Luận văn Một số biện phỏp nhằm nõng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở cụng ty thực phẩm miền Bắc-FONEXIM

Những năm qua thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo ngành thương mại đã cùng các ngành, các địa phương nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi những khó khăn trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cũng như về phía Nhà nước phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh hoạt động này. Công ty thực phẩm miền Bắc đã đạt được một số thành tích trong quá trình hoạt động của mình đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu đã cung cấp những hàng hoá cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong nước trong lĩnh vực thực phẩm, góp phần nâng cao chất lượng của người tiêu dùng. Thành tích này của công ty còn khiêm tốn so với yêu cầu của xã hội. Trong hoạt động của mình, công ty gặp nhiều thuận lợi song cũng gặp phải không ít khó khăn. Công ty cần cố gắng hơn nữa trong vai trò hỗ trợ thúc đẩy sản xuất trong nước và sự phát triển của công ty. Trong thời gian thực tập ở công ty, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu ở công ty và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu. Hy vọng góp một phần nhỏ vào quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty. Qua đây em cũng chân thành cảm ơn cô giáo PHẠM THỊ LỤA và cán bộ của công ty thực phẩm miền Bắc đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ này!

doc37 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện phỏp nhằm nõng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở cụng ty thực phẩm miền Bắc-FONEXIM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc. CHƯƠNG I: NHữNG VấN Đề CHUNG 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty thực phẩm miền Bắc, có tên giao dịch quốc tế The Northern Foodstuff Company-FONEXIM, là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trên cả ba lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, du lịch khách sạn. công ty có hệ thống hạch toán độc lập, hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam và sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước. Năm 1981 thành lập công ty rau quả trực thuộc Bộ Ngoại thương (nay là Bộ thương mại). Năm 1991, công ty thực phẩm công nghệ miền Bắc sát nhập với công ty Rau Quả thành công ty thực phẩm miền Bắc trực thuộc Tổng công ty thực phẩm Bộ Thương mại. Đến tháng 8/1999, Bộ Thương mại đã quyết định sát nhập các đơn vị phía Bắc vào Công ty thực phẩm miền Bắc. Công ty thực phẩm miền Bắc Bộ thương mại Công ty thực phẩm XK Nam Hà Xí nghiệp thực phẩm Thăng long Công ty bánh kẹo Hữu Nghị Trại chăn nuôi Thái Bình Chi nhánh thực phẩm Tại Hà Nội Trong cơ chế cũ, tuy là một đơn vị kinh doanh nhưng công ty bị hạn chế bởi chính sách quản lý chung của Nhà nước theo kiểu kế hoạch hoá tập trung, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước sắp đặt trước bằng các kế hoạch, từ xuất nhập khẩu mặt hàng gì? ở đâu? bán cho ai? Cho đến giá bao nhiêu? đều được quy định trước. Do đó, công ty không thể chủ động phát huy khả năng và nguồn lực của mình. Đại hội Đảng VI với chủ trương chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong đó có công ty thực phẩm miền Bắc. Với việc giao quyền chủ động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đã tạo điều kiện cho công ty thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Tuy nhiên đó cũng là một thách thức lớn đối với công ty. Để tồn tại và phát triển hoà nhập với xu thế mới của đất nước và thế giới, công ty đã từng bước bố trí, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức kinh doanh phù hợp với quy mô và khả năng sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo, bồi dưỡng, tăng cường kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong công ty, nhanh chóng đổi mới phương thức kinh doanh, mở rộng mặt hàng xuất nhập khẩu, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Trong quá trình hoạt động của mình, công ty đã trải qua nhiều khó khăn do tình hình kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến phức tạp nhưng công ty vẫn đứng vững và phát triển, ngày càng mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, mở rộng các quan hệ kinh tế với các bạn hàng nước ngoài như Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Ba Lan... ở trong nước, công ty có quan hệ với nhiều doanh nghiệp như công ty bánh kẹo Trường An, Hải Châu, Hải Hà, các cơ sở ở các tỉnh phía Bắc, các tư nhân ở các chợ lớn như Đồng Xuân, Hàng Da, các siêu thị lớn trong thành phố Hà Nội... Ngoài ra, công ty còn tiến hành tổ chức sản xuất và kinh doanh dịch vụ, khách sạn-du lịch. Công ty đầu tư, mở rộng, nâng cấp mạng lưới bán lẻ, tiến hành xuất nhập khẩu tại chỗ thu ngoại tệ, áp dụng biện pháp hữu hiệu để tổ chức nguồn hàng xuất nhập khẩu, định giá mua bán trên cơ sở căn cứ vào thị trường, thu thập thông tin, mở hội nghị khách hàng, rút kinh nghiệm... Qua đó, công ty thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, hướng nhập khẩu vào những mặt hàng chủ yếu phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đem lại hiệu quả kinh doanh cao đúng với chức năng ngành hàng, đúng hướng kinh doanh. Hiện nay, công ty có 28 đơn vị trực thuộc ở các tỉnh trong cả nước: 1. Xí nghiệp chế biến, thực phẩm Tông Đản- Hà Nội. 2. Chi nhánh Lào Cai 3. Xí nghiệp thực phẩm Thái Bình. 4. Chi nhánh Hải Phòng. 5. Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh. 6. Chi nhánh Việt Trì 7. Nhà máy bánh kẹo cao cấp Hữu Nghị. 8. Chi nhánhThanh Hoá. 9. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 1. 10. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 2. 11. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp 203 Minh Khai. 12. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 3. 13. Khách sạn Nam Phương. 14. Trung tâm thuốc lá. 15. Trung tâm Rượu bia. 16. Trạm kinh doanh thực phẩm Nam Định 17. Trạm kinh doanh thực phẩm Ninh Bình. 18. Trạm kinh doanh thực phẩm Quảng Ninh. 19. Trạm kinh doanh thực Bắc Giang. 20. Khách sạn Hà Nội 21.Cửa hàng thực phẩm Hòn Gai. 22.Trung tâm thực phẩm Tây Nam Bộ. 23.Trung tâm thương mại thực phẩm. 24.Trung tâm nông sản thực phẩm 25.Trung tâm KCS. 26.Chi nhánh Quy Nhơn. 27. Chi nhánh Nghệ An. 28. Văn phòng công ty. 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty Để thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài thì tổ chức bộ máy quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ khuyến khích người lao động trong công ty làm việc có chất lượng và năng suất cao. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty bao gồm: Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty thực phẩm miền Bắc Giám đốc Các XN sản xuất Các cửa hàng XN bánh quy Các chi nhánh Các khách sạn Phòng kỹ thuật Phòng kinh doanh Phòng kế toán Phòng tổ chức hành chính Phòng kế hoạch PGĐ XNK PGĐ Kinh doanh PGĐ sản xuất Đứng đầu công ty là Giám đốc do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm. Giám đốc điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty trước pháp luật, trước Bộ Thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên chức của công ty về việc tồn tại và phát triển của công ty cũng như các hoạt động: Ký kết hoạt động, thế chấp vay vốn, tuyển dụng nhan viên, bố trí sắp xếp lao động... Giám đốc có trách nhiệm tổ chức bộ máy quản lý, mạng lưới kinh doanh cho phù hợp với nhiệm vụ của công ty và phân cấp quản lý của Bộ. Dưới Giám đốc còn có 3 Phó Giám đốc phụ trách 3 mảng hoạt động của công ty: - Phó Giám đốc phụ trách xuất nhập khẩu. - Phó Giám đốc phụ trách hoạt động kinh doanh nội địa. - Phó Giám đốc phụ trách sản xuất. Các phòng ban cùng với Ban Giám đốc điều hành toàn bộ công việc của công ty từ việc tổ chức lao động đến việc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Phòng kinh doanh: Là phòng chịu trách nhiệm hoạt động sản xuất kinh doanh ở thị trường trong và ngoài nước. Phòng kinh doanh tham mưu cho Giám đốc về: - Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty dựa trên thông tin ở phòng kế hoạch. - Tham mưu cho Giám đốc về các hợp đồng xuất nhập khẩu, thực hiện kế hoạch do công ty giao cho, tham gia các hoạt động phối hợp chung của công ty. - Mở rộng thị trường trong và ngoài nước. - Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu và lập phương án xuất nhập khẩu. - Tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng hoá của công ty trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc. - Nghiên cứu, tìm kiếm biện pháp thúc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá của công ty. - Tổ chức các nguồn hàng nội địa, quan hệ chặt chẽ với các nhà sản xuất ngành hàng thực phẩm. Phòng kế hoạch và thị trường: Tham mưu cho Giám đốc về: - Xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm từ các số liệu báo cáo định kỳ của các bộ phận khác trong công ty, từ tình hình thực tế của thị trường, xây dựng phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh và kế hoạch dài hạn. - Điều tiết kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng quý, hàng năm theo nhu cầu sản phẩm trên thị trường, điều tiết kế hoạch vận chuyển hợp lý. - Có kế hoạch cung ứng vật tư cho các đơn vị theo kế hoạch. - Có trách nhiệm về chất lượng và bảo quản vật tư trong kho, quản lý tốt các kho của công ty. - Nghiên cứu và tìm các biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của công ty. Phòng tài chính kế toán: Tham mưu cho Giám đốc về: - Quản lý toàn bộ nguồn vốn, các tài liệu, số liệu về kế toán tài chính, quyêt toán, tổng kiểm kê tài sản hàng năm theo định kỳ của Nhà nước. - Báo cáo về tài chính lên cơ quan cấp trên và nộp các khoản ngân sách cho Nhà nước theo quy định. - Tính toán các thương vụ kinh doanh của các đơn vị, cơ sở trực thuộc đưa ra các phương án khả thi để bảo lãnh vay ngân hàng trong hoạt động sản xuất thuận lợi. Quản lý chi phí hợp lý và có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ với phương châm tổng thu phải lớn hơn tổng chi. - Kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong công ty qua hoạt động tài chính. - Hàng quý hoặc hàng tháng tổ chức quyết toán, khi cần thiết thì tiến hành thanh tra tài chính đối với các thành viên trong công ty. - Làm thủ tục thanh lý và quản lý tốt tiền mặt, điều phối vốn trong công ty - Bảo toàn và phát triển vốn tăng nhanh vòng quay của vốn. Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho Giám đốc về: -Tổ chức nhân sự, tổ chức bộ máy quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác quản lý hồ sơ của cán bộ công nhân viên trong công ty. - Cân đối tiền lương, tuyển lao động ngắn hạn và dài hạn, điều chỉnh lao động giữa các đơn vị, giải quyết, quyết định cho cán bộ công nhân viên thôi việc về hưu, mất sức, kỷ luật... - Căn cứ vào chế độ chính sách của Nhà nước để giải quyết các vấn đề cụ thể và chế độ bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bồi dưỡng... - Xây dựng kế hoạch lao động, quỹ tiền lương hàng năm, quy chế hoá các nguyên tắc trả lương, tiền thưởng, xác định đơn giá tiền lương, các định mức lao động. - Công tác đào tạo mới, thi nâng bậc công nhân, bồi dưỡng cán bộ quản lý tổ chức hướng dẫn các đoàn tham gia, thực tập. Phòng kỹ thuật: Tham mưu cho Giám đốc về máy móc kỹ thuật trong các dây chuyền, bộ phận sản xuất của công ty, xác định việc sửa chữa khôi phục mới máy móc thiết bị, nghiên cứu hình thức mẫu mã, bao bì của sản phẩm. Với cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý như hiện nay của công ty là tương đối hợp lý. Một mặt giữ nguyên chế độ một thủ trưởng, chỉ có giám đốc là người có quyền ra quyết định đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mặt khác phát huy được sự giúp đỡ của các phòng ban trong việc chuẩn bị các quyết định, đồng thời hướng dẫn, tư vấn, kiểm tra đối với các đơn vị thực hiện quyết định như các xí nghiệp sản xuất, các chi nhánh, các trạm kinh doanh thực phẩm. 3.Nhiệm vụ của công ty - Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, dịch vụ du lịch khách sạn, liên doanh liên kết đầu tư trong và ngoài nước... theo đúng luật pháp hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Thương mại. - Tổ chức sản xuất nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng. - Chấp hành luật pháp của Nhà nước, thực hiện các chế độ, chính sách về quản lý và sử dụng vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. - Thực hiện đầy đủ cam kết trong hợp đồng kinh tế đã ký kết với các đơn vị trong và ngoài nước. - Quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên theo phân cấp quản lý của Bộ Thương mại. Thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách của Nhà nước đối với cán bộ công nhân viên, phát huy quyền làm chủ tập thể, khả năng sáng tạo trong kinh doanh, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, phân phối lợi nhuận theo kết quả lao động một cách công bằng hợp lý. 4. Cơ cấu sản xuất của công ty -Công nghệ sản xuất sản phẩm là một trong những căn cứ quan trọng để chất lượng sản phẩm cạnh tranh với các đối thủ kinh doanh chiếm được cảm tình của khách hàng nâng cao uy tín thương hiệu của sản phẩm đẻ thực hiện tốt công tác tổ chức lao động cần thiết phải lắm và hiểu kỹ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm . Trong lĩnh vực sản xuất: bánh ,kẹo ,rượu bia,thực phẩm nguội... mỗi sản phẩm tương ứng với một quy trình công nghệ khác nhau . Trong đó quy trình sản xuất rượu vang của công ty là tiêu biểu nhất với sản phẩm rượu vang mang thương hiệu Hữu Nghị đã có uy tín trong và ngoài nước , được người tiêu dùng tin dùng. -Sau đây là quy trình công nghệ sản xuất rượu vang của công ty. các nguyên vật liệu để sản xuất rượu vang. +Qủa mơ tươi +Cồn tinh chế +Cồn , dich quả +Nước mềm axit Ciric +Đường kính trắng +Màù thực phẩm -Quy trình sản xuất rượu vang Qủa mơ tươi Ngâm cồn Dịch quả Rửa sạch Nước mềm axt cirics Pha chế Rượu Đường kính trắng cồn tinh chế Tàng trữ Lọc trong Đóng chai KCS Nhập kho thành phẩm 5. kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty (giai đoạn1999-2001) STT Chỉ tiêu ĐVT 1999 2000 2001 Tốc độ tăng (lần) 2000/1999 2001/2000 (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)=(5)/(4) (8)=(6)/(5) 1 2 3 4 5 Tổng doanh thu Các khoản nộp NSNN Tổng kim ngạch XNK Lợi nhuận Hệ số hiệu quả =DT/CP Tỷ đồng Tỷ đồng Tr. USD Tr. đồng 340 16,146 11,1 290 1,0008 536 27,420 7,03 603 1,0011 653 32,27 6,4 900 1,0013 1,576 1,698 0,736 2,079 1,218 1,177 0,783 1,493 Nhìn vào bảng 1 ta thấy: Nhìn chung tình hình sản xuất kinh doanh trong giai đoạn 1999-2001 đạt kết quả khá, điều này thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau: - Tổng doanh thu của công ty năm 1999 đạt 340 tỷ đồng, năm 2000 đạt 536 tỷ đồng tăng 1,576 lần so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 196 tỷ đồng. Năm 2001 tổng doanh thu tăng 1,218 lần so với năm 2000 với mức tăng tuyệt đối là 117 tỷ đồng. - Do hoạt động kinh doanh của công ty trong giai đoạn này đạt hiệu quả cao nên không chỉ giúp công ty mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thông qua các khoản nộp ngân sách Nhà nước của công ty. Năm 1999 công ty đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước 16,15 tỷ đồng, năm 2000 đã tăng lên 27,42 tỷ đồng tăng 1,698 lần so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 11,27 tỷ đồng, điều này là do doanh thu của công ty năm 2000 đã tăng 1,576 lần so với năm 1999 nên các khoản nộp ngân sách Nhà nước tăng lên. Năm 2001 các khoản nộp ngân sách Nhà nước là 32,27 tỷ đồng tăng 1,117 lần so với năm 2000 với mức tăng tuyệt đối là 4,85 tỷ đồng. - Tổng kim ngạch XNK của công ty năm 1999 đạt 11,13 triệu USĐ đã giảm xuống chỉ còn 8,19 triệu USD năm 2000 đạt 73,6% so với năm 1999 với mức giảm tuyệt đối là 2,94 triệu USD. Năm 2001 các khoản nộp ngân sách Nhà nước giảm xuống chỉ còn 6,41 triệu USD đạt 78,3% so với năm 2000 với mức giảm tuyệt đối là 1,78 triệu USD. Tổng kim ngạch XNK của công ty đạt kết quả như vậy là do cuộc khủng hoảng của các nước trong khu vực đã làm ảnh hưởng đến hoạt động XNK của các nước, trong khi bạn hàng XNk chủ yếu của công ty là những nước của khu vực Châu á. - Mặc dù tổng kim ngạch XNK trong giai đoạn này có giảm, tuy nhiên do hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa của công ty có hiệu quả nên tổng doanh thu vẫn tăng qua các năm cả về tuyệt đối lẫn tương đối . Vì vậy lợi nhuận của công ty đạt được khá cao, năm 1999 đạt 290 triệu đồng, năm 2000 tăng lên 603 triệu đồng tăng hơn 2 lần so với năm 1999 và đến năm 2001 đạt 900 triệu đồng tăng gấp 1,493 lần so với năm 2000. Tuy tốc độ tăng lợi nhuận có giảm song về mặt tuyệt đối vẫn tăng qua các năm. - Qua chỉ tiêu hệ số hiệu quả ở bảng trên cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, song hệ số này còn thấp vì vậy công ty cần tìm cách nâng cao hệ số này . Năm 1999 hệ số hiệu quả là 1,0008 có nghĩa là 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ đem lại 1,0008 đồng doanh thu, mức doanh thu do 1 đồng chi phí bỏ ra là quá nhỏ. Tuy nhiên hệ số này tăng lên qua năm 2000 và 2001. chương ii : Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty 1. Đặc điểm của công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu Công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty có những nét đặc thù riêng biệt, xuất phát từ chính đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty, từ phương hướng, đường lối phát triển thương mại quốc tế của đất nước được Bộ Thương mại cụ thể hoá cho từng đơn vị và trực tiếp quản lý. Từ đó phòng kế hoạch và thị trường đưa ra kế hoạch xuất nhập khẩu của từng năm cho từng mặt hàng của công ty. Kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty được xây dựng dựa vào: - Nhu cầu sản xuất của các đơn vị cơ sở trực thuộc đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất như bột mỳ, đường, sữa... Các đơn vị sản xuất như xí nghiệp bánh kẹo Hữu Nghị, xí nghiệp bánh quy cao cấp, xí nghiệp chế biến thực phẩm trình kế hoạch về kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu cho sản xuất nên công ty. Từ đó công ty sẽ tập hợp các nhu cầu lại và đưa ra kế hoạch nhập khẩu cho các mặt hàng này. - Mặt hàng kinh doanh truyền thống của công ty: Đường, sữa, dầu ăn... là những mặt hàng truyền thống đã có bạn hàng trong nước và quốc tế đáng tin cậy, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu. Mặt hàng cao su là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. - Dựa vào đường lối phát triển thương mại quốc tế của đất nước, căn cứ vào các điều luật về các mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, biểu thuế quan và hạn ngạch xuất nhập khẩu mà Bộ Thương mại cấp cho công ty hàng năm. Cụ thể như hạn ngạch nhập khẩu đường của công ty năm 2001 là 7000 tấn. Còn một số mặt hàng thì công ty được Bộ Thương mại cấp giấy phép cho là đầu mối xuất nhập khẩu như rượu, cao su... thì công ty được quyền chủ động kinh doanh. - Dựa vào chiến lược phát triển của công ty trong những năm tới. Việc xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu: + Đường: Dựa vào nhu cầu cho sản xuất của các đơn vị cơ sở để quy định lượng nhập khẩu cung cấp cho cơ sở. Dựa vào hạn ngạch nhập khẩu của các đơn vị để quy định lượng nhập khẩu trực tiếp tối đa mà doanh nghiệp thực hiện. Dựa vào hiệu quả kinh doanh đem lại quy định kế hoạch nhập khẩu trực tiếp hay nhập khẩu uỷ thác ở các đơn vị bạn. + Cao su: Dựa vào hạn ngạch xuất khẩu quy định kế hoạch xuất khẩu lượng hàng. Dựa vào hiệu quả kinh doanh dự tính đem lại quyết định kế hoạch lựa chọn phương thức xuất khẩu. + Các mặt hàng bột, mỳ, sữa... chủ yếu dựa vào nhu cầu của các đơn vị. Do đó trong việc đưa ra kế hoạch xuất nhập khẩu đòi hỏi công ty cần phải nhanh nhạy, linh hoạt đánh giá tình hình cung cầu của từng mặt hàng cụ thể, từ đó đưa ra kế hoạch xuất nhập khẩu cho hợp lý. Ngoài ra, công ty còn có quyền đề xuất với Bộ chủ quản có chủ trương can thiệp vào thị trường kịp thời. Với chiến lược nắm thông tin thị trường nước ngoài, tiến đến năm 2003 hoặc 2004 tham gia kênh xuất khẩu mặt hàng đường, tự cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu, nhập khẩu những mặt hàng cần thiết, vật tư nguyên liệu cho sản xuất chế biến, hàng tự sản xuất chế biến được thị trường trong nước chấp nhận và phấn đầu xuất khẩu. Chính vì thế, công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu ở công ty được tính toán chặt chẽ cho kế hoạch cả năm và kế hoạch ở từng hợp đồng được ký. 2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền bắc Tình hình thực hiện kế hoạch về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty ở bảng sau: Bảng 2: Tình hình thực hiện kế hoạch về tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc ĐVT: Triệu USD Năm Kế hoạch Thực hiện Vượt kế hoạch %thực hiệnkế hoạch (1) (2) (3) (4) (5)=(3)/(2) 1999 2000 2001 4,6 0,7 2 4,646 0,575 1,5 0,046 -0,125 -0,5 101 82,1 75 Kết quả từ bảng 2 cho thấy trong giai đoạn 1999-2001, công ty hầu như không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu đặt ra. Chỉ riêng năm 1999 đạt 101% kế hoạch với mức vượt kế hoạch là 0,046 triệu USD. Đến năm 2000, do ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và căn cứ vào tình hình thực tế kinh doanh của công ty nên năm 2000 kế hoạch về xuất khẩu cuả công ty đã giảm rất mạnh từ 4,6 triệu USD xuống còn 0,7 triệu USD, song với mức kế hoạch thấp như vậy nhưng công ty vẫn không hoàn thành kế hoạch đặt ra giá trị xuất khẩu thực hiện là 0,575 triệu USD đạt 82,1% kế hoạch. Năm 2001, kế hoạch xuất khẩu công ty đặt ra là 2 triệu USD nhưng thực tế chỉ xuất khẩu 1,5 triệu USD đạt 75% so với kế hoạch .Qua đây chứng tỏ hoạt động xuất khẩu của công ty đạt hiệu quả không cao,với giá trị thực tế thấp. Điều này là do mặt hàng xuất khẩu của công ty duy nhất là cao su, cùng với hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực nên nhu cầu nhập khẩu về cao su giảm. Chính vì vậy để cải thiện tình hình trên trong thời gian tới công ty cần tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường, kết hợp với đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Bảng 3 : Tình hình thực hiện kế hoạch về tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc ĐVT : Triệu USD Năm Kế hoạch Thực hiện Vượt kế hoạch % thực hiện kế hoạch (1) (2) (3) (4)=(3)-(2) (5)=(3)/(2) 1999 2000 2001 5,8 7,5 6,6 6,5 7,6 4,9 0,7 0,1 -1,7 112 101,3 74,2 Qua bảng 3 cho thấy tình hình nhập khẩu của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 luôn vượt mức kế hoạch đặt ra. Năm 1999 công ty vượt mức kế hoạch là 12%, năm 2000 vượt mức kế hoạch là 1,3%. Có kết quả này là trong 2 năm đó nhu cầu về một số mặt hàng nhập khẩu như: đường, sữa, dầu ăn tăng lên đo đó làm tăng mức nhập thực tế so với kế hoạch. Tuy nhiên đến năm 2001 với chủ trương phải cân đối kim ngạch XNK và do hạn ngạch của Bộ Thương mại cấp cho công ty giảm, hơn nữa công ty cũng đẩy mạnh việc khai thác mặt hàng đường được sản xuất ở trong nước để kinh doanh như:đường Lam Sơn, đường Việt Đài, đường Tây Ninh ...làm cho công ty không thực hiện so với kế hoạch đặt ra. Để đánh giá chi tiết tình nhập khẩu của công ty ta xem xét việc thực hiện kế hoạch nhập khẩu theo mặt hàng của công ty như sau: Bảng 4: Tình hình thực hiện kế hoạch nhập khẩu theo mặt hàng ĐVT: Triệu USD Mặt hàng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 KH TH % thực hiện KH KH TH %thực hiện KH KH TH % thực hiện KH Đường Sữa Dầu ăn Bột mỳ Còn lại 2 0,1 0,1 3,5 0,1 0 0,3 1,5 4,6 0,1 - 300 150 131,4 100 3 0,2 1,5 1,6 0,2 3,6 0,8 1,5 0,2 1,5 120 400 100 12,5 125 3,6 0,6 1,4 0,6 0,4 3,4 0,5 0,3 0,12 0,65 94,4 83,3 21,4 20 16,25 Tổng 5,8 6,5 112 6,5 7,6 101 6,6 4,9 74,2 Qua bảng 4 cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa kế hoạch đặt ra so với thực tế nhập khẩu theo mặt hàng của công ty. Sở dĩ có như vậy là do công tác lập kế hoạch kinh doanh của công ty sát với nhu cầu thực tế và thị trường, điều này có nghĩa là công tác nghiên cứu thị trường và phân tích nhu cầu tiêu dùng của công ty không có hiệu qủa. Mặt khác do kế hoạch là được đặt ra từ trước, trong khi hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng phải chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố đặc biệt trong giai đoạn này do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã dẫn đến việc lập kế hoạch đặt ra không sát với thực tế thực hiện. 3. Phân tích thị trường xuất nhập khẩu Nghiên cứu thị trường được coi là hoạt động có tính chất tiền đề của công tác kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu thị trường của công ty luôn được coi là vấn đề phức tạp, phong phú và đa dạng, đòi hỏi sự tốn kém nhiều chi phí. Chính vì thế, phải có phương pháp nghiên cứu thị trường thích hợp để giảm chi phí tối thiểu. ở đây ta quan tâm đến thị trường của sản phẩm nhập khẩu và thị trường của sản phẩm xuất khẩu tức là thị trường trong nước và thị trường quốc tế. 3.1.Thị trường quốc tế Phương pháp nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác định đúng đắn hướng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để nắm được nhu cầu thị trường. Công ty tuân theo trình tự sau: Một là, tổ chức hợp lý việc thu thập các nguồn thông tin về nhu cầu của các loại thị trường. Hai là, phân tích và xử lý đúng đắn các loại thông tin đã thu thập được về các loại nhu cầu của thị trường. Ba là, xác định nhu cầu của từng loại thị trường đang đòi hỏi, các phương tiện thông tin ngày càng hiện đại, phong phú, đa dạng đã làm cho việc giao dịch trở lên khá dễ dàng, thuận lợi và nhanh chóng. Do yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên quan hệ giao dịch khá rộng rãi nên việc nghiên cứu thị trường nước ngoài ở công ty chủ yếu là dùng hình thức thông qua thông tin của Bộ Thương mại và Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam để tìm kiếm các bạn hàng quốc tế. Bởi ở công ty hiện nay chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài và chưa có đại diện ở nước ngoài để nắm bắt được những thông tin về thị trường nhanh nhất. Công ty cũng có thể tự tìm đến các bạn hàng nước ngoài qua điện thoại, Fax để chào hàng của mình. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là Trung Quốc với mặt hàng chủ lực là cao su. Thị trường Trung Quốc có đặc điểm thuận lợi về vị trí địa lý gần với Việt Nam, do đó chi phí vận chuyển thấp công ty có thể mua hàng trực tiếp từ các nông trường của tổng công ty cao su Việt Nam và xuất sang Trung Quốc. Thị trường xuất khẩu của công ty hiện nay còn hạn chế ở Trung Quốc, tuy nhiên từ nay đến năm 2003 và sang thế kỷ 21, công ty đang cố gắng tìm mọi biện pháp để có thể xuất khẩu các loại sản phẩm của mình sang các nước khác đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng lên. 3.2.Thị trường trong nước với hoạt động nhập khẩu Do định hướng cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, Bộ Thương mại cho phép công ty đẩy mạnh nhập khẩu để cân đối với những ngành chỉ xuất khẩu các mặt hàng: Dầu, nguyên liệu thô... Với quan hệ làm ăn với các công ty nước ngoài và mạng lưới bàn hàng khá đồ sộ nên công ty được nhập khẩu những mặt hàng chủ yếu: Đường, sữa, dầu ăn, bột mỳ,... Phương pháp nghiên cứu thị trường: - Thị trường đầu vào: Doanh nghiệp có thể tự khai thác thị trường qua thông tin của Bộ Thương mại, các vụ, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, các đại diện nước ngoài tại Việt Nam và tự tìm đối tác. Công ty có thể chủ động trực tiếp gặp gỡ hoặc qua điện thoại, fax... với các công ty nước ngoài hoặc cả với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. - Thị trường đầu ra: Do có mạng lưới bán hàng rộng khắp và duy trình kinh doanh mặt hàng truyền thống nên công ty có thể nắm được thông tin về những mặt hàng nào tiêu thụ ở các thị trường nào và tính chất mùa vụ của sản phẩm. Từ đó tính toán được thời gian tiêu thụ của các mặt hàng này, hạn chế tồn kho gây ứ đọng vốn. Công ty có thể bán hàng cho mọi thành phần kinh tế: Tư nhân, quốc doanh, công ty trach nhiệm hữu hạn... ở mọi nơi. Hoà chung với quá trình đa dạng hoá và đa phương hoá mối quan hệ kinh tế trong những năm qua công ty thực phẩm miền Bắc một mặt không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời cũng tích cực khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn những thị trường nhập khẩu thích hợp. Thị trường nhập khẩu chủ yếu của công ty là các nước châu á và châu Âu, điều này được thể hiện ở bảng sau: Bảng 5: Kết quả nhập khẩu theo thị trường. ĐVT: 1000USD Thị trường nhập khẩu 1999 2000 2001 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Singapore Nhật ểc Thái Lan Đức Pháp Hàn Quốc Tiệp Newzealand 1551,1 358,8 4574,3 - - - - - - 23,9 5,53 70,5 - - - - - - 2742 1050 - 3662 109 48 - - - 36 13,8 - 48,1 1,4 0,63 - - - 1016 136 459 - - 363 2884 12 37 20,7 2,7 9,3 - - 7,4 58,7 0,24 0,7 Tổng 6484,2 100% 7611 100% 4907 100% Qua bảng 5 cho thấy trong giai đoạn 1999 - 2001, thị trường nhập khẩu truyền thống của công ty là Singapore, Nhật và úc. Đây là 3 thị trường nhập khẩu có tỷ trọng lớn nhất, trong năm 1999 thị trường nhập khẩu của công ty từ Singapore chiếm 23,9%, úc chiếm 70,5% còn lại là Nhật. Năm 2000 giá trị nhập khẩu ở thị trường truyền thống ở Singapore và Nhật tăng cả về tuyệt đối và tương đối nhưng ở thị trường úc công ty tạm ngừng nhập khẩu, thay vào đó đã mở rộng việc nhập khẩu từ một số thị trường từ Đức và Pháp và đặc biệt phải kể đến Thái Lan với mức kim ngạch nhập khẩu là 3.662.000USD chiếm 48,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty trong năm trong khi thị trường truyền thống Singapore chỉ chiếm 36%, Nhật chỉ chiếm 13,8%. Với phương châm mở rộng thị trường xuất nhập khẩu năm 2001 thị trường nhập khẩu của công ty đã mở rộng hơn như Newzealand, Tiệp và thị trường Hàn Quốc với giá trị nhập khẩu của thị trường này chiếm 58,7% tổng kim ngạch nhập khẩu 4. Phân tích một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của công ty 4.1. Mặt hàng nhập khẩu Nhập khẩu là hoạt động chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty. Hoạt động nhập khẩu của công ty nhằm hai mục đích: Thứ nhất, là cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ở đơn vị trực thuộc công ty bao gồm: sản xuất bánh kẹo, sản xuất chế biên thực phẩm, bánh kẹo... Thứ hai, là mặt hàng phục vụ khối kinh doanh bán tại các cửa hàng, đại lý, chi nhánh của công ty... Ngoài ra, công ty còn có thể nhận nhập khẩu uỷ thác nếu có nhu cầu. Ta có thể thấy đánh giá về các mặt hàng nhập khẩu của công ty qua các năm qua số liệu thống kê về kim ngạch nhập khẩu của công ty từ năm 1999 đến 2001 như Bảng 6: Kim ngạch nhập khẩu theo mặt hàng của công ty. ĐVT : 1000USD Năm Mặt hàng 1999 2000 2001 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Đường Sữa Dầu ăn Bột mỳ Còn lại 334 1538 4574 38 5,15 23,7 70,5 0,6 3637 851 1539 199 1385 47,8 11,1 20,2 2,6 18,2 34,43 122 348 50 945 70,1 2,5 7,1 1 19,3 Tổng 6484 100% 7611 100% 4980 100% Qua bảng 6 cho thấy mặt hàng nhập truyền thống của công ty chủ yếu là: đường, sữa, dầu ăn, bột mỳ. Trong đó mặt hàng đường chiếm tỷ trọng lớn nhất. Mặt hàng này, công ty đánh giá là có hiệu quả nhất, khối lượng lớn, lợi nhuận cao và điều quan trọng là sức tiêu thụ lớn, nhu cầu đường ở Việt Nam cao nhưng các doanh nghiệp trong nước chư đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước. Hơn nữa, công ty cũng nhập khẩu đường nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Năm 1999 do thay đổi cơ cấu công ty nên có những biến động đường không nhập khẩu được. Năm 2000, đường chiếm 47,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Đến năm 2001, mặc dù khối lượng đường nhập có giảm so với năm 2000 nhưng lại chiếm tỷ trọng cao nhất (70,1%) trong tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty. Những mặt hàng trên được xác định là mặt hàng nhập chủyêú nhưng quan trọng nhất vẫn là đường các loại. 4.2 Mặt hàng xuất khẩu Do định hướng và sự cân đối của Bộ Thương mại nên hoạt động xuất khẩu của công ty còn nhiều hạn chế. Công ty chỉ được là một trong những đầu mối xuất khẩu cao su. Tỷ trọng mặt hàng cao su chiếm 100% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều này được thể hiện ở bảng sau. Bảng 7 : Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng của công ty từ 1999-2001. ĐVT : Triệu USD. Năm Mặt hàng 1999 2000 2001 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Cao su 4,646 100% 0,575 100% 1,5 100% Tổng 4,646 100% 0,575 100% 1,5 100% Hiện nay công ty có kế hoạch đến năm 2003 và bước sang thế kỷ 21, ngoài việc xuất khẩu mặt hàng cao su, công ty cần tham gia xuất khẩu các mặt hàng chế biến có chất lượng cao, bao bì mẫu mã đẹp, tham gia kênh xuất khẩu đường nhằm thay thế nhập khẩu mặt hàng này. 5. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở trên đã phân tích tình hình xuất khẩu và nhập khẩu của từng mặt hàng cũng như khả năng hoàn thành kế hoạch của công ty qua các năm. Để đánh giá tổng quát tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty ta xem xét bảng sau: Bảng 8: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty ĐVT : 1000 USD. Năm Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Tổng kim ngạch XNK Tỷ trọng xuất khẩu Tỷ trọng nhập khẩu NK/XK (1) (2) (3) (4)=(2)+(3) (5)=(2)/(4) (6)=(3)/(4) (7)=(2)/(3) 1999 2000 2001 4646 575 1500 6484 7611 4908 11130 8186 6408 0,417 0,07 0,234 0,583 0,93 0,776 0,716 0,07 0,3 Từ kết quả bảng 8 cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm qua các năm, từ 11,3 triệu USD năm 1999 xuống còn 6,408 triệu USD năm 2001. Trong đó kim ngạch xuất khẩu đều thấp hơn kim ngạch nhập khẩu có nghĩa là hàng năm công ty phải nhập siêu. Cụ thể, năm 1999 tỷ trọng xuất khẩu so với nhập khẩu là 71,6% với mức xuất khẩu là 4,646 triệu USD chiếm 41,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, nhập khẩu chiếm 58,3%. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu giảm chỉ còn 0,575 triệu USD chỉ chiếm 7,5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, trong khi giá trị kim ngạch nhập khẩu là 7,611 triệu USD chiếm 93% kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 2001 giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên 23,4% tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu với giá trị là 1,5 triệu USD song chỉ bằng 0,3 lần giá trị kim ngạch nhập khẩu công ty đồng thời đánh giá tổng quát kim ngạch xuất nhập khẩu Năm Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc 5.1.Hiệu quả kinh doanh các mặt hàng của công ty ở các phần trên đã đánh giá tình hình kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu, để thấy rõ hơn hiệu quả của từng mặt hàng ta xem xét bảng sau Bảng 9: Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. ĐVT: Triệu VNĐ. Mặt hàng Chi phí Doanh thu Hiệu quả = DT-CP Hệ số hiệu quả = DT/CP (1) (2) (3) (4) = (3) - (2) (5) = (3)/(2) 1. Nhập khẩu: - Đường - Sữa các loại - Dầu ăn - Bột mỳ - Các mặt hàng khác 2. Xuất khẩu: - Cao su 11529 1646 6109 316 15717 21.543 11.675 1662 6181 324 15982 21667 146 16 75 8 95 124 1,012 1,009 1,011 1,02 1,016 1,005 Tổng 56.860 57.333 464 Qua bảng 9 cho ta thấy: đường là mặt hàng đem lại hiệu quả cao nhất có doanh thu cao nhất (số lượng lớn tiêu thụ mạnh), hệ số hiệu quả cao là 0,12 sau đó đến mặt hàng dầu ăn có hệ số hiệu quả cao là 1,009. Các mặt hàng nhập khẩu khác tuy đều có hiệu quả nhưng số lượng ít nên hiệu quả tuyệt đối không cao. Hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì hoạt động xuất khẩu của công ty cũng đem lại hiệu quả với giá trị tuyệt đối là 124 triệu đồng, có hệ số hiệu quả là 1,005. Tuy nhiên do chính sách của Nhà nước và hạn ngạch do Bộ Thương mại cấp nên trong năm 2002 công ty sẽ đẩy mạnh xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu là 1,4 triệu USD. Hiện nay, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty mới chỉ dừng lại ở mặt hàng cao su, vì vậy trong một vài năm tới ngoài đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng cao su, công ty còn phải nghiên cứu và tìm mọi biện pháp xuất khẩu một số mặt hàng khác. Công ty cũng cần phải chú trọng việc nhập khẩu, cân đối cơ cấu mặt hàng bằng việc bổ sung những mặt hàng truyền thống đã và đang đem lại hiệu quả kinh doanh cho công ty cũng như bổ sung các mặt hàng mới thay thế các mặt hàng truyền thống. Có như thế, công ty mới bảo đảm được kinh doanh có hiệu quả và đứng vững trên thị trường quốc tế. Chương III Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc Trong những năm qua, các hoạt động của công ty nói chung cũng như các hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đã đạt được những kết quả tương đối tốt. Không chỉ đem lợi nhuận mà còn đem lại uy tín cho công ty, tạo ra những nền tảng ban đầu rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Tuy nhiên như đã phân tích, vẫn còn có những nhân tố gây khó khăn, cản trở việc nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. Những tồn tại trong thời gian qua cũng còn là những vấn đề cần suy nghĩ và giải quyết. Để có thể đứng vững và phát triển trong những năm tiếp theo, công ty cần phải không ngừng đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của mình. Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao và hoàn thiện hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc. 1.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường ở công ty Trong cơ chế thị trường, vấn đề trở thành trung tâm của mọi hoạt động kinh tế là rất là bất kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nào cũng cần phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường vì nó quyết định sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Trước đây việc nghiên cứu thị trường nước ngoài là không quan trọng bởi xuất nhập khẩu theo nghị định thư của Nhà nước nên bạn hàng là do Nhà nước chỉ định. Nhưng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh, công ty phải tự tìm bạn hàng giao dịch, thị trường cũ quen biết, thị trường mới mở rộng thì việc nắm vững thị trường nước ngoài là công việc có ý nghĩa rất quan trọng đối với công ty hiện nay. Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài ở công ty mới ở mức trung bình, khái quát như nắm được tình hình chung về kinh tế, chính trị, xã hội ở thị trường đó về bạn hàng cũng chỉ nắm sơ qua về loại hình kinh doanh của họ, đại diện của họ, mối quan hệ cũ của họ với công ty hoặc qua sự giới thiệu bộ Thương mại. Do đó trong thời gian tới các phòng ban trong công ty cần đẩy mạnh hơn nữa công tác này theo các hướng sau: - Hướng thứ nhất: Thành lập một bộ phận chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kỹ thuật Marketing, có nghiệp vụ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu để chủ động tìm bạn hàng, hiểu biết về uy tín của khách hàng, bạn hàng, đặc biệt quan hệ làm ăn lâu dài với họ. Thông qua đó nắm được chính xác chế độ chính sách, pháp luật của từng nước, nắm rõ uy tín về tài chính, cơ sở vật chất và tình hình kinh doanh của bạn hàng cần giao dịch, xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của người đứng tên giao dịch của đối tác. - Hướng thứ hai: Tổ chức thiết lập cơ quan đại diện cả công ty tại nước ngoài. Điều này sẽ giúp cho công ty giám sát việc thực hiện hợp đồng của khách hàng, bạn hàng nước ngoài, nắm thông tin một cách nhanh chóng, chính xác nhất. Cơ quan đại diện của công ty sẽ tạo ra những thuận lợi sau cho công ty: + Đưa tên tuổi của công ty vào danh bạ thương mại của các doanh nghiệp nước đó. + Thực hiện việc đàm phán trực tiếp một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất. + Việc Marketing được cụ thể chi tiết, chính xác nhất. + Qua đại diện của công ty có thể mua hàng trực tiếp ở nước ngoài với giá FOB là giá thấp nhất, giành quyền thuê tàu, bảo đảm thủ tục thanh toán. Hoặc khi xuất khẩu với giá CIF là giá cao nhất, giảm rủi ro cho hàng hoá tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Đại diện của công ty giám sát chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng bên bạn. Công ty nên đặt đại diện ở nước nào mà công ty có quan hệ làm ăn nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Công ty sẽ cử cán bộ có đủ năng lực, trình độ về ngoại thương, ngoại ngữ là người có tâm huyết với công ty. Thời gian phải ấn định mỗi nhiệm kỳ là 2 năm để cán bộ đó có đủ thời gian thiết lập quan hệ ngoại giao và yên tâm với công việc phải có báo cáo về thường xuyên. Quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của đại diện. Việc nghiên cứu thị trường qua đại diện nhằm giải quyết không chỉ đơn thuần vấn đề xác định rõ yêu cầu của thị trường mà còn có tác dụng giúp cho công ty lựa chọn bạn hàng và mặt hàng có hiệu quả. - Hướng thứ ba: Nắm bắt thông tin về thị trường thông qua cá hình thức thông tin gián tiếp qua Bộ Thương mại, các vụ, thậm chí cả hình thức gián điệp (nếu cần). Mạnh dạn sử dụng đội ngũ cộng tác viên, có chế độ thưởng phạt thích hợp thoả đáng, có thể là 0,5% giá trị hợp đồng cho ai dẫn được khách vào ký kết hợp đồng ngoại thương. - Hướng thứ tư: Đặc biệt chú trọng về chính sách tiền tệ của các nước mà công ty có quan hệ làm ăn chủ yếu ở Châu á, Châu Âu đặc biệt là các nước trong khối ASEAN. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua đã ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ làm ăn của hai nước. Vì thanh toán theo đồng USD do đó điều này gây ra cho cả phía Việt Nam và phía bạn sự thiệt thòi lớn. Riêng trong năm 2001 giảm 55,8% so với năm 1999 là năm có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất của công ty. Điều này đòi hỏi công ty trong quan hệ buôn bán quốc tế phải tìm hiểu chính sách tiền tệ, dự đoán được tỷ giá hối đoái. Các thông tin đặc biệt quan trọng làm ảnh hưởng trực tiếp đên hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Do đó lựa chọn đồng tiền thanh toán có lợi nhất. Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải tăng cường cán bộ kinh doanh giỏi, nghiệp vụ cao, có trình độ ngoại ngữ, tin học để kịp thời nắm bắt và xử lý thông tin nhanh nhất, giúp cho công ty giải quyết đầu ra một cách nhanh nhất, giảm tồn kho và sản xuất kinh doanh những mặt hàng kinh doanh có hiệu quả cao. Điều đó quyết định việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 2. Mở rộng thị trường và đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu Những năm gần đây hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta ngày càng phát triển, chỉ riêng trong lĩnh vực thực phẩm đã có rất nhiều doanh nghiệp tham gia cung ứng cho thị trường với những loại hình sở hữu khác nhau. Vì vậy, việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu trong đó mở rộng thị trường xuất khẩu là hết sức cần thiết bởi cơ cấu xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu những năm qua là quá thấp, luôn luôn phải nhập siêu. Thông qua công tác nghiên cứu thị trường, công ty có những thông tin để đánh giá về thị trường xuất khẩu mà sản phẩm công ty dự định xâm nhập vào. Hiện nay, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty chủ yếu là hoạt động nhập khẩu với thị trường chủ yếu là các nước châu á như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. Đây là những thị trường trọng điểm có quan hệ làm ăn lâu dài, đòi hỏi công ty phải tập trung khai thác, những mặt hàng mà hiện nay kinh doanh đang có hiệu quả: đường, sữa, dầu ăn... đồng thời cũng tích cực nghiên cứu tìm kiếm những mặt hàng mới trên cơ sở tính toán làm sao thu được lợi nhuận, được thị trường trong nước chấp nhận. Đối với thị trường này, công ty nên có những đại diện cuả mình để kịp thời thông báo thay đổi về tình hình hàng hoá mà công ty quan tâm, nếu không có đại diện thì công ty có thể sử dụng các thông tin của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, mặt khác không ngừng tìm kiếm những thị trường mới. Hiện nay mặt hàng xuất khẩu của công ty duy nhất là cao su nên để tăng cường hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu một mặt công ty phải tích cực tìm kiếm những thị trường cho sản phẩm cao su, mặt khác cần phải đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu thông qua hình thức xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất khẩu uỷ thác. Chỉ có như vậy công ty mới có khả năng mở rộng được thị trường xuất khẩu của mình từ đó làm tăng kim ngạch xuất khẩu. 3. Đa dạng hoá các phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu Cùng với việc đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh thì việc đa dạng hoá các hình thức nhập khẩu có ảnh hưởng tích cực trong cạnh tranh, từ đó có thể đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên việc áp dụng các hình thức xuất nhập khẩu mới sẽ ngày càng đòi hỏi người làm công tác xuất nhập khẩu phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, nắm vững quy trình xuất nhập khẩu. Mỗi phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu có những lợi thế riêng, nên việc đa dạng hoá các phương thức kinh doanh sẽ tận dụng được lợi thế của từng phương thức. Song tuỳ từng mặt hàng, tuỳ từng thị trường cụ thể mà công ty lựa chọn cho mình một phương thức kinh doanh thích hợp. Do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty hẹp, chỉ có mặt hàng cao su cho nên trước mắt chưa mở rộng được mặt hàng xuất khẩu công ty nên tập trung vào hình thức xuất khẩu uỷ thác vì đây là hình thức đem lại hiệu quả nhanh mà không phải bỏ vốn đầu tư. Mặt khác ngoài việc tiếp tục thực hiện những phương thức kinh doanh truyền thống, công nên áp dụng một số hình thức khác như hình thức đổi hàng, hình thức này vừa giúp cho công ty tăng được kim ngạch xuất nhập khẩu đồng thời tránh được những thủ tục phiền hà cho cả hai bên khi tiến hành các phương thức khác. 4. áp dụng chính sách giá bán hàng nhập khẩu linh hoạt Giá cả là một yếu tố mà bất cứ nhà kinh doanh nào nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng phải biết áp dụng phù hợp nhất mà trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Ngoài việc nhập khẩu về cho sản xuất, công ty còn nhập để kinh doanh nên các quyết định về giá có tác động đến khối lượng bán, doanh thu và lợi nhuận của công ty. Xác định giá cả để chiếm ưu thế trong cạnh tranh là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với công ty. Trong cơ chế thị trường mở hiện nay, công ty gặp nhiều đối thủ cạnh tranh kinh doanh cùng ngành hàng nên chính sách giá cả sai lầm có thể đưa đến hậu quả lớn, nếu giá quá cao sẽ mất khách hàng, giảm lượng bán, giảm khả năng cạnh tranh, song nếu định giá quá thấp sẽ làm cho khách hàng nghi ngờ về chất lượng hàng hoá. Để có thể xác định giá phù hợp, nhanh chóng tiêu thụ được hàng hoá nhập khẩu một cách thuận tiện thì công ty làm một số việc sau: - áp dụng chính sách giá linh hoạt, thay đổi theo từng thời điểm cụ thể, từng khách hàng cụ thể. Chính sách giá mềm dẻo không cứng nhắc sẽ làm cho khách hàng ở mọi khả năng có thể tìm đến công ty mua hàng. - Có chính sách ưu đãi, khuyến khích khách hàng như giảm giá, chiết khấu, khuyến mại đối với khách hàng mua với số lượng lớn.Công ty cần hạ giá đối với những mặt hàng tồn kho, chất lượng kém. 5. Tổ chức các hình thức dịch vụ phục vụ khách hàng Để chiến thắng trong cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ngoài yếu tố giá cả và chất lượng thì dịch vụ là công cụ khá quan trọng trong việc đẩy mạnh doanh số tiêu thụ. Công ty nên đẩy mạnh các dịch vụ kèm theo khi bán hàng nhập khẩu. Cụ thể, công ty có thể bán hàng vận chuyển theo yêu cầu của khách hàng, bán tại những địa chỉ mà khách hàng yêu cầu với những phương thức bán hàng khác nhau như bán thu tiền ngay, bán trả góp,... với nhiều hình thức thanh toán: tiền mặt, séc... ngoài ra công ty có thể sửa chữa nâng cấp các cửa hàng của mình, sửa chữa mới các phương tiện hiện có của công ty cũng như nâng cao thái độ phục vụ khách hàng để ngày càng thu hút nhiều khách hàng đến với công ty. Đồng thời tích cực tham gia các hội chợ triễn lãm thương mại ở trong nước nhằm giới thiệu các mặt hàng mà công ty kinh doanh. Công ty cũng cần tổ chức các hội nghị khách hàng thường xuyên và có định kỳ, thông qua hội nghị khách hàng công ty có những thông tin chính xác về phía khách hàng về những ưu nhược điểm, những vướng mắc trong buôn bán, những thiêu sót trong quan hệ của công ty... 6. Nâng cao trình độ chuyên môn và áp dụng chế độ khuyến khích vật chất đối với cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là yếu tố quan trọng cho việc thực hiện của công ty nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hiện nay với gần 700 cán bộ công nhân viên nhưng số người làm công tác xuất nhập khẩu lại quá ít, chỉ có 3 người ở phòng kế hoạch và thị trường đảm nhận từ khâu giao dịch đến ký kết hợp đồng, trong đó có 3 người có trình độ Đại học còn 1 người có trình độ trung cấp. Trước đây công ty cũng có 1 phòng xuất nhập khẩu nhưng do thay đổi cơ cấu bộ máy quản lý nên phòng xuất nhập khẩu bị xoá bỏ và giao cho phòng kế hoạch và thị trường đảm nhận. Vì vậy để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu thì nhiệm vụ trước mắt và lâu dài là công ty cần phải bổ sung và đào tạo lại đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu. Công ty nên tuyển thêm 2 người vào làm công tác xuất nhập khẩu, những người này phải có trình độ, được đào tạo qua các trường: Đại học KTQD, Ngoại thương, Thương mại và phải có kiến thức thương mại quốc tế, kỹ năng và kỹ thuật giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng, phải hiểu biết về chính sách và pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó công ty cũng cần phải có quy chế thưởng phạt và gắn trách nhiệm rõ ràng của mỗi nhân viên xuất nhập khẩu với từng mặt hàng và từng hợp đồng được ký. Cụ thể công ty có thể thưởng 0,5% giá trị lợi nhuận của một hợp đồng cho nhân viên nào ký được hợp đồng có hiệu quả hoặc tìm đối tác đến ký hợp đồng với công ty. Kết luận Những năm qua thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo ngành thương mại đã cùng các ngành, các địa phương nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi những khó khăn trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cũng như về phía Nhà nước phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh hoạt động này. Công ty thực phẩm miền Bắc đã đạt được một số thành tích trong quá trình hoạt động của mình đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu đã cung cấp những hàng hoá cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong nước trong lĩnh vực thực phẩm, góp phần nâng cao chất lượng của người tiêu dùng. Thành tích này của công ty còn khiêm tốn so với yêu cầu của xã hội. Trong hoạt động của mình, công ty gặp nhiều thuận lợi song cũng gặp phải không ít khó khăn. Công ty cần cố gắng hơn nữa trong vai trò hỗ trợ thúc đẩy sản xuất trong nước và sự phát triển của công ty. Trong thời gian thực tập ở công ty, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu ở công ty và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu. Hy vọng góp một phần nhỏ vào quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty. Qua đây em cũng chân thành cảm ơn cô giáo phạm thị lụa và cán bộ của công ty thực phẩm miền Bắc đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ này! mục lục : Chương i: những vấn đề chung: 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty 3.Chức năng và nhiệm vụ của công ty 4. Cơ cấu sản xuất của công ty. 5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua chương II : Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty 1. Đặc điểm của công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu 2. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty 3. Đánh giá về thị trường xuất nhập khẩu 3.1.Thị trường quốc tế 3.2.Thị trường trong nước với hoạt động nhập khẩu 4. Đánh giá một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của công ty 4.1. Mặt hàng nhập khẩu 4.2. Mặt hàng xuất khẩu 5. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu 5.1. Hiệu quả kinh doanh các mặt hàng của công ty Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc. 1.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường ở công ty 2. Mở rộng thị trường và đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu 3. Đa dạng hoá các phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu 4. áp dụng chính sách giá bán hàng nhập khẩu linh hoạt 5. Tổ chức các hình thức dịch vụ phục vụ khách hàng 6. Nâng cao trình độ chuyên môn và áp dụng chế độ khuyến khích vật chất đối với cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu Kết luận.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0510.doc
Tài liệu liên quan