LUẬN VĂN THẠC SỸ: "Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long"
MS: LVDL-DLH024
SỐ TRANG: 114
NGÀNH: Địa lý
CHUYÊN NGÀNH: Địa lý học
NĂM: 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, lợi thế phát triển của thế giới không chỉ là điều kiện tự
nhiên hay nguồn lực tài chính, thay vào đó là con người và trí tuệ con người. Thực tiễn
cho thấy, từ phương diện đầu tư cho phát triển thì việc đầu tư vào yếu tố con người,
không ngừng nâng cao vốn con người được coi là đầu tư có hiệu quả nhất. Kinh
nghiệm một số quốc gia phát triển khẳng định chiến lược ưu tiên đầu tư có định hướng
cho con người thông qua việc đẩy mạnh chi tiêu một số lĩnh vực xã hội: giáo dục, y tế,
an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo đã làm nên những bước tiến thần kỳ trong tăng
trưởng kinh tế và đổi mới xã hội.
Năm 1990, Báo cáo phát triển con người UNDP đã đưa ra một phương pháp, một
cách tiếp cận theo những tiêu chí mới trong việc đánh giá sự phát triển con người thông
qua chỉ số HDI. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước ta, phát triển con
người một cách toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi chính sách của Đảng
và Nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ IX, tháng 4 năm 2001, đã xác định một trong
những mục tiêu cụ thể của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là:
“Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta”. [I, tr.160]. Điều đặc
biệt là lần đầu tiên chỉ số phát triển con người HDI đã cùng những chỉ tiêu tăng GDP
trở thành mục tiêu chiến lược của cả đất nước, cả dân tộc.
Để thực hiện được mục tiêu đó, xem xét, phân tích mối tương quan giữa hai chỉ
số HDI và GDP là rất cần thiết cho việc xác định ưu tiên và tiến độ thực hiện thích hợp.
Ngoài ra, giáo dục là một trong những nhân tố quan trọng trong việc hình thành
chỉ số phát triển con người. Chỉ số phát triển giáo dục phản ánh trạng thái phát triển
giáo dục trong mối quan hệ với các khía cạnh của phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên
cứu mối tương quan giữa chỉ số giáo dục và chỉ số phát triển con người, cũng như giữa
chỉ số phát triển giáo dục và chỉ số phát triển kinh tế nhằm phản ánh giáo dục là mục
tiêu của quá trình phát triển.
Giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long vẫn nằm ở vị trí thấp nhất trong bản đồ
giáo dục cả nước. Chỉ số phát triển con người HDI của các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu 2
Long chủ yếu ở nhóm trung bình. Tăng trưởng GDP luôn cao hơn mức trung bình cả
nước. Và như vậy, tìm hiểu mối tương quan giữa chỉ số phát triển con người, chỉ số
phát triển kinh tế và chỉ số phát triển giáo dục để tìm hiểu có sự nghịch lý hay không.
Từ đó đưa ra những kiến nghị, định hướng phát triển kinh tế - xã hội một cách hợp lý
nhất trong giai đoạn tới nhằm làm cho người dân đồng bằng được hưởng thụ cuộc sống
hạnh phúc và bền vững hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Tìm hiểu, củng cố những lí luận về quan niệm phát triển con người và vai trò
của chỉ số phát triển con người HDI cũng như các chỉ tiêu thành phần của chỉ số HDI.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển chỉ số phát triển con người ở vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long.
Tìm hiểu, phân tích mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát
triển kinh tế và phát triển giáo dục.
Đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người
cũng như để đạt được mối tương thích cao hơn trong giai đoạn tới.
2.2. Nhiệm vụ
Cung cấp được các kiến thức nền tảng về chỉ số HDI; tạo ra được sự thống nhất
về cơ sở phương pháp luận cho việc tính chỉ số HDI áp dụng ở Việt Nam nói chung và
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng.
Tính toán, đánh giá và so sánh hiện trạng phát triển các chỉ số ở vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long với các vùng khác và cả nước.
Đánh giá mối tương quan qua lại giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển
kinh tế và phát triển giáo dục với các vấn đề đặt ra:
+ Mức độ tương thích của các chỉ số này;
+ Ý nghĩa của mỗi chỉ số vào đóng góp tăng lên của HDI;
+ Sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau theo chiều thuận hay nghịch;
+ Những nhận xét, quan điểm, kiến nghị nào được đưa ra
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là những chỉ số phát triển con người
HDI; chỉ số tăng trưởng kinh tế mà đại diện là chỉ tiêu GDP, GDP/người và chỉ số phát
triển giáo dục trên phạm vi 13 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Đề tài nghiên cứu với nguồn dữ liệu cơ bản là năm 1999 và 2004, dựa trên Báo
cáo phát triển con người Việt Nam 2001 và 2006 điều tra đến từng tỉnh thành phố của
cả nước. Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng nguồn số liệu từ Niên giám thống kê hàng
năm của các tỉnh, thành phố Đồng bằng Sông Cửu Long.
Dựa trên số liệu gộp với các quan sát là 13 tỉnh, thành phố Đồng bằng Sông Cửu
Long trong giai đoạn 1999-2004, đề tài áp dụng hàm Forecast để mở rộng nghiên cứu
mối tương quan giữa các chỉ số đến năm 2007.
4. Hệ thống quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Hệ thống quan điểm
- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ: Đây là quan điểm cơ bản, truyền thống và được
xem là đặc trưng của Địa lý học. Đó là khi xem xét các sự vật hiện tượng địa lý phải
đặt chúng trong mối quan hệ về không gian. Quan điểm này luôn chiếm được sự đồng
thuận cao bởi trong thực tế các sự vật và hiện tượng địa lý luôn luôn có sự phân hóa về
mặt không gian, làm cho chúng có sự khác biệt giữa nơi này với nơi khác. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, tác giả luôn đặt các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long trong mối quan hệ không gian của vùng và của vùng với các vùng khác trong cả
nước để so sánh và đánh giá.
- Quan điểm hệ thống: Con người và sự phát triển con người, cũng như các quá
trình vận động, phát triển kinh tế - xã hội không phải là một quá trình đơn lẻ, độc lập
mà còn gắn kết với các quá trình vận động tự nhiên, xã hội khác. Chúng là bộ phận cấu
thành của hệ thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không
ngừng, do đó, phải xem xét trên quan điểm hệ thống.
- Quan điểm lịch sử - viễn cảnh: Các sự vật hiện tượng trong quá trình vận động
và phát triển của mình không chỉ biến đổi về mặt không gian mà còn có sự thay đổi
theo thời gian. Đặc biệt là vấn đề con người luôn có sự đa dạng và biến đổi phức tạp.
Sự phát triển con người từ quan niệm, nhận thức, bản chất, thái độ đối xử . với vấn đề 4
này trong quá khứ luôn có sự ảnh hưởng nhất định đến quá trình đánh giá trong hiện tại
và tương lai. Do đó, việc nghiên cứu đề tài luôn được xem xét trong mối liên hệ quá
khứ - hiện tại – tương lai để làm rõ hơn bản chất của vấn đề theo thời gian, đảm bảo
được tính logic, khoa học và chính xác.
- Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững: Quá trình phát triển của con người
luôn chịu ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Đồng thời con người cũng có những tác
động làm biến đổi môi trường xung quanh. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
con người trong quá trình phát triển của mình cần phải quán triệt quan điểm sinh thái
và phát triển bền vững khi nghiên cứu vấn đề. Phát triển con người phải đi đôi với phát
triển kinh tế, công bằng xã hội và phát triển môi trường bền vững, mục đích cuối cùng
là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Đây là một phương pháp rất quan trọng
trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở sưu tầm nhiều nguồn tài liệu
khác nhau, chúng ta tiến hành chọn lọc và xử lý nguồn thông tin, số liệu đáng tin cậy
nhất phục vụ hiệu quả cho đề tài.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: dựa trên việc phân tích nguồn tài liệu đã
có cũng như những nhận định quan sát từ thực tế, chúng ta mới có cái nhìn toàn
diện về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy
đủ nhất đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đặt ra.
- Phương pháp bản đồ - biểu đồ: Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa
lí. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và
toàn diện hơn. Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng phần mềm Mapinfo 7.5,
dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và xử lý. Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối
quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ.
- Phương pháp khảo sát: là phương pháp cần thiết để tăng thêm độ tin cậy của các
nguồn tài liệu thu thập và tính khách quan cho đề tài.
- Phương pháp lượng hoá: làm tăng tính định lượng trong khi lập luận nghiên cứu
các sự vật, hiện tượng địa lý, sẽ làm giảm đi sự suy đoán định tính. 5
- Phương pháp dự báo: Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính
toán từ các số liệu đã thu thập được và sự phát triển có tính quy luật của các sự vật,
hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
- Phương pháp chuyên gia: trong quá trình thực hiện đề tài, để đảm bảo tính
khoa học và đưa ra được những dự báo chính xác, hợp lí . cần phải tham khảo ý kiến
của các chuyên gia, những nhà nghiên cứu về con người, nguồn nhân lực, về kinh tế
học giáo dục .
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa và mang tính thực tiễn, tính nhân văn cao, vì
các lý do sau:
- Giải thích một cách khoa học mức đóng góp của tăng trưởng kinh tế vào việc
tăng lên của chỉ số HDI; cũng như biểu đạt phần đóng góp của nhân tố giáo dục vào
chỉ số HDI. Sự đóng góp là hợp lý hay không;
- Nhận định được tiềm năng của giáo dục có thể tác động vào sự gia tăng của
thu nhập kinh tế;
- Tạo một cơ sở lý luận khoa học vững chắc để giải quyết các vấn đề này. Có
những biện pháp thúc đẩy, tăng cường nhằm nâng cao chỉ số HDI trong tương lai,
làm cho cuộc sống mọi người dân tốt đẹp hơn.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp, các ngành chỉ đạo thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội; trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy
6. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long.
Chương 3: Một số định hướng cơ bản nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người ở Đồng bằng Sông Cửu Long.
Kết luận
114 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2224 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giáo dục, sức khỏe và chất lượng sống có giá trị nội tại, phát triển con người có tầm
quan trọng trực tiếp và trước mắt. Thêm vào đó, vì chất lượng năng lực con người được
củng cố thông qua giáo dục tốt hơn, sức khỏe tốt hơn và tương tự như thế, nên phát
triển con người cũng có tầm quan trọng gián tiếp to lớn. Sự thịnh vượng vật chất do
phát triển con người tạo ra, đến lượt nó, có thể đóng góp làm tăng hơn nữa chất lượng
cuộc sống con người. Tầm quan trọng của mối liên hệ gián tiếp này củng cố thêm sự
phù hợp của phát triển con người mà không coi nhẹ tầm quan trọng trực tiếp của nó.
87
Quan điểm phát triển con người bao gồm ý nghĩa của vốn con người mà không làm
mất đi quan niệm coi cuộc sống con người là mục đích của quá trình chứ không phải là
phương tiện của sản xuất hay hoạt động kinh tế.
Phát triển con người là nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Yếu tố quan
trọng nhất của lực lượng sản xuất là con người có trình độ trí tuệ và tay nghề cao. Đầu
tư phát triển nguồn lực con người là đầu tư quan trọng nhất và có hiệu quả nhất, là yếu
tố quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Muốn phát triển nhanh, bền vững, thực hiện đi tắt đón đầu, chúng ta không có con
đường nào khác là phải dựa vào nguồn vốn quý giá nhất là truyền thống yêu nước, trí
thông minh, tiềm năng sáng tạo của người Việt Nam.
Xây dựng cuộc sống hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh, ngay trong điều
kiện thu nhập bình quân đầu người chưa cao là cách làm hiệu quả và đảm bảo phát
triển bền vững. Nhà nước tạo cơ hội bình đẳng cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá
nhân; tạo điều kiện để mọi người dân được hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, có cơ hội
học tập suốt đời để nâng cao kiến thức, tay nghề, khuyến khích làm giàu theo pháp luật.
Mọi công dân được thông tin đầy đủ về quyền, nghĩa vụ cà những lợi ích chính đáng;
được tham gia quyết định và có trách nhiệm góp phần giải quyết những vấn đề của
cộng đồng. Xây dựng mối quan hệ và nếp sống tốt đẹp, văn minh trong gia đình, cộng
đồng đời sống của nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn, các vùng khó khăn. Giữ vững và
phát huy truyền thống tiết kiệm, tương ái, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, tôn
vinh và chăm sóc những người có công với nước.
Theo quan điểm kinh tế học phát triển, giáo dục phổ cập và chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, được xem là hai ngành “ngoại vi” của hoạt động kinh tế, tức là khả năng
của chúng nhiều nhất cũng chỉ là tạo điều kiện cho xã hội phát triển tốt hơn; và vì
vậy, nếu như hiệu quả kinh tế của hai lĩnh vực này không đủ lớn, thì cách giải quyết
chỉ có thể là “rót” thêm vào đây một phần phúc lợi xã hội có thể. Nhưng nếu nhìn
nhận vấn đề theo quan điểm phát triển con người, thì giáo dục phổ cập và chăm sóc
88
sức khỏe cộng đồng lại không phải chỉ là hai ngành sinh lợi hay không sinh lợi,
cũng không phải chỉ là hai “vùng ngoại vi” có khả năng thúc đẩy xã hội tốt lên hay
xấu đi. Mà đây là hai lĩnh vực thể hiện sự phát triển hợp lý hay không hợp lý của
xã hội. Bởi lẽ, giáo dục phổ cập và chăm sóc sức khỏe cộng đồng chính là hai chỉ
báo nói lên năng lực sinh thể và năng lực tinh thần của dân cư. Hai lĩnh vực này
phát triển lành mạnh nghĩa là xã hội phát triển lành mạnh, chứ không phải chúng
phát triển để tạo điều kiện cho xã hội phát triển. Sức khoẻ và kiến thức không chỉ là
phương tiện để mọi người đạt đến một cuộc sống hạnh phúc mà chúng chính là
thành phần cơ bản của cuộc sống hạnh phúc. Việc chăm lo cho giáo dục phổ cập và
chăm sóc sức khỏe cộng đồng luôn luôn là sống còn và có ý nghĩa nhân văn ngay cả
khi những lĩnh vực này không sinh lợi về kinh tế.
3.2. TIẾP TỤC NÂNG CAO CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÙNG ĐBSCL
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020 đã xác
định: cần nhanh chóng xây dựng vùng ĐBSCL trở thành vùng trọng điểm phát triển
kinh tế của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các mặt văn hóa, xã hội tiến kịp
mặt bằng chung của cả nước; bảo đảm ổn định chính trị và an ninh quốc phòng vững
chắc, làm chủ vùng biển; là địa bàn cầu nối để chủ động hội nhập, hợp tác kinh tế có
hiệu quả với các nước trong khu vực.
Trong thời gian tới, dự báo chỉ số phát triển con người vùng ĐBSCL tiếp tục tăng
và phấn đấu đạt bằng hay cao hơn mức trung bình của cả nước. Giai đoạn 1999-2004,
giá trị chỉ số HDI khu vực ĐBSCL có tốc độ tăng bình quân là 0,96%/năm. Đến 2010,
nếu tăng với tốc độ này thì giá trị HDI sẽ tăng thêm 0,04, tức HDI ở mức 0,742. Trong
khi đó, chỉ số HDI trung bình cả nước hiện đã đạt 0,731. Như vậy để nâng lên đáng kể
giá trị HDI, chúng ta cần xác định các biện pháp tích cực và khẩn trương nhằm nâng
giá trị HDI với mức tối thiểu 1-1,1%/năm. Đây là mức phải có nhiều nỗ lực, nhất là
trong tình trạng giáo dục ở ĐBSCL còn nhiều bất cập như hiện nay. Ngoài ra cần lưu ý
một số vấn đề sau:
89
- Chỉ số kinh tế có khả năng tăng nhanh nhất song cần chú ý đến chất lượng tăng
trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển con người,
đặc biệt là vấn đề việc làm và môi trường.
- Chỉ số giáo dục có thể tăng được với những nỗ lực lớn, song cần chú ý đến chất
lượng giáo dục đang có chiều hướng suy giảm. Đặc biệt, cần cụ thể hoá hơn vai
trò của giáo dục trong việc tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Chỉ số tuổi thọ ít nhất cần duy trì như giai đoạn 2001-2005, lưu ý một số tác
động tiêu cực tới chỉ số này là tình trạng tử vong do tai nạn giao thông (trung
bình cả nước khoảng 30 người/ngày, tức hơn 10.000 người/năm, tập trung ở độ
tuổi thanh niên và trung niên); sự gia tăng lây lan của HIV/AIDS; sự tăng lên
của tỷ lệ người mắc bệnh lao, sốt rét, tâm thần...
3.2.1. Tiếp tục đẩy nhanh phát triển kinh tế vùng ĐBSCL
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn, huy động cao nhất các nguồn lực để phát triển
ĐBSCL với tốc độ tăng trưởng nhanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng. Phấn đấu tốc
độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,5%/năm giai đoạn 2006-2010; khoảng 11,5%/năm giai
đoạn 2011-2015 và 11%/năm giai đoạn 2016-2020. Đưa GDP/người của vùng đạt mức
trung bình của cả nước trong giai đoạn 2011-2015 và đến năm 2020 gấp 1,1 lần bình
quân chung của cả nước. Dự kiến, GDP bình quân đầu người vùng ĐBSCL đến năm
2010 đạt 1050 USD, năm 2020 khoảng 2300 – 2400 USD.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm nhanh tỷ trọng nông
nghiệp, tăng công nghiệp và dịch vụ cả trong GDP và cơ cấu lao động, bảo đảm an
ninh lương thực cho đất nước và xuất khẩu. Chú trọng phát triển toàn diện kinh tế biển
như: khai thác và nuôi trồng hải sản, dầu khí, du lịch, dịch vụ cảng biển và vận tải biển,
công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ. Đến năm 2010 tỷ trọng nông lâm ngư
nghiệp trong GDP của vùng còn khoảng 36%, công nghiệp xây dựng đạt 30% và khu
vực dịch vụ 34%, đến năm 2020 tỷ trọng nông nghiệp còn 21%, công nghiệp xây dựng
tăng lên 43% và khu vực dịch vụ là 37%.
90
Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm,
giảm chênh lệch về phát triển xã hội giữa các khu vực và giữa đồng bào dân tộc Kinh
và đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 5 năm, giải quyết việc làm cho khoảng 1,8 – 2
triệu lao đông trong độ tuổi. Đến năm 2010, duy trì tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong
độ tuổi khu vực thành thị dưới 5%, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn
lên 85%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo của vùng xuống dưới 9% (theo chuẩn quốc gia giai đoạn
2006-2010).
Đẩy mạnh thu hút đầu tư trên địa bàn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước. Tổng đầu tư toàn xã hội trên địa bàn vùng chiếm khoảng 36-37% GDP trong giai
đoạn 2006-2010 và khoảng 40-42% GDP trong giai đoạn 2011-2020.
Tiếp tục đẩy nhanh đổi mới công nghệ ở các ngành và lĩnh vực. Tốc độ đổi mới
công nghệ đạt bình quân 18-20%/năm; riêng trong một số ngành và lĩnh vực quan
trọng đạt 22-25%/năm.
Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân giai đoạn 2006-2010 trên 16%/năm, đến
năm 2010 kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt 350 USD, trong giai đoạn
2011-2020 kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 15%/năm, đến năm 2020 kim
ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 1250 USD.
Góp phần quan trọng vào bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và giữ vững mức
xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm.
Phấn đấu đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo của vùng ĐBSCL đến năm 2010 đạt
33%, năm 2020 khoảng 50%.
Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, đưa tỷ lệ đô thị hóa của vùng lên khoảng 25% vào
năm 2010 và 40% vào năm 2020.
Để thúc đẩy nhanh phát triển và xây dựng vùng ĐBSCL thành vùng kinh tế lớn
của cả nước, cần thực hiện bằng được các khâu đột phá sau:
+ Đầu tư xây dựng mạng lưới giao thông hiện đại bao gồm xây dựng, nâng cấp
các tuyến trục giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, đường cao tốc thành phố Hồ Chí
Minh - Cần Thơ, các tuyến N1, N2, xây dựng cảng biển quốc tế Cần Thơ, sân bay quốc
tế Trà Nóc, Dương Tơ.
91
+ Nâng cấp, hoàn thiện mạng lưới thuỷ lợi, ưu tiên các công trình thủy lợi phục
vụ nuôi trồng thủy sản, khu vực trồng cây ăn trái quy mô lớn.
+ Phát triển nhanh giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của vùng để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới.
+ Đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ, đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, nhất là trong các lĩnh vực thủy sản và nông nghiệp.
+ Nhanh chóng phát triển các trung tâm kinh tế, làm bàn đạp đưa vùng đồng bằng
sông Cửu Long hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Xây dựng thành phố Cần Thơ xứng tầm đô thị loại I, trở thành trung tâm động
lực phát triển vùng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa quy mô
dân số của thành phố lên 2 triệu dân.
Từng bước xây dựng Phú Quốc trở thành trung tâm du lịch, giao thương lớn của
vùng, cả nước và khu vực.
Nghiên cứu thành lập và phát triển khu kinh tế Định An (Trà Vinh).
Thành lập Vùng Kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL (theo Quyết định 492/QĐ-
TTg) bao gồm thành phố Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. “Vùng kinh tế
trọng điểm ĐBSCL tiếp tục là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt
và chế biến thủy sản... có vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học,
cung cấp giống, kỹ thuật…. cho cả vùng ĐBSCL...”
+ Phát triển đa dạng các phân ngành công nghiệp, không chỉ công nghiệp phục
vụ nông nghiệp, trong đó đẩy nhanh xây dựng cụm công nghiệp khí - điện - đạm Cà
Mau, trung tâm điện lực Ô Môn, nhà máy lọc dầu Cần Thơ, cơ khí đóng tàu, công
nghệ thông tin...
3.2.2. Tăng cường phát triển giáo dục
Thực sự coi phát triển giáo dục và đào tạo là khâu đột phá, là nhân tố quyết
định sự phát triển nhanh và bền vững của vùng. Tập trung sức chỉ đạo để thực hiện
bằng được mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20-1-2003 của
Bộ Chính trị: đến năm 2010 giáo dục - đào tạo ở ĐBSCL bằng mức bình quân
chung của cả nước.
92
Phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề ĐBSCL phải đặt trong mối quan hệ phát
triển tổng thể và đồng bộ với phát triển kinh tế-xã hội. Coi phát triển giáo dục, đào tạo
và dạy nghề ở ĐBSCL không chỉ phục vụ cho sự nghiệp phát triển của vùng, mà còn là
sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội chung của cả nước. Trung ương, địa phương và
nhân dân cùng nhau chung sức thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Mở rộng quy mô giáo dục và đào tạo ở ĐBSCL phải đi đôi với việc tăng
cường các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo. Đi đôi với phát triển
về lượng, phải đặc biệt chú trọng chất lượng tri thức và phẩm chất con người trong
quá trình đào tạo.
Phải phát huy sức mạnh tổng hợp trong đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
Ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ yếu, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động
thêm sự đóng góp của toàn dân, của các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển sự
nghiệp giáo dục và đào tạo.
Củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, từng bước
phổ cập trung học cơ sở, trong đó Nhà nước đóng vai trò cơ bản, nhất là thông qua chi
tiêu cho giáo dục. Đây là giải pháp quan trọng giúp đông đảo người nghèo, trước hết là
các trẻ em nghèo, có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản cũng như giúp nâng cao năng lực
phát triển chung của xã hội
Đến năm 2010 giáo dục, đào tạo và dạy nghề ĐBSCL đạt chỉ số phát triển của
các ngành học, bậc học ngang bằng mức bình quân chung của cả nước; có 50% tỉnh đạt
phổ cập trung học phổ thông; giảm tỷ lệ lưu ban, bỏ học ở giáo dục phổ thông xuống
dưới mức bình quân chung cả nước; đặt trọng tâm vào việc phát triển quy mô giáo dục
nghề nghiệp, bao gồm sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề và đào tạo trung
học chuyên nghiệp, mở rộng diện dạy nghề cho nông dân; mở rộng quy mô giáo dục
đại học và sau đại học nhằm từng bước điều chỉnh cơ cấu và trình độ lực lượng lao
động, tăng số lượng sinh viên/1 vạn dân. Phấn đấu đến năm 2015, trình độ phát triển
giáo dục và đào tạo, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của ĐBSCL cao hơn chỉ số trung
bình của cả nước.
Để đạt mục tiêu trên, ĐBSCL cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
93
3.2.2.1. Tuyên truyền sâu rộng trong toàn xã hội tham gia phát triển giáo
dục và đào tạo
Để thay đổi căn bản tập quán, nếp sống, cách nghĩ, coi giáo dục là động lực để
phát triển, việc học là trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và địa phương, cần thiết phải
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mở cuộc vận động sâu rộng nhằm
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức xã hội về việc đi học của mỗi cá nhân và
việc đảm bảo quyền học tập cho trẻ em của các bậc cha mẹ và người lớn tuổi, làm cho
mỗi gia đình, mỗi người dân, mỗi cơ quan, cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và tổ
chức quần chúng xã hội trong vùng nhận thức một cách đầy đủ về ý nghĩa quan trọng
của giáo dục và đào tạo trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao mức
sống, cải thiện điều kiện sống và bảo đảm công bằng xã hội; đồng thời nâng cao trách
nhiệm của mỗi tổ chức, đơn vị, cơ quan từ trung ương đến địa phương trong việc triển
khai nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo của đồng bằng sông Cửu Long.
3.2.2.2. Cải cách chương trình giáo dục – đào tạo và cách dạy và học
Đây là yêu cầu bức xúc và có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ nhiệm vụ
đổi mới hệ thống giáo dục – đào tạo. Chương trình phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền
tảng tri thức cho sự phát triển con người toàn diện, đồng thời, phải phù hợp với yêu cầu
mới của thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Theo nghĩa đó, chương trình cũng cần
dành một tỷ lệ thích đáng cho các môn học cung cấp lại các tri thức công cụ - tối thiểu
của thời đại. Hiện nay, việc đọc thông thạo tiếng mẹ đẻ là chưa đủ, việc phổ cập tiếng
Anh và kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và internet cho học sinh trung học là
bắt buộc. Không thể để tình trạng học sinh các tỉnh trong vùng khi vào học ở các
trường chuyên nghiệp hoặc đại học, việc học ngoại ngữ và vi tính mới bắt đầu từ đầu,
sẽ không theo kịp học sinh thành phố, làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
Đồng thời, xây dựng, ban hành các chương trình, giáo trình đào tạo với các ngành
nghề phù hợp với đặc điểm văn hóa, phong tục, tập quán của nhân dân và nhu cầu thực
tế của địa phương; nghiên cứu xây dựng các chương trình, giáo trình dạy nghề đặc thù
(tiếng Khmer) phù hợp với trình độ của học sinh dân tộc thiểu số... Xây dựng kế hoạch
năm học linh hoạt phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long
94
để bảo đảm thời gian học nghề của học sinh; tổ chức các mô hình dạy nghề đa dạng,
linh hoạt phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng trên từng địa bàn; phát triển
dạy nghề lưu động, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm đối tượng khó khăn, yếu thế
được tham gia học nghề, tự tạo việc làm...
Cách học thụ động và cách dạy theo lối “áp đặt” và với mục tiêu cung cấp khối
lượng lớn thông tin đã tỏ ra lạc hậu, thậm chí là có hại. Cách dạy và học cần chuyển
mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận, xử lý thông tin và tri thức cũng
như phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề. Ngay trong nhà trường, các kênh
chuyển tải tri thức cũng phải được đa dạng hoá. Chương trình, cách dạy và học mới, dĩ
nhiên, đòi hỏi chất lượng mới đối với đội ngũ giáo viên. Sự hỗ trợ của Nhà nước và
quốc tế và nỗ lực của bản thân nhà truờng, giáo viên trong môi trường ngày càng nhiều
cơ hội học tập có thể lựa chọn sẽ tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ đối với việc nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên.
3.2.2.3. Nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Tổ chức đa dạng chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên
hiện hữu, nâng chuẩn đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tăng cường đội
ngũ giảng dạy từ các nơi khác đến với một chế độ đãi ngộ hợp lý. Đây chính là nguồn
chủ yếu cho đào tạo nghề, đào tạo cao đẳng, đại học và trình độ cao hơn.
Thực hiện đề án đào tạo giảng viên cho các trường đại học cao đẳng đến năm
2020 với ba phương án: đào tạo ở trong nước, đào tạo ở nước ngoài và kết hợp đào tạo
trong và ngoài nước. Trước mắt tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý,
cán bộ giảng dạy thông qua các chương trình đào tạo tiến sĩ cho giảng viên các trường
cao đẳng, đại học trong khu vực, nhất là những trường mới thành lập.
Tập trung giao nhiệm vụ cho một số Trường đại học và Viện nghiên cứu lớn
trong nước, đặc biệt là các đại học theo hướng nghiên cứu đảm nhiệm việc đào tạo số
tiến sĩ trong nước với sự tham gia của các giáo sư được mời từ những đại học có uy tín
trên thế giới.
Phát huy cao độ nội lực của từng tỉnh, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong
giai đoạn hội nhập. Trường đại học Cần Thơ, An Giang tiếp tục thực hiện công tác đào
95
tạo nâng chuẩn trình độ của giảng viên. Mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ sở đào tạo
trong và ngoài nước, tìm kiếm cơ hội cho giáo viên nhận học bổng tài trợ.
3.2.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật
Mở rộng mạng lưới trường học, lớp học mầm non. Củng cố và hoàn thiện
mạng lưới các trường tiểu học, THCS và THPT (bao gồm cả trường dân tộc nội trú)
gắn liền với quy hoạch cụm dân cư; đầu tư xây dựng ở mỗi cụm dân cư có ít nhất 1
trường hoặc 1 điểm trường tiểu học và mẫu giáo, mầm non; mỗi xã có 1 trường
THCS ; mỗi huyện, thị xã có từ 2 trường THPT trở lên ; xoá phòng học 3 ca và
thanh toán phòng học tạm, tre lá; phấn đấu đến năm 2010 mỗi huyện có 1 trường
mầm non đạt chuẩn quốc gia và 1 trường mầm non trọng điểm; cả vùng có từ 18%
đến 20% trường tiểu học, 12% đến 15% trường THCS và từ 10% đến 12% trường
THPT đạt chuẩn quốc gia.
Các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học phải có phòng thí nghiệm,
phòng chức năng ngoại ngữ, vi tính, tổ chức thư viện của trường theo hướng: mua lại
sách cũ, quyên góp sách cũ và sách truyện để những em học sinh có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn có thể mượn sách giáo khoa về học không phải mua, đây cũng là một cách
giảm nhẹ chi phí đi học cho những học sinh nghèo.
Phấn đấu từ nay đến năm 2010 mở rộng mạng lưới Cao đẳng Cộng đồng cho mỗi
tỉnh. Ở những nơi còn khó khăn có thể liên kết và vài tỉnh có một Cao đẳng Cộng đồng.
Đây là biện pháp đào tạo phù hợp có hiệu quả và để kịp thời tạo nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đồng thời là cơ sở cung cấp nguồn đào tạo bậc
đại học về sau.
Có thể mở thêm 1-2 trường đại học công cho các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên
Giang, Hậu Giang; đồng thời khuyến khích mở các đại học dân lập và tư thục ở
ĐBSCL phù hợp với điều kiện và yêu cầu của vùng. Chính phủ cần có sự quan tâm
đặc biệt đối với vùng ĐBSCL về quy hoạch, hỗ trợ một phần kinh phí hoặc cho vay
với mức lãi suất ưu đãi, cấp đất hoặc cho thuê dài hạn để thành lập thêm trường đại
học và cao đẳng (hiện nay số trường đại học và cao đẳng của vùng ĐBSCL chỉ mới
gần bằng 1/3 số trường đại học và cao đẳng ở vùng Đồng bằng Sông Hồng). Mặt
96
khác để có một đội ngũ nhà quản lý và giảng viên cho các trường dân lập, tư thục
cần kêu gọi, động viên, khuyến khích những Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú,
những Giáo sư, Phó giáo sư… đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn tâm huyết với nghề
nghiệp đứng ra thành lập trường.
Cho phép các trường đại học công ngay cả đại học dân lập mở thêm hệ đại học
“Ghi danh” (đại học mở) để tăng thêm nguồn nhân lực có trình độ đại học cho các
ngành kinh tế chưa đòi hỏi nguồn nhân lực cao. Mặt khác, cũng nên đổi mới quan
niệm: “Học không chỉ để tìm cơ hội có việc làm, mà còn làm tốt hơn công việc đang
làm (ngay cả làm ruộng, buôn bán, lao công...) vừa tạo việc làm cho chính mình và cho
cả cộng đồng”. Đây cũng là một yếu tố góp phần nâng cao nếp sống văn hóa văn minh
xã hội.
Đẩy nhanh hệ thống các trường dạy nghề, kể cả các trường dạy nghề chất
lượng cao. Như đã phân tích những lợi thế trên, thì đây chính là thế mạnh của
ĐBSCL. Nó không chỉ tạo nguồn lao động cung cấp ở địa phương mà còn cung cấp
cho các địa phương khác, làm giảm nhẹ số lao động thất nghiệp và xuất khẩu lao
động ra nước ngoài.
3.2.2.5. Phát triển thị trường lao động
Thiết lập mối liên hệ giữa việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử
dụng nhân lực thông qua việc phát triển thị trường lao động và thị trường sản phẩm
khoa học, công nghệ. Sự phát triển của thị trường này sẽ cung cấp các chỉ báo cần thiết
cho việc chuyển đổi hệ thống đào tạo, từ yêu cầu cải cách nội dung và nâng cấp chất
lượng chương trình đào tạo cho đến số lượng và cơ cấu các cơ sở đào tạo.
Thành lập các trung tâm nghiên cứu, hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực trong
vùng. Các trung tâm này thực hiện nhiệm vụ xác định nhu cầu của doanh nghiệp và tìm
nguồn cung ứng nhân lực cho doanh nghiệp. Đó cũng là điều kiện để hình thành chợ
đào tạo về nhân lực trình độ cao. Trong giai đoạn từ 2010-2015, trung tâm này nên trực
thuộc phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ (VCCI), trung
tâm này sẽ làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trung vùng.
97
Hình thành trung tâm nghiên cứu và dự báo nhu cầu nguồn nhân lực ĐBSCL.
Trung tâm này sẽ thực hiện các nghiên cứu và dự báo nhu cầu nhân lực trong Vùng.
Trên cơ sở đó các cơ sở đào tạo sẽ xây dựng kế hoạch đào tạo, chuẩn bị năng lực đào
tạo phù hợp với dự báo nhu cầu nhân lực trong từng giai đoạn.
Nhất thiết phải liên kết giữa các Viện - Trường - Doanh nghiệp để hình thành
mạng lưới đào tạo nhân lực. Đối với các Viện, Trường, Trung tâm đào tạo, cần phải
phối hợp chặt chẽ với các nhà tuyển dụng để tự đánh giá các chương trình đang được
đào tạo, điều chỉnh nội dung môn học đồng thời cập nhật nội dung mới đưa vào
chương trình giảng dạy. Ngược lại, các nhà tuyển dụng cần xác định trách nhiệm tham
gia trong một số khâu của quá trình đào tạo, đặt yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo về
nội dung kiến thức, kỹ năng để đáp ứng được nhu cầu của cơ sở mình.
3.2.3. Thực hiện đồng bộ phát triển y tế với an sinh xã hội
Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội sẽ giúp cải thiện kỹ năng và sức khỏe cho
nguồn nhân lực, từ đó, tăng tính cạnh tranh của cả nền kinh tế. Đồng thời, an sinh xã
hội giúp cộng đồng có thể chia sẻ và quản lý được rủi ro kinh tế. Quan trọng hơn, một
hệ thống an sinh xã hội tốt có thể giúp người dân tự thoát nghèo và không bị tái nghèo.
Đòi hỏi cấp thiết trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe chưa phải là việc phát
triển các dịch vụ cao cấp, mà là những nỗ lực mở rộng diện cung cấp và nâng cao chất
lượng các dịch vụ cơ bản. Tính ưu tiên của sự lựa chọn này xuất phát từ quan điểm
phát triển vì tất cả mọi người và cũng là nhằm giảm thiểu mức độ bất bình đẳng giữa
các nhóm dân cư có thu nhập khác biệt thuộc các vùng và các tầng lớp khác nhau. Các
mục tiêu cụ thể phản ánh sự ưu tiên đó là: mở rộng cơ hội để mọi người dân tiếp cận dễ
dàng đến y tế dự phòng; bảo đảm mọi người dân được chữa các bệnh thông thường;
giảm nhanh tỷ lệ trẻ em và phụ nữ có thai bị suy dinh dưỡng; thực hiện tốt chương trình
dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Định hướng ưu tiên với các mục tiêu trên đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống y tế và
chăm sóc sức khoẻ cũng như chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, tập trung
khắc phục các nguyên nhân cản trở người dân, nhất là người nghèo và nhân dân ở
98
những vùng sâu, vùng xa, tiếp cận đến các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ cơ bản.
Một số giải pháp cần được thực hiện là:
- Tăng mức chi ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ, trong đó
cần ưu tiên hơn cho: những vùng tương đối bị cô lập; các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ ban đầu, các biện pháp phòng bệnh, nhất là một số bệnh dịch sốt xuất huyết,
lao, bướu cổ... ; củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế thôn xã; các chương trình cung
cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh, an toàn thực phẩm;
- Cho phép khu vực tư nhân tham gia rộng rãi hơn vào lĩnh vực y tế, để giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong khi vẫn đảm bảo cho người dân tiếp
cân được các dịch vụ y tế, qua việc thu phí điều trị cơ bản. Mở rộng phạm vi bảo
hiểm y tế, nhất là đối với khu vực ngoài nhà nước và người nghèo, và nâng cao
chất lượng hoạt động bảo hiểm y tế bằng các quy chế rõ ràng và một cơ chế giám
sát có hiệu quả. Ngoài ra cuối năm 2002, Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ
dự phòng y tế cho người nghèo (HCFP), hơn 11 triệu người đã nhận được lợi ích
từ HCFP nhưng mức độ áp dụng của những chương trình như vậy còn khác biệt rất
lớn theo khu vực;
- Tăng cường năng lực bộ máy y tế và chăm sóc sức khoẻ thông qua việc mở
rộng hoạt động đào tạo y tá và cán bộ bảo vệ sức khoẻ cho các vùng nông thôn,
miền núi. Cùng với hệ thống thông tin đại chúng, cán bộ y tế ở địa phương cũng là
nhân tố quan trọng trong mạng lưới thông tin tuyên truyền về việc chữa bệnh và
chăm sóc sức khoẻ;
- Với mục tiêu đạt tốc độ tăng dân số giai đoạn 2006-2010 khoảng 1,06%/năm,
giai đoạn 2011-2020 khoảng 1%/năm; và quy mô dân số của vùng là 18,2 triệu
người năm 2010 và 20 triệu người năm 2020. ĐBSCL cần tiếp tục đẩy mạnh
chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình thông qua việc mở rộng thông tin,
tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân về dân số, giới
tính và phát triển, và việc cung cấp đầy đủ các biện pháp và phương tiện phòng
tránh thai cho mọi người;
99
- Gắn vấn đề dân số với các chương trình và chiến lược phát triển kinh tế xã
hội. Xu hướng đô thị hoá và sự di chuyển dân cư, xu hướng giảm dần tỷ lệ trẻ em,
tăng dần tỷ lệ người già, xu hướng thay đổi cấu trúc gia đình,… phải được coi là
những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạch định các chính sách và chiến
lược phát triển kinh tế xã hội và phát triển con người.
3.3. CẢI THIỆN MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CHỈ SỐ
Bên cạnh việc tăng đồng thời giá trị các chỉ số phát triển con người thì việc cải
thiện mối tương quan giữa các chỉ số thành phần cũng là một yếu tố không thể thiếu
nhằm làm cho sự nghiệp phát triển con người ở vùng ĐBSCL mang tính bền vững hơn.
Chỉ số phát triển kinh tế và chỉ số phát triển con người: để đạt mức tương thích
trung bình của thế giới 0,75 các tỉnh thành ĐBSCL cần nâng cao giá trị chỉ số kinh tế.
Hiện nay, hệ số K/H cũng đạt xấp xỉ mức trung bình này, giá trị chỉ số HDI vẫn phải
được cải thiện tăng lên, do đó về nguyên tắc tử số GDP phải tăng nhanh hơn mẫu số
HDI, có như vậy thì hệ số K/H mới được tăng lên phù hợp.
Chỉ số phát triển giáo dục và chỉ số phát triển con người: do hiện nay chỉ số phát
triển giáo dục E1 các tỉnh thành ĐBSCL đều 75,0 cho nên để đạt mức tương thích
hợp lý 0,95 ≤ E1/H ≤ 1,05 thì mẫu số HDI phải tăng nhanh hơn tử số E1. Như vậy, hệ
số E1/H sẽ được kéo giảm xuống so với hiện nay và tiến đến mức dưới 1,05.
Chỉ số phát triển kinh tế và chỉ số phát triển giáo dục: để hệ số giữa chỉ số phát
triển kinh tế và chỉ số phát triển giáo dục tiến gần đến mức “1”, ngoài việc cải thiện giá
trị hai chỉ số này, thì giá trị chỉ số GDP cần phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chỉ số
E1, do giá trị chỉ số GDP còn thấp, khoảng cách còn khá lớn so với chỉ số E1.
100
KẾT LUẬN
Chỉ số phát triển con người là một chỉ tiêu tổng hợp của ba chỉ số cấu thành.
Trong đó, chỉ số thu nhập phản ánh tình trạng phát triển kinh tế; chỉ số giáo dục
phản ánh tình trạng phát triển giáo dục thông qua tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ
nhập học các cấp; và chỉ số tuổi thọ phản ánh chất lượng cuộc sống của con người.
Chỉ số phát triển con người dù chỉ được biểu thị bằng một con số nhưng nó
phản ánh tổng hợp thành tựu kinh tế - xã hội cả về số lượng và chất lượng. Trong
những năm qua, chỉ số HDI vùng ĐBSCL có tăng nhưng các chỉ số thành phần vận
động không đều. Tuy chiếm tỷ trọng thấp nhất nhưng chỉ số kinh tế đã góp phần lớn
nhất làm tăng chỉ số HDI. Giá trị chỉ số kinh tế còn thấp 0,52 nhưng nhờ tuổi thọ bình
quân đạt 72,1 năm và tỷ lệ người lớn biết đọc đạt tới 89,8% nên chỉ số phát triển con
người đạt khá cao 0,702 (> 0,7).
Phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân và tăng đầu tư
cho giáo dục là hai giải pháp cơ bản làm thay đổi đáng kể chỉ số HDI. Giáo dục ở
ĐBSCL đã được cải thiện trong thời gian qua nhưng đang có dấu hiệu xuống dốc
so với các vùng khác. Giá trị chỉ số giáo dục tăng lên đạt 0,8 nhưng chỉ đứng trên
vùng Tây Bắc trong bản đồ giáo dục cả nước. Chỉ số giáo dục chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong ba chỉ số thành phần, nhưng vẫn không phản ánh được bản chất của nền
giáo dục còn nhiều yếu kém. Do đó, chỉ số giáo dục đã góp phần làm thay đổi vị
trí thứ hạng chỉ số HDI (tụt 1 hạng) của vùng ĐBSCL trong khi quy mô nền kinh
tế vẫn giữ hạng 3 cả nước.
Nhận định ngược lại vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế và vấn đề
cải thiện chỉ số tuổi thọ. Khi con người được giáo dục, nghĩa là có kiến thức, sẽ phục
vụ cho tăng trưởng kinh tế; và có kiến thức mới có thể sử dụng hữu hiệu thành quả của
tăng trưởng để đầu tư cải thiện sức khoẻ và giáo dục. Và như vậy, trong tình hình hiện
nay của vùng ĐBSCL, giáo dục chính là yếu tố quyết định nhằm cải thiện chỉ số phát
triển con người khi tăng trưởng kinh tế vẫn còn khá vững chắc.
Điều đáng lưu ý là để tăng được chỉ số phát triển con người, thì cả ba chỉ số
đều phải có sự tiến bộ, mà ta biết rằng, để tuổi thọ bình quân tăng lên đôi chút thì
101
đòi hỏi tất cả mọi mặt của đời sống xã hội đều phải tốt lên, từ y tế, chăm sóc sức
khoẻ, đến thu nhập, chế độ ăn uống, thể dục thể thao… Có thể nói, những chỉ tiêu
về phát triển con người HDI của UNDP buộc chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một
cách tổng quát và thực tế hơn.
Điều cuối cùng là mặc dù đã phản ánh được nhiều khía cạnh của phát triển con
người, nhưng bản thân chỉ số HDI chưa phải là thước đo hoàn hảo. Do đó, chúng ta
cần tiếp tục nghiên cứu lý luận về HDI, mở rộng tiêu chí mới như một số quốc gia
đề xuất như: văn hóa, lành mạnh xã hội, môi trường sinh thái… Mới đây, trong
“Nghiên cứu chỉ số phát triển con người của Việt Nam”, tác giả Đặng Quốc Bảo
cũng đã đề xuất đưa thêm chỉ số an toàn xã hội, nhằm phản ánh khả năng phòng
ngừa tệ nạn nghiện ma tuý của cộng đồng khi tính toán chỉ số HDI… Bởi lẽ, tệ nạn
này nguy hiểm ở chỗ không chỉ tác động tiêu cực đến bản thân người nghiện mà
còn tác hại đến mọi thành viên trong gia đình đó và tác hại đến cả cộng đồng.
Bên cạnh đó, chất lượng số liệu thống kê còn chưa cao và lại thường được
chỉnh sửa về giá trị và phương pháp tính; điều này là một hạn chế nữa cho các phân
tích, đánh giá. Chẳng hạn, số liệu tỷ lệ đi học có lẽ không thực sự phản ánh đúng
thực tế, vì ở nhiều tỉnh, tỷ lệ này phụ thuộc rất nhiều vào thời điểm điều tra. Một
vấn đề nữa là thống kê di cư lao động, vốn có độ tin cậy không cao. Hơn nữa, các
phân tích chủ yếu dựa trên các số liệu thống kê mô tả, những tương quan giản đơn,
cũng như chưa đưa ra được những lập luận vững chắc hơn để minh chứng. Chính vì
vậy, chuyên đề chưa thể đưa ra các kết luận dứt khoát về các mối quan hệ tương tác
trong chuyển biến tình hình phát triển con người ở ĐBSCL giai đoạn 1999-2004,
cũng như cho đến năm 2007.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Quốc Bảo (chủ biên) (2008), Nghiên cứu chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bảo trợ xã hội – Báo cáo phát triển Việt Nam 2008 (6-7 tháng 12 năm 2007),
(Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn Các nhà Tài trợ cho
Việt Nam), Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa
đói giảm nghèo (CPRGS) – Tổ Công tác liên ngành CPRGS, Việt Nam tăng
trưởng và giảm nghèo - Báo cáo thường niên 2004-2005 (tháng 11 năm
2005), Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và đào tạo (18/12/2008), Dự thảo Chiến lược phát triển giáo
dục Việt Nam 2009 – 2020.
5. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 10 năm 2005), Chỉ số phát
triển con người HDI Thành phố Hồ Chí Minh 1999-2004.
6. Hướng đến tầm cao mới – Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 (14-15 tháng
12 năm 2006), (Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn Các
nhà Tài trợ cho Việt Nam ), Hà Nội.
7. Kỷ yếu hội thảo của các tác giả Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng.
8. Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 của Bộ Chính trị về phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng
ĐBSCL thời kỳ 2001 – 2010.
9. Đặng Văn Phan, Nguyễn Kim Hồng (2008), Địa lý Kinh tế xã hội Việt Nam
thời kì hội nhập, Nxb Giáo dục.
10. Hồ Sĩ Quý, Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn
hóa, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế (về kết quả nghiên cứu của đề tài KH-CN cấp
nhà nước KX.05.01) (2007), Tạp chí thông tin Khoa học xã hội.
11. Quyết định 173/2001/QĐ-TTg ngày 06/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn 2001 – 2005.
103
12. Quyết định 492/QĐ-TTg ngày 16/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL.
13. Quyết định số 20/2006/QĐ-TTg ngày 20/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2010.
14. Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội
đối với các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đến năm 2010.
15. Tổng cục thống kê, Dự án VIE/97/P14, Nxb Thống kê, Hà Nội 2001.
16. Tổng cục Thống kê, Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006.
17. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra biến động dân số 1-4-2006.
18. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), Báo cáo phát triển
con người VN 2001 – Đối mới và sự nghiệp phát triển con người (Sách tham
khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1999), Phát triển con
người từ quan niệm đến chiến lược và hành động (Sách tham khảo), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Ngô Doãn Vịnh (chủ biên) (2005), Bàn về phát triển kinh tế, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
21. Viện Chiến lược phát triển (tháng 11/2006), Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020, Hà Nội.
22. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư (08/2001), Cơ sở khoa học
phục vụ xây dựng đề án phát triển đào tạo nguồn nhân lực đến năm 2010 đáp
ứng yêu cầu phát triển KT-XH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Hà Nội.
23. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Chương trình phát triển của Liên hiệp
quốc (2006), Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 – Những thay đổi và
xu hướng chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. (Viện Nghiên cứu con người - Viện Khoa học xã hội
Việt Nam)
104
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Việt Nam và Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
1. Xoá bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói
Mặc dù tỷ lệ nghèo trên thế giới đã giảm xuống kể từ năm 1990 đến nay, song
1,2 tỷ người vẫn sống ở mức dưới 1 USD mỗi ngày. Việt Nam đã đạt được mục tiêu
giảm một nửa tỷ lệ nghèo với việc giảm tỷ lệ người dân sống dưới chuẩn nghèo
xuống còn 35% trong năm 2000. Việt Nam cam kết giảm tỷ lệ nghèo thêm 40% cho
đến năm 2010. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng, song
thách thức hiện giờ là làm sao thu hẹp khoảng cách đang gia tăng và tiếp cận được
các nhóm dân cư nghèo nhất ở từng vùng của Việt Nam.
2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học
Trên toàn thế giới hiện có 113 triệu trẻ em không đi học, nhưng có thể đạt
được mục tiêu này. Ví dụ, Việt Nam có nhiều khả năng hoàn thành mục tiêu phổ
cập giáo dục tiểu học cho đến năm 2015 vì tỷ lệ trẻ em đi học tiểu học đúng tuổi
trong năm 1999 đã đạt mức rất cao là 95%. Tuy nhiên, những thách thức lớn hiện
nay là nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng giáo dục cơ sở theo mục tiêu quốc tế
về phổ cập giáo dục tiểu học và giảm bớt mức độ chênh lệch về khả năng và phạm
vi tiếp cận với giáo dục tiểu học.
3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho phụ nữ
Hai phần ba số người mù chữ trên thế giới là phụ nữ. Việt Nam đã khẳng định
cam kết thực hiện MDG này bằng cách đặt ra mục tiêu xoá bỏ khoảng cách về giới
trong giáo dục ở cấp tiểu học và trung học cơ sở vào năm 2005 và tình trạng mù chữ
ở phụ nữ dưới độ tuổi 40 cho đến năm 2010. Tuy nhiên, 70% số học sinh bỏ học ở
cấp tiểu học là trẻ em gái, nguyên nhân chính là do các em phải tham gia các hoạt
động kinh tế của gia đình, và vẫn tồn tại chênh lệch giữa các vùng miền.
4. Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em
Trên toàn thế giới có 11 triệu trẻ nhỏ tử vong mỗi năm, như vậy đã giảm so
với con số 15 triệu năm 1980. Việt Nam đã thành công trong việc giảm tỷ lệ tử
105
vong của trẻ em dưới 5 tuổi từ khoảng 58/1000 ca sinh sống trong năm 1990 xuống
còn khoảng 48/1000, nhưng để hoàn thành trọn vẹn mục tiêu giảm 2/3 tỷ lệ này cho
đến năm 2015, đòi hỏi phải có sự nỗ lực và hỗ trợ nhiều hơn nữa.
5. Tăng cường sức khoẻ bà mẹ
Ở các quốc gia đang phát triển, nguy cơ tử vong của bà mẹ khi sinh con là
1/48. Tuy nhiên, hầu như tất cả các quốc gia hiện nay đều có chương trình làm mẹ
an toàn và có triển vọng đạt được tiến bộ trong lĩnh vực này. Việt Nam đã giảm tỷ
lệ tử vong ở sản phụ từ 200/100.000 ca sinh sống trong năm 1990 xuống còn
100/100.000 và đặt ra mục tiêu tiếp tục giảm xuống còn 70 cho đến năm 2010,
trong đó sẽ quan tâm đặc biệt tới những vùng khó khăn.
6. Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác
HIV/AIDS đe doạ huỷ hoại những thành quả phát triển đạt được của cả một
thế hệ ở nhiều quốc gia. Kinh nghiệm ở các nước như Braxin, Sênêgan và Thái Lan
cho thấy chúng ta có thể ngăn chặn HIV ngay từ đầu. Việt Nam đã đặt ra mục tiêu
giảm tốc độ gia tăng sự lây lan của HIV/AIDS trong năm 2005 và giảm một nửa tốc
độ gia tăng cho đến năm 2010. Thách thức đặt ra là phải hành động khẩn cấp ngay
từ bây giờ theo phương thức tiếp cận đa ngành để chống lại đại dịch này. Sự quan
tâm chỉ đạo liên tục là hết sức cần thiết để ngăn chặn nguy cơ xảy ra một đại dịch.
7. Đảm bảo bền vững về môi trường
Trên thế giới có hơn một tỷ người vẫn không được tiếp cận với nước sạch,
nhưng trong thập niên 90 đã có gần một tỷ người được tiếp cận với nước sạch và
các điều kiện vệ sinh. Việt Nam đã tăng tỷ lệ người dân được tiếp cận với nước sạch
từ 48% trong năm 1990 lên tới 56% trong năm 2000 và đặt mục tiêu tiếp tục nâng
con số này lên 85% ở khu vực nông thôn vào năm 2010.
8. Xây dựng quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển
Xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững rõ ràng có liên quan tới thương
mại, giảm xoá nợ và viện trợ. Cần đưa ra các điều khoản thương mại bình đẳng cho
các quốc gia đang phát triển để tạo cơ hội việc làm và thu nhập. Về mục tiêu này,
Việt Nam đang đối mặt với một số thách thức khá lớn trong việc đẩy nhanh tiến
106
trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu theo kế hoạch đề ra. Để đảm bảo
công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển quốc gia đòi hỏi phải có
những nỗ lực rất lớn.
Phụ lục 2: Mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo đến 2010 của ĐBSCL
- Mầm non: huy động 10-20% trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ...
- Giáo dục phổ thông: tỉ lệ huy động học sinh trong độ tuổi tiểu học đến trường
đạt 99%. Toàn vùng đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi...
- Giáo dục trung học: đạt chuẩn phổ cập THCS. Nâng tỉ lệ học sinh THCS đi
học trong độ tuổi đạt 87-90%, học sinh THPT lên 50%.
- Giáo dục dân tộc: mở rộng đối tượng tuyển sinh con em các dân tộc vào các
trường nội trú và trường dự bị đại học...
- Giáo dục đại học, THCN và dạy nghề: bảo đảm tăng qui mô đào tạo THCN
hằng năm trên 20%, chiếm khoảng 5% dân số trong độ tuổi 16-20. Nâng tỉ lệ bình
quân sinh viên (cao đẳng và đại học)/1 vạn dân lên khoảng 120. Phấn đấu đạt 20%
lao động qua đào tạo nghề...
- Giáo dục thường xuyên: 13 tỉnh thành phố đều có trung tâm giáo dục thường
xuyên cấp huyện...
Thành lập Trường ĐH Kiên Giang, ĐH Bạc Liêu, phát triển và nâng cấp trình
độ đào tạo đại học cho Trường cao đẳng Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long. Thành lập
các trường cao đẳng cộng đồng: Cà Mau, Sóc Trăng, Hậu Giang, Long An, Bạc
Liêu, An Giang và Cần Thơ.
Phụ lục 3: Giải pháp nâng cao chất lượng dân số giai đoạn 2011 – 2015
Đầu tiên là giải pháp về chính sách và tổ chức quản lý. Đó là các chính sách
duy trì mức sinh hợp lý để có cơ cấu dân số đảm bảo sự phát triển kinh tế – xã hội
nhanh và bền vững; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng và mở rộng
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gia đình và phúc lợi xã hội; kiểm soát tỉ lệ giới tính
107
khi sinh; hỗ trợ cá nhân, gia đình có các vấn đề về bệnh di truyền; nâng cao phúc lợi
xã hội; đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người di cư.
Giải pháp tiếp theo được đưa ra là nhóm các hoạt động truyền thông giáo dục,
chuyển đổi hành vi để tạo sự cam kết ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền, các
tổ chức xã hội về chương trình nâng cao chất lượng dân số; tăng cường tuyên truyền
tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm đối
tượng đặc biệt; triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ và vận động để tăng sự
chấp nhận sàng lọc sơ sinh tại cộng đồng; đào tạo, cung cấp thiết bị cho các trung
tâm tư vấn, dịch vụ dân số cấp tỉnh, thành phố.
Nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam và trình độ dân trí cũng là hai
nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng dân số trong thời điểm hiện tại. Đây là giải
pháp yêu cầu có sự phối hợp tích cực của hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ bà mẹ,
trẻ em, vị thành niên, người cao tuổi và sự tham gia của ngành giáo dục.
3 giải pháp tiếp theo: Xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần; Tăng
cường các dịch vụ xã hội chủ yếu có ảnh hưởng tới chất lượng dân số; đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ nâng cao chất lượng dân số.
Phụ lục 4: Hệ thống các tiêu chí đo lường xã hội khá giả ở Trung Quốc
Nhóm đo lường Các chỉ số
Phát triển kinh
tế
1. GDP bình quân đầu người
2. Tỷ lệ người nghèo trên tổng dân số
3. Thu nhập sau thuế của hộ gia đình nông thôn
4. Thu nhập sau thuế của hộ gia đình đô thị
5. Khoảng cách thu nhập giữa đô thị và nông thôn
Điều kiện sống
cơ bản
6. Tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học ở các vùng nghèo khó
7. Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi ở các vùng nghèo khó
8. Tỷ lệ tử vong của các bà mẹ ở các vùng nghèo khó
9. Số lượng và mức độ lây nhiễm HIV
10. Tỷ lệ những người mắc bệnh lao
11. Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch
12. Tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận với các công trình vệ sinh
108
13. Tỷ lệ các làng được kết nối với đường giao thông chính
Cơ cấu xã hội
14. Tỷ lệ tầng lớp trung lưu có thu nhập trung bình
15. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị
16. Tỷ lệ dân cư làm việc trong khu vực dịch vụ
17. Tỷ lệ dân cư trong những nhóm phi nông nghiệp
18. Tỷ lệ dân cư được hưởng điều kiện an ninh ở mức tối thiểu ở đô thị
19. Tỷ lệ dân cư được hưởng điều kiện an ninh ở mức tối thiểu ở nông thôn
20. Mức độ chi phí cho giáo dục trong tổng ngân sách quốc gia/tỉnh/thành
21. Tỷ lệ cân bằng giới trong trẻ sơ sinh
22. Tỷ lệ giữa học sinh nam và học sinh nữ trong việc hoàn tất giáo dục cơ sở
23. Tỷ trọng lao động nữ so với nam ở thành phố
24. Tỷ trong lao động nữ làm việc trong hệ thống công quyền ở thành thị
Môi trường bền
vững
25. Mức độ chi phí cho việc kiểm soát môi trường trong GDP
26. Tỷ lệ che phủ rừng
27. Mảng xanh công cộng ở đô thị tính trên đầu người
28. Mức độ và cách thức sử dụng nguồn nước tự nhiên
29. Tỷ lệ rác thải trong sản xuất công nghiệp
Chất lượng sống
30. Tuổi thọ trung bình
31. Mức dinh dưỡng tính bình quân đầu người ở nông thôn (Protein)
32. Khoảng không gian ở tính theo bình quân đầu người dân thành thị
33. Số lượng người tốt nghiệp các trương TH chuyên nghiệp tính trên
100.000 dân
34. Số lượng bác sĩ tính trên 10.000 dân
35. Số lượng giường bệnh trong các bệnh viện tính trên 10.000 dân
36. Số lượng luật sư trên 10.000 dân
37. Tỷ lệ tội phạm
38. Tỷ lệ thất nghiệp
39. Tỷ lệ các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO) trong tổng số các tổ chức
phi chính phủ (quốc tế và địa phương)
40. Mức độ chi phí và tiêu dùng sách đọc tính theo bình quân đầu người mỗi
năm
41. Số lượng máy tính trong 100 gia đình ở thành phố
42. Mức độ chi phí cho du lịch tính bình quân đầu người
109
Phụ lục 5: Chỉ số phát triển con người Trung Quốc thời kì 1995-2007
Báo cáo
phát
triển con
người
năm
Tuổi thọ
GDP
(tính theo USD PPP) Giáo dục HDI
Năm Chỉ số GDP/người Chỉ số
15 tuổi
trở lên
biết chữ
(%)
Tỷ lệ
người
đi học
(%)
Chỉ số Chỉ số
Xếp
hạng
1995 68,5 0,73 1950 0,35 79,3 55 0,71 0,594 111/174
1996 68,6 0,73 2330 0,38 80,0 57 0,72 0609 108/174
1997 68,9 0,73 2604 0,41 80,9 58 0,73 0,626 108/175
1998 69,2 0,74 2935 0,46 81,5 64 0,76 0,650 106/174
1999 69,8 0,75 3130 0,46 82,9 69 0,78 0,701 98/174
2000 70,1 0,75 3105 0,57 82,8 72 0,79 0,706 99/174
2001 70,2 0,75 3617 0,60 83,5 73 0,80 0,718 87/162
2002 70,5 0,76 3916 0,61 84,1 73 0,80 0,726 96/173
2003 70,6 0,76 4020 0,62 85,8 64 0,79 0,721 104/175
2004 70,9 0,76 4580 0,64 90,9 68 0,83 0,745 94/177
2005 71,6 0,78 5003 0,65 90,9 69 0,84 0,755 85/177
2006 71,9 0,78 5896 0,68 90,9 70 0,84 0,768 81/177
2007 72,5 0,792 6757 0,703 90,9 69,1 0,837 0,777 81/177
104 39' 54''o
9
22'
43"
10
16'
40''
o
o
104 39' 54''o oo105 34' 40''
106 29' 25''105 34' 40'' oo
106 29' 25''
9
22'
43"
10
16'
40''
o
o
Bar Chart of nen_TayNamBo
0,84
HDI_2004
GDP_Index_04
GD_Index_04
Age_Index_04
Chó dÉn
0,83
ChØ sè HDI
ChØ sè GDP
ChØ sè gi¸o dôc
ChØ sè tuæi thä
h×nh 2.3: b¶n ®å thÓ hiÖn chØ sè HDI c¸c tØnh, thµnh phè vïng ®ång b»ng s«ng cöu long
0,695
0,45
0,80
0,83
0,721
0,50
0,84
0,82
0,686
0,46
0,79
0,81
0,715
0,51
0,83
0,80
0,684
0,45
0,79
0,81
0,713
0,51
0,83
0,81
0,680
0,46
0,77
0,81
0,718
0,55
0,82
0,79
0,678
0,47
0,78
0,78
0,716
0,54
0,81
0,80
0,671
0,46
0,76
0,79
0,720
0,58
0,79
0,79
0,668
0,44
0,75
0,81
0,701
0,50
0,83
0,77
0,656
0,45
0,75
0,77
0,686
0,51
0,78
0,78
0,655
0,45
0,77
0,74
0,680
0,50
0,78
0,76
0,654
0,46
0,75
0,75
0,686
0,52
0,77
0,77
0,649
0,43
0,75
0,77
0,698
0,55
0,78
0,76
0,648
0,41
0,78
0,76
0,682
0,46
0,79
0,79
0,685
0,49
0,80
0,77
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 20041999 2004
cµ mau
b¹c liªu
kiªn giang
an giang ®ång th¸p
tp. cÇn th¬
tiÒn giang
bÕn tre
long an
trµ vinh
vÜnh long
2004
hËu giang
tp.
hå chÝ minh
®ång nai
b×nh d¬ngt©y ninhc a m p u c h i a
biÓn ®«ng
0.
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.669
0.45
0.77 0.79
HDI_99
GDP_Index_99
GD_Index_99
Age_Index_99
ChØ sè HDI vµ chØ sè c¸c thµnh phÇn vïng ®bscl
0.
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.702
0.52
0.8 0.79
HDI_2004
GDP_Index_04
GD_Index_04
Age_Index_04
ChØ sè hdi vµ chØ sè c¸c thµnh phÇn vïng ®bscl
n¨m 1999
n¨m 2004
41
104 39' 54''o
9
22'
43"
10
16'
40''
o
o
104 39' 54''o oo105 34' 40''
106 29' 25''105 34' 40'' oo
106 29' 25''
9
22'
43"
10
16'
40''
o
o
H×nh 2.4: b¶n ®å thÓ hiÖn tû träng ®ãng gãp cña c¸c chØ sè thµnh phÇn vµo chØ sè HDI c¸c tØnh, thµnh phè vïng ®ång b»ng s«ng cöu long
Pie Chart of nen_TayNamBo
110
55
11
GDP_Index_04_%
GD_Index_04_%
Age_Index_04_%
Chó dÉn biÓu ®å
(§VT:%)
110
55
11
Tû träng ®ãng gãp chØ sè GDP
Tû träng ®ãng gãp chØ sè gi¸o dôc
Tû träng ®ãng gãp chØ sè tuæi thä
kiªn giang
22,5 37,7
39,7
25,5 38,1
36,7
22,1 38,5
39,5
26,3 37,2
36,3
1999
22,9 37,7
39,2
24,5 38,2
37,3
23,8 38,9
37,5
23,1 38,3
38,3
25,1 37,7
37,2
22,9 37,8
39,2
26,9 36,6
36,6
23,4 38,2
38,2
25,3 37,4
37,4
21,1 40,1
39,1
22,5 38,6
38,6
21,6 38,4
39,8
23,1 38,8
37,9
22,9 38,1
39,1
24,8
37,9
37,4
22,0 37,4
40,4
23,8 39,5
36,6
21,9 38,5
39,5
23,8 38,8
37,9
22,4 38,4
39,4
23,8 38,7
37,3
2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004 1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 2004
1999 20041999 2004
2004
an giang
®ång th¸p
tp. cÇn th¬
hËu giang
cµ mau
b¹c liªu
sãc tr¨ng
trµ vinh
vÜnh long bÕn tre
tiÒn giang
long an
tp.
hå chÝ minh
®ång nai
b×nh d¬ngt©y ninh
c a m p u c h i a
biÓn ®«ng
22.4
38.4
39.4
GDP_Index_99_%
GD_Index_99_%
Age_Index_99_%
Tû träng ®ãng gãp c¸c chØ sè thµnh phÇn vµo chØ sè hdi vïng ®bscl
(§VT:%)
24.7
38.
37.5
GDP_Index_04_%
GD_Index_04_%
Age_Index_04_%
tû träng ®ãng gãp c¸c chØ sè thµnh phÇn vµo chØ sè HDI vïng ®bscl
(®vt:%)
n¨m 1999
n¨m 2004
44
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVDLDLH024.pdf