Nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, sản xuất của các doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý chất lượng sản phẩm nói riêng vẫn còn một số vấn đề cần tìm biện pháp giải quyết để thích ứng với cơ chế mới. Cũng trong bối cảnh đó, công ty in Tạp chí Cộng sản đã có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn để có giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng thu hút khách hàng mới. Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn công ty chưa thể khắc phục hết các tồn tại, khó khăn. Ban lãnh đạo công ty cũng đã nhận định: “Chất lượng sản phẩm là mối quan tâm hàng đầu, là nhân tố quan trọng để tồn tại và phát triển trong tình hình mới”. Vì vậy, nhiệm vụ này không chỉ ở ban lãnh đạo công ty mà đó còn là trách nhiệm của mọi cán bộ công nhân viên có đời sống gắn liền với sự phát triển của công ty.
79 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp chủ yếu nhằm ổn định và nâng cao chất lượng in sản phẩm ở công ty in Tạp Chí Cộng Sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g kể về năng suất chất lượng. Cụ thể năm 1998, song song với việc tự sửa chữa máy móc, công ty đã đầu tư 2 máy in (4 màu) mới của Đức, nâng cao công suất, sản phẩm sản xuất ra có hình thức đẹp hơn, ít phế phẩm hơn trước khi đầu tư.
2.3. Cung ứng và quản lý nguyên vật liệu
Vật liệu là yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tạo nên thành phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của nguyên vật liệu. Nếu vật liệu tốt, đúng chủng loại thì sản phẩm sẽ đạt được chất lượng cao và ngược lại.
Nguyên vật liệu chính được sử dụng cho việc in ấn là: giấy in, mực in, bản in
Riêng đối với giấy in, ngoài các loại giấy ngoại để in sản phẩm cao cấp như giấy Couchés, giấy Đức, giấy Đài Loan… Công ty đã sử dụng thay thế được bằng giấy Bãi Bằng, Tân Mai để in các sản phẩm báo hằng ngày với giá cả phù hợp trên thị trường và vẫn đảm bảo được chất lượng.
- Phim: nhập của Nhật
- Bản kẽm: dưới dạng bản, nhập của Trung Quốc, Italia.
- Mực in: là loại mực in sử dụng trong ngành in, có nhiều màu, nhập của nhiều nước khác nhau như Đức, Anh, Hồng Kông, Trung Quốc…
- Còn lại những nguyên vật liệu như: dây thép đóng sách, dây ni lông gói sách, các loại dao trổ, và các loại nhiên liệu, năng lượng khác (dầu hoả, xăng công nghiệp, dầu nhờn, mỡ pha mực (giảm dính)…) cũng đều được nhập vào công ty từ các nguồn trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên, để đảm bảo cho vật liệu sử dụng đúng tiêu chuẩn, công ty đã có nhiều biện pháp khắc phục song vẫn gặp khó khăn trong việc bảo quản giấy in. Do điều kiện thời tiết khí hậu nước ta thường xuyên thay đổi, mưa nhiều, độ ẩm cao nên giấy rất khó in. Khi giấy bị ẩm nếu đưa vào sử dụng sẽ bị nhăn hoặc không bắt mực… ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Việc khắc phục giấy ẩm bằng cách trước khi giấy được đưa vào in đều phải qua sấy khô, cắt xén đúng khuôn khổ của bản in, góc giấy không bị quăn. Đối với mực phải để nơi khô ráo tránh nước vào…
Giấy là một trong những vật liệu quan trọng trong sản xuất, nó chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. Tính riêng giấy in và mực in đã chiếm tới 67% giá thành sản phẩm. Khi mua nguyên vật liệu, công ty phải dự kiến được kế hoạch sản xuất chỉ mua với khối lượng vừa đủ, tránh tồn kho nhiều gây ứ đọng vốn. Do đó, không tránh khỏi trường hợp thiếu giấy, đặc biệt là khi khách hàng yêu cầu giao nhanh.
Vì vậy, công ty đang tìm mọi biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý vật tư: như tiết kiệm, tận dụng mọi cái có thể, tránh lãng phí nhằm từng bước hạ dần mức giá gia công sản phẩm mà vẫn không làm ảnh hưởng đến mức lợi nhuận hiện có.
Đây thực sự là một biện pháp đem lại hiệu quả lớn cho sản xuất kinh doanh cũng như tạo những bước tiếp theo cho quá trình không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm của nhà máy.
2.4. Đòn bẩy lợi ích
Song song với việc tổ chức lại bộ máy quản lý chất lượng, công ty cũng đã đề ra một chế độ thưởng phạt nhằm hạn chế sai sót xảy ra trong quá trình sản xuất, khuyến khích người lao động làm việc hăng say do đó chất lượng được đảm bảo hơn. Nội dung của biện pháp này bao gồm:
- Khen thưởng kịp thời những bộ phận, cá nhân có thành tích cao trong lao động, sáng tạo.
- Xử lý nghiêm minh các trường hợp vị phạm kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ.
- Việc khen thưởng có thể dưới hình thức sau:
+ Khen thưởng vật chất: nâng lương, nâng thưởng, tặng quà…
+ Khen thưởng tinh thần: khuyến khích, động viên, tặng bằng khen…
Còn đối với trường hợp vi phạm nội quy lao động, sản phẩm không đạt yêu cầu thì có thể bị phạt tiền, trừ lương, phê bình, khiển trách, kiểm điểm…
Chế độ khen thưởng tỏ ra rất có hiệu quả, số lượng lao động đạt năng suất cao ngày càng tăng, đồng thời sản phẩm sản xuất ra cũng luôn đạt tiêu chuẩn đã đề ra, làm dấy lên một phong trào thi đua toàn công ty, hạn chế tình trạng ngồi chơi trong giờ làm việc và khắc phục được vấn đề nan giải là thiếu ý thức, thiếu tinh thần trách nhiệm. Chính vì vậy, công ty đã nâng dần chất lượng sản phẩm, được khách hàng trong nước tin cậy, tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty.
2.5. Đào tạo trình độ tay nghề, nghiệp vụ quản lý cho người lao động
Tổ chức bộ máy quản lý chất lượng đồng bộ phải luôn gắn với đào tạo cho người lao động. Trong những năm qua bồi dưỡng trình độ quản lý cho cán bộ và nâng cao tay nghề cho công nhân là mối quan tâm của lãnh đạo công ty. Công ty đã tổ chức nhiều lớp học cho công nhân kỹ thuật và cử cán bộ, nhân viên tham gia các khoá học nghiệp vụ học tập trao đổi kinh nghiệm dự hội thảo trong và ngoài nước. Ngoài ra, các cán bộ kỹ thuật còn tham gia với trường ĐHBK đào tạo kỹ sư in cho tương lai. Vì vậy, đã đưa được phần lớn người lao động tiếp cận với hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ do công ty đề ra.
2.6. Nhu cầu thị trường
Trong nền kinh tế thị trường khi nhu cầu là xuất phát điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm cũng không nằm ngoài vòng kiểm soát của thị trường.
Cùng với sự đi lên và phát triển của xã hội, nhu cầu của con người ngày càng cao. Trước đây, sản phẩm chủ yếu là sách báo phục vụ cho quá trình học tập, nghiên cứu thì ngày nay sản phẩm còn phục vụ cho việc thông tin các tin tức trong nước và thế giới nhanh nhất, cho việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm…
Bạn đọc có những yêu cầu khắt khe đối với chất lượng ấn phẩm như: nội dung hay, hình thức hấp dẫn, trình bày đẹp thu hút bạn đọc qua cách trình bày về màu sắc nội dung. Vì vậy, ngoài việc in đúng còn phải in đẹp, hấp dẫn kích thích người xem.
III. Đánh giá khái quát thực trạng chất lượng sản phẩm ở công ty in Tạp chí Cộng sản
Ưu điểm
- Cùng với sự chuyển đổi cơ chế của Đảng và Nhà nước, công ty đã nhanh chóng tiếp cận đề ra những phương hướng, biện pháp tích cực để vận động trong cơ chế mới. Công ty đã thực sự tháo gỡ được vướng mắc là thiếu vốn, thiếu máy móc thiết bị, tiếp thu công nghệ mới.
- Các sản phẩm của công ty được đánh giá tốt về chất lượng, gây được uy tín tốt đối với khách hàng, tỷ lệ sản phẩm sai hỏng ngày càng giảm so với tổng sản phẩm sản xuất ra.
- Bên cạnh đó, bằng sức lao động khối óc của mình, công ty đã xây dựng và hoàn thiện dây chuyền công nghệ in offset mà không ngừng nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo để xây dựng một hệ thống định mức lao động và quy chế tính lương theo sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo năng suất lao động mà vẫn giữ nguyên được chất lượng sản phẩm.
- Công ty đã năm bắt được nhu cầu của từng khách hàng vì thế đã không ngừng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm nên luôn đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng, đây cũng chính là một trong những lợi thế cạnh tranh của công ty.
- Tập thể lãnh đạo của công ty có năng lực và tinh thần trách nhiệm cao luôn hết mình vì quyền lợi chung của công ty. Họ rất năng động trong việc tìm khách hàng nhằm ký thêm nhiều hợp đồng mới từ đó lo đủ việc làm, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Thu nhập của cán bộ công nhân viên ngày càng tăng tạo động lực thúc đẩy nhân viên làm việc tốt, tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong công tác chỉ đạo tổ chức sản xuất: cán bộ quản lý đã sắp xếp, bố trí lại phòng ban, tổ chức lại dây chuyền một cách có hiệu quả đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ sản xuất và khách hàng. Xây dựng và thực hiện phương án đào tạo, kèm cặp lại tay nghề tại chỗ cho cán bộ công nhân viên để nâng cao trình độ tay nghề bậc thợ. Đào tạo những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đối tượng: tổ trưởng sản xuất. Đối với các cán bộ nhân viên các phòng: tổ chức học sử dụng các thiết bị máy tính, phổ biến nghiệp vụ chuyên môn, học tập nghiệp cụ quản lý kinh doanh… Từng bước thực hiện các chương trình đào tạo, quy hoạch tốt nguồn cán bộ, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ công nhân viên công ty học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ, vận hành thiết bị và công nghệ hiện đại.
- Số lượng sản phẩm hàng năm đạt được ngày càng tăng và doanh thu cũng tăng, công ty luôn hoàn thành chỉ tiêu nộp Ngân sách Nhà nước giao cho.
2. Tồn tại
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, trong quá trình đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty còn có những tồn tại sau:
- Đội ngũ cán bộ quản lý của công ty có trình độ, song hiệu quả đạt được không được đồng đều, tác phong làm việc đôi lúc còn chậm chạp, tinh thần trách nhiệm chưa cao.
- Đối với công tác quản lý chất lượng sản phẩm vẫn còn nhiều thiếu sót. Cách quản lý chất lượng còn mang tư tưởng cũ - đó là đồng nghĩa quản lý chất lượng với việc kiểm tra chất lượng, coi việc kiểm tra chất lượng là công cụ chủ yếu của việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Do vậy mà công tác quản lý chất lượng chỉ tập trung vào công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, chưa có tác động đến các khâu khác nên chưa mang lại hiệu quả cao.
- Sự am hiểu về các chính sách chất lượng của cán bộ công nhân viên nói chung cũng như cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật nói riêng chưa thật sự sâu sắc và đầy đủ.
- Chưa quán triệt tư tưởng quản lý chất lượng đồng bộ, coi trọng khâu này khâu khác, chưa có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ gây gián đoạn trong quá trình sản xuất.
- Lực lượng kiểm tra chất lượng sản phẩm còn có lúc lơ là, buông lỏng, chưa phát huy hết khả năng và trách nhiệm của mình. Vẫn còn những sai sót trong quá trình sản xuất như: để lỗi, nhầm lẫn nội dung, kích cỡ… dẫn đến sai sót các khâu sau.
- Máy móc thiết bị tuy được cải tiến nhưng vẫn lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới. Máy móc thiết bị chưa thực sự đồng bộ cả về chất lượng và năng suất sản xuất.
- Lao động quản lý và lao động trực tiếp có tay nghề cao còn thấp do đó sản xuất vẫn tạo ra nhiều phế phẩm, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
- Bên cạnh đó, do thiếu các phương tiện thông tin nên còn xảy ra tình trạng thiếu thông tin trong cán bộ quản lý. Các chính sách về quản lý chất lượng cũng chưa thật hoàn chỉnh.
3. Nguyên nhân của những tồn tại
Trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế nói chung cũng như của công ty nói riêng, việc gặp khó khăn trên là điều không thể tránh khỏi. Muốn tồn tại, phát triển được, công ty cần phải xác định được những nguyên nhân để có thể đề ra phương hướng khắc phục kịp thời.
- Do ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã tạo nên thói quen làm việc theo pháp lệnh, chỉ tiêu, thiếu năng động, kém phát huy khả năng và sáng tạo của người quản lý. Họ chưa quan niệm rằng chất lượng sản phẩm là quyền lợi và trách nhiệm của mình.
- Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường khá nhanh nhưng công ty chưa thật sự phát huy hết khả năng của mình. Công ty rất cần vốn trong khi đó vì nhiều nguyên nhân nên vốn lưu động còn thiếu, lãi suất cho vay của ngân hàng lại cao.
- Sản xuất kinh doanh tiến hành trên hệ thống máy móc thiết bị có nhiều cái đã cũ, lạc hậu gây mất cân đối cho quá trình sản xuất. Một phần là kết quả việc đầu tư của cơ chế cũ, nhiều máy đã khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng nên ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Việc nhập máy móc thiết bị ở giai đoạn khác nhau nên máy móc thiết bị không được đồng bộ, chắp vá, nhiều máy không có phụ tùng thay thế. Trong sản xuất còn có nhiều khâu phải làm thủ công như gấp sách, lồng sách…
- Do quy mô sản xuất chưa ổn định và phụ thuộc vào nhu cầu nên việc nhập nguyên vật liệu cũng phụ thuộc vào đơn đặt hàng. Sự biến động về giá cả nguyên vật liệu cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, vì hầu hết các nguyên vật liệu của công ty đều được nhập ngoại do đó giá cả tương đối cao, việc cung cấp không ổn định, vận chuyển lâu dài, qua nhiều khâu dễ hư hỏng, hao hụt…
- Đội ngũ công nhân có tay nghề bậc trung và thấp còn nhiều. Đối với công nhân sản xuất việc tuyển chọn ngay từ lúc mới làm việc chưa được kỹ nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
- Trong những năm qua, công tác đảm bảo chất lượng chưa được quan tâm đúng mức. Việc đảm bảo chất lượng chỉ được chú trọng ở khâu đầu vào và đầu ra, còn các khâu khác trong quá trình sản xuất chưa được quan tâm chú ý tới.
- Mặc dù ở mỗi phân xưởng đều có người theo dõi công việc nhưng họ vẫn không thể bao quát hết toàn bộ công việc của từng người.
- Việc nắm bắt các thông tin của khách hàng chưa nhạy bén, linh hoạt, đôi khi thiếu sự nhiệt tình trong phục vụ để khách hàng còn phải phàn nàn.
- Nhận thức của nhiều người còn chưa đúng đắn. Nhiều người cho rằng lợi nhuận là trên hết. Đây là quan niệm sai lầm vì nếu không thực sự quan tâm nâng cao chất lượng sản phẩm mà chỉ quan tâm đến giảm chi phí để tăng lợi nhuận, gây mất uy tín của công ty.
- Trong qúa trình sản xuất tuy có hướng dẫn đầy đủ, nhưng có việc gần như khoán trắng cho các phân xưởng, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc, gây gián đoạn, sai lệch kế hoạch.
- Công nhân nhiều lúc chỉ quan tâm tới số lượng chứ chưa thật sự quan tâm đến chất lượng, chạy đua theo định mức sản phẩm để được lương cao và tiền thưởng nên nhiều lúc làm việc không cẩn thận.
- Môi trường làm việc của công nhân có thể nói là độc hại, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động. Trong những ngày hè, nhiệt độ làm việc lên cao cũng làm hạn chế đến việc sản xuất sản phẩm đạt chất lượng.
- Hiện nay, phương pháp quản lý chất lượng theo hệ thống ISO 9000 đã được Nhà nước khuyến khích áp dụng trong các doanh nghiệp. Song, vì công ty còn chưa đủ điều kiện nên phương pháp này chưa được áp dụng.
Chương III
Một số biện pháp nhằm ổn định và nâng cao
chất lượng sản phẩm ở công ty in Tạp chí Cộng sản
I. Phương hướng - mục tiêu phát triển của công ty in Tạp chí Cộng sản
Trong thời gian qua, công ty đã cố gắng phát huy tốt mọi nguồn lực, khắc phục mọi khó khăn, ký kết được nhiều hợp đồng in ấn tạo công ăn việc làm cho toàn thể công nhân viên của công ty, đảm bảo đời sống ngày càng nâng cao. Các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận tiếp tục được tăng lên, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao.
Trong những năm tới, phương hướng – mục tiêu phấn đấu của công ty là:
- Tiếp tục ổn định và phát triển sản xuất, phát huy tối đa khả năng các nguồn lực, mở rộng thị trường, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Mục tiêu chung:
+ Luôn phấn đấu về mọi mặt, không thoả mãn với sản phẩm hiện có, đa dạng hoá sản phẩm, giữ vững và nâng cao tính cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
+ Phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị bằng việc in Tạp chí Cộng sản và các tài liệu quan trọng của Đảng bảo đảm chất lượng về mọi mặt.
+ Vận động mọi người làm việc với năng suất và chất lượng cao, tiết kiệm triệt để nguyên vật liệu nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
- Mục tiêu cụ thể năm 2001:
+ Về sản xuất kinh doanh nói chung:
Bảng 8: Một số chỉ tiêu cơ bản của năm 2001
Đơn vị tính: 1000 đồng
STT
Chỉ tiêu
Số tiền
1
Giá trị tổng sản lượng
23.000.000
2
Doanh thu
27.000.000
3
Nộp ngân sách
7.000.000
4
Lợi nhuận
1.600.000
5
Thu nhập bình quân (người/ tháng)
1.600
(Nguồn: phòng kế hoạch)
+ Về quản lý chất lượng sản phẩm: giảm tỷ lệ sai hỏng, nâng cao sản phẩm in cao cấp.
+ Về máy móc thiết bị: phấn đấu trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại, thanh lý số máy móc thiết bị đã cũ và lạc hậu.
+ Nâng cao tay nghề cho công nhân bậc thấp, nâng cao tỷ lệ công nhân có tay nghề bậc cao. Đối với bộ phận quản lý, nâng cao trình độ đại học với cán bộ làm ở khu vực này.
II. Một số biện pháp nhằm ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty in Tạp chí Cộng Sản
Trên cơ sở phân tích tình hình thực hiện chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm của công ty, em xin nêu lên một số vấn đề cần quan tâm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp tỷ lệ sản phẩm hỏng, từ đó góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường của công ty in Tạp chí Cộng sản.
1. Các biện pháp về tổ chức quản lý
1.1. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ và tiến tới tiếp cận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000
Công ty đã tổ chức lại bộ máy quản lý đặc biệt là hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm. Hệ thống này được quy định rõ ràng từ giám đốc à phó giám đốc à phòng sản xuất kinh doanh à phân xưởng sản xuất à công nhân và giữa các phòng ban với nhau. Chính nhờ hệ thống này mà mọi người mọi bộ phận đều nhận thức được trách nhiệm và tầm quan trọng của mình đối với mục tiêu “tất cả vì chất lượng”. Bên cạnh những lợi ích thu được từ hệ thống này thì vẫn còn tồn tại là các bộ phận vẫn chưa phối hợp nhịp nhàng, sai sót vẫn còn xảy ra. Nguyên nhân chính là do từng bộ phận chỉ lo tập trung cho công việc của mình mà không chú ý đến sự hợp tác với nhau. Do vậy, công ty cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ vì cách tiếp cận hệ thống quản lý đồng bộ sẽ mang lại hiệu quả cao. Tính đồng bộ là điểm tất yếu trong công tác quản lý nói chung cũng như quản lý chất lượng nói riêng của công ty in Tạp chí Cộng sản.
Vì vậy, muốn thực hiện tính đồng bộ trong quản lý chất lượng cần tập trung vào mấy hướng sau:
- Đồng bộ giữa các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, tổ chức, hành chính, pháp lý, giáo dục tư tưởng trong quản lý chất lượng. Nghĩa là phải nâng cao công tác quản lý máy móc thiết bị, đầu tư trang thiết bị công nghệ gắn liền với giáo dục đào tạo về nhận thức và tay nghề cho cán bộ công nhân viên ở mọi cấp mọi khâu để tạo hiệu quả trong quản lý.
- Đồng bộ giữa chất lượng của thành phẩm với chất lượng của nguyên vật liệu, bán thành phẩm…
Những điểm giống và khác nhau về bộ máy tổ chức quản lý chất lượng chất lượng đồng bộ thể hiện trong hai sơ đồ dưới đây: (xin xem trang sau)
Sơ đồ 3: Bộ máy tổ chức quản lý chất lượng theo hướng đồng bộ của công ty hiện nay:
PX sách
PX chế
bản
PX máy in
Giám đốc
Phó giám đốc
(P. Sản xuất kinh doanh)
P.Tài chính KT
Phòng tổng hợp
PX II
Sơ đồ 4 : Hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ theo hướng cải tiến:
PX chế
bản
PX máy in
PX II
Phòng tổng hợp
P.Tài chính KT
Phó giám đốc
(P. Sản xuất kinh doanh)
Giám đốc
PX sách
Để thực hiện được giải pháp này công ty cần có một số điều kiện sau:
Xuất phát từ biện pháp tổ chức bộ máy, tổ chức quản lý chất lượng đồng bộ của công ty, có thể thấy việc sắp xếp lại bộ phận, phòng ban… đều nhằm mục đích đảm bảo và nâng cao chất lượng nên công tác quản lý máy móc thiết bị, công nghệ, giáo dục - đào tạo… rất được coi trọng. Đây chính là bước đệm để tiếp tục hoàn thiện bộ máy này. Muốn vậy, công ty cần tiến hành những bước đi thật nhịp nhàng bắt đầu từ giáo dục - đào tạo và không ngừng đẩy mạnh hoạt động này. Từ giáo dục đào tạo sẽ nâng cao được trình độ nhận thức của mỗi người về chất lượng, về lợi ích cá nhân trong tập thể, từ đó họ sẽ thấy phải hợp tác, đoàn kết nhau lại để hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cá nhân và nhiệm vụ của cả tập thể. Nếu thực hiện tốt TQM tức là công ty đã đổi mới cách làm theo định hướng dùng phòng ngừa thay cho việc phát hiện khuyết tật phế phẩm. Đến lúc này bộ phận kiểm tra chất lượng chắc chắn sẽ không còn duy trì được nữa vì sản phẩm làm ra không có khuyết tật, công ty không phải bỏ ra những chi phí để khắc phục và sửa chữa những sản phẩm không đạt yêu cầu nữa.
Sau khi hoàn thiện TQM, công ty nên tiếp cận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. ISO 9000 đúc rút những kinh nghiệm tiên tiến nhất trên thế giới về đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng cho nên đã được rất nhiều công ty áp dụng. Việc áp dụng ISO 9000 vào hệ thống đảm bảo chất lượng làm tăng lòng tin cho khách hàng, duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng, giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, giảm được khiếu nại phàn nàn về chất lượng, làm cho người lao động nhận thức được về chất lượng, nâng cao tinh thần làm việc, sự hài lòng trong công việc. Việc tiếp cận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 là rất cần thiết, tuy nhiên không phải một sớm một chiều công ty có thể thực hiện luôn được. Nhưng công ty có thể lấy những yêu cầu của ISO 9000 làm định hướng, làm mục tiêu phấn đấu, tuỳ theo khả năng và mong muốn của mình để có thể tự xây dựng một hệ thống chất lượng thích hợp có trình độ thấp hơn với yêu cầu của ISO 9000 nhưng cao hơn trình độ hiện tại của công ty.
áp dụng ISO 9000 là một bước cao hơn TQM nên sau khi đã tổ chức triển khai thực hiện được hệ thống quản lý theo hướng đồng bộ thì bộ máy quản lý của công ty sẽ hoạt động hiệu quả và linh hoạt hơn. Từ đó sẽ tạo tiền đề cho việc từng bước áp dụng ISO 9000.
- Ban lãnh đạo cam kết trước toàn thể công nhân viên của công ty và khách hàng về việc công ty sẽ dần dần được áp dụng những quy định về tiêu chuẩn quản lý ISO 9000. Cam kết phải được thực hiện bằng văn bản.
- Công ty nên truyền đạt mục tiêu, ý nghĩa của ISO 9000. Xác định rõ những thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng ISO 9000 đối với nhân viên khách hàng và đối với doanh nghiệp mình.
- Ngoài ra, công ty phải quan tâm đến việc đào tạo những kiến thức chủ yếu như những khái niệm cơ bản về ISO 9000, cách viết sổ tay chất lượng, cách xây dựng các quy trình thủ tục và cách hướng dẫn các công việc… cho từng đối tượng cụ thể từ công nhân trực tiếp sản xuất đến cán bộ ở các phòng ban.
1.2. Xác định trách nhiệm của mỗi thành viên trong bộ máy quản lý chất lượng
Trước đây trong thời kỳ bao cấp, nhiều người cho rằng công tác quản lý chất lượng sản phẩm là thuộc về một bộ phận hay phòng kiểm tra chất lượng. muốn đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm thì phải tăng cường kiểm tra vào giai đoạn cuối của quá trình sản xuất. Hoạt động này chỉ có tác dụng phát hiện và đánh giá những sản phẩm hỏng, những phế phẩm không còn khả năng sửa chữa, chứ không có khả năng khôi phục lại giá trị sử dụng của sản phẩm. Việc dành nhiều thời gian vào những hoạt động vô ích, chữa lại và làm lại, xin lỗi khách hàng về những sai lầm, chất lượng kém… là rất lãng phí. Ngày nay, người ta nhận thấy chất lượng là một vấn đề hết sức quan trọng do đó không thể phó mặc nó cho “các nhân viên kiểm tra chất lượng”. Vì vậy, muốn tổ chức thực sự có hiệu quả, mọi bộ phận của tổ chức đó cần phải có sự kết hợp tốt trong công việc. Phải nhận thức được rằng mọi người, mọi hoạt động đều ảnh hưởng và chịu sự tác động của cá nhân, hoạt động khác. Do đó, chất lượng sản phẩm in phải được đảm bảo rằng có sự tham gia có ý thức của mọi người.
- Giám đốc phải nhận thức mình là người chịu trách nhiệm về mặt tiêu chuẩn chất lượng. Một khi quyết tâm đảm bảo chất lượng sản phẩm thì giám đốc có thể lôi kéo được các bộ phận chức năng và toàn thể công nhân cùng tham gia vào quá trình này. Giám đốc nên có thái độ dứt khoát dù là tốn kém đến mấy cũng không chấp nhận sản phẩm không đúng quy cách ở tất cả các dây chuyền sản xuất, sau đó cùng toàn thể công ty cam kết thực hiện.
- Phó giám đốc kỹ thuật và các phòng ban chức năng phải thực hiện các kế hoạch chất lượng cũng như cam kết về chất lượng của giám đốc đề ra. Phòng sản xuất phải kiểm soát quá trình sản xuất để không có lỗi ngay từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình sản xuất.
- Các quản đốc phân xưởng chính là người điều khiển và giám sát quá trình sản xuất. Họ sẽ là người trực tiếp giải quyết những vấn đề phát sinh trong nội bộ phân xưởng và báo cáo lên cấp trên. Vì vậy, họ phải có trách nhiệm phổ biến cho công nhân nắm được quy cách chất lượng sản phẩm, tuyệt đối không để tình trạng công nhân sản xuất ra phế phẩm.
- Công nhân là người trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm. Họ sẽ tự nhận thức được rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có thể trụ vững và phát triển hay không đều phụ thuộc vào bàn tay và khối óc của họ. Vì vậy, họ không chỉ được quan tâm đến việc làm sao đạt được và vượt chỉ tiêu sản lượng mà họ tự tìm cách ngăn không cho sản phẩm có sai hỏng xảy ra bằng cách kết hợp với các cán bộ KCS tìm ra nguyên nhân gây ra sai hỏng.
Công ty cần tiến hành mở các cuộc họp nói về chất lượng sản phẩm với những nội dung ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ để họ nhận thức được việc nâng cao chất lượng có quan hệ hữu cơ đối với cuộc sống của họ. Qua các cuộc họp, công ty có thể xây dựng nên các phương án khắc phục những điểm yếu ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của từng tổ, từng ca sản xuất.
Để thực hiện được biện pháp này, trên cơ sở tổ chức lại bộ máy quản lý đồng bộ, áp dụng mức thưởng phạt hợp lý đồng thời không ngừng duy trì đẩy mạnh hoạt động giáo dục - đào tạo cho mọi người thì việc xác định rõ trách nhiệm và làm cho mọi người hiểu được trách nhiệm của mình cũng là mọi vấn đề tất yếu. Bởi vì, một khi đã xác định rõ được trách nhiệm của bản thân cũng như lợi ích luôn đi kèm thì mọi người sẽ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ mà mình được giao. Từ đó tạo nên sự đồng bộ nhịp nhàng, đồng bộ trong cả công ty.
2. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý kỹ thuật và nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến cải tiến kỹ thuật
Vai trò của nhân tố con người trong quản lý chất lượng được công nhận là quan trọng. Nhưng nếu chỉ dựa thuần tuý vào sức người, sự nhiệt tình thôi thì chưa đủ để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Một công ty mà có máy móc công nghệ sản xuất lạc hậu thì không thể có năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm đảm bảo được. Từ đó không thể nào cạnh tranh được với những doanh nghiệp có trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật cao, sử dụng máy móc thiết bị hiện đại. Cùng với đà phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật các nhân tố máy móc thiết bị, công nghệ ngày càng trở nên quan trọng giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào công việc sản xuất với những máy móc thiết bị hiện đại, phù hợp với điều kiện của công ty sẽ mang lại sức cạnh tranh to lớn cho công ty.
Nhìn vào thực trạng của công ty, tình hình máy móc thiết bị tương đối đáp ứng được yêu cầu của công việc sản xuất. Tuy nhiên có một số máy cũ của Đức đã hỏng từng bộ phận nhưng vẫn được sử dụng do không có phụ tùng thay thế hoặc để đáp ứng tiến độ sản xuất cán bộ kỹ thuật của công ty chỉ sửa chữa mang tính tạm thời. Điều này đương nhiên ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Hoặc, nếu có phụ tùng thay thế thì máy móc lại trở nên không đồng bộ, cọc cạch hay gặp hỏng hóc. Thậm chí công ty còn có một số máy móc đã khấu hao hết nhưng vẫn duy trì sản xuất mà không có sự thay thế.
Đối với công ty hiện nay, việc đầu tư cho hoạt động duy trì, phát huy năng lực thiết bị hiện đại để nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm là cần thiết. Bởi vì, bên cạnh những máy móc thiết bị hiện đại, công ty vẫn đang sử dụng một số máy móc thiết bị cũ, lạc hậu. Mặt khác, nó cho phép tận dụng tối đa năng lực sản xuất các máy móc thiết bị hiện có. Do vậy, công ty chưa thể thay thế toàn bộ số máy móc cũ được, cũng như chưa thể đồng bộ hoá tất cả các thiết bị sản xuất.
Đứng trước tình hình như vậy, theo em việc đầu tư vào máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại là một yêu cầu khách quan. Tuy nhiên, do điều kiện bị hạn chế về nguồn vốn đầu tư nên công ty cần giải quyết vấn đề này theo hai hướng sau:
- Kịp thời xử lý những máy móc thiết bị đã quá cũ, hoạt động kém hiệu quả, không đảm bảo chất lượng nhưng vẫn tham gia sản xuất.
- Không nên đầu tư quá tập trung vào một loại công nghệ sản xuất nào đó mà phải đầu tư có trọng điểm thay thế dần thiết bị cũ, lạc hậu tiến tới đồng bộ hóa và hiện đại hoá toàn bộ máy móc sản xuất trong công ty.
Để làm được việc này công ty cần:
- Kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những máy móc thiết bị hiện đang sử dụng sản xuất xem có còn đủ tiêu chuẩn sản xuất mà không làm giảm chất lượng sản phẩm hoặc gây ra phế phẩm, trục trặc kỹ thuật trong khi sử dụng hay không? Sau đó, tổng kết số máy cũ hỏng chờ thanh lý trong kho giao cho phòng kế hoạch có trách nhiệm thanh lý theo phương thức đấu giá bán lẻ cho các doanh nghiệp công nghiệp, tư nhân với giá cả hợp lý. Số tiền này có thể hỗ trợ nguồn vốn cho công ty.
- Công việc tiếp theo, giám đốc công ty cần chỉ đạo cán bộ kỹ thuật xem xét, kiểm tra, đánh giá tình hình chung toàn công ty xem bộ phận nào, khu vực nào quan trọng cần đầu tư ngay, nơi nào có thể chậm lại. Do hạn chế về vốn nên công ty cần đầu tư lần lượt theo thứ tự: bắt đầu từ những khâu quan trọng và cần thiết nhất, tiếp theo đến những bộ phận còn lại.
Quản lý kỹ thuật là một bộ phận quan trọng trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm, nó tác động trực tiếp đến việc vận hành máy móc, thiết bị đảm bảo cho hoạt động bình thường góp phần ổn định và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nội dung của quản lý kỹ thuật bao gồm quy phạm, quy trình kỹ thuật, bảo dưỡng máy móc thiết bị, thúc đẩy cải tiến khoa học kỹ thuật áp dụng vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Cùng với việc đầu tư các thiết bị hiện đại, công ty phải tổ chức bảo dưỡng, bảo quản và sửa chữa theo định kỳ. Để nâng cao hiệu quả quản lý kỹ thuật trong thời gian tới, công ty cần quan tâm đến những vấn đề sau:
- Thường xuyên tiến hành kiểm tra máy móc, thiết bị của công nhân đứng máy qua từng công việc như: kế hoạch bảo dưỡng máy móc - thiết bị, kế hoạch kiểm tra định kỳ, kế hoạch sửa chữa máy móc, thiết bị.
- Tăng cường công tác sửa chữa, cải tiến, nâng cấp máy móc, thiết bị đang dùng trong sản xuất.
- Một vấn đề rất quan trọng là công ty phải có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao và đội ngũ công nhân sửa chữa, bảo toàn máy móc, hiểu biết về máy móc và thị trường máy móc công nghệ. Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ này có đủ điều kiện làm chủ các thiết bị hiện đại, tránh tình trạng non kém về chuyên môn mà làm hỏng thiết bị, máy móc. Đội ngũ lao động có tay nghề cao, hiểu biết, có khả năng thích ứng với công nghệ mới và có kỷ luật chấp hành quy trình, thao tác công nghệ, tránh tình trạng công ty không tận dụng hết chức năng, công suất của máy móc công nghệ hay nhập công nghệ cũ, lỗi thời với giá cao.
3. Cung cấp nguyên vật liệu đồng bộ, đạt tiêu chuẩn chất lượng
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chất lượng nguyên vật liệu sử dụng. Nếu nguyên vật liệu không đạt chất lượng, không đúng chủng loại thì sản phẩm sản xuất ra khó đảm bảo chất lượng, gây ra nhiều phế phẩm, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, công ty sử dụng các nguyên vật liệu chính như: giấy in, mực in, bản kẽm… đều được nhập từ nhiều nước khác nhau như Trung Quốc, Nhật, Anh, Đức, Italia… Việc cung cấp và quản lý gặp nhiều khó khăn đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm. Để góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm trong việc cung ứng và quản lý nguyên vật liệu, công ty cần chú ý đến những vấn đề sau:
3.1. Tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu thường xuyên ổn định:
Hàng năm, công ty sử dụng khối lượng nguyên vật liệu tương đối lớn cho quá trình sản xuất, cho nên việc lựa chọn đơn vị cung ứng có uy tín trên thị trường là hết sức cần thiết. Ngày nay, thị trường sản xuất và kinh doanh các vật liệu ngành in dần dần phát triển và mở rộng. Có thể cung ứng khối lượng nguyên vật liệu lớn và phong phú về chủng loại. Vấn đề đặt ra là khi thu mua nguyên vật liệu cần xem xét các chỉ số kỹ thuật, so sánh chất lượng và tương quan giá cả để lựa chọn nguồn cung ứng hợp lý. Vật liệu chào bán không đủ tiêu chuẩn và chất lượng, không đúng chủng loại kích cỡ yêu cầu thì dù giá rẻ công ty cũng không nên mua.
3.2. Cấp phát nguyên vật liệu theo nhu cầu định mức:
Trên cơ sở hợp đồng đã ký với khách hàng, phòng sản xuất sẽ tính tỷ lệ sai hỏng cho phép, từ đó tính ra số lượng nguyên vật liệu thực tế phải xuất, viết phiếu lĩnh vật tư và kiểm tra số lượng ghi trên phiếu đối chiếu với số lượng thực tế trong kho. Nếu đảm bảo số lượng và tiêu chuẩn chất lượng, phòng vật tư mới cho xuất kho. Nếu thiếu cần có biện pháp xử lý sao cho đủ yêu cầu như:
+ Thu mua thêm nguyên vật liệu
+ Sử dụng các vật liệu khác có thông số kỹ thuật tương tự mà không làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
3.3. Quyền hạn, trách nhiệm của các phòng ban, cá nhân với việc cung cấp và quản lý nguyên vật liệu:
- Phòng sản xuất:
+ Lên kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu đúng với kế hoạch sản xuất.
+ Tùy theo từ yêu cầu của khách hàng lựa chọn loại giấy in, mực in thích hợp trên nguyên tắc tiết kiệm nhưng đảm bảo chất lượng sản phẩm.
+ Trên cơ sở thống kê có khoa học để xây dựng định mức sử dụng nguyên vật liệu cho phù hợp với điều kiện kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là định mức sử dụng mực in, tránh trường hợp lãng phí.
Ngoài việc lên kế hoạch, công ty còn thực hiện các công việc sau để đảm bảo chất lượng sản phẩm như:
+ Cử nhân viên có kinh nghiệm để thu mua nguyên vật liệu với các thông số kỹ thuật chuẩn và giá cả hợp lý.
+ Làm tốt các công tác kiểm tra nguyên vật liệu mua về và thực hiện công tác bảo quản tốt, đặc biệt là giấy in.
+ Thanh lý các vật liệu tồn kho kém phẩm chất để thu hồi vốn và tăng diện tích sử dụng kho.
+ Trong quá trình thu mua và vận chuyển vật liệu tránh bị hao hụt và giảm chất lượng.
+ Tạo nguồn vốn cần thiết để chủ động cho quá trình thu mua nguyên vật liệu.
+ Tính chính xác giá thành của các nguyên vật liệu đó và các chi phí liên quan đến quá trình thu mua để làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm.
+ Tiếp nhận cẩn thận, tránh lãng phí nguyên vật liệu.
+ Kiểm tra vật liệu trước khi đưa vào sử dụng.
Sử dụng nguyên vật liệu theo định mức hợp lý, sẽ giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tóm lại, thực hiện được giải pháp này công ty có cơ sở để sản xuất, đưa ra sản phẩm đảm bảo chất lượng, đúng thời gian giao hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh trên thị trường.
Để thực hiện được giải pháp này công ty cần có các điều kiện sau:
- Cần có nguồn vốn để có thể đầu tư sửa kho tàng và lấy từ quỹ đầu tư xây dựng và tính vào chi phí giá thành.
- Đội ngũ thủ kho, cán bộ quản lý kho phải được đào tạo và đào tạo lại về chuyên môn nghiệp vụ và có tinh thần trách nhiệm cao. Đối với cán bộ kỹ thuật cần cố gắng định mức nguyên vật liệu sản xuất sao cho hợp lý mà vẫn tiết kiệm.
4. Tập trung giáo dục, đào tạo cán bộ công nhân viên trong công ty thông qua các khoá học tập trung về chất lượng.
Có một lý thuyết về tập tính của con người cho rằng tiềm thức của con
người có xu hướng kìm hãm sự phát triển trí tuệ của mình. Con người đi đến những nhận định theo khuôn sáo và bằng lòng với những thói quen đã định hình. Khi con người đã yên tâm với cuộc sống và hoà thuận với thiên hạ, họ thôi không học hỏi và đầu óc họ nhàn rỗi đến cuối đời.
Tuy nhiên bằng giáo dục và đào tạo, con người không muốn học một tí nào cũng phải thay đổi. Giáo dục đào tạo là biện pháp nhằm nâng cao năng lực của con người về mọi mặt mà con người là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, cần áp dụng các biện pháp dưới đây để làm cho chất lượng sản phẩm tốt hơn và hệ thống quản lý chất lượng đạt hiệu quả cao hơn.
Tùy theo từng giai đoạn, yêu cầu của công việc trong công ty có thể tiến hành các hình thức đào tạo như: đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo nâng cao. Công ty cần thường xuyên tiến hành đào tạo về quản lý chất lượng cho mọi người từ đội ngũ lãnh đạo cho đến những người lao động làm việc tại các phòng ban phân xưởng.
Công ty cần xác định rõ nhu cầu và phương thức đào tạo cho từng loại đối tượng đảm bảo cho mọi người có liên quan đến chất lượng đều được đào tạo theo những mức độ khác nhau.
Đối với cán bộ điều hành và quản lý: công ty cần đào tạo theo các lớp học dài hạn (2 - 4 năm) hoặc ngắn hạn (3 tháng – 6 tháng) để họ nắm vững được hiệu quả của TQM, từ đó điều hành hệ thống quản lý chất lượng của công ty được đồng bộ nhịp nhàng hơn.
Đối với công nhân trực tiếp sản xuất thì nên đào tạo theo hình thức kết hợp lý thuyết với thực hành, từ hình thức công nhân kèm nhau học đến tự học có hướng dẫn của tổ trưởng, quản đốc phân xưởng, tổ chức các cuộc thi về chất lượng để nâng bậc, nâng cao tay nghề cho họ…
Để thực hiện các biện pháp trên công ty cần:
- Kiểm điểm lại hoạt động đào tạo sau mỗi kỳ học để xem có nên tiếp tục đào tạo nữa hay không. Những đối tượng nào cần đào tạo mới và đào tạo lại…
- Đối với những người đi học, công ty cần duy trì mức thu nhập thoả đáng để họ vừa đi học, vừa đảm bảo cuộc sống của mình.
- Công ty nên thiết lập mối quan hệ với các trường đại học và trung cấp dạy nghề để tạo mối quan hệ chặt chẽ, điều này rất có lợi cho công ty mỗi khi cần biết thông tin về các khoá học chuyên ngành, về tình hình học tập của học viên mà công ty cử đi… từ đó động viên, giúp đỡ học viên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình.
- Công ty cần cấp kinh phí đào tạo để kế hoạch giáo dục đào tạo được triển khai trong thực tiễn.
5. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khi thiết kế sản phẩm và khi sản phẩm hình thành, chất lượng sản phẩm được khẳng định qua tiêu dùng. Vì vậy, kiểm tra chất lượng sản phẩm và tìm ra nguyên nhân làm cho sản phẩm không đạt yêu cầu về chất lượng sản phẩm là vô cùng quan trọng. Do đó, việc phân tích trên để đề ra những biện pháp nhằm khắc phục và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
Công tác kiểm tra chất lượng ở công ty in Tạp chí Cộng sản thực hiện chưa chặt chẽ, đặc biệt là ở các phân xưởng. Do vậy, tăng cường công tác kiểm tra là vấn đề thiết yếu phải được thực hiện.
* Trước hết công ty cần xác định đối tượng kiểm tra chất lượng sản phẩm:
- Kiểm tra chất lượng vật liệu trước khi đưa vào sản xuất.
- Kiểm tra tình hình hoạt động máy móc thiết bị.
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm ở các khâu của quá trình sản xuất.
- Kiểm tra việc chấp hành quy định, quy phạm, phương pháp sử dụng máy móc của nhân viên.
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi giao hàng cho khách.
+ Hình thức kiểm tra: Kiểm tra toàn bộ bước công việc và kiểm tra xác suất sản phẩm.
+ Phương pháp kiểm tra: Kiểm tra bằng phương pháp trực quan và phương pháp phân tích.
* Chế độ trách nhiệm của các phòng ban và các cá nhân trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm:
- Phòng sản xuất kiểm tra thường xuyên chất lượng sản phẩm trên dây chuyền sản xuất.
- Ghi nhận kết quả báo cáo thống kê và nhân viên phụ trách sản xuất các phân xưởng về chất lượng sản phẩm.
- Kết hợp với nhân viên KCS giải quyết khiếu nại và giải quyết khó khăn của người lao động để giúp đỡ.
- Tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng chất lượng sản phẩm và đề ra biện pháp xử lý kịp thời.
- Quản đốc cần theo dõi thời gian và sản lượng công nhân làm ra trong một ca.
- Giám sát công nhân chấp hành đúng quy trình, phương pháp thao tác.
- Xem xét tình trạng máy móc thiết bị nếu có trục trặc phải báo ngay để phòng sản xuất điều người đến sửa chữa.
- Công nhân đứng máy tự kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình và trực tiếp bảo dưỡng máy.
- Nhân viên KCS kiểm tra chất lượng sản phẩm và xử lý các sản phẩm không đạt chất lượng.
6. Thúc đẩy công tác nghiên cứu thị trường để định hướng chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, công ty không có phòng Marketing riêng mà bộ phận này nằm trong phòng sản xuất - kinh doanh, do đó việc nghiên cứu nhu cầu thị trường ký thêm nhiều hợp đồng cho công ty đạt hiệu quả chưa cao. Với điều kiện hiện nay của công ty, khi mà ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh thì vai trò của công tác nghiên cứu thị trường ngày càng trở lên quan trọng. Bộ phận Marketing là bộ phận có quan hệ mật thiết với người tiêu dùng. Bộ phận này có khả năng xác định và làm rõ nhu cầu của thị trường để từ đó công ty có thể xác định được đúng tiêu chuẩn sản phẩm cần sản xuất phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, từ đó có chính sách cải tiến chất lượng thích hợp. Công ty cần phải định hướng các hoạt động của mình theo nhu cầu, đòi hỏi của thị trường và bằng mọi cách vươn lên đáp ứng cho được những nhu cầu, đòi hỏi đó.
Xuất phát từ lý luận đó và tình hình thực tế sản xuất kinh doanh hiện nay, để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như góp phần chiếm lĩnh thị trường trong nước. Công ty nên thành lập một phòng Marketing riêng biệt mới có thể tập trung tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Để làm được việc này, ban giám đốc công ty cần tiến hành chỉ đạo thực hiện một số nội dung cụ thể như sau:
- Dựa trên cơ sở nòng cốt là cán bộ ở bộ phận phòng sản xuất – kinh doanh, công ty chỉ đạo hình thành một đội ngũ cán bộ, nhân viên Marketing. Có thể tuyển thêm nhân viên mới tốt nghiệp đại học chuyên ngành Marketing. Sau khi có đủ nguồn nhân lực, ban giám đốc đề ra mục tiêu chính sách và phương hướng hoạt động cụ thể. Mục tiêu chính là thực hiện chiến lược khai thác và mở rộng thị trường.
- Đội ngũ nghiên cứu thị trường cần phải tổng hợp thông tin về chất lượng sản phẩm, yêu cầu, thị hiếu của khách hàng. Ngoài ra, cần nghiên cứu khái quát về thị trường như quy mô thị trường, cơ cấu, nhu cầu và sự vận động của thị trường. Nghiên cứu chi tiết thị trường của khách hàng cũng như thị trường của các đối thủ cạnh tranh, để xác định các đối thủ cạnh tranh và xác định kiểu cách, mức độ cạnh tranh của đối thủ tiềm ẩn và đối thủ trực tiếp… Trên cơ sở đó, công ty sẽ thấy được lợi thế và nhược điểm của sản phẩm mà công ty đang sản xuất, từ đó đề ra phương pháp thích hợp.
- Phòng Marketing có thể tiến hành nghiên cứu thị trường bằng cách lựa chọn trên cơ sở tài liệu nghiên cứu như các bản tin kinh tế, thông tin kinh tế đối ngoại, tạp chí Thương Mại… đặc biệt quan trọng là bằng những thông tin thu thập được từ việc nghiên cứu thăm dò thực tế.
- Thực hiện được giải pháp này, công ty có thể thấy hiệu quả đáng kể trong quá trình giải quyết vấn đề phù hợp giữa chất lượng, giá cả và nhu cầu thị trường. Từ đó đẩy mạnh việc tiêu thụ, tăng lợi nhuận. Đồng thời, công ty tạo được sức mạnh cho mình trong việc cạnh tranh với các đối thủ khác. Tạo ra sự hỗ trợ lớn trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Các công tác nghiên cứu thị trường lấy việc thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo cho mọi hoạt động. Khối lượng sản phẩm mà công ty sản xuất và tiêu thụ sẽ đánh giá thành công sau này.
Để thực hiện được giải pháp này công ty cần có một số điều kiện như sau:
- Trước hết, ban lãnh đạo giám đốc công ty cần phải thấy được vai trò to lớn của công tác nghiên cứu thị trường đối với sự tồn tại và phát triển của công ty nói chung và công tác cải tiến chất lượng sản phẩm nói riêng trong cơ chế thị trường hiện nay. Có quy định cụ thể về mục tiêu, chính sách và phương hướng hoạt động cho các cán bộ nghiên cứu thị trường. Đồng thời ban giám đốc phải tạo điều kiện, hỗ trợ, cung cấp đầy đủ tài liệu cần thiết cho hoạt động của họ. Trang bị đầy đủ các phương tiện giúp cán bộ nghiên cứu thị trường có điều kiện tốt cho công tác thu nhập, xử lý, lựa chọn thông tin.
- Đối với đội ngũ nghiên cứu thị trường: phải có kiến thức về Marketing, có khả năng thu thập thông tin, đã qua đào tạo các lớp về nghiệp vụ Marketing, có khả năng sáng tạo, năng động trong công việc, có kinh nghiệm và hiểu biết về ngành in. Biết xử lý các thông tin thu thập được để sáng tạo chất lượng sản phẩm mới.
7. áp dụng chế độ thưởng phạt vật chất nhằm tạo động lực cho người sản xuất và quản lý
Đây là biện pháp tạo động lực cho người lao động nâng cao chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất. Muốn nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thì ngoài trình độ tay nghề người công nhân phải có một tinh thần trách nhiệm và lòng hăng say đối với công việc.
Hiện nay, công ty in Tạp chí Cộng sản đang sử dụng cơ chế tính lương cho người trực tiếp sản xuất. Như vậy, người công nhân muốn được hưởng lương cao thì họ phải làm ra nhiều sản phẩm. Vì vậy, họ quan tâm đến số lượng nhiều hơn là chất lượng. Do đó, công ty phải có quy định về cách tính lương theo sản phẩm vừa hợp lý, vừa đảm bảo chính xác.
Đối với từng đối tượng cần áp dụng các hình thức thưởng phạt thích hợp. Việc khen thưởng cần linh hoạt, đúng lúc, đúng chỗ và thích đáng thì mới phát huy được hiệu quả. Để thực hiện việc này đòi hỏi các cấp lãnh đạo cần hiểu rõ tâm lý của từng người, tìm hiểu rõ nguyên nhân sai phạm để có các cấp thưởng phạt hợp lý, có như vậy đòn bẩy lợi ích mới tác động đến tất cả mọi người và phát huy được tác dụng. Công ty cần có chính sách thưởng phạt như sau:
- Đối với chế độ thưởng :
+ Hoàn thành vượt mức số lượng sản phẩm và tất cả sản phẩm đều phải đạt chất lượng à thưởng tiền, tăng lương.
+ Có tinh thần, trách nhiệm làm việc tốt, chấp hành đúng nội quy làm việc à tuyên dương, khen thưởng…
+ Có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, công nghệ à tặng bằng khen, thưởng vật chất, tuyên dương…
- Đối với chế độ phạt vật chất:
+ Với sản phẩm in một màu: trong 1000 tờ sản phẩm chỉ được lẫn tối đa 5 tờ sản phẩm hỏng. Nếu vượt quá tỷ lệ cho phép, công ty quy định:
Để lẫn 6 - 10 tờ hạ 1 bậc thưởng
Để lẫn 11 - 15 tờ hạ 2 bậc thưởng
Để lẫn 16 tờ trở lên cắt thưởng
+ Với sản phẩm in nhiều màu: trong 1000 tờ sản phẩm chỉ được lẫn tối đa 10 tờ sản phẩm hỏng, nếu:
Để lẫn từ 11 - 15 tờ hạ 1 bậc thưởng
Để lẫn từ 16 - 20 tờ hạ 2 bậc thưởng
Để lẫn 20 tờ trở lên cắt thưởng
- Đối với máy vào bìa: trong 1000 cuốn nếu:
Để lẫn 6 - 8 cuốn hạ 1 bậc thưởng
Để lẫn 9 - 10 cuốn hạ 2 bậc thưởng
Để lẫn trên 11 cuốn thì cắt thưởng
- Đối với máy dao: trong 1000 cuốn chỉ được phép để lẫn 5 cuốn hỏng, nếu quá tỷ lệ cho phép cắt thưởng.
- Đối với phân xưởng:
Nếu sản phẩm hỏng chiếm 1% thì phạt 5% quỹ thưởng, 2% thì phạt 10% quỹ thưởng của phân xưởng.
Nếu giao hàng cho khách mà khách hàng còn phát hiện sản phẩm hỏng thì phân xưởng phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên để tránh tình trạng sản phẩm hỏng, bên cạnh chế độ thưởng phạt, công ty cần có những điều kiện sau:
+ Người quản lý phải xem xét tình hình thực tế của máy móc, thiết bị và trình độ của công nhân đứng máy để định mức lao động hợp lý, thường xuyên bổ sung và điều chỉnh.
+ Tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm ở các khâu để đảm bảo tính công bằng, hợp lý…
Như vậy, thực chất của đòn bẩy lợi ích là vì lợi ích cá nhân rồi đến lợi ích của công ty và, cuối cùng lại trở về với lợi ích cá nhân ./.
Kết luận
Nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, sản xuất của các doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý chất lượng sản phẩm nói riêng vẫn còn một số vấn đề cần tìm biện pháp giải quyết để thích ứng với cơ chế mới. Cũng trong bối cảnh đó, công ty in Tạp chí Cộng sản đã có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn để có giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng thu hút khách hàng mới. Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn công ty chưa thể khắc phục hết các tồn tại, khó khăn. Ban lãnh đạo công ty cũng đã nhận định: “Chất lượng sản phẩm là mối quan tâm hàng đầu, là nhân tố quan trọng để tồn tại và phát triển trong tình hình mới”. Vì vậy, nhiệm vụ này không chỉ ở ban lãnh đạo công ty mà đó còn là trách nhiệm của mọi cán bộ công nhân viên có đời sống gắn liền với sự phát triển của công ty.
Với nỗ lực cao nhất của mình, em đã cố gắng thực hiện mong muốn: là một đóng góp nhỏ bé có ích cho hoạt động thực tiễn của công ty.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, hướng dẫn nhiệt tình của thầy Hồ Phương cùng toàn thể các cô, chú cán bộ, CNV trong công ty in Tạp chí Cộng sản và các bộ phận có liên quan của công ty in Tạp chí Cộng sản, cũng như tất cả các bạn đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này ./.
Hà nội, ngày 15 tháng 07 năm 2001
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Quản lý chất lượng đồng bộ
John S.Oakland - NXB Thống kê 1994.
2. Giáo trình quản trị chất lượng
GS. Nguyễn Quang Toản - NXB Thống kê 1995.
3. Giáo trình quản lý chất lượng sản phẩm
PGS-PTS. Nguyễn Quốc Cừ - NXB KH & KT 1998.
4. Đổi mới quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới
GS. Hoàng Mạnh Tuấn - NXB KH& KT 1997.
5. Quản lý chất lượng trong doanh nghiệp theo TCVN ISO9000
PTS. Nguyễn Kim Định - 1998.
6. Thời báo kinh tế năm 2000
7. Các tài liệu báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty in Tạp chí Cộng sản năm 1998 - 2000.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
Chương I: Nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
I. Những vấn đề chung về chất lượng 1
1. Khái niệm chất lượng và vai trò của chất lượng sản phẩm 1
2. Đặc điểm và hệ thống chỉ tiêu phản ánh chất lượng 5
3. Sự hình thành chất lượng sản phẩm và các loại chất lượng 8
4. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm 11
5. Quan hệ chất lượng với chi phí và hiệu quả sản xuất kinh doanh 13
II. Nội dung của công tác quản lý chất lượng sản phẩm 15
1. Thực chất của công tác quản lý chất lượng sản phẩm 15
2. Nguyên tắc cơ bản trong quản lý chất lượng sản phẩm 16
3. Các biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm 17
Chương II. Phân Tích thực trạng chất lượng sản phẩm ở công ty in Tạp Chí Cộng Sản
I. Một số nét tổng quan về công ty 22
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty 22
2. Một số kết quả sản xuất kinh của công ty trong thời gian qua 24
3. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của công ty in Tạp Chí Cộng Sản 27
4. Một số đặc điểm kinh tế, kỹ thuật có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
của công ty 29
II. Thực trạng về việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty 37
1. Một số nét về chất lượng sản phẩm của công ty 37
2. Tình hình thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty 41
III. Đánh giá khái quát thực trạng chất lượng sản phẩm ở công ty 47
1. Ưu điểm 47
2. Tồn tại 48
3. Nguyên nhân của những tồn tại 49
Chương III. Một số biện pháp nhằm ổn định và nâng cao
chất lượng sản phẩm ở công ty 52
I. Phương hướng – mục tiêu phát triển của công ty in Tạp chí Cộng sản 52
II. Một số biện pháp nhằm ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm
ở công ty in Tạp Chí Cộng Sản 53
1. Các biện pháp về tổ chức quản lý 53
2. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý kỹ thuật và nghiên cứu, ứng dụng
sáng kiến cải tiến kỹ thuật 59
3. Cung cấp nguyên vật liệu đồng bộ, đạt tiêu chuẩn chất lượng 61
4. Tập trung giáo dục, đào tạo cán bộ công nhân viên trong công ty thông
qua các khoá học tập trung về chất lượng 63
5. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm 65
6. Thúc đẩy công tác nghiên cứu thị trường để định hướng chất lượng
sản phẩm 66
7. áp dụng chế độ thưởng phạt vật chất nhằm tạo động lực cho người
sản xuất và quản lý 68
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Viện đạI học mở hà nội
Khoa quản trị kinh doanh
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nhận xét luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Một số biện pháp chủ yếu nhằm ổn định và nâng cao chất lượng in sản phẩm ở công ty in Tạp Chí Cộng Sản.
Sinh viên: Đinh Thị Thu Hương.
Lớp : K6QT1
ý kiến đánh giá:
Điểm luận văn (bằng số và chữ)
Hà nội, ngày tháng năm 2001
Giảng viên hướng dẫn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34217.doc