.1.2. Tính cá biệt hoá 34
2.2. Không gian bình dị, gần gũi, quen thuộc và không gian khoáng đạt,
hùng vĩ . 40
2.2.1. Không gian bình dị, gần gũi, quen thuộc . 40
2.2.2. Không gian khoáng đạt, hùng vĩ 53
2.3. Không gian mới lạ. 57
Tiểu kết 64
Kết luận 65
Phần phụ lục 68
[1] Những lời ca dao hiện đại do tác giả tập hợp, sưu tầm 68
[2] Những lời nhận xét về văn học dân gian và ca dao hiện đại 87
[3] Một số tranh ảnh liên quan đến sinh hoạt văn hoá dân gian thời đại . 89
Danh mục tài liệu tham khảo . 93
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nước sông đỏ máu quân thù chưa phai
Luyện quân, voi luyện cho tài
Lập công voi xé một vài ca nô
Dòng sông nước đục lờ đờ
Bên kia bãi cát nấm mồ thực dân ”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Trong số 1.404 lời ca dao hiện đại đã được sưu tầm và biên soạn, chúng
tôi khảo sát và nhận thấy không gian dòng sông được nhắc tới trong 104 lời.
Trong đó không gian dòng sông chủ yếu hiện lên là không gian xã hội, không
gian công cộng.
Không gian dòng sông trong ca dao hiện đại là nơi chứng kiến biết bao
hoạt động vất vả của quân và dân ta cho cuộc kháng chiến:
“Tay chèo nhẹ khoả sóng trăng
Đưa đoàn chíến sĩ qua sông đêm này…”
hay:
“Đêm nay trong ánh trăng vàng
Thuyền em tải đạn nhẹ nhàng vượt sông”.
Không gian dòng sông cũng là nơi chứng kiến những cuộc chia tay đầy
lưu luyến, thắm đượm tình nghĩa quân dân, tình yêu đôi lứa hoà quện trong
tình yêu quê hương đất nước:
“Ba phen đưa về quốc đoàn
Bến sông ở lại gửi chàng câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu thương”.
hay:
“Đò em đợi bến sông này
Đưa đoàn chiến sĩ đêm nay lên đường
Đò em chở bạn tình thương
Chở lòng yêu nước can trường qua sông”.
Và dòng sông cũng chính là nơi sum họp, đoàn tụ trong cảnh thanh bình,
hạnh phúc:
“Hôm đi thuyển bến nặng chờ
Hôm về thuyền bến câu hò lại vang”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
hay:
“Anh đi ra tận chiến trường
Ngày về xin hẹn Sông Thương dừng chèo”
Có thể nói, dòng sông không còn là nơi chất chứa những giọt nước mắt
cay đắng, tủi hờn của người mẹ phải xa con, vợ phải xa chồng của những kiếp
người đau khổ bất hạnh như xưa nữa, mà giờ đây không gian dòng sông gắn
với niềm tin, sự thủy chung, đợi chờ của con người trong xa cách, là nơi ghi
lại những chiến công oanh liệt, là nơi diễn ra các hoạt động phục vụ kháng
chiến của toàn đân tộc. Đó chính là không gian gần gũi, gắn bó với con người
trong đời sống lao động cũng như trong chiến đấu.
2.2.1.4. Không gian cánh đồng
Không gian cánh đồng cũng được nhắc tới rất nhiều trong ca dao hiện
đại. Tuy nhiên do sự thay đổi của hiện thực lịch sử mà không gian cánh đồng
trong ca dao hiện đại cũng có những nét khác biệt so với không gian cánh
đồng trong ca dao cổ truyền.
Nếu như trong ca dao cổ truyền không gian cánh đồng được hiện lên với
tất cả những nỗi vất vả nhọc nhằn của người nông dân :
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần,
thì trong ca dao hiện đại không gian cánh đồng là nơi diễn ra các hoạt động
lao động tập thể. Ở đó người nông dân vừa thi đua sản xuất, vừa chuyện trò,
ca hát cho với đi nỗi vất vả của công việc đồng áng:
“Bên này các chị đi cày
Giục trâu hối hả suốt ngày chưa thôi
Bên kia lúa biếc chân đồi
Các cô làm cỏ nói cười râm ran”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
hay:
- “Xôn xao tiếng hát trên đồng
Tin anh vệ quốc lập công chào mừng”.
- “Ùm ùm tát nước gầu giai
Ruộng cao ta lại tát hai gàu sòng
Bà con trong xóm đổi công
Đêm đêm tát nước ngoài đồng vui ghê”.
Cánh đồng còn là nơi ghi dấu tội ác của quân giặc và sự căm hờn muôn
đời của nhân dân Việt Nam đối với chúng:
“Nhìn đàn cò trắng bay qua
Nhìn đồng lúa ở quê nhà héo hon
Xung quanh đồng lúa những đồn
Lúa héo bao ngọn căm hờn bấy nhiêu
Đêm nay sóng lúa rào rào
Hạ đồn lúa dậy vẫy chào đoàn quân ”.
Đồng thời cánh đồng cũng là nơi ghi lại những nỗi đau chiến tranh cùng
những mất mát lớn lao của con người.Thật xúc động biết bao trước tâm sự
của một người con mất mẹ - mất đi người thân yêu nhất của mình:
“Trận bom giặc trút xuống dồng
Mẹ tôi đi gặt đã không trở về
Mẹ ơi đau đớn ê chề
Lúa bầm máu mẹ, con tê tái lòng
Nấm mồ của mẹ giữa đồng
Đêm qua bom giội lại không còn mồ
Khóc nhiều nước mắt đã khô
Lòng con đau xé căm thù cháy gan
Vì quân giặc Mỹ dã man
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Mẹ tôi phải chết hai lần đớn đau
Mẹ ơi oán nặng thù sâu
Giết trăm tên Mỹ vơi đâu oán thù”.
Tóm lại: Không gian cánh đồng được nhắc tới trong ca dao hiện đại là
một tronh những không gian bình dị, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống con
người Việt Nam. Đây là sự kế thừa từ đặc điểm không gian nghệ thuật trong
ca dao cổ truyền. Tuy vậy, nét bình dị, gần gũi của không gian cánh đồng
trong ca dao hiện đại cũng được thể hiện khác biệt so với không gian cánh
đồng trong ca dao truyền thống.
2.2.1.5. Không gian con đường
Qua khảo sát 1404 lời ca dao hiện đại đã được sưu tầm và biên soạn
chúng tôi nhận thấy, không gian con đường xuất hiện trong 64 lời ca dao.
Như đã nói ở trên do sự thay đổi của hiện thực lịch sử mà không gian con
đường trong ca dao hiện đại cũng có những nét khác biệt với không gian con
đường trong ca dao cổ truyền.
Nếu như trong ca dao cổ truyền không gian con đường chủ yếu là không
gian điểm “giữa đường”. Đó là “điểm hẹn, nơi gặp, nơi chia xa ” của những
chàng trai, cô gái đang độ tuổi yêu đương [45, tr.146].
-“Từ những ngày gặp gỡ giữa đường
Những lời bạn nói nhớ thương vô chừng”.
-“Từ ngày gặp mặt giữa đường
Thiếp quyết thương chàng cha mẹ nào hay”.
- “Yêu nhau chưa ráo mồ hôi
Chưa tan buổi chợ, đã chia đôi ngả đường”,
thì trong ca dao hiện đại không gian con đường lại được tạo dựng lên là
không gian mặt phẳng, không gian hình tuyến. Con đường hiện lên trước hết
với sự mô tả chân thực những tính chất đa dạng của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
Đó là con đường tải đạn, tải lương trơn tuột, xa lắc và cao vút:
-“Róc ra róc rách
Nước ngập đường trơn
Đường trơn thì mặc đường trơn
Gió mưa chẳng quẩn, pháo bom chẳng sờn
Ôi em vận tải chiến trường
Em về nắng sẽ trải đường đón em ”.
- “Chập chùng bước thấp bước cao
Đường xa dặm thẳm biết bao nhọc nhằn
Trên vai đan mấy mươi cân
Đem đi bắn nát đầu quân bạo tàn”
hay:
-“Đường lên tóc gội mây trời
Gạo lên theo với tiếng cười giòn tan”.
Đó là con đường được hiện lên với những nét vẽ thật sinh động:
-“Đường em kẻ tựa bàn cờ
Đường em đẹp tựa bài thơ chung tình”.
- “Đường như mắc cửi em ơi
Nên xe anh hoá con thoi xuyên rừng” .
hay rạng rỡ hơn với con đường chiến thắng:
-“Con đường như sợi chỉ màu
Thêu nên chiến thắng từ đầu mùa xuân
Con đường rạng rỡ tiến quân
Qua bao gian khổ muôn ngàn bàn tay ”.
Nhưng được nhắc tới nhiều nhất có lẽ là con đường với chức năng của
không gian công cộng, không gian xã hội. Trên con đường ấy ta có thể gặp đủ
mọi tầng lớp tham gia kháng chiến: Từ Bác Hồ với bước chân mở đường, tới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
các anh bộ đội trên đường hành quân; Từ các chị em tải lương, tải đạn, đến
các anh vệ quốc quân, rồi chị dân quân du kích; Từ các cụ già đến các em
thiếu nhi… Con đường là không gian của ngày hội. Ở đó ta bắt gặp âm thanh
reo vui, náo nức trong tâm hồn những người chiến sĩ trên đường ra mặt trận:
“Đường ra mặt trận vui sao
Quân đi thác chảy ào ào rừng xanh
Bắc Nam là nghĩa là tình
Ta đi núi cũng chuyển mình đi theo”
Ở đó ta thấy được niềm tự hào về một dân tộc anh hùng và lòng quyết
tâm đánh đuổi kẻ thù của các anh bộ đội trên đường ra mặt trận:
“Trên mình tổ quốc thân yêu
Ở đâu có giặc vạn đèo cũng qua
Đất này thấm máu ông cha
Ngàn năm giục bước chân ta lên đường”.
Đó là con đường hành quân tràn ngập ánh trăng, gợi lên bao cảm súc lạc
quan, yêu đời trong tâm hồn người lính trẻ.
“Ta đi trăng cũng đi theo
Đường ta dốc núi đỉnh đèo trăng treo
Bây giờ trăng đã ngủ rồi
Ta đi lòng vẫn sáng ngời ánh trăng”.
Và cũng trên con đường đó, ta bắt gặp tâm trạng hân hoan, phấn khởi
tràn đầy niềm vui của những người lính lái xe ra chiến trường:
“Bom thù hòng chặn đường ta
Vẫn không ngăn nổi xe ra xe vào
Rừng cây cháy sém hôm nao
Màu xanh lại nhuộm đường vào lối ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Đêm đêm mỗi chuyến xe qua
Rộn ràng tiếng hát đậm đà tình thương
Bao ngày nắng rội đêm sương
Bom cày lửa đốt con đường vẫn xanh
Quân đi rực rỡ bình minh
Xe đi đường cũng vươn mình theo xe”.
Ở đó, ta còn bắt gặp sự quan tâm ân cần, cùng san sẻ những khó khăn
của những con người chung lý tưởng, chung mục đích:
“O ghé vai vào
Tôi trao gánh lúa
Đường trơn kẻo bổ
Thong thả o ơi!
Gặp nhau một buối tối trời
Ghé nhìn cho kỹ để rồi tìm nhau”.
Cũng có khi con đường lại có tính “thời gian” [35, tr.173]. Đó là con đường
mang ý nghĩa khái quát, trừu tượng - đường Cách mạng, đường về Tổ quốc,
đường chiến thắng, đường thống nhất, đường của trái tim đến với trái tim:
- “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ câu Bác dạy, nhớ lời Bác khuyên
Ghi lời vàng ngọc không quên
Con đường thống nhất càng bền đấu tranh”.
- “Ai ơi nghĩ lại cho từng
Đường về Tổ quốc là đường vinh quang”.
- “Ở đây heo hút đèo xa
Đường về nơi Bác vẫn là tấc gang”.
Tìm hiều về không gian con đường, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã
nhận định: “Cảm thức con đường là cảm thức có thật của con người Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
từ sau 1945, nó là cảm thức điển hình nhất, phổ biến nhất. Cuộc cách mạng đã
lôi kéo mọi người ra khỏi gia đình, ngôi nhà riêng tư để hành quân đi vào đội
ngũ mới, thời đại mới, đến những miền đất mới” và “con đường là nơi chúng
ta gặp nhau, là nơi ta làm quen với mọi miền khác nhau của đất nước, là nơi ta
tiếp xúc với mọi cái mới của cuộc sống, cách mạng, là nơi đầu tiên con người
mới hiện ra, là nơi ta ngoái trông quá khứ, nhìn trước tương lai, ngẩng nhìn
bầu trời cao rộng, cảm xúc trên đường là mới mẻ nhất, điển hình nhất của dân
tộc trong thế kỉ XX”. [35, tr.174].
Nhận định trên đã một lần nữa khẳng định không gian con đường chiếm
vị trí quan trọng và trở thành phổ biến trong ca dao dao hiện đại, nhất là thời
kỳ kháng chiến chồng Pháp và chống Mỹ.
Có thể nói không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại là không gian
bình dị, gần gũi, thân thuộc với cuộc sống con người. Nhưng không gian
nghệ thuật ấy cũng có những nét vận động và biến đổi so với ca dao cổ
truyền. Sự vận động và biến đổi của đặc điểm không gian nghệ thuật này
hoàn toàn phù hợp với sự vận động của lịch sử xã hội.
2.2.2. Không gian khoáng đạt, hùng vĩ
Bên cạnh không gian bình dị, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống con
người, tìm hiểu ca dao hiện đại ta còn bắt gặp nhiều không gian khoáng đạt,
hùng vĩ, mang tầm vóc và vẻ đẹp của vũ trụ như Núi Thái Sơn, nước Nam
Hải, nước trong nguồn, dải Trường Sơn, nước Cửu Long, muôn dặm trùng
dương, mặt trăng, mặt trời…
Nếu như ca dao cổ truyền mượn những không gian mang sắc thái lớn lao,
bền vững của vũ trụ để so sánh với tình cảm con người, đặc biệt với công lao
trời biển của cha mẹ:
- “Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
Biết rằng chừ cá gáy hoa rồng
Đền công ơn cha mẹ lao tâm sinh thành”.
- “Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nhe nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
hay những cặp từ chỉ không gian sóng đôi như: đất - trời, sông - núi, biển -
rừng… giúp con người chỉ trời vạch đất, thề nguyền, ước hẹn:
- “Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau”.
- “Non non nước nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ xin đừng có quên”,
thì nay, trong ca dao hiện đại do hiện thực lịch sử xã hội mới nên những cặp
không gian sóng đôi và những không gian mang sắc thái lớn lao, bền vững ấy lại
được dùng đề so sánh với công lao vĩ đại của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như chúng ta đã biết, trong tâm tưởng mỗi người dân Đảng cộng sản
Việt Nam vừa gần gũi, vừa thân thương:
“Nước trong nguồn chảy ra mãi mãi
Cây trên rừng vạn đại Trường Sơn
Đảng thương dân như mẹ thương con
Nói sao cho hết được công ơn Đảng mình”
vừa thiêng liêng, cao quý:
“Ta quý gì bằng ta quý Đảng
Mặt trăng, mặt trời cho ta ánh sáng
Đất ruộng trâu cày thì Đảng cho ta”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta luôn vững tin vào sự chiến thắng
của cuộc kháng chiến trường kỳ:
“Dải Trường Sơn xanh rờn thăm thẳm
Công ơn Đảng lao động muôn dặm trùng dương
Vững lòng tin quân dân ta chiến đấu quật cường
Có Đảng cầm sào đứng mũi dẫn đường đấu tranh”.
Công lao của Đảng là không gì so sánh nổi:
“Đếm sao cho hết là rừng
Đo sao cho hết được lòng Đảng ta
Trời cao biểu rộng bao la
Rộng sao bằng Đảng cho ta chủ quyền
Ngầm ngày rồi lại ngẫm đêm
Nghĩ nhờ ơn Đảng mới nên áo lành”.
Bên cạnh việc ca dao hiện đại sử dụng các cặp không gian sóng đôi và
những không gian mang sắc thái lớn lao, bền vững để so sánh với công lao to
lớn của Đảng thì những cặp không gian ấy cũng được dùng để ca ngợi công
lao của Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu, vị cha già của dân tộc Việt Nam.
Công ơn Bác Hồ đối với nhân dân ta như biển rộng trời cao, không thể
nào kể hết. Nhân dân ta ví tình thương của Bác như mạch nước trong nguồn
trong mát chảy mãi muôn đời:
“Nước trên nguồn chảy ra mãi mãi
Cây trên rừng vạn đại Trường Sơn
Cụ Hồ thương dân như mẹ thương con
Nói sao cho hết công ơn biển trời”.
Dù biển Nam Hải có sâu chừng nào, dải Trường Sơn có dài rộng bao nhiêu
cũng vẫn không sao sánh bằng công ơn to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
“Ơn Bác Hồ to hơn Nam Hải
Công Bác Hồ to hơn dải Trương Sơn
Nam Hải sâu ta còn đo được
Trường Sơn dài ta cũng vượt qua
Công ơn của Bác bao la
Nhân dân kể đến bao giờ cho xong”.
Quả đúng như tác giả Nguyễn Nghĩa Dân đã nhận xét: “Trong tâm niệm
của nhân dân, Bác Hồ là “sao Bắc đẩu”, là “vừng Thái dương” là “ánh sao
Rua” là vị cứu tinh, là người dẫn đường của cách mạng Việt Nam. Trong lòng
biết ơn của nhân dân, Bác là “Nam Hải” là “Trường Sơn” là “gương Hồ
Thuỷ” là “hòn Thái Sơn” [9, tr.29].
Cùng với ý nghĩa biểu tượng cho hình ảnh của Đảng, Bác Hồ, những
không gian khoáng đạt, hùng vĩ ấy còn được dùng để nhấn mạnh quyết tâm chiến
đấu, sức mạnh đoàn kết và tấm lòng son sắc của toàn thể dân tộc Việt Nam:
- “Cho dù tát cạn biển đông
Cho dù đếm được chim muông trên rừng
Cho dù san phẳng Trường Sơn
Bác ơi cháu chỉ sắt son một lòng
Đấu tranh thống nhất non sông
Giấc ngàn thu thoả ước mong Bác Hồ”.
- “Đố ai quét sạch lá rừng
Đố ai ngăn nổi sức toàn dân ta
Toàn dân ta muôn người một dạ
Cùng đứng lên tất cả như nhau”.
Có thể thấy rằng: Vẫn là sự kế thừa những thành tựu của ca dao cổ
truyền nhưng tác giả dân gian đã đưa vào ca dao hiện đại những không gian
nghệ thuật khoáng đạt, hùng vĩ nhưng với những nét khác lạ, độc đáo. Nét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
khác lạ độc đáo đó chính là việc sử dụng những cặp không gian sóng đôi,
mang sắc thái lớn lao bền vững để so sánh với công lao to lớn của Đảng, Bác
Hồ và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
2.3. Không gian mới lạ
Khảo sát ca dao hiện đại, chúng tôi đã phát hiện ra rất nhiều không gian
chưa từng gặp hoặc rất hiếm khi thấy xuất hiện trong ca dao cổ truyền. Lời ca
dao sau là một minh chứng cụ thể:
“Đi từ tháng chín hăm ba
Mười chín tháng chạp trải qua bao đường
Đi thông khắp các chiến trường
Đồng bằng, biên giới đến đường Điện Biên
Đi vào xí nghiệp chủ quyền
Nông thôn cải cách chợ phiên rộn ràng
Đi vào trường học thênh thang
Nhà thương lộng lẫy, không gian tràn trề
Bước đi khắp nẻo đồng quê
Người người hoan hỉ, nghề nghề phồn vinh”.
Thật khó có thể tìm thấy trong ca dao cổ truyền một lời ca lại có không
gian nghệ thuật mới lạ như thế. Đọc lời ca dao ta có cảm giác như cả dải đất
Việt Nam đang hiện ra trước mắt. Từ đồng bằng, trung du đến miền núi, từ
nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi lên miền ngược, đâu đâu cũng khang
trang, mới mẻ. Chỉ một vài câu thơ, tác giả dân gian đã vẽ ra biết bao không
gian: con đường, chiến trường, đồng bằng, biên giới, xí nghiệp, nông thôn,
chợ phiên, trường học, nhà thương… Lời ca dao đã thể hiện một đặc điểm cơ
bản của không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại - không gian nghệ thuật
mới lạ, mang tính xã hội hoá cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
2.3.1. Không gian lớp học bình dân
Như trên đã nói, trong ca dao hiện đại xuất hiện rất nhiều không gian
chưa từng gặp hoặc hiếm khi xuất hiện trong ca dao cổ truyền. Không gian
lớp học bình dân là một ví dụ điển hình.
Không gian lớp học bình dân được dựng lên ngay giữa ruộng đồng, hay
bên một gốc đa. Đây là nơi mà bà con cùng nhau học chữ quốc ngữ, thi đua
diệt giặc dốt để cuộc đời này thêm ý nghĩa, thêm no ấm:
“Lớp bình dân mở không xa
Cách một lối rẽ cách ba dặm trầu
Đằng trước nương dâu
Đằng sau ruộng mạ
Ta học quốc ngữ cho thông
Kẻo mà hổ thẹn cùng chồng ai ơi!”.
hay:
“Cây đa bóng mát vây tròn
Phên thay chữ mới, vôi còn khoe tươi
Cây đa lớp học đông người
Bình công chấm điểm dịch đôi câu vần
Khó khăn xin chớ ngại ngần
Quên mình lao động thêm phần ấm no”.
. Không gian lớp học bình dân là một trong những không gian nghệ
thuật mới chưa được nhắc tới trong ca dao cổ truyền. Sự xuất hiện của không
gian nghệ thuật này là hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh xã
hội, khi mà Đảng và nhà nước có chủ trưong xóa nạn mù chữ trong nhân dân.
Vì thế mà phong trào thi đua học chữ quốc ngữ diệt giặc dốt và mở mang dân
trí diễn ra một cách sôi nổi ở khắp mọi nơi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
2.3.2. Không gian chiến trường, sa trường, thao trường
Không gian chiến trường được khắc họa đậm nét trong ca dao hiện đại.
Theo khảo sát của chúng tôi không gian chiến trường xuất hiện ở 63 lời ca
dao. Khung cảnh chiến trường được hiện lên với cuộc sống chiến đấu gian
khổ và thiếu thốn của những người lính:
“Mười năm gian khổ có nhau
Quên sao ống muối, quên sao rau rừng…”
Nhưng dù cuộc sống nơi chiến trường vất vả đến đâu thì những người
lính cụ Hồ vẫn chiến đấu anh dũng để tô đẹp thêm truyền thống quê hương:
“Mấy năm ở chốn phong ba
Sống trong khói lửa nên da tôi vàng
Bao phen quân địch kinh hoàng
Ghê danh Quảng Trị lên đường đấu tranh”.
Và không gian chiến trường còn được khắc hoạ qua tiếng súng tấn công,
tiếng súng báo hiệu những ngày vui chiến thắng đang đến rất gần:
“Súng vang trên khắp chiến trường
Điện Biên súng đã mở đường tiến công…”
Trong quan niệm của nhân dân ta lúc bấy giờ chiến trường, sa trường là
nơi tương phùng, hội ngộ của các chàng trai, là nơi tỏ chí nam nhi và thể hiện
tinh thần yêu nước:
“Mẹ khuyên con mẹ ra đi
Sa trường là chốn nam nhi vẫy vùng
Là trường thi của anh hùng
Là nơi hội ngộ tương phùng bạn trai”.
Bên cạnh đó chiến trường, sa trường cũng trở thành không gian của tiêu
chí đạo đức thẩm mĩ. Một chàng trai lý tưởng trong con mắt của các cô gái
những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ phải là con người đã từng lăn
lộn, nếm trải mùi đạn bom chốn sa trường:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
“Anh ơi! ra trận giết tây
Xung phong cướp súng về đây cho nhiều
Lấy em, em thách mấy điều
Chiến công oanh liệt bắt nhiều tù binh”.
hay
“Dù anh văn hoá lớp mười
Anh chưa ra trận em thời không yêu
Dù anh sắc sảo mỹ miều
Nếu không ra trận không yêu làm chồng”.
Ca dao hiện tại còn khắc hoạ khung cảnh thao trường - nơi quân và dân
ta tập kỹ thuật, chiến thuật để sẵn sàng chiến đấu chống quân thù:
“Một hai hai một thao trường
Bò, lê ngắm bắn, mọi đường tinh thông ”
Sự xuất hiện của không gian chiến trường, sa trường, thao trường là một
điểm mới của không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại. Tìm hiểu những
không gian nghệ thuật này ta có thể thấy được quan niệm đạo đức thẩm mỹ
của con người trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, thấy được hình ảnh
những con người sống có lý tưởng, tràn đầy tinh thần yêu nước và sẵn sàng đi
theo tiếng gọi của Tổ quốc.
2.3.3. Không gian tiền tuyến - hậu phương
Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, những người con trai ra trận
chiến đấu, người con gái trở về tiếp tục công việc lao động, sản xuất nơi quê
nhà. Vì thế mà không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại bắt đầu được phân
chia thành hai tuyến: không gian tiền tuyến (người ra đi) và không gian hậu
phương (người ở lại). Trong ca dao cổ truyền, cặp không gian này đã từng
xuất hiện nhưng chiếm số lượng ít và chủ yếu gợi ra sự chia lìa, cách trở
nghìn trùng giữa người ra đi và kẻ ở lại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
“Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già”
Đến ca dao hiện đại, cặp không gian tiền tuyến - hậu phương xuất hiện
đậm nét hơn và đã được nhắc tới trong 15 lời ca dao. Tiền tuyến là nơi mà
toàn quân đang trực tiếp chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, còn hậu phương là
nơi mà toàn dân ta ra sức thi đua sản xuất để phục vụ tốt nhất cho tiền tuyến.
Sự đồng cảm, sẻ chia, động viên nhau, khích lệ nhau vì mục đích chung, lý
tưởng chung đã nối gần khoảng cách giữa tiền tuyền với hậu phương, giữa
người đi và kẻ ở lại:
“Giấc trưa trời nắng chang chang
Em đi cắt lúa lang thang giữa đồng
Em nguyện cắt lúa nuôi chồng
Trọn niềm chung thuỷ tấm lòng chẳng phai
Anh thì bổn phận làm trai
Ra đi giúp nước một mai thái bình
Em đi cắt lúa một mình
Cũng vì nhiệm vụ gia đình thiếu anh
Đêm khuya giặc bắn cầm canh
Em nằm phòng vắng nhớ anh mỏi mòn
Anh đi nhiệm vụ chưa tròn
Một ngày dân tộc hãy còn đau thương
Nên anh còn ở chiến trường”.
Cả người đi diệt thù và người ở lại tăng gia sản xuất đều thấu hiểu sâu
sắc vai trò, nhiệm vụ của mình đối với vận mệnh của đất nước. Vì thế mà:
“Mồ hôi đổ xuống ruộng bờ
Mới thành hạt lúa đổ kho lần này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
Chiến trường bộ đội giết Tây
Hậu phương xin gửi kho đầy lúa thơm ”
Những con người ở hai mặt trận ấy đều ra sức thi đua, cùng quyết tâm
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù:
“Tiền phương bộ đội thi đua
Đánh cho giặc Pháp chạy thua rụng rời
Hậu phương đóng thuế kịp thời
Làm cho giặc chết gấp mười, gấp trăm”.
Có thể thấy trong trái tim và dòng máu của họ đã có sự hoà quện sâu sắc
tình yêu đất nước - tình yêu đôi lứa:
“Em về lo việc hậu phương
Anh ra giết giặc chiến trường lập công
Tình thương non nước mênh mông
Nỗi niềm ân ái vợ chồng sá chi”.
Để có được điều đó, cả tiền tuyến và hậu phương đều tin tưởng vào một
ngày mai chiến thắng. Đất nước sẽ độc lập, thống nhất:
“Em về lo liệu việc nhà
Để anh yên dạ xông ra trận tiền
Giờ đây lệnh Tổng động viên
Việc quân tất cả thanh niên phải làm
Ruộng vườn em phải lo toan
Việc xóm, việc làng em phải thay anh
Bao giờ kháng chiến hoàn thành
Chắp cánh liền cành đũa lại sóng đôi”.
Như vậy, do ra đời trong hoàn cảnh lịch sử mới của đất nước, ca dao hiện
đại đã xây dựng lên cặp không gian tiền tuyến - hậu phương để phản ánh đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
sống lao động và chiến đấu hết sức khẩn chương của quân và dân ta trong một
thời kỳ lịch sử vĩ đại, hào hùng. Đây là một không gian nghệ thuật mới, tạo
được nét riêng biệt và hấp dẫn cho bộ phận ca dao hiện đại.
2.3.4. Không gian công trường, bệnh viện
Không gian công trường hiện lên trong ca dao hiện đại với không khí
nhộn nhịp khẩn trương - nơi ấy những con người mới đang vượt qua mọi gian
nan thử thách cống hiến sức mình cho công cuộc xây dựng kiến thiết đất nước
ngày càng giàu mạnh:
“Tầng cao cao ngút lưng trời
Xe lên lên mãi như đời đang lên
Xe lăn rầm rập ngày đêm
Chở đoàn thợ mỏ vào tim đất này”
hay:
“Rầm rầm đá chuyển
Bụi bay như mây
Tầng tầng đá lở dưới tay
Em đi dựng những đường ray xuyên rừng
Ở dây rừng tối mịt mùng
Mắt em đã thấy sáng bừng điện soi
Bà Nữ Oa xưa đội đá vá trời
Giờ em đi phá núi nối những chân trời tương lai”.
Còn đây là khung cảnh bệnh viện với những con người luôn hết lòng cứu
chữa và tận tình chăm sóc bệnh nhân:
“Về đây điều trị mấy tuần
Cái đau cái yếu mười phần còn ba
Về đây như thể ở nhà
Có em săn sóc như là người thân…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
Có người ra viện hôm nay
Tặng cô y tá sổ tay của mình”.
Ngoài ra trong ca dao hiện đại ta còn thấy xuất hiện những không gian
khác như: Nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã, trại chăn nuôi… Đây là những
không gian mới mà chỉ đến khi tìm hiểu ca dao hiện đại ta mới bắt gặp.
Tiểu kết
Như vậy, ca dao hiện đại vẫn tiếp tục kế thừa truyền thống từ các lời ca
dao cổ truyền: Sử dụng những không gian nghệ thuật mang tính phiếm chỉ và
không gian nghệ thuật bình dị, gần gũi, quen thuộc với đời sống con người
Việt Nam (ngôi nhà, phố chợ, dòng sông, bến nước, con đò, cánh đồng, con
đường…); không gian khoáng đạt, hùng vĩ mang đặc tính to lớn, bền vững
của vũ trụ (sông - núi, biển - trời, đất - trời, núi Thái Sơn, biển Nam Hải, dải
Trường Sơn, nước Cửu Long…). Điều đáng nói ở đây là, mặc dù tái hiện lại
những không gian nghệ thuật không mới song nhân dân ta đã thổi vào ca dao
một không khí rất mới - không khí của những ngày cả nước nước cầm súng
chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Đặc biệt ta thấy, trong ca dao hiện đại còn xuất hiện những không gian
nghệ thuật mang tính cá biệt hóa (Tháp Mười, Điện Biên, Tây Bắc, Quảng
Bình…) và những không gian nghệ thuật mới lạ (chiến trường, sa trường,
thao trường, bãi tập, nhà máy, xí nghiệp, công trường, lớp học bình dân, bệnh
viện…). Đây là kết quả của sự thay đổi đề tài, cảm hứng chủ đạo, quan niệm
sáng tác của chủ thể sáng tạo từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại. Tất cả
những điều đó làm cho ca dao hiện đại có nội dung riêng, diện mạo riêng và
để lại ấn tượng riêng trong lòng bạn đọc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
KẾT LUẬN
Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước đã có nhiều thay đổi, ca dao
hiện đại chính là tấm gương phản chiếu trung thành và sâu sắc hiện thực nóng
bỏng của cuộc chiến tranh kéo dài gần một thập kỷ. Để hoàn thành sứ mệnh
ấy của mình, ca dao hiện đại không chỉ đổi mới về nội dung mà còn đổi mới
cả về thi pháp. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu một yếu
tố thi pháp của ca dao hiện đại - yếu tố không gian nghệ thuật. Qua nghiên
cứu đề tài này, chúng tôi đã có được những hiểu biết khoa học như sau:
1. Đầu tiên chúng tôi thấy được: Từ năm 1945 đến nay, ca dao hiện đại
đã có sự vận động và biến đổi không ngừng. Ở mỗi một thời kỳ lịch sử, chúng
tôi đã xác định rõ được diện mạo của ca dao hiện đại. Có thể thấy rằng, với
lực lượng sáng tác đông đảo cùng hình thức lưu truyền phong phú, ca dao
hiện đại đã ra đời và phát triển mạnh mẽ trong đời sống nhân dân. Nó đã góp
phần không nhỏ trong việc cổ vũ tinh thần chiến đấu, ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng Cách mạng, ca ngợi cuộc sống lao động, sản xuất của toàn quân và dân
ta. Bên cạnh đó, còn không ít lời ca dao đang được lưu truyền trong sinh hoạt
của quần chúng mang nội dung hài hước, châm biếm… góp phần giáo dục
một cách sâu sắc con người hiện nay.
Trong luận văn này, chúng tôi đã bước đầu chỉ ra ba yếu tố tạo tiền đề để
ca dao hiện đại tồn tại và phát triển: Thứ nhất là do nhu cầu sáng tạo và
thưởng thức văn nghệ của đại bộ phận quần chúng nhân dân.Thứ hai phải kể
đến vai trò định hướng của Đảng đối với văn hóa văn nghệ dân gian nói
chung và ca dao hiện đại nói riêng. Thứ ba chính là nhờ đặc trưng thể loại ca
dao.
2. Qua những nghiên cứu bước đầu về Không gian nghệ thuật trong ca
dao hiện đại, chúng tôi thấy: Không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
mang những nét chung của ca dao truyền thống, vừa có những nét riêng, độc
đáo đặc thù.
2.1.Ca dao hiện đại vẫn xây dựng không gian nghệ thuật mang tính
phiếm chỉ như trong ca dao truyền thống. Đó là những không gian không cụ
thể, khó xác định và mang những đặc điểm chung nhất, phổ biến nhất của dải
đất nước Viêt Nam như: không gian dòng sông, cánh đồng, con đường, chiến
trường, mặt trận.... Song ca dao hiện đại chủ yếu phản ánh lịch sử của đất
nước nên một số tên địa phương đã được cá biệt hóa, và trở thành yếu tố độc
lập trong lời ca.
2.2. Trong ca dao hiện đại ta vẫn thấy xuất hiện những không gian nghệ
thuật đã trở thành truyền thống của ca dao xưa - đó là không gian bình dị,
gần gũi, thân thuộc với cuộc sống người dân đất Việt. Nhưng vì ra đời trong
hiện thực lịch sử xã hội mới, quan niệm thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo mới
nên tính chất của không gian ấy cũng có sự thay đổi ít nhiều.
Bên cạnh đó, không gian khoáng đạt, hùng vĩ mang tầm vóc và vẻ đẹp
của vũ trụ cũng được ca dao hiện đại sử dụng khá đậm nét. Đặc điểm này
cũng tạo ra sự thay đổi đáng kể so với ca dao cổ truyền: Nếu như trong ca dao
cổ truyền dùng những không gian khoáng đạt, hùng vĩ mang tầm vóc và vẻ
đẹp của vũ trụ để so sánh với công lao sinh thành của cha mẹ, với những lời
thề thủy chung son sắt của nam nữ trong tình yêu, thì những không gian ấy
trong ca dao hiện đại lại dùng để khẳng định sự đoàn kết và quyết tâm chiến
đấu của toàn dân tộc, đặc biệt để ngợi ca công ơn to lớn của Đảng, Bác Hồ.
2.3. Trong ca dao hiện đại ta thấy có sự xuất hiện của các không gian
mới mang tính xã hội hóa cao mà hiếm khi xuất hiện trong ca dao cổ truyền
như: Không gian trường học, nhà máy, xí nghiệp, công trường, bệnh viện,
chiến trường, tiền tuyến - hậu phương…Sự biến đổi của không gian nghệ
thuật trên là kết quả tất yếu của sự thay đổi hiện thực lịch sử và cảm hứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
sáng tác của các chủ thể sáng tạo văn học dân gian hiện đại nói chung và ca
dao hiện đại nói riêng.
3. Từ thực tế nghiên cứu đề tài chúng tôi đưa ra những khuyến nghị sau:
3.1. Cần phải có kế hoạch sưu tầm, nghiên cứu, xuất bản ca dao, đặc biệt
là ca dao hiện đại một cách đồng bộ nhất. Bởi trong thực tế hệ thống tư liệu
của ca dao hiện đại còn chưa hoàn thiện. Trong khi đó, nhiều lời ca dao hiện
đại vẫn đang được lưu truyền trong đời sống dân gian mà chúng ta chưa có
điều kiện ghi chép lại.
3.2. Việc hoàn thiện hệ thống tư liệu ca dao, đặc biệt là ca dao hiện đại
phải được tiến hành trên các nguyên tắc và tiêu chí của khoa học chuyên
ngành.
3.3. Để bảo tồn vốn di sản văn hóa dân gian phi vật thể (trong đó có ca
dao) các nhà nghiên cứu cần dùng những phương thức, phương tiện để có thể
ghi chép, ghi âm và lưu giữ hình ảnh các sinh hoạt văn hóa dân gian của nhân
dân; Cần bảo vệ các nghệ nhân dân gian, bảo vệ môi trường văn hóa dân gian
làm cho những sáng tác dân gian ấy tiếp tục sống, vận động và phát triển
mạnh mẽ.
* Hướng phát triển của đề tài
Cùng với kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu và những khuyến
nghị như đã nói ở trên, chúng tôi thấy đề tài này có thể được phát triển theo
những hướng sau:
1. Tìm hiểu về mối quan hệ giữa không gian, thời gian nghệ thuật trong
ca dao hiện đại.
2. Sự biến đổi của yếu tố không gian nghệ thuật từ ca dao cổ truyền đến
cao dao hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
PHẦN PHỤ LỤC
[1]. NHŨNG LỜI CA DAO HIỆN ĐẠI DO TÁC GIẢ SƯU TẦM.
1 - Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời gái chảnh mà thương trai nghèo.
2 - Chồng giận thì vợ lầm bầm
Ông này ngon thiệt tui bầm ông ra.
3 - Cá không ăn muối cá ươn
Em nghe lời dụ bụng trương chình bình.
4 - Lên non mới biết non cao
Có bồ mới biết là mau hết tiền.
5 - Bầu ơi thương lấy bí cùng
Mai sau có lúc nấu chung một nồi.
6 - Qua đình ngả nón trông đình
Nhìn anh ăn mặc thùng thình thấy ghê.
7 - Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Mai sau có lúc ngoài đường đập nhau.
8 - Một con ngựa đau cả tàu bỏ chạy
Một người vô net cả nhà kẹt phone.
9 - Làm trai cho đáng nên trai
Đi làm để vợ shopping dài dài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
10 - Đi đâu cho thiếp theo cùng
No thì thiếp ở, lạnh lùng thiếp ... bye.
11 - Thương anh chín đợi mười chờ
Đến khi mười một em lờ bỏ anh.
12 - Trai làm nên tiền ra như nước
Gái đoan trang lấy thước ra đong.
13 - Cô kia cắt cỏ một mình
Cớ sao không rủ người tình cắt chung ?
14 - Má ơi cứ gả con xa
Chàng mà nổi giận, chổi chà con quơ.
Má ơi đừng gả con gần
Con qua xúc gạo nhiều lần má ... hao.
15 - Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cầy vợ cấy con trâu đi nằm.
16 - Trông nhìn ông bụt hiền từ
Ngó mặt em cái, ôi như bà chằn.
17 - Người ơi gặp gỡ làm chi
Để rồi hai đứa chia ly hai đường.
18 - Anh về em chẳng cho về
Nắm tay giữ lại khỏi dê nàng nào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
19 - Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời chơi net không vương tơ tình.
20 - Còn thời lên ngựa bắn cung
Hết thời xuống ngựa lấy thun bắn ruồi.
21 - Đàn ông tập tạ thì đô
Đàn bà không tập vẫn đô như thường.
22 - Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ tô bún mắm, gỏi gà, chiếc nem.
23 - Nhớ luôn cả mấy hàng kem
Anh ăn cho đã chờ em trả tiền.
24 - Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Thôi má hãy gả nhà giàu
Có tiền chỉnh mặt, làm đầu cho con.
25 - Đói lòng ăn sạch thịt gà
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
26 - Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Nhìn em nhào lộn làm anh đau lòng.
27 - Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
Trông qua, trông lại, trông về
Trông khi chủ vắng đánh đề kiếm thêm.
28 - Sáng trăng chiếu trai hai hàng
Bên anh"xập xám", bên nàng "tiến lên".
29 - Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Thân em đẹp nhất tòng teng lắc vàng.
30 - Một cây làm chảng lên non
Ba cô chụm lại mỏi mòn ... lỗ tai.
31 - Ầu ơ
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh dài cha nhậu đủ cả năm canh.
32 - Cờ bạc là bác thằng hèn
Áo quần bán hết, tòng teng đi ... ăn mày.
33 - Yêu sao phụ bỏ người tình
Yêu sao phụ bỏ tấm lòng mình yêu.
34 - Yêu em hổng phải vì ham
Mà là anh hổng chịu cam cảnh nghèo.
35 - Yêu anh thì nói láo
Ghét anh thì nói xạo
Thương anh thì nói dóc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
Nhớ anh thì nói móc
Giận anh thì muốn khóc
Sao mà anh thấy "sóc".
36 - Một thương em trắng như Miên
Hai thương miệng móm có duyên vô cùng
Ba thương ngáo ngáo khùng khùng
Bốn thương vừa mập vừa lùn rất xinh
Năm thương hai má em phình
Sáu thương mắt hí đa tình làm sao
Bảy thương răng tựu hàng rào
Tám thương đôi mắt giận nhau cả ngày
Chín thương nải chuối bàn tay
Mười thương mũi xẹp cả hai như mèo.
37 - Ăn quả phải tự trèo cây
Em ăn em bắt anh đây hái dùm.
38 - Làm rào phải mua kẽm gai
Làm vợ lãi nhãi ... em dai nhất nhà.
39 - Khi thương anh nói anh cười
Hết thương anh giống như người điếc câm.
40 - Yêu nhau mấy tháng đã đành
Nếu mà lâu quá chắc sanh một bầy.
41 - Yêu nhau không phải vì tình
Lấy anh vì biết là mình giàu to.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
42 - Biết em đã quyết lấy chồng
Thì anh cũng quyết là không cho về.
43 - Giấy rách còn giữ được bìa
Tình em xa cách bên kia anh buồn.
44 - Gió đưa bụi chuối sau nhà
Lỡ mê vợ bé vợ nhà vẫn thương.
45 - Còn duyên bán nhẫn bán vàng
Hết duyên vẫn bán nhẫn vàng như xưa.
46 - Còn duyên thì bán nhẫn vàng
Hết duyên bán mít cho chồng gặm xơ.
47 - Chim oanh hót tiếng rất thanh
Người yêu anh nói dịu dàng dễ thương.
48 - Yêu em anh vẫn ngóng trông
Nếu em lấy chồng anh sống sao đây ?
49 - Cây oằn bởi vì trái sai
Anh xa em bởi mai em lấy chồng.
50 - Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Tình chồng nghĩa vợ giận rồi đi luôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
51 - Cá bống đi tu
Cá thu nó khóc
Cá lóc nó rầu
Phải chi ngoài biển có cầu
Anh ra ngoài đó giải sầu cho em.
52 - Anh đi ăn món giả cầy
Em đi shop mãi anh đây hết tiền.
53 - Ba đồng một mớ đàn ông
Chị nhốt vào lồng cho kiến nó tha
Năm hào một núi đàn bà
Anh vứt ra vườn cho gà nó tranh.
54 - Trèo lên cây khể mà rung
Khề rụng đùng đùng không biết khế ai
Khế ai thì mặc khế ai
Miễn em no bụng, dắt đai đem về.
55 - Nhà bè nước chảy chia hai
Cái nhà nhỏ xíu mà chia nỗi gì
Chịu khó nhường cho em đi
Vì là phận nữ anh tranh làm gì?
56 - Thức đêm mới biết đêm dài
Hai vợ mới biết thế nào là ghen.
57 - Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh bán cúc nuôi gà.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
58 - Người khoẻ thì rất cô đơn
Bởi vì người yếu đông hơn rất nhiều.
59 - Gọt xoài đừng để xoài chua!
Chọn bạn đừng để bạn cua bồ mình.
60 - Một tay làm chẳng nên non
Bốn tay chụm lại nên sòng tiến lên.
61 - Thằng cho vay là thằng dại
Thằng trả lại là thằng ngu!
62 - Trên đời gì rẻ bằng xôi
Anh đây chẳng tiếc mời em ăn cùng
Giờ đây em đã ăn rồi
Hai ngàn em nhớ trả giùm cho anh!
63 - Con người càng lúc càng đông
Thạch Sanh thì ít , Lý thông thì nhiều .
64 - Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa cẳng , người phàm rửa chân!
65 - Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon
Chỉ tội cho cái thằng con
Đứng ngoài chầu chực biết ngon là gì.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
66 - Gió mùa thu anh ru em ngủ.
Em ngủ rồi……anh cạy tủ anh đi!
67 - Chắp tay lạy cụ tình yêu
Cho con lấy được nàng Kiều ngày nay
Cụ nhìn trợn mắt cau mày
Không đưa hối lộ thì đây đếch ừ.
68 - Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết đâu mà lần
Má ơi đừng gả con gần
Con qua xúc gạo nhiều lần má la.
69 - Cá không ăn muối cá ươn
Chồng cãi lại vợ ra đường bơm xe.
70 - Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp …tốn xăng dầu bấy nhiêu
71 - Làm trai cho đáng nên trai
Lang beng cũng trải, giang mai cũng từng!
72 - Hôm qua anh đến nhà em
Ra về mới nhớ để quên năm nghìn
Anh quay trở lại vội vàng
Em còn ngồi đó, năm nghìn…mất tiêu.
73 - Yêu em mấy núi cũng trèo
Đến khi em "bĩnh" mấy đèo anh cũng dông!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
74 - Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Nếu mà anh lấy phải nàng
Anh thà thắt cổ cho nàng ở không.
75 - Giám thị nhìn em giám thị cười
Em nhìn giám thị lệ tuôn rơi
Cổng trường đại học cao vời vợi
Đồng ruộng mênh mông đón em về.
76 - Này cô con gái nhà ai
Cớ sao dám hái hoa nhài nhà tôi
Hái rồi thì hãy …lấy thôi
Còn chưa hái được để tôi…hái dùm.
77 - Chán đời cắt tóc đi tu
Nghĩ đi nghĩ nghĩ lại … đi tù sướng hơn
Trong tù làm chủ giang sơn
Một căn phòng đá với dăm ba thằng
Thằng nào cũng có khiếu năng
Thằng thì giỏi hoạ thằng thì làm thơ
Có thằng lại đứng ngẩn ngơ
Vì sao ta lại trở vô nhà tù?
78 - Cam sành lột vỏ còn chua
Thương em còn nhỏ anh cua để dành.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
79 - Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Đêm qua anh ngủ trên giường
Nhớ em tỉnh giấc, lọt giường gãy xương.
80 - Cái giường mà biết nói năng
Thì ông hàng xóm hàm răng chẳng còn.
81 - Cứ chơi cho hết đời trai trẻ,
Rùi âm thầm lặng lẽ đạp xích lô.
82 - Ai mua tui bán cây…si,
Si tui tốt giống cành chi chít cành.
Hễ si mà gặp Đất lành,
Là si phát triển trở thành ..siđa.
83 - Ai vô xứ Nghệ thì vô,
Còn tui tui cứ thủ đô tui về.
84 - Quân tử đắn đo là quân tử dại
Quân tử làm đại là quân tử khôn.
85 - Thu đi để lại lá vàng,
Anh đi để lại cho nàng thằng cu.
Mùa thu nối tiếp mùa thu,
Thằng cu nối tiếp thằng cu ra đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
86 - Khi xưa vác bút theo thầy,
Bây giờ em lại vác cày theo trâu.
87 - Trời mưa bong bóng phập phồng,
Má đi lấy chồng con ở dzớí … boyfriend(s).
88 - Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Còn em hoa súng thì đành ở … ao .
89 - Con cò đi uống rượu đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Còn anh chả uống ngụm nào
Cũng say ngây ngất ngã vào lòng em.
90 - Con vua thì lại làm vua
Con gái bác sỹ khó cua vô cùng
Kén canh chọn cá lung tung
Mai kia ở giá chiếu mùng lạnh tanh.
91 - Chiều chiều ra đứng ngõ sau.
Thấy em yểu điệu cầm daọ…mổ gà
Con gà em cắt làm ba
Trời ơi có phải em là...em không?
92 - Tóc thề em để ngang vai
Anh mà đụng tới bụp liền đó nghe.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
93 - Tóc thề em xoã ngang vai
Anh mà đụng tới bạt tai bây giờ.
94 - Tìm anh như thể tìm chim
Chim bay điện tử em tìm bi da
Hết tiền chim bay về nhà
Bố nổi giận sách chổi chà rượt chim.
95 - Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời chơi net không vương tơ tình
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em bụng chình ình cũng xinh.
96 - Gió đưa bụi chuối sau hè
Giỡn chơi chút xíu ai dè… có con.
97 - Trăm năm trong cõi người ta
Ai ai cũng phải thở ra hít vào,
Trăm năm trong cõi người nào
Ai ai cũng phải thở vào hít ra.
98 - Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ ở nhà lầu ngồi chơi.
99 - Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Vợ chồng cấy cấy là thằng cu ra đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
100 - Trách người quân tử vô danh.
Chơi hoa xong lại… hái cành kế bên.
101 - Nam vô tửu như kỳ vô phong
Nữ vô phòng kỳ vô phong cũng phất!
102 - Biết em có tính hay ghen
Cho nên sáng tối anh bèn ... bướm ong.
103 - Cha già muộn con chơi vơi
Gần đất xa trời con rớt nơi nơi.
104 - Anh đi ăn món giả cầy
Em đi shop mãi anh đây hết tiền.
105 - Lời nói không tốn tiền mua
Lựa lời mà nói cho lòi tiền ra.
106 - Anh em là ruột là rà
Thiếu tiền không trả đốt nhà như chơi.
107 - Gió đưa cây cải về trời
Rau răm, trứng lộn, thành đôi vợ chồng.
108 - Cầm vàng mà lội qua sông
Long vương thấy ghét giữ không cho về.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
109- Trăm năm duyên nợ ba sinh
Một năm yêu lén vô tình sanh con.
110 - Trăm năm bia đá thì mòn
Bia chai cũng cạn chỉ còn bia ôm
Một đô hai ký chôm chôm
Trăm đô lạng quạng đi ôm bị tù.
111 - Gió đưa bụi chuối sau hè
Cha theo vợ bé Mẹ kè dượng ba
Nhà nghèo con gái đi xa
Đi đến khách sạn nhà ga bến tàu
Mang tiền về Mẹ làm giàu
Họ hàng xúm xít khen nhau hết lời.
112 - Tép đồng nấu với mồng tơi
Em nêm ngon miệng em xơi một mình.
113 - Tháng giêng gió bấc mưa phùn
Không tiền ăn nhậu anh chôm đồ nhà
Hột vịt lộn với hột gà
Hột nào cũng trắng thật là dể thương.
114 - Cá không ăn muối cá ươn
Con yêu mẹ cấm tìm đường con dông
Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng nhiều của cao niên
Tôi ngu tôi cưới vợ hiền
Cầm gừng mà hỏi cũ riềng hả anh ...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
115 - Yêu anh em để tóc thề
Ghét anh kéo bén tối về cắt ngay.
116 - Gió đưa bụi chuối sau hè
Giỡn chơi tí xíu ai dè sanh đôi...
117 - Mất đi một mảnh trăng vàng
Trần gian u tối... biết nàng nơi đâu
Tối về đốt đuốc tìm nhau
Tìm Em cho đến kiếp sau vẫn tìm !
118 - Vợ là gió mát, vợ là bão dông
Vợ như một đóa hoa hồng
Vợ là sư tử Hà Đông kinh người
Vợ là êm ái tuyệt vời
Vợ là bão táp rụng rời chân tay
Vợ là một chất men say
Vợ là cái đắng cái cay trong lòng
Có người nhờ vợ nên ông
Có người vì vợ mất không cơ đồ.
119 - Gọt xoài đừng để xoài chua!
Chọn bạn đừng để bạn cua bồ mình.
120 - Một tay làm chẳng nên non
Bốn tay chụm lại nên sòng tiến lên.
121 - Thằng cho vay là thằng dại.
Thằng trả lại là thằng ngu!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
122 - Vợ là cơm nguội nhà ta
Lại là phở tái thằng cha láng giềng.
123 - Ra đường sợ nhất công nông
Về nhà sợ nhất vợ không nói gì
124 - Im lặng vợ bảo giận gì
Tươi cười vợ bảo chắc đi vời bồ.
125 - Thế gian được vợ hỏng chồng
Muốn chồng chung thủy vợ đừng chính chuyên.
126 - Đàn bà lưu luyến tình xưa
Đàn ông say đắm tình vừa mới quen.
127 - Vĩ nhân quân tử trên đời
Bên em cũng chỉ là người đàn ông.
128 - Bánh mì phải kẹp Patê
Đàn ông phải có máu dê trong người.
129 - Hãy cảnh giác với những gì miễn phí
Chẳng bao giờ tạo hóa lại cho không.
130 - Quạnh hiu ngay giữa đất trời
Còn hơn hiu quạnh giữa người thương yêu.
131 - Thanh Hóa có bán nem chua
Ăn vào ngứa cả rùa rùa ba ba
Quảng Bình có chợ Phú Gia
Gái quê toàn bán thịt gà mất trinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
132 - Muốn đuổi khách ra khỏi nhà
Đọc thơ được giải họ ra tức thì.
133 - Muốn cho trộm chẳng đến nhà
Đề vào trước cửa đây là nhà thơ.
134 - Ghế thì ít, đít thì nhiều
Cho nên đấu đá là điều tất nhiên
Ba lạng ở chốn động tiên
Thừa chỗ đủ để cưỡi lên vạn người.
135 - Ái tình nếu uống đủ liều
Loài người sẽ thoát được điều tà tâm.
136 - Gái tơ cặp với bồ già
Như mai cổ thụ nở hoa bốn mùa.
137 - Đậm đà bản sắc chân quê
Thanh lâu xóa sạch, ca ve đầy đường.
138 - Sống như ta, nghĩ như Tây
Cội nguồn đau khổ chính là ở đây.
139 - Lên tỉnh ai cũng bảo quê
Về nhà cả xóm lại chê thị thành
Xót xa thân phận thôi đành
Nửa quê, nửa tỉnh chòng chành thân em.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
140 - Ngày xưa đất rẻ như bèo
Vườn chung ong bướm bay vèo là sang
Giậu mồng tơi cạnh nhà nàng
Nay xây tường kín, xin chàng bấm chuông.
141 - Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn
Cho nên được gọi là khôn hơn người
Em xinh đâu bởi nụ cười
Em xinh là bởi nhiều người xấu hơn.
142 - Làm trai cho đáng nên trai
Đi đâu cũng có bộ bài dắt lưng.
143 - Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chúng con uống rượu còn run hơn bầm.
144 - Trên rừng có thiếu gì giang
Vì sao anh phải đan sàng trên non.
145 - Con gì ăn ít, nói nhiều
Sống dai lâu chết miệng kêu tiền tiền,
Con gì ăn ít, uống nhiều
Sống dai lâu chết miệng kêu bồ bồ.
(Những lời ca dao trên chúng tôi đã sưu tầm tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc, và một số tỉnh Miền nam)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
[2]. NHỮNG LỜI NHÂN XÉT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN HIỆN ĐẠI VÀ CA
DAO HIỆN ĐẠI
1. “Dân tộc ta từ xưa vốn thích làm thơ, ngâm thơ. Từ Cách mạng tháng
Tám, số người thích làm thơ, ngâm thơ lại càng thêm nhiều. Một mặt, hàng triệu
người thoát nạn mù chữ, tham gia sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; Một mặt khác,
cuộc sống kháng chiến gian nan và phong phú. Con người kháng chiến lo lắng,
hồi hộp, chờ đợi, hy vọng, phấn khởi, sống còn trong một hai năm, nhiều hơn
những cuộc sống kéo dài trong hàng thế kỷ. Do đó càng thấy cần phải có thơ,
các nhà thơ làm thơ, anh cán bộ chính trị, anh bộ đội quân sự, anh công an, anh
bình dân học vụ, anh thông tin, anh đội viên binh nhì, các chị phụ nữ, các em
thiếu nhi hết thảy đều biết làm thơ…Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng
ta tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ cùng hòa điệu ”
[Hoài Thanh (1951), Nói chuyện thơ kháng chiến, Nhà xuất bản Hội văn nghệ
Việt Nam].
2. “Ngày nay, khi quần chúng bắt tay vào lao động với ý thức mới, với
niềm vui phấn khởi chưa từng có thì văn học xuất phát từ đời sống của quần
chúng, văn học do quần chúng sáng tác tức là văn học dân gian lại có điều kiện
phát triển hơn trước kia”.
[Đinh Gia Khánh (1962), Văn học dân gian Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội, tr. 470]
3. “Muốn xây dựng một nền văn nghệ mới, không thể cắt đứt truyền thống
quá khứ của dân tộc và những di sản kiến thức của loài người để lại, trong đó
vốn cổ văn nghệ dân gian, đặc biệt là những tác phẩm biểu hiện ý thức đấu
tranh cách mạng giữ một vị trí quan trọng. Nhưng xây dựng một nền văn nghệ
mới chủ yếu phải xuất phát từ cuộc sống hiện thực của thời đại xã hội ngày nay.
Vì vậy sáng tác văn nghệ của quần chúng hiện đại càng cần được coi trọng, bởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
vì nó ghi lại hình ảnh, tâm sự và nguyện vọng của những con người mới anh
hùng và cuộc sống mới vĩ đại trên đất nước”
[Hà Huy Giáp, (1967) tạp chí văn học (1)]
4. “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ hiện nay, cũng như trong những
năm kháng chiến chống Thực Dân Pháp trước đây, ca dao phát triển rất mạnh.
Có thể nói nơi nào có những hoạt động của quần chúng là nơi đó có thơ ca . Giờ
đây lời thơ không những chỉ vang lên trong câu lạc bộ của các hợp tác xã, trong
các buổi liên hoan văn nghệ hoặc nơi xóm làng có tiếng ru của các bà mẹ, mà
còn vang lên cả trên những mâm pháo và các chiến hào còn sặc mùi thuốc súng
sau mỗi trận chiến đấu ác liệt”.
[Dương Tất Từ (1967),”Một ít ca dao chống Mỹ ở nông thôn ngày nay”, Tạp
chí Văn học (1), tr. 108]
5. “Có nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng từ sau Cách mạng, nhân dân ta
vẫn không quên, không ngừng sáng tạo trong lĩnh vực văn học dân gian với
những thể loại và hình thức sinh hoạt truyền thống của nó.”
[Chu Xuân Diên (1969),”Vấn đề nghiên cưu văn học dân gian hiện đại”, Tạp
chí Văn học (4) tr.36]
6.“Bao giờ còn dân thì bấy giờ còn Phôncơlo”, “dân vạn đại” thì
Phôncơlo cũng “vạn đại”
[Trần Quốc Vượng (1990) “Phôncơlo Việt Nam: trữ lượng và viễn cảnh”, Tạp
chí nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật (5) ,tr. 76]
7. “Văn học dân gian ngày hôm nay vẫn tồn tại mang sức sống mạnh mẽ
và nó vẫn xứng đáng với vai trò “ngự sử” trong đời sống dư luận”
[Trần Gia Linh (1991), Tạp chí Văn học (2), tr. 47]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
[3]. CÁC TRANH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN SINH HOẠT VĂN HÓA DÂN GIAN
THỜI HIỆN ĐẠI
Sinh hoạt văn hóa văn nghệ của một đơn vị bộ đội
Hò kéo pháo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
Tiếp vận và những điệu hò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
Lễ hội văn hóa dân gian của đồng bào vùng cao
Làn điệu Then trên quê hương Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
Điệu hò trên sông
(Những bức ảnh trên chúng tôi sưu tầm tại các phòng truyền thống tại
Thái Nguyên, ảnh tư liệu lịch sử trên intenet, các hãng phim (Hồ Gươm,
Bông Sen), và lễ hội của đồng bào tỉnh Bắc Kạn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_07_SP_VH_DTTL.pdf