Trong những năm qua cùng với cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam, kênh dẫn vốn qua NH thực hiện cho vay khu vực này đang phát huy hiệu quả của nó, với mục tiêu phát triển ngành nông nghiệp từ đó kích thích các ngành khác cùng phát triển đưa Việt Nam cơ bản đến năm 2020 thành nước công nghiệp.
Yên Bái với vị trí đại lý cùng điều kiện tự nhiện ưu đãi, có chính sách phát triển của nhà nước, cùng ngân hàng NNo&PTNT Yên bái đang và sẽ là người bạn động hành với người dân địa phương voí quyết tâm xoá bỏ đói nghèo, đưa kinh tế chung của tỉnh đi lên, tiến kịp với nhịp độ chung của cả nước.
Thực hiện chức năng của mình NH cho vay với đối tượng chủ yếu làm nông nghiệp cũng như liên quan đến dịch vụ nông nghiệp, nhưng đối tượng chủ yếu là hộ nông dân.
Vơí điều kiện kinh tế của tỉnh Yên bái còn nhiều khó khăn, giao lưu hàng hoá còn chưa thực sự phát triển, hàng nông sản làm ra tiêu thụ chưa có đầu ra ổn định, cùng quá trình lao động tích luỹ vốn hiện nay trong dân còn cao do chưa biết sử dụng vào mục đích nào có hiệu quả cao nhất, đang là vấn đề bỏ ngỏ về huy động vốn tại NH.
Trong quá trình thực tập tại NH NNo%PTNT Yên bái, em rút ra một số vấn đề sau:
+ Địa bàn của hoạt động tại NH NNo tại địa phương có những khó khăn nhất định, song vẫn đạt được những kết quả khả quan trong những năm qua
+ Luân văn mở ra những phương hướng cũng như mục tiêu trong những năm tới, trên cơ sở phân tích những khó khăn về huy động và đầu tư vốn.
+ Đánh giá thực lực tiềm năng, trình độ chung của NH, từ đó có những giải pháp hữu hiệu trong những năm tới.
100 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài ”.
III.2.1.1 - Huy động nguồn vốn tại tỉnh yên bái:.
Ngân hàng huy động vốn thông qua nghiệp vụ nhận tiền gửi và các nghiệp vụ khác để tạo nguồn vốn kinh doanh lớn. Nguồn vốn này được huy động từ trong các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội đang có tiền tạm thời nhàn rỗi do chưa có nhu cầu tiêu dùng, do muốn để giành, do chờ cơ hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh và kể cả về nhu cầu đầu tư sinh lợi bằng cách gửi ngân hàng.
Người có tiền nhàn rỗi, cho dù vì mục đích nào thì khi gửi vào ngân hàng họ cũng đều phải được thoả mãn những yêu cầu chung là: Thuận tiện, an toàn, bảo toàn được giá trị thực và mang lại lợi ích kinh tế.
Để huy động nguồn vốn tại chỗ ngày một nhiều, ngân hàng cần phải có những giải pháp chủ yếu sau:
a - Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.
Các hình thức huy động vốn chính là những con đường dẫn vốn từ bản thân nền kinh tế vào ngân hàng. Sự đa dạng của hình thức huy động vốn sẽ trực tiếp đưa vốn vào ngân hàng ngày càng nhiều lên.
Theo thời gian trong hoạt động huy động vốn, NHNo đã thực hiện nhiều hình thức huy động như mở tài khoản tiền gửi cho các đơn vị kinh tế, cá nhân; Các loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm; Phát hành kỳ phiếu trả lãi trước, trả lãi sau với thời hạn 13 tháng, 12 tháng, 6 tháng, tuỳ theo tình hình cụ thể từng kỳ. Các hình thức này đang phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, so với yêu cầu và tiềm lực vốn trong dân, đòi hỏi ngân hàng một mặt tiếp tục thực hiện các hình thức huy động vốn có tính truyền thống này, mặt khác cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức huy động vốn. Ngân hàng nên mở thêm các hình thức:
- Huy động tiền gửi tiết kiệm nên phân ra những loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngắn hơn nữa, trước mắt nên thực hiện những loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng ... nhằm tận dụng tối đa sự phong phú về thời gian tiền vốn nhàn rỗi của người có tiền.
- Thực hiện hình thức huy động vốn trung, dài hạn từ 2 năm , 3 năm, 5 năm, đến 10 năm và dài hơn. Các thời hạn đó đưa ra tuỳ thuộc vào mục đích của từng hình thức huy động.
+ Hình thức huy động tiết kiệm nhằm vào những mục đích của người gửi để mua sắm, xây dựng nhà ở, hàng tiêu dùng có giá trị lớn.
+ Hình thức huy động tiết kiệm nhằm vào những mục đích của người gửi để tích luỹ dần cho trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ.
+ Hình thức huy động tiết kiệm cho những người già . Đây là hình thức đảm bảo mục đích có nguồn sinh sống khi về già, hết khả năng lao động của mọi cá nhân có nhu cầu này, nhất là lao động thuộc các ngành kinh tế ngoài quốc doanh, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn mà ngành bảo hiểm xã hội chưa vươn tới được. Đây là hình thức tiết kiệm gửi nhiều lần, trả lãi nhập gốc hàng tháng hoặc quý. Khi đến thời hạn cần nguồn để sống bằng lãi tiền gửi thì được trả lãi hàng tháng.
Các hình thức huy động trên được thực hiện dưới dạng gửi nhiều lần, rút một lần hoặc có thể rút đột xuất. Nó thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo: Người gửi được toàn quyền quyết định về số tiền, thời hạn gửi là bao năm, thời điểm gửi từng lần được ấn định tuỳ thuộc vào thoả thuận với ngân hàng dựa theo khả năng tích luỹ thực có của mình, đồng thời ngân hàng cũng thu nhận được một nguồn tiền ổn định, liên tục, có tính lâu dài qua đó chủ động quyết định việc sử dụng để đầu tư trung, dài hạn mang lại tỷ suất sinh lời cao cho ngân hàng.
- Phát hành kỳ phiếu vô danh tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng khi người có kỳ phiếu có nhu cầu vốn.
- Thực hiện huy động tiền gửi bằng vàng, huy động tiền gửi có bảo toàn giá trị tiền gửi bằng vàng hoặc một ngoại tệ mạnh tại thời điểm gửi tiền. Đây là hình thức áp dụng cho loại huy động có thời hạn từ 2 đến 3 năm trở lên.
b -Tiếp tục hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nói chung và hiện đại hoá hệ thống thanh toán ngân hàng nói riêng.
Nó cho phép ngân hàng thu nhận, cập nhật được một cách kịp thời và đầy đủ những thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh tiền tệ nhất là sự biến động của thị trường vốn, lãi suất, tình hình khách hàng... qua đó có được những biện pháp thích ứng cho công tác tín dụng ngân hàng.
Công nghệ thanh toán hiện đại sẽ thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn, vật tư, hàng hoá, dịch vụ và tăng khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt. Dưới tác động tích cực này sẽ là lực hút các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua ngân hàng. Cũng tức là vốn sẽ được tập trung ngày càng nhiều vào ngân hàng.
Quá trình hiện đại hoá hệ thống thanh toán ngân hàng đi liền với việc nâng cao công tác thanh toán nhằm huy động ngày càng nhiều nguồn vốn tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các cá nhân thì đồng thời, trong thời gian tới đây ngân hàng cần phải:
- Có chính sách khuyến khích lợi ích khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng.Thực tế việc thanh toán liên NH đang diễn ra ngày càng sôi động.
- Thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi trên cơ sở ứng dụng những công nghệ tiên tiến.
- áp dụng phổ biến hình thức tiết kiệm gửi 1 nơi nhưng có thể rút ra ở nhiều nơi thông qua hệ thống mạng vi tính.
c - Mở rộng màng lưới hoạt động của ngân hàng.
Tổ chức màng lưới hoạt động của ngân hàng cần phải được mở rộng để tạo nên một sự phân bố hợp lý-điều này hoàn toàn có thể thực hiện do NH có thuận lợi là cán bộ NH có độ tuổi từ 38-42 đang là độ tuổi chín về nghề nghiệp nên họ đều cố gắng phấn đấu hết mình trong công việc, mang tiện ích của ngân hàng đến với dân khi họ gửi tiền vào ngân hàng và thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Từ đó họ dần hình thành nên thói quen gắn cuộc sống với ngân hàng, thói quen gửi tiền vào ngân hàng. Việc phát triển các ngân hàng cấp 4, các bàn giao dịch nhất thiết phải có ở các nơi trọng điểm, đông dân cư, các nơi tập trung kinh tế, các thị trấn, thị tứ, gần nơi kinh doanh buôn bán lớn. Tuy nhiên, việc mở rộng màng lưới hoạt động phải có hiệu quả kinh tế cho ngân hàng. Tránh hình thức, phô trương, phình to biên chế dưới sự bao biện vì lợi ích lâu dài để sẽ chịu hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn NH.
d - Thực hiện chính sách khuyến mại khách hàng.
Khuyến mãi là hình thức khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với người gửi tiền vào ngân hàng. Căn cứ vào mức dư nợ theo từng thang nấc cụ thể với thời hạn gửi cụ thể để định ra 1 tỷ lệ khuyến mãi hợp lý. Hình thức khuyến mại có thể là sổ số có thưởng, tặng phẩm đồng loạt, tổ chức du lịch...
e - Nâng cao uy tín ngân hàng, đổi mới phong cách làm việc và tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về ngân hàng.
Uy tín của NHNo là kết quả của sự tổng hoà nhiều yếu tố như: Ngân hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi, cơ sở vật chất khang trang, bảo đảm an toàn tiền gửi và được giữ bí mật, mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, tác phong giao dịch văn minh, tận tình cũng như trình độ và phẩm chất đạo đức của cán bộ ngân hàng ...
- Về yếu tố con người, thực hiện việc đào tạo và đào tạo lại làm cho nhân viên ngân hàng không những làm nghiệp vụ giỏi mà còn phải là những người bạn của dân, biết gợi ý, giúp đỡ tư vấn cho họ trong việc đưa tiền vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện bố trí làm việc vào những ngày nghỉ trong tuần trên những điểm đông dân cư có nhiều hoạt động kinh tế sôi động nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho yêu cầu của khách hàng gửi, rút tiền. Tuy nhiên, việc này phải được xét đến tính hiệu quả của kinh doanh ngân hàng.
- Ngoài những hình thức thông tin, tuyên truyền quảng cáo qua các phương tiện thông tin đại chúng, nên thực hiện hình thức trực tiếp qua từng cán bộ ngân hàng với dân, với các tổ chức kinh tế - xã hội.
- Thường xuyên tiếp cận và nắm bắt tâm lý người gửi tiền ở từng vùng, từng thời kỳ để qua đó đưa ra được những hình thức huy động vốn phù hợp với nhu cầu, với tâm lý và trình độ dân trí của khách hàng ở từng vùng, từng thời kỳ.
h - áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt trong huy động vốn.
Trong rất nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng đến công tác huy động vốn thì chính sách lãi suất là một yếu tố nhạy cảm nhất: Lãi suất thấp thì người dân không gửi, lãi suất cao thì ngân hàng không chịu đựng được. Mâu thuẫn này đòi hỏi ngân hàng phải có một chính sách lãi suất hợp lý và linh hoạt nhằm đảm bảo tăng được nguồn huy động đáp ứng yêu cầu kinh doanh có lãi của ngân hàng.
Việc thực hiện lãi suất huy động của NHNo trên địa bàn đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh, của các quỹ tín dụng nhân dân trong tỉnh, của Kho bạc nhà nước và hoạt động của hệ thống tín dụng ngầm không chính thức. Thực tế các “đối thủ” cạnh tranh đều thực hiện huy động với mức lãi suất cao hơn của ngân hàng, đó là 1 bất lợi. Tuy nhiên, NHNo có một màng lưới rộng khắp, đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ, cơ sở vật chất đầy đủ và có khả năng lớn trong hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, có tín nhiệm, có đội ngũ khách hàng truyền thống đông đảo... Những lợi thế đó, ngân hàng đã, đang và sẽ phải tận dụng, phát huy trong việc đẩy mạnh hoạt động huy động vốn bên cạnh việc sử dụng công cụ lãi suất linh hoạt.
Có thể thực hiện một số biện pháp trong việc thực hiện công cụ lãi suất làm tăng nguồn vốn huy động là:
- Vận hành lãi suất theo nguyên tắc thị trường, quan hệ cung cầu vốn tác động trực tiếp đến việc hình thành nên lãi suất huy động có hiệu quả và lãi suất cho vay hợp lý. Căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn với yêu cầu chấp hành cơ chế điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước.
- Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải đảm bảo cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến để khuyến khích tiền gửi vào ngân hàng, tránh tích luỹ ngoại tệ, vàng làm tác động đến mức cung tiền trên thị trường.
- Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn phải cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, thời hạn gửi dài thì có lãi suất cao hơn thời hạn gửi ngắn.
- Tránh sử dụng công cụ lãi suất để thực hiện cạnh tranh mang động cơ không lành mạnh.
III.2.1.2 - Huy động nguồn vốn bên ngoài tỉnh yên bái.
Là một tỉnh miền núi nghèo thì việc huy động nguồn vốn tại chỗ là chưa thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Do vậy, ngân hàng cần thực hiện một số biện pháp để thu hút nguồn vốn bên ngoài, đó là:
a - Tiếp nhận nguồn vốn từ các chương trình dự án phát triển
Việc huy động nguồn vốn bên ngoài từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước để đầu tư, thực thi các dự án trong đó có những hình thức huy động như vay thương mại, phát hành trái phiếu với thời gian dài vượt ra ngoài tỉnh sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn Yên Bái.
b - Tận dụng và phát huy thế mạnh trong việc điều hoà nguồn vốn của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
NHNo Việt Nam thực hiện điều hoà vốn cho những ngân hàng thiếu vốn hoạt động. NHNo Yên Bái cần mạnh dạn tận dụng và phát huy nguồn vốn điều hoà của Trung ương để đẩy mạnh cho vay ra tạo thế và lực cho hoạt động cho vay ngày càng có hiệu quả.
c - Thực hiện có hiệu quả cho vay uỷ thác để từ đó có được nhiều hơn nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư.
Thông qua NHNo Việt Nam để nhận làm dịch vụ uỷ thác đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. NHNo cần phải giải ngân tốt, đúng quy trình, đúng đối tượng và có hiệu quả nhằm nâng cao uy tín. Cùng các cấp, các ngành chủ động xây dựng các dự án mới để gọi vốn đầu tư dài hạn cho nông nghiệp, nông thôn với lãi suất thấp.
III.2.2 - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tín dụng tại NHNNO tỉnh Yên Bái.
Trong những năm qua, hoạt động cho vay ngân hàng vẫn còn những hạn chế trong vai trò thúc đẩy nhanh, mạnh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, NHNo cần phải tiếp tục mở rộng cho vay hiệu quả hơn nữa. Điều đó đỏi hỏi phải có một số giải pháp về hoạt động cho vay vốn, vừa đảm bảo cho kinh tế phát triển, vừa đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của ngân hàng. Các giải pháp đó là:
a- Thứ nhất: Phải xác định và quán triệt rõ những quan điểm cơ bản khi thực hiện cho vay vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Nông thôn là thị trường cho vay rộng lớn, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu của NHNo. Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở đặc biệt quan trọng cho sự phát triển bền vững của ngân hàng.
- Thực hiện phổ biến, tuyên truyền sâu rộng về chính sách, cơ chế tín dụng của nhà nước, của ngành đối với nông nghiệp, nông thôn. Làm cho người dân hiểu rõ được về những điều kiện, thủ tục, nguyên tắc, đối tượng, lãi suất vay vốn, kể cả chế tài xử lý tín dụng để qua đó góp phần mở rộng và nâng cao được hiệu quả tín dụng.
- Cho vay vốn phải dựa trên quan điểm phát triển nông nghiệp toàn diện, xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phải phát huy được thế mạnh của từng vùng trên cơ sở bám sát phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và những dự án kinh tế có tính khả thi cao.
- Vốn tín dụng tham gia liên hoàn vào tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm.
- Cho vay và tạo sự bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế.
- Thực hiện cho vay phải đảm bảo: Thuận tiện, kịp thời và chất lượng. Tránh tình trạng cho vay mang tính phát chẩn, bình quân và tràn lan.
b- Thứ hai: Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay tín dụng
Chất lượng thẩm định đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NH, không những yêu cầu bảo toàn vốn kinh doanh mà còn làm cho NH tránh khỏi phá sản.Điều đó đòi hỏi yêu cầu của trình độ cán bộ tín dụng.
Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo nên động lực lớn cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. Quá trình đó, hình thành nhiều loại hình tổ chức sản xuất, với nhiều ngành nghề mới ra đời và các quan hệ kinh tế nảy sinh nhiều chiều, đa dạng và có quan hệ nhân quả với nhau. Thực tế đó, mở ra cho hoạt động đầu tư ngân hàng những cơ hội phát triển mới, vừa tăng nhanh được doanh số cho vay, vừa mở rộng được địa bàn hoạt động, đồng thời xuất hiện nhiều đối tượng cho vay phong phú.
- Các chủ thể kinh tế sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thuộc các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài...phát triển dưới nhiều loại hình tổ chức. Có đơn vị sản xuất kinh doanh trên đất khoán, đất đấu thầu, đất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; Có đơn vị kết hợp với sản xuất gia công, chế biến nông, lâm sản, sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; Có đơn vị chuyên tâm vào một, hai lĩnh vực; Có đơn vị lại thực hiện kinh doanh tổng hợp. Tựu trung lại ta có thể xác định được những loại hình kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để ngân hàng đầu tư vốn bằng con đường tín dụng.
+ Kinh tế phát triển trên diện tích khoán hoặc đấu thầu, thuê như ruộng đồng, đồi bãi, ao hồ mặt nước, rừng...
+ Kinh tế phát triển trên diện tích vườn, đất tận dụng, khai hoang ...
+ Kinh tế phát triển chăn nuôi đại gia súc, gia súc, gia cầm ...
+ Kinh tế phát triển sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, ngành nghề thủ công.
- Xác định đối tượng cấp vốn là vấn đề có ý nghĩa lớn đảm bảo đồng vốn cho vay ra được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế và là điều kiện để mở rộng đầu tư. Những đối tượng chủ yếu thường là:
+ Các chi phí sản xuất kinh doanh cho trồng trọt, chăn nuôi.
+ Các chi phí cho thực hiện phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn.
+ Mua sắm công cụ, máy móc, thiết bị phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
+ Chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường.
+ Các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án phục vụ đời sống nếu xét thấy có hiệu quả và có nguồn trả nợ.
+ Các nhu cầu tài chính của khách hàng.
Mở rộng cho vay nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu và trách nhiệm của ngành ngân hàng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn. Qua đó thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng. Vấn đề này đòi hỏi mở rộng tín dụng phải gắn liền với nâng cao chất lượng thẩm định của cán bộ tín dụng.
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên: Hạn hán, bão lụt, thiên tai dịch bệnh... luôn đe doạ đến kết quả sản xuất và mức độ đe doạ càng lớn khi mà cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn thấp kém. Mặt khác, những tác động của cơ chế thị trường về biến động thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng sản phẩm, tỷ giá... đã dẫn đến những tổn thất khôn lường. Chính vì thế mà tâm lý người sản xuất cũng như ngân hàng luôn bị ám ảnh về rủi ro. NHNo chiếm thị phần rất lớn trong đầu tư vốn vào nông nghiệp, nông thôn sẽ gánh chịu giá trị rủi ro lớn. Để hạn chế rủi ro, thực hiện mở rộng được tín dụng phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, cần phải có những giải pháp thích hợp, cụ thể:
- Có kế hoạch và thực hiện tốt công tác đào tạo, đào tạo lại trình độ nghiệp vụ, kiến thức thị trường xã hội và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, khả năng nắm bắt và phân tích thông tin cho cán bộ ngân hàng. Để họ có thể tư vấn cho người sử dụng vốn về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và sản xuất bao nhiêu, đồng thời có những quyết định sát đúng khi cho vay.Điển hình thông qua hai ví dụ vừa rồi.
- Tuân thủ nghiêm quy trình nghiệp vụ của ngành khi thực hiện quá trình cho vay mà đặc biệt là chất lượng thẩm định trước khi cho vay đối với khách hàng về trình độ quản lý, tiềm lực tài chính, đối tượng sử dụng tiền vay và khả năng sinh lời để có quyết định cho vay hay không, cho vay số tiền bao nhiêu? thời hạn thế nào?, lãi suất ra sao?...
- Đa dạng hoá các hình thức cho vay.
- Tăng cường đầu tư tín dụng trung, dài hạn cho các cơ sở sản xuất chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp để họ thực hiện việc đổi mới dây chuyền công nghệ tiên tiến, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng chế biến làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và ngoài nước. Qua đó khả năng tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp, nông dân được đảm bảo ổn định sẽ làm cho quy mô và hiệu quả tín dụng đối với sản xuất nông nghiệp, nông thôn của ngân hàng được nâng cao.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay để có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời trước những dấu hiệu kém hiệu quả của việc sử dụng tiền vay. Chủ động sử lý tài sản bảo đảm tiền vay khi khách hàng vay có thế chấp tài sản mà không có khả năng trả nợ bằng ngân khoản nhằm giúp ngân hàng nhanh chóng tháo gỡ xử lý nợ, kể cả các khoản nợ tồn đọng, nợ xấu để tăng vốn kinh doanh.
c- Thứ ba: áp dụng nhiều hình thức cho vay và phương thức cho vay vốn phù hợp với điều kiện nông nghiệp, nông thôn từng vùng và đối tượng từng ngành sản xuất nông nghiệp.
Tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi rất cao về việc tiếp nhận vốn tín dụng phải kịp thời, đầy đủ. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp, nông thôn lại phong phú về loại hình, về đối tựợng, lượng khách hàng đông mà đa phần là hộ nông dân với những nhu cầu vốn nhỏ, lẻ. Trước tình hình đó, muốn mở rộng tín dụng, muốn khách hàng sử dụng có hiệu quả vốn vay thì trong hoạt động cấp tín dụng, NHNo cần phải:
- Đa dạng hoá hình thức cho vay.
Ngoài việc cho vay trực tiếp tới các doanh nghiệp, các HTX, các chủ trang trại sản xuất trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thì đối với kinh tế hộ, ngân hàng cần phải phát triển, mở rộng thêm hình thức cho vay gián tiếp thông qua các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đoàn thể, các già làng, trưởng bản.
Quá trình thực hiện cho vay hộ sản xuất , NHNo xoát xét tình hình thực tế từng hộ qua đó phân loại hộ để thực hiện cho vay theo các hình thức và phương thức cho vay thích hợp.
+ Cho vay tực tiếp tới hộ: Thực hiện với những hộ sản xuất kinh doanh có nhu cầu vốn lớn, tạo ra được sản phẩm hàng hoá mang lại thu nhập cao. ở họ đã sẵn có tiềm lực lao động, vốn tự có, có tư duy kinh tế, có kỹ thuật sản xuất, có dự án, phương án kinh doanh hiệu quả...
+ Cho vay gián tiếp thông qua sự trung gian tín chấp của các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể, nhưng tiền vay vẫn phải được phát trực tiếp tới hộ vay. Hình thức này được thực hiện vớí những hộ sản xuất chưa thoát khỏi tính chất sản xuất tự sản, tự tiêu, nhu cầu vốn ở mức thấp, nhỏ hơn 10 triệu đồng nên không phải thế chấp tài sản, có mức thu nhấp trung bình. Đây là hình thức cho vay rất cần được mở rộng ở Yên Bái vì nó phù hợp với đặc trưng nông nghiệp, nông thôn ở Yên Bái
+ Cho vay theo hình thức thanh toán tay ba thông qua việc các doanh nghiệp cung ứng vật tư, phân bón, giống cây trồng, vật nuôi...cho hộ để ngân hàng thực hiện cho vay trực tiếp tới từng hộ và tiền vay được chuyển trả luôn cho doanh nghiệp.
Hình thức này đảm bảo tiền vay phát ra đúng mục đính, có hiệu quả và mang lại lợi ích cho cả 3 bên.
+ Cho vay theo hình thức cấp vốn uỷ thác thông qua quỹ tín dụng nhân dân, các DNNN chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp, thu mua hàng xuất khẩu, các HTX nông nghiệp thực hiện thu mua nông sản thực phẩm. Chỉ thực hiện hình thức này khi mà các hộ nông dân là nguồn cung cấp chính và ổn định sản phẩm cho các DNNN, các HTX đó. Thực hiện hình thức này, lãi suất cho vay vẫn phải đảm bảo mặt bằng lãi suất chung. Ngân hàng sẽ trả phí hoá hồng cho các đơn vị kinh tế nhận “uỷ thác”.
+ Thực hiện hình thức cho vay lưu vụ trong sản xuất nông nghiệp:
Quy luật mùa vụ tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính chất, đặc điểm sử dụng vốn vay của nông dân. Có những đối tượng sản xuất mang tính mùa vụ rất rõ và liền kề nhau giữa hai vụ sản xuất. Thực tế này phản ánh vốn vay cho sản xuất vụ trước được sử dụng luôn cho vụ sau. Điển hình trong sản xuất nông nghiệp thấy rõ nhất là trồng lúa. Vì thế, để nông dân có vốn kịp thời phục vụ cho sản xuất mùa vụ liền kề thì nên áp dụng hình thức cho vay lưu vụ. Theo đó hộ nông dân sau vụ sản xuất chỉ cần trả hết lãi vay vụ đó mà không phải trả gốc rồi làm đơn xin lưu vụ. Cho vay lưu vụ sẽ giúp các hộ nông dân có điều kiện chủ động về vốn, giảm bớt được thủ tục phiền hà và tạo nên sự gắn bó với ngân hàng.
+ Thực hiện cho vay đón đầu ngân sách: Quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ có nhiều dự án đầu tư vốn từ ngân sách nhà nước. Nhưng do nguồn ngân sách chưa kịp đáp ứng ngay được thì ngân hàng sẽ thực hiện cho vay.
- áp dụng những phương thức cho vay phù hợp với sản xuất nông nghiệp, nông thôn .
Hiện nay NHNo đang thực hiện phương thức cho vay từng lần là chủ yếu. Điều đó ảnh hưởng đến tính kịp thời cần vốn và phần nào gây ra những phiền phức, trong việc hoàn chỉnh thủ tục vay vốn đối với khách hàng có thu nhập thường xuyên và có nhu cầu vốn nhiều lần trong năm. Vì thế cần mở ra và đưa vào thực hiện những phương thức cho vay khác phù hợp hơn trong điều kiện cho phép:
+ Thực hiện phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng:
Thực tế đa số các hộ nông dân thực hiện sản xuất kinh doanh theo mô hình kinh tế tổng hợp. Các đối tượng sản xuất trong từng hộ có sự lệch nhau về thời gian một chu kỳ sản xuất và khi mỗi chu kỳ sản xuất của một đối tượng sản xuất được kết thúc tức là khi đó có thu nhập. Điều đó xuất hiện thực trạng có thu nhập nhiều lần trong năm và nhu cầu vốn để tăng quy mô sản xuất cũng xuất hiện nhiều lần. Đối với những loại hộ này, NHNo sẽ thực hiện phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng nhằm tạo thuận lợi cho cả ngân hàng và khách hàng trong quan hệ vay, trả, đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng được nâng lên.
+ Thực hiện phương thức cho vay từng lần nhưng phát tiền vay nhiều lần theo nhu cầu vốn thực tế ở các thời gian khác nhau.
Các hộ nông dân sản xuất kinh doanh tổng hợp và họ kế hoạch được nhu cầu vốn thông qua việc xây dựng các dự án kinh doanh tổng hợp, ở đó xác định được những thời điểm cần vốn để đáp ứng yêu cầu thực hiện có hiệu quả dự án. NHNo căn cứ vào dự án đó, sau khi thực hiện thẩm định, nếu được sẽ thực hiện cho vay theo phương thức từng lần và tiền vay sẽ được phát ra làm nhiều lần. Những lần rút tiền vay sau, hộ nông dân chỉ cần viết giấy nhận nợ đúng với số tiền cần rút của lần đó, thời hạn của giấy nhận nợ không được vượt quá thời hạn cuối cùng của hợp đồng tín dụng đã ký ban đầu, lãi suất tiền vay sẽ thực hiện theo lãi suất ở thời điểm rút tiền. Phương thức này cũng mang lại những thuận lợi và hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng.
d-Thứ tư: Thực hiện cho vay theo chương trình, dự án phát triển kinh tế từng vùng, từng tiểu vùng, cụm xã.
Xuất phát từ đặc trưng của nông nghiệp, nông thôn Yên bái, với thế mạnh của các nguồn lực tự nhiên, việc phát triển nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có sự quy hoạch các vùng, tiểu vùng sản xuất tập trung với các chương trình dự án kinh tế có tính khả thi cao. NHNo Yên bái cần phải chuyển mạnh sang cho vay theo chương trình, theo dự án vùng, tiểu vùng và cụm xã.
Ngân hàng phải bám sát các chương trình, mục tiêu kinh tế của địa phương, phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng phương án, dự án sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Căn cứ vào các phương án, dự án phát triển kinh tế được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Cán bộ tín dụng phải tham gia, hướng dẫn xây dựng được dự án đầu tư tín dụng trên địa bàn xã, cụm xã do mình phụ trách. Trên cơ sở đó, xét duyệt và thẩm định để đi đến quyết định cấp tín dụng có hiệu quả đáp ứng nhu cầu vốn cho thực hiện dự án theo những hình thức và những phương thức cho vay phù hợp.
e- Thứ năm: Cần có chế độ ưu đãi về lãi suất cho vay đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Hiện nay, các ngân hàng định ra mức lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản và biên độ ứng với từng loại cho vay do ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng. Việc điều hành cơ chế lãi suất theo lãi suất cơ bản là một bước tiến mới về hoạt động kinh doanh ngân hàng trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt. Một vấn đề đặt ra là: Làm thế nào có được mức lãi suất cho vay hợp lý vừa đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, vừa tạo động lực cho phát triển sản xuất, sử dụng vốn vay có hiệu quả, khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Kinh doanh trong môi trường cạnh tranh, lãi suất cho vay của ngân hàng còn chịu ảnh hưởng rất nhiều vào quan hệ cung cầu vốn, về lãi suất huy động nguồn cũng như khả năng rủi ro của đối tượng cho vay. Một ngân hàng không thể áp dụng mức lãi suất cho vay quá thấp bởi như vậy bản thân ngân hàng sẽ không chịu đựng nổi một kết quả kinh doanh lỗ.
Thực tế trên địa bàn nông thôn Yên Bái, do chỉ có NHNo hoạt động cho nên sự cạnh tranh trong cho vay là chưa có. Điều kiện đó đã cho phép các NHNo huyện trong cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh đã thực hiện mức lãi suất cho vay luôn bằng lãi suất cơ bản cộng với biên độ tối đa đã dẫn đến một thực trạng đang tồn tại là lãi suất cho vay ở khu vực nông thôn đang cao hơn lãi suất cho vay ở khu vực thành thị.
Để giải quyết tốt vấn đề này nhằm khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có chế độ ưu đãi về lãi suất cho vay. Ngân hàng thực hiện một số biện pháp sau:
- Bản thân NHNo cần căn cứ vào đặc điểm kinh tế xã hội và khả năng phát triển kinh tế từng vùng, từng khu vực trên quan điểm chiến lược vì lợi ích lâu dài để chủ động thực hiện những mức lãi suất thích hợp, linh hoạt nhằm tăng trưởng dư nợ hiệu quả-Đố là tương lai không xa NH thực hiện cho vay thuận lãi suất thoả thuận.
- Thực hiện tiết kiệm chi phí quản lý trên cơ sở khoán chi phí là điều kiện để giảm lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn mà vẫn đảm bảo được kết quả kinh doanh.
- Cần đa dạng hoá và vận dụng linh hoạt các mức lãi suất huy động ở nhiều thời hạn khác nhau, ở từng thời gian cụ thể khác nhau đảm bảo yêu cầu hạ thấp lãi suất đầu vào nhưng vẫn huy động được nhiều vốn.
III.3 - một số kiến nghị
III.3.1 - Kiến nghị với nhà nước.
Thứ nhất: Nhà nước cần hoàn thiện chính sách đất đai.
Chính sách đất đai đã và đang tác động vào sự vận động của quan hệ đất đai gắn với quá trình sản xuất hàng hoá. Để vấn đề ruộng đất mang lại hiệu quả cao hơn thì nhà nước cần bổ xung nghiên cứu và hoàn thiện chính sách đất đai.
- Xác lập cơ sở pháp lý cho tính tất yếu của quá trình tích tụ ruộng đất, tạo cho sự vận động của ruộng đất trong chuyển quyền sử dụng, chuyển mục đích sử dụng đất nhằm khuyến khích phát triển kinh tế trang trại và phát triển của các doanh nghiệp phi nông nghiệp ở nông thôn.
- Tiếp tục nghiên cứu chính sách giảm thuế sử dụng đất cho nông dân vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn và nới rộng hạn điền cho những vùng này để khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện cho người lao động khai thác tốt hơn các vùng đất này. Giảm thuế chuyển quyền sử dụng đất ở nông thôn có liên quan đến việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, ưu tiên thuế đất để phát triển công nghiệp nông thôn.
- Xây dựng các văn bản thể chế hóa 5 quyền của người sử dụng đất theo luật làm cơ sở pháp lý cho họ yên tâm đầu tư lâu dài vào sản xuất.
Thứ hai: Nhà nước cần hoàn thiện chính sách đầu tư.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Cả lý luận và thực tiễn sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn ở các nước cho thấy vốn đầu tư chiếm một vị trí then chốt, có tính quyết định đến mọi vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn. Chính vì thế tăng cường đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn là một yêu cầu khách quan. Sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả, đúng mục đích phát triển nông nghiệp, nông thôn hay không, nó phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đầu tư đúng.
Trong thời gian tới, chính sách đầu tư cần thực hiện:
- Tỷ lệ đầu tư của nhà nước cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn ít nhất từ 25% trở lên trong tổng ngân sách nhà nước hàng năm bằng các chương trình, dự án có mục tiêu. Đồng thời có chính sách huy động nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Có chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, kêu gọi các nhà tài trợ nước ngoài đặc biệt là các tổ chức như ADB, IMF triển khai các dự án cho vay, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung lớn.
- Có chính sách khuyến khích phát triển các mô hình tư nhân đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn. Khi hoàn thành thì được thu lệ phí để hoàn vốn.
- Chính sách đầu tư của nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn cần ưu tiên vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn như đường giao thông, điện nước, thủy lợi, thông tin liên lạc, cải tạo ruộng đồng và đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng phổ cập các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ gắn với sản xuất nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho thâm canh tăng vụ, khai hoang phục hóa, tăng khối lượng nông, lâm sản hàng hoá.
- Chính sách đầu tư phải thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng, phát triển kinh tế hàng hoá ở một số vùng trọng điểm và thúc đẩy sự vươn lên của các vùng còn khó khăn. Chính sách đầu tư cần tập trung cho những ngành, những lĩnh vực có điều kiện và khả năng thu nhận nhiều lao động nhằm giải quyết việc làm cho lao động dư thừa trong nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba: Nhà nước cần hoàn thiện chính sách thị trường nông thôn.
Thị trường giữ vai trò trọng yếu trong sản xuất hàng hoá, thị trường càng phát triển là động lực lớn cho sự phát triển sản xuất. Thị trường nông thôn phát triển không những tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được đáp ứng kịp thời, đầy đủ vật tư, nguyên liệu; Tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn tạo thêm nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh mới để làm thay đổi cơ cấu lao động trong nông nghiệp theo hướng tích cực và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để phát huy hơn nữa vai trò của thị trường nông thôn đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, kiến nghị:
- Đối với thị trường đầu vào cho nông nghiêp, nông thôn, nhà nước cần có chính sách hợp lý về giá cả vật tư thông qua các chính sách tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh vật tư nông nghiệp như: Ưu đãi về thuế suất, về tín dụng, kể cả sự hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí vận chuyển vật tư, hàng hoá đối với vùng sâu, vùng xa.
- Thực hiện chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp, nông thôn.
+ Tự do hóa thương mại nói chung và hàng nông, lâm sản nói riêng, xoá bỏ các khâu gây ách tắc lưu thông hàng hoá, tạo sự thông thoáng cho giao lưu hàng hoá giữa các vùng trong cả nước.
+ Đặt tổ chức thị trường nông thôn trong chiến lược phát triển thị trường nông sản hướng về xuất khẩu, trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó đòi hỏi:
Cần có sự nghiên cứu, khảo sát thị trường thông qua đó dự báo một cách khoa học sự biến động của từng loại thị trường sản phẩm, thường xuyên cập nhật thông tin và thông báo đầy đủ cho người sản xuất. Đồng thời qua đó điều tra, đánh giá, xác định khả năng phát triển sản xuất, đánh giá đúng lợi thế so sánh để có những quy hoạch, kế hoạch, dự án cụ thể nhằm khai thác tiềm năng sinh học và phát triển các nhóm sản phẩm để đầu tư phát triển sản xuất tạo sự tiến bộ vượt bậc về năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường khu vực và thế giới.
+ Khuyến khích phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu, đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở nông thôn, tham gia cấu trúc thành những không gian công nghiệp ở các vùng của đất nước, từng bước thị trường hoá sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
+ Khuyến khích các đơn vị sản xuất thực hiện xuất khẩu trực tiếp khi có điều kiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Thực hiện chính sách bảo trợ giá nông sản và bảo hiểm sản xuất nông nghiệp.
+ Cần lập quỹ bảo trợ giá nông sản, đặc biệt là với những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu để đề phòng tránh sự biến động giảm về giá cả, giúp người sản xuất kinh doanh nông sản yên tâm đầu tư, vay vốn để sản xuất.
+ Bảo hộ hàng hoá nông sản trong nước đứng được trên thị trường nội địa bằng chính sách thuế và khi những hàng nông sản mà trong nước sản xuất chưa đủ, để cân đối với nhu cầu tiêu dùng thì chỉ nên nhập khẩu vừa đủ phần thiếu đó, tránh nhập khẩu ồ ạt làm rối loạn thị trường gây khó khăn cho sản xuất trong nước.
+ Nhà nước cần khuyến khích và hướng dẫn việc lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp dưới nhiều hình thức phù hợp trong các tổ chức kinh tế cùng khu vực hoặc cùng sản xuất một loại sản phẩm . Thúc đẩy mở rộng nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trong và ngoài nước.
Thứ tư: Thực hiện chính sách khoa học công nghệ hướng mạnh vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Tác động của khoa học công nghệ vào sản xuất là hết sức cần thiết và có tính chiến lược trong sự phát triển nền kinh tế nói chung và đặc biệt là phát triển nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Vì thế, cần phải có những chính sách cụ thể về khoa học công nghệ nhằm hướng vào phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật - công nghệ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, trước hết là công tác lai tạo, tuyển chọn các giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, chất lượng tốt.
- Tạo môi trường thuận lợi cho việc nhập khẩu công nghệ, đầu tư và chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài vào Việt Nam như cung cấp thông tin, sử dụng môi giới, giảm thủ tục hành chính, giảm thuế...
- Có chính sách khuyến khích thoả đáng đối với những tìm tòi, khám phá, sáng tạo về khoa học kỹ thuật - công nghệ, về khoa học quản lý sản xuất nông nghiệp và ứng dụng nó vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Thứ năm: Hoàn thiện chính sách kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại là một bước phát triển đúng quy luật của nền kinh tế, nó khởi nguồn từ phát triển kinh tế hộ và đang trở thành động lực lớn thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn lên sản xuất hàng hoá. Hiện nay, Nhà nước rất quan tâm đến sự phát triển kinh tế trang trại thông qua hệ thống đồng bộ các giải pháp vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề cần phải bổ xung, sửa đổi và tổ chức thực hiện nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho trang trại phát triển.
- Trong thực tế có những hộ có đủ tiêu chí diện tích nhưng đang ở giai đoạn đầu sẽ không đáp ứng được tiêu chí về giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Hay là có những hộ không đủ tiêu chí diện tích nhưng lại có giá trị hàng hoá lớn. Những trường hợp này đều không được công nhận là trang trại, điều đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Vì thế, Nhà nước cần quy định lại tiêu chí xác định trang trại cho phù hợp với thực tế.
- Nhà nước chỉ nên đưa ra những tiêu chí chính về trang trại, còn cụ thể sẽ giao cho từng tỉnh xác định căn cứ vào điều kiện cụ thể và yêu cầu phát triển của từng vùng, từng tỉnh.
- Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ sản xuất, các tổ chức kinh tế xã hội có khả năng, điều kiện đều được làm trang trại và phát triển kinh tế trang trại.
Thứ sáu: Tạo môi trường cạnh tranh và bình đẳng trong kinh doanh.
- Đảm bảo môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh và sự bình đẳng trong kinh doanh là thuận lợi lớn cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ nợ.
Thực tế đã xảy ra những trường hợp khách hàng vay có tính lừa đảo, chiếm đoạt tài sản ngân hàng, hoặc người vay bị bên thứ ba chiếm đoạt tài sản có liên quan đến vốn vay ngân hàng thì ngân hàng lại chịu trách nhiệm hình sự. Thực tế đó đã tác động đến tâm lý cán bộ ngân hàng trong thực hiện mở rộng cho vay. Để xóa bỏ tâm lý lo ngại này, thì vấn đề đặt ra cấp thiết là: Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế dân sự gữa bên vay vốn với ngân hàng mà phải xác định rạch ròi về trách nhiệm của khách hàng và ngân hàng.
- Thành lập ngân hàng chính sách để quy tụ các nguồn vốn chinh sách nhằm thực hiện tín dụng chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn.
III.3.2 - Một số kiến nghị với tỉnh.
- Quy hoạch các vùng sản xuất tập trung cho các loại cây trồng có thế mạnh phát triển, thích hợp với điều kiện tự nhiên, đất đai và kinh tế từng vùng để tạo vùng nguyên liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến phát triển và hướng mạnh ra xuất khẩu.
- Thực hiện chọn tạo và nhập các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện địa phương.
- Đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư dưới nhiều phương thức hoạt động theo chương trình; Xây dựng điểm trình diễn, hội thảo; Khuyến nông có sự tham gia trực tiếp của nông dân; Khuyến nông liên kết các đơn vị kinh tế nhằm giúp nông dân có kiến thức, kỹ thuật sản xuất và làm đúng quy trình sản xuất tạo năng suất cao.
- Tiếp tục thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, tăng cường vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân:
+ Cần phân loại hộ theo tiêu thức về mức độ đa dạng hoá sản xuất và trình độ sản xuất kết hợp với tiêu thức thu nhập để thấy được xu hướng phát triển của hộ nông dân. Qua đó có những chính sách và biện pháp hỗ trợ thích hợp.
+ Khẩn trương hoàn thành công tác giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân, khuyến khích nông dân chuyển đổi đất nhằm khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún, phân tán.
+ Tạo điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển giao công nghệ... cho kinh tế hộ phát triển.
+ Khuyến khích và hỗ trợ kinh tế cho những hộ nông dân chuyển sang làm ngành nghề, dịch vụ, sang phát triển kinh tế trang trại - một hình thức sản xuất hàng hoá lớn, đặc biệt phải có quy hoạch, có chiến lược phát triển kinh tế trang trại, tránh tình trạng hình thành tự phát sẽ ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm.
- Khẩn trương thực hiện việc cấp chứng nhận trang trại để có cơ sở thực hiện các chính sách hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển.
- Phát triển và đổi mới mô hình kinh tế hợp tác.
Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các HTX là hình thức liên kết tự nguyện của người lao động để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh, đời sống vì thế cần phải:
+ Tiếp tục phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, từ tổ, nhóm, hợp tác đến HTX, tuân thủ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ.
+ Đa dạng hoá mô hình HTX như: HTX nông nghiệp làm dịch vụ, HTX nông nghiệp vừa sản xuất vừa kết hợp với dịch vụ; HTX nông nghiệp thuần tuý trên cơ sở phù hợp với đặc điểm của ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân và đặc thù của từng địa phương. Tuy nhiên mô hình về HTX về lâu dài cần khuyến khích phát triển là HTX dịch vụ.
+ Phát triển kinh tế hộ và các trang trại sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển các HTX, bởi lẽ hoạt động của HTX gắn với sản xuất của hộ nông dân và các trang trại, vừa có tác dụng hộ trợ tạo điều kiện cho kinh tế hộ, trang trại phát triển, là cầu nối giữa kinh tế hộ với kinh tế nhà nước và thị trường vừa góp phần phát huy hiệu quả đầu tư của nhà nước trên từng địa bàn nhất là về thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật ...
- Đổi mới, củng cố và xắp xếp lại tổ chức hoạt động của các DNNN.
Trong các thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Khi các DNNN năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra sự tác động tích cực thúc đẩy kinh tế hộ nông dân quanh vùng phát triển và tạo điều kiện cho việc hình thành các HTX kiểu mới gắn kiền với doanh nghiệp, đem lại kết quả là cả kinh tế hộ nông dân, các HTX và DNNN đều có điều kiện thuận lợi để phát triển: Nông dân có việc làm, có điều kiện áp dụng những tiến bộ kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất, tăng thu nhập; Hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX có hiệu quả, có điều kiện để đổi mới cơ cấu sản xuất; Doanh nghiệp có đủ nông sản để chế biến.
Để phát huy hơn nữa vai trò của các DNNN trong phát triển nông nghiệp, nông thôn thì phương hướng đổi mới là:
+ Thực hiện hoàn chỉnh khoán lâu dài đất đai cho công nhân, hộ nông dân để họ yên tâm vào sản xuất nguyên liệu cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có những chính sách giữ ổn định phát triển vùng nguyên liệu thông qua các hoạt động dịch vụ như điện, nước, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, vật tư, vốn...đồng thời có trách nhiệm thu mua nguyên liệu theo giá hợp lý để sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra.
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đổi mới công nghệ, từng bước mở rộng phạm vi hoạt động, chủ động tìm thị trường tiêu thụ ổn định và tiến tới xuất khẩu trực tiếp.
+ Đưa một phần hoạt động lâm trường sang sản xuất cây giống cung cấp cho nông dân và hướng dẫn họ bảo vệ, trồng rừng, trồng cây công nghiệp. Các lâm trường cần phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, để người công nhân lâm trường thực sự là chủ trên diện tích rừng nhận khoán, thực hiện có chất lượng về công tác quản lý và bảo vệ rừng.
+ Từng bước thực hiện cổ phần hoá những DNNN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn với sự tham gia vốn của nông dân để tạo sự gắn kết về lợi ích giữa cơ sở chế biến với nông dân.
+ Hình thành và phát triển mô hình tổ hợp kinh tế tạo sự liên kết giữa DNNN, HTX và nông dân. Đây là một hình thức tổ chức sản xuất theo dạng hiệp hội mang tính tự quản, dân chủ bàn bạc và thiết lập quan hệ trách nhiệm thông qua hợp đồng kinh tế, trong đó DNNN phải thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong cơ chế thị trường trên địa bàn nông thôn bằng việc giúp đỡ, hỗ trợ các HTX và nông dân có nhiều điều kiện để chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Sản phẩm nông dân sản xuất ra luôn được DNNN này thu mua hết. Qua đó, DNNN giữ vững, phát triển được vùng nguyên liệu, đáp ứng cho sản xuất chế biến kinh doanh của mình.
- Tổ chức thị trường hàng hoá nông thôn.
+ Tổ chức tốt màng lưới dịch vụ cung ứng vật tư, hàng hoá và tiêu thụ nông sản tới từng thôn, xã với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó các DNNN, các HTX làm nòng cốt, thực hiện liên kết kinh tế theo hợp đồng kinh tế với nông dân.
+ Hình thành và phát triển các chợ nông thôn, đảm bảo mỗi xã hoặc một cụm xã hợp lý đều có chợ nông thôn hoạt động theo phiên, tạo điều kiện cho nông dân được thuận lợi trong việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ.
- Đẩy mạnh phát triển và chuyển giao công nghệ thích hợp thuộc lĩnh vực bảo quản và chế biến nông sản. Khuyến khích hướng phát triển các loại hình công nghệ phục vụ sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng gia tăng sự phân công lao động trong nông thôn, hình thành các loại hình lao động dịch vụ thương mại ở nông thôn.
- Thực hiện quy hoạch và công bố rộng rãi quy hoạch phát triển đất đai để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn phát triển cơ sở hạ tầng và các cơ sở sản xuất kinh doanh. Cần giải quyết tốt tình trạng nông dân mất đất không có việc làm thông qua chính sách gắn phát triển khu công nghiệp với xắp xếp lại lao động ở nông thôn và chính sách đối với người nông dân khi đất canh tác được sử dụng phát triển vào mục đích phát triển kinh tế xã hội khác sản xuất nông nghiệp.
III.3.3 - Một số kiến nghị với Ngân hàng nhà nước.
- Cơ chế điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản cần được xét đến tính thị trường của nông nghiệp, nông thôn miền núi, nơi hầu như không có sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng.
- Nên quy định trích tỷ lệ trên tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng khác vào NHNo để cho vay nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện cho sự ưu đãi lãi suất đối với khu vực này.
- Cho phép thành lập công ty bảo hiểm của ngân hàng để thực hiện bảo hiểm trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
- Nâng cao hơn nữa vai trò quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh ngân hàng của chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, đặc biệt chú trọng đến vai trò và hiệu lực thực tế của thanh tra.
III.3.4 - Một số kiến nghị với NHNo Việt nam.
- Nghiên cứu đề xuất ngân hàng nhà nước trình chính phủ để có sự hỗ trợ thêm vốn và được giảm thuế tạo điều kiện hạ mức lãi suất cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn miền núi.
- Sớm ban hành những quy định cụ thể về cho vay phát triển kinh tế trang trại, cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, cho vay phát triển kinh tế HTX.
- Cần có sự hỗ trợ và ưu tiên ngân hàng miền núi thể hiện trong đơn giá tiền lương, trong phí nguồn trung ương điều xuống, trong đào tạo cán bộ, trong việc tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị, công nghệ.
3
Kết luận
Trong những năm qua cùng với cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam, kênh dẫn vốn qua NH thực hiện cho vay khu vực này đang phát huy hiệu quả của nó, với mục tiêu phát triển ngành nông nghiệp từ đó kích thích các ngành khác cùng phát triển đưa Việt Nam cơ bản đến năm 2020 thành nước công nghiệp.
Yên Bái với vị trí đại lý cùng điều kiện tự nhiện ưu đãi, có chính sách phát triển của nhà nước, cùng ngân hàng NNo&PTNT Yên bái đang và sẽ là người bạn động hành với người dân địa phương voí quyết tâm xoá bỏ đói nghèo, đưa kinh tế chung của tỉnh đi lên, tiến kịp với nhịp độ chung của cả nước.
Thực hiện chức năng của mình NH cho vay với đối tượng chủ yếu làm nông nghiệp cũng như liên quan đến dịch vụ nông nghiệp, nhưng đối tượng chủ yếu là hộ nông dân.
Vơí điều kiện kinh tế của tỉnh Yên bái còn nhiều khó khăn, giao lưu hàng hoá còn chưa thực sự phát triển, hàng nông sản làm ra tiêu thụ chưa có đầu ra ổn định, cùng quá trình lao động tích luỹ vốn hiện nay trong dân còn cao do chưa biết sử dụng vào mục đích nào có hiệu quả cao nhất, đang là vấn đề bỏ ngỏ về huy động vốn tại NH.
Trong quá trình thực tập tại NH NNo%PTNT Yên bái, em rút ra một số vấn đề sau:
+ Địa bàn của hoạt động tại NH NNo tại địa phương có những khó khăn nhất định, song vẫn đạt được những kết quả khả quan trong những năm qua
+ Luân văn mở ra những phương hướng cũng như mục tiêu trong những năm tới, trên cơ sở phân tích những khó khăn về huy động và đầu tư vốn.
+ Đánh giá thực lực tiềm năng, trình độ chung của NH, từ đó có những giải pháp hữu hiệu trong những năm tới.
+ Lắng nghe sự chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ chính quyền địa phương từ đó tạo điều kiện kênh rót vốn của NH đến được tận tay người nông dân
Trong quá trình thực hiện thực tập, với sự giúp đỡ của cô giáo Mai Hoa, cùng toàn thể cán bộ NHNNO tỉnh Yên bái.
Em xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
1- Giáo trình kinh tế đầu tư - Bộ môn kinh tế đầu tư- TrườngĐH kinh tế quốc dân.
2 - Trần Thị Vân Anh - Vũ Tuấn Anh. Kinh tế hộ - lịch sử và triển vọng phát triển - Trung tâm KH-XH và nhân văn quốc gia và trường đại học BRTISH COLUMBIA, CANADA - NXB Khoa học xã hội. Hà Nội 1997.
3- Ban chấp hành trung ương Đảng - Văn kiện hội nghị lần thứ IV(Khoá VIII), NXB Chính trị quốc gia.
4 - Cục thống kê tỉnh Yên Bái - Niên giám thống kê các năm từ 1996-2000.
5 - Chủ tịch hội động quản trị NHNo Việt Nam - QĐ 06/QĐ-HĐQT. Ban hành quy định về cho vay đối với khách hàng.
6 - Chính phủ, NHNN Việt Nam, NHNo Việt Nam - Các văn bản liên quan đến hoạt động NHNo.
7 - Chi nhánh NHNN tỉnh Yên Bái - Báo cáo thống kê các năm từ 1996-2000.
8 - Chi nhánh NHNo Yên Bái - Báo cáo thống kê các năm từ 1996 -2000.
9 - Chi nhánh NHNo Yên Bái - Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1997, 1998, 1999, 2000.
10 - Lê Vinh Danh - Tiền và hoạt động ngân hàng - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 1997.
11 - Đảng cộng sản Việt nam - Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII.
12 - Đảng cộng sản Việt nam - Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX.
13- Đại học Kinh tế quốc dân - Viện nghiên cứu và phát triển - Phát triển Kinh tế - Xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng CNH, HĐH - NXB Chính trị quốc gia.
14 - Vũ Hiền - Trịnh Hữu Đản (Chủ biên) - Nghị quyết trung ương IV (khoá VIII) và vấn đề tín dụng nông thôn - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 1998.
15 - PTS Nguyễn Tiến Mạnh, PTS Dương Ngọc Thí. Phát triển nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở vùng trung du miền núi phía bắc Việt nam - NXB Nông nghiệp.
16 - FREDERIC S.MISHKIN - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học & Kỹ thuật - Hà Nội 1995.
17 - NHNN Việt Nam - NHNN Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước - NXB Khoa học & Kỹ Thuật - Hà Nội 1997.
18 - NHNN Việt Nam - Tạp chí ngân hàng các số từ 1998-2000.
19 - Phan Thanh Phố - Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam - NXB Giáo dục - Hà Nội 1996.
20 - Chu Hữu Quí - Chính sách thị trường với phát triển nông nghiệp nông thôn. Tạp chí nghiên cứu - trao đổi số 8 - tháng 4/1998.
21 - GS. TS Lương Xuân Quỳ - GS.PTS Nguyễn Thế Nhã - Đổi mới tổ chức và quản lý các Hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn - NXB Nông nghiệp.
22 - Tổng cục thống kê - Niên giám thống kê 1999. NXB Thống kê - Hà Nội 2000.
23 - Tỉnh uỷ, HĐND, UBND Tỉnh - Tỉnh Yên Bái một thế kỷ (1900 - 2000). Tháng 4/2000.
Mục lục
Trang
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29768.doc