PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chúng ta biết rằng, thuế là nguồn thu rất quan trọng, nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu ngân sách Nhà nước (khoản 70% - 80%). Ngày nay với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế khu vực là một vấn đề bức thiết mang tính tất yếu khách quan đối với tất cả các quốc gia. Vì vậy, vai trò của thuế ngày nay không chỉ dừng ở chỗ đảm bảo nguồn thu để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, mà nó phải đảm bảo vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế quốc gia ngày càng phát triển. Vì vậy chính sách thuế đã được cải cách, sửa đổi cho phù hợp với xu hướng này. Nhằm khuyến khích người dân mạnh dạn bỏ vốn ra đầu tư, khuyến khích các cơ sở kinh doanh mở rộng sản xuất Bộ Tài chính đã ban hành Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho Luật thuế doanh thu và thuế lợi tức nhằm khắc phục những nhược điểm của 2 Luật thuế này. Những chính sách nhằm khuyến khích các cơ sở mạnh dạn đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:s
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp: Doanh nghiệp được miễn giảm thuế trong những năm đầu mới thành lập, trong thời gian đầu của các doanh nghiệp khi đầu tư thêm máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái. Khi hoạt động bị lỗ sẽ được chuyển lỗ sang năm tiếp theo
+ Thuế giá trị gia tăng đánh vào giá trị tăng thêm trong từng khâu của quá trình sản xuất nên không bị đánh thuế trùng lặp, thúc đẩy được sự chuyên môn hóa trong sản xuất. Được hoàn thuế giá trị gia tăng trong trường hợp xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; đầu tư tài sản cố định có giá trị lớn đã khuyến khích được xuất khẩu phát triển, góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh với hiệu quả ngày càng cao. Trong quá trình áp dụng, bên cạnh những ưu điểm vốn có, công tác quản lý thuế của cán bộ ngành cũng gặp không ít khó khăn. Do một số đối tượng lợi dụng những kẻ hở do cơ chế thông thoáng và có nhiều ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư, kích thích sản xuất phát triển đã dùng mọi thủ đoạn gian lận tinh vi để trốn thuế. Đặc biệt là thuế GTGT, với cơ chế tính thuế theo phương pháp khấu trừ nhằm khắc phục được nhược điểm đánh thuế trùng lặp, khuyến khích các cơ sở mạnh dạn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu nhưng đây cũng chính là kẻ hở để cho các đối tượng nộp thuế gian lận, trốn thuế với mục đích làm giảm tiền thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước hoặc chiếm dụng Tiền của ngân sách thông qua cơ chế hoàn thuế. Vấn đề nổi cộm và cấp thiết hiện nay là gian lận về việc mua bán hóa đơn; hóa đơn giả; mua bán khống, xuất khẩu khống và nhiều thủ đoạn gian lận khác qua mặt cán bộ ngành thuế để xin được hoàn thuế. Điều này đã gây nhiều thiệt hại cho NSNN, gây thiệt hại, mất mát to lớn cho xã hội, làm đau đầu các cơ quan chủ quản có liên quan, nhất là ngành thuế. Cho nên, cần phải có ngay những giải pháp thiết thực ngăn chặn những hành vi gian lận này và những biện pháp xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm, nhằm đảm bảo nguồn
thu, tránh thất thoát cho NSNN, đem lại nhiều lợi ích cho toàn xã hội. Vì tính cấp thiết của nó, đó là lý do tôi chọn đề tài: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ TỈNH AN GIANG”.
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1657 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng tại cục thuế tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm liên quan.
Hợp đồng kinh tế liên quan đến hoàn thuế
Tờ khai hàng hóa xuất khẩu có xác nhận theo cơ quan hải quan về hàng hóa xuất
khẩu.
Hóa đơn, chứng từ liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra.
Chứng từ thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua bán kiên quan đến hoàn thuế. Chứng
từ nộp thuế GTGT, hoàn thuế GTGT.
Tình hình nộp, hoàn thuế GTGT.
Báo cáo kế toán, báo cáo xuất, nhập, tồn kho hàng hóa; báo cáo tiêu thụ và các sổ
sách kế toán, chứng từ và hồ sơ tài liệu có liên quan đến việc xác định số thuế GTGT được
hoàn.
- Khi kiểm tra, các cán bộ chọn lựa những trọng tâm, trọng điểm, tập trung kiểm tra
những dấu hiệu có nghi ngờ nhằm đạt hiệu quả và rút ngắn thời gian:
+ Kiểm tra đối chiếu số liệu liên quan đến các vấn đề có nghi vấn cần kiểm tra như:
Chứng từ liên quan đến tình hình nộp thuế, hoàn thuế của cơ sở, chứng từ thanh toán
và các tài liệu có liên quan khác.
Số liệu trên hồ sơ hoàn thuế với số liệu báo cáo tổng hợp về chi tiết doanh số mua,
doanh số bán, tồn kho hàng hóa, các hóa đơn, chứng từ liên quan đến số thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ, thuế GTGT đầu ra.
Định mức sử dụng vật tư hàng hóa, căn cứ phân bổ thuế GTGT đầu vào.
+ Đối tượng hoàn thuế.
+ Đối chiếu xác minh các hóa đơn có nghi vấn. Lập phiếu xác minh hóa đơn đầu vào
gửi các cơ quan Thuế có liên quan.
- Lập biên bản xác nhận số liệu với kế toán trưởng của cơ sở được kiểm tra về nội
dung.
- Lập biên bản kiểm tra, thanh tra. Trường hợp CSKD có hành vi vi phạm thì phải
ghi rõ nội dung và mức độ của từng hành vi, căn cứ pháp lý để kết luận mức độ vi phạm đó.
3.2. Trách nhiệm của Kho bạc Nhà nước:
Kho bạc Nhà nước tỉnh có trách nhiệm thực hiện việc chi hoàn thuế GTGT cho các
đối tượng trong thời gian tối đa là 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hoàn thuế của cơ
quan Thuế.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 46
4. Vấn đề quản lý hóa đơn của cơ quan Thuế:
Để thực hiện Luật thuế GTGT và Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp Bộ trưởng Bộ
Tài chính đã quy định 2 hệ thống hóa đơn:
+ Hệ thống hóa đơn do Bộ Tài chính in ấn, phát hành
+ Hệ thống hóa đơn tự in của các tổ chức, cá nhân
Cơ sở quan trọng để giải quyết hồ sơ xin hoàn thuế GTGT đó là hóa đơn GTGT. Vì
vậy, công tác quản lý hóa đơn của cơ quan Thuế cần chặt chẽ, khoa học và xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm chế độ sử dụng hóa đơn.
4.1. Công tác quản lý hóa đơn của phòng quản lý ấn chỉ:
4.1.1. Công tác bán hóa đơn cho các CSKD:
- Đối với các tổ chức, cá nhân mua hóa đơn lần đầu: phải làm đơn xin mua hóa đơn
kèm theo các giấy tờ cần thiết theo quy định.
Phòng Quản lý ấn chỉ tiếp nhận hồ sơ xin mua hóa đơn, sau khi kiểm tra thủ tục đầy
đủ, đúng thì viết giấy hẹn cho tổ chức, cá nhân. Thời gian hẹn không quá 5 ngày kể từ ngày
nhận hồ sơ.
Trong thời gian hẹn, cán bộ phòng Quản lý ấn chỉ kiểm tra thực tế địa điểm kinh
doanh, nhằm xác định chính xác là địa điểm kinh doanh đó có thật hay không.
Sau khi kiểm tra thấy đủ điều kiện phòng Ấn chỉ tiến hành cấp sổ theo dõi cho tổ
chức, cá nhân xin mua hóa đơn và bán hóa đơn theo đúng hẹn, số lượng bán hóa đơn lần đầu
không quá 2 quyển.
- Các lần mua hóa đơn tiếp sau cũng phải có đầy đủ giấy tờ theo quy định.
4.1.2. Công tác quản lý hóa đơn:
- Hàng tháng, hàng quý các CSKD phải báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn cho
phòng Quản lý ấn chỉ:
Báo cáo số lượng hóa đơn đã sử dụng trong tháng; số hóa đơn đã làm hư hỏng, mất
mát. Trên cơ sở số lượng hóa đơn đã sử dụng là căn cứ để cơ quan Thuế bán hóa đơn cho
CSKD lần tiếp theo.
- Cuối năm, CSKD phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng hóa đơn nộp cho
phòng Quản lý ấn chỉ.
- Hàng năm phòng Quản lý ấn chỉ đi kiểm tra tình hình quản lý, sử dụng hóa đơn tại
CSKD:
Kiểm tra xem các cơ sở này có sử dụng hóa đơn và nội dung ghi trên hóa đơn có đầy
đủ, đúng theo quy định hay không.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 47
Nếu phát hiện có gian lận CSKD sẽ bị truy cứu trách nhiệm và phạt theo từng mức
độ vi phạm.
4.2. Công tác quản lý hóa đơn tự in:
Tuy công tác quản lý hóa đơn khá chặt chẽ nhưng cơ quan Thuế vẫn không thể kiểm
tra hết tất cả các đối tượng sử dụng hóa đơn nhằm phát hiện kịp thời những sai phạm. Do đó
nhiều trường hợp gian lận trong kê khai thuế GTGT, làm tăng số thuế GTGT được khấu trừ,
làm giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn vẫn xuất phát chủ yếu từ hóa đơn
chung do BTC phát hành.
Vì vậy để khắc phục nhược điểm của hóa đơn chung do BTC phát hành, ngành thuế
đã khuyến khích các CSKD sử dụng hóa đơn tự in.
Số lượng các đơn vị sử dụng hóa đơn tự in hiện nay: Năm 2002 cả nước đã có hơn
1500 đơn vị được tự in hóa đơn để sử dụng. Riêng tỉnh An Giang trong năm 2002 có 13 đơn
vị sử dụng hóa đơn tự in, sang năm 2003 đã có 33 đơn vị sử dụng hóa đơn tự in, đã tăng hơn
năm 2002 đến 20 đơn vị. Điều này chứng tỏ càng ngày các CSKD đã nhận thức được ưu
điểm của việc sử dụng hóa đơn tự in trong hoạt động kinh doanh của mình.
4.2.1. Ưu điểm của việc sử dụng hóa đơn tự in:
- Nó đáp ứng được nhu cầu sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp trong cả nước khi
áp dụng luật thuế GTGT.
- Hóa đơn tự in của doanh nghiệp ngoài việc đảm bảo sự tín nhiệm đối với khách
hàng, còn có thêm chức năng quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu sản phẩm của công ty do trên
hóa đơn có logo, có thể giới thiệu sản phẩm, màu sắc đẹp, đồng thời thể hiện được những
đặc trưng riêng của từng doanh nghiệp…
- Việc sử dụng hóa đơn tự in đã thúc đẩy các doanh nghiệp nêu cao tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng về hoạt động kinh doanh của mình.
- Doanh nghiệp chủ động trong việc lập kế hoạch sử dụng hóa đơn phù hợp với hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
- Hóa đơn tự in được in tên doanh nghiệp, mã số thuế, địa chỉ rõ ràng, có biểu tượng
trên mẫu hóa đơn… nên khi cần đối chiếu, xác minh hóa đơn sẽ được thực hiện dễ dàng,
thuận lợi hơn, hạn chế được việc mua bán hóa đơn.
4.2.1. Những tồn tại trong việc sử dụng hóa đơn tự in:
- Khâu đăng ký quản lý sử dụng hóa đơn tự in tại một số nơi chưa tổ chức tốt, còn
lúng túng trong theo dõi, trong việc mở sổ sách.
- Một số tổ chức cá nhân còn sử dụng 2 loại hình hóa đơn là hóa đơn tự in và hóa
đơn do BTC phát hành mà không báo cáo.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 48
- Một số đơn vị in hóa đơn không đúng mẫu đã được duyệt như: sai mã số, sót mã
số…
- Một số tổ chức, cá nhân đã đăng ký sử dụng hóa đơn với Tổng Cục thuế nhưng
không thực hiện đăng ký sử dụng với Cục thuế. Hoặc khi không có nhu cầu sử dụng cũng
không thực hiện báo cáo cơ quan Thuế để hủy bỏ hiệu lực sử dụng hóa đơn.
- Việc in hóa đơn gây tốn kém nhiều cho các doanh nghiệp, muốn giảm chi phí phải
in với số lượng lớn, vốn đầu tư phải bỏ ra nhiều. Điều này gây khó khăn nhiều cho các
doanh nghiệp nhỏ.
- Hiện nay tại An Giang chưa có cơ sở in được phép in hóa đơn, nơi in hóa đơn gần
nhất là một số cơ sở in được phép in hóa đơn tại thành phố Hồ Chi Minh. Vì thế các doanh
nghiệp tại An Giang muốn in hóa đơn sẽ tốn nhiều thời gian, công sức và tiền bạc.
Xu thế chung của các nước trên thế giới hiện nay là các CSKD sử dụng hóa đơn tự
in. Ở tỉnh ta tuy việc sử dụng hóa đơn tự in còn nhiều khó khăn nhưng đã đạt được những
kết quả bước đầu, vì thế cần phải khắc phục khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để nó phát
triển.
5. Tình hình thực hiện hoàn thuế GTGT tại Cục thuế tỉnh An Giang:
Thuế GTGT gia tăng là một sắc thuế đánh trên hành vi tiêu dùng của người dân.
Điều này đồng nghĩa với: khi kinh tế - xã hội phát triển, thu nhập của người dân tăng lên,
dẫn đến sức mua tăng lên thì số thuế GTGT thu được sẽ tăng lên.
Chính sách hoàn thuế GTGT với mục đích nhằm khuyến khích xuất khẩu, khuyến
khích các CSKD đầu tư trang thiết bị, mở rộng sản xuất… vì vậy nếu số tiền hoàn thuế trong
năm lớn thì số thu thuế GTGT và kim ngạch xuất nhập khẩu đều tăng lên.
Nhưng trong những năm đầu áp dụng thuế GTGT, số tiền hoàn thuế GTGT rất lớn,
trên 45% so với số thuế GTGT đã thu. Sở dĩ số tiền hoàn thuế quá lớn là do:
+ Công việc hoàn thuế cho các CSKD là việc hoàn toàn mới đối với ngành thuế,
bước đầu triển khai thực hiện còn bỡ ngỡ.
+ Quy trình quản lý hoàn thuế trong thời gian đầu còn khá lỏng lẻo.
+ Công tác kiểm tra, thanh tra hoàn thuế chưa thực sự hiệu quả…
Đã có kẻ hở cho nhiều đối tượng gian lận, chiếm đoạt tiền hoàn thuế của Ngân sách.
Nhưng qua thời gian thực hiện các cán bộ ngành đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong
quá trình xử lý, quy trình quản lý hoàn thuế đã chặt chẽ hơn… nên số thuế đã hoàn cho các
đối tượng cũng chính xác hơn, giảm được nhiều trường hợp gian lận.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 49
Qua số thu và số tiền đã hoàn thuế GTGT qua 5 năm thực hiện sẽ cho thấy được
công tác quản lý hoàn thuế ngày càng có hiệu quả hơn, tránh được nhiều trường hợp vi
phạm, gian lận nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế của Ngân sách:
BẢNG SỐ THU VÀ TIỀN HOÀN THUẾ GTGT QUA 5 NĂM
ĐVT: triệu đồng
Năm
Khoản mục
1999 2000 2001 2002 2003
Số thu thuế 92.796 90.910 128.724 167.515 214.676
Số hoàn thuế 43.377 59.107 72.345 51.146 59.745
Tỷ trọng số hoàn thuế
so với số thu(%)
46,74 65 56,2 30,53 27,83
0
50.000
100.000
150.000
200.000
250.000
1999 2000 2001 2002 2003
THU
CHI
BIỂU ĐỒ THU VÀ CHI HOÀN THUẾ GTGT
TR
IỆ
U
Đ
Ồ
N
G
Các trường hợp xin hoàn thuế thường là xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; bị âm thuế do
chưa giải phóng được hàng tồn kho hoặc đầu tư mới tài sản cố định; rất ít khi phát sinh các
trường hợp hoàn thuế khác.
NĂM
Nhưng số tiền hoàn thuế trong những năm đầu quá lớn nên vấn đề cần đặt ra: có phải
tất cả các cơ sở xin hoàn thuế đều thuộc trường hợp được hoàn, hay một số cơ sở đã lợi
dụng cơ chế hoàn thuế, có những hành vi gian lận nhằm chiếm đoạt tiền của NSNN.
Vì vậy cán bộ thuế cần kiểm soát quy trình hoàn thuế chặt chẽ hơn; tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra trước và sau hoàn thuế để phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi
gian lận trốn thuế. Nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, tránh thất thoát tiền của NSNN
đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.
Qua kết quả trên cho thấy số thu thuế GTGT hàng năm đều tăng lên, đồng thời số
tiền hoàn thuế của từng năm đã giảm so với số tiền thuế thu được, trong khi tốc độ tăng
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 50
trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của tỉnh vẫn tăng lên mỗi năm, đặc biệt là 2 năm
2002 và 2003:
Tốc độ tăng trưởng: năm 2002 là 10,54%, năm 2003 là 9,13%.
Kim ngạch xuất khẩu: năm 2001 là 118.777.000USD, năm 2002 tăng 24% so với
năm 2001, năm 2003 tăng 24,21% so với năm 2002.
Điều này chứng tỏ công tác xử lý hoàn thuế đã đạt được hiệu quả, đảm bảo hoàn
thuế cho đúng đối tượng được hoàn, tạo được sự công bằng trong xã hội. Đạt được như vậy
là do bộ máy quản lý của cơ quan Thuế đã được sắp xếp lại, sự phân công trách nhiệm rõ
ràng, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, nhất là bộ phận Ấn chỉ, bộ phận Quản lý và
bộ phận Thanh tra. Cụ thể qua kết quả của 3 năm 2001, 2002, 2003:
Kết quả hoàn thuế qua 3 năm 2001, 2002, 2003:
ĐVT: triệu đồng
Năm
2001 2002 2003
QD NQD Tổng QD NQD Tổng QD NQD Tổng
Số hồ sơ xin hoàn thuế 67 64 131 - - - 90 - -
Số DN xin hoàn 11 64 75 - - - 14 - -
Số tiền thuế xin hoàn 67.792 9.123 77.241 - - - 48.634 - -
Số hồ sơ đã giải quyết 58 47 105 62 29 91 76 30 106
Số DN đã được hoàn 11 47 58 14 26 40 14 15 29
Số tiền đã hoàn 63.634 8.711 72.345 44.719 6.427 51.146 46.454 13.291 59.745
¾ Năm 2001:
- Có 131 hồ sơ xin hoàn thuế, số tiền đề nghị hoàn là 77.241 triệu đồng.
- Đã giải quyết 105 hồ sơ của 58 doanh nghiệp, số tiền đã hoàn là 72.345 triệu đồng.
- Trong năm chỉ mới kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế có 17 doanh nghiệp, chiếm
29,31% so với số doanh nghiệp đã được hoàn thuế. Và số tiền thu hồi về quỹ hoàn thuế là 4
triệu đồng. Trong khi đó những quy định về hoàn thuế thời gian này còn khá lỏng lẻo, vì vậy
đã tạo nhiều kẻ hở để các doanh nghiệp gian lận, nhưng cán bộ ngành lại chưa phát hiện
được:
+ Do được khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá trị thu mua hàng nông, lâm, thủy sản nên
các doanh nghiệp đã kê khai khống bảng kê thu mua hàng nông, lâm, thủy sản.
+ Xuất hóa đơn khống, sử dụng hóa đơn giả.
+ Tình trạng xuất khẩu khống do không quy định phương thức thanh toán qua ngân
hàng…
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 51
Từ đó thấy được trong giai đoạn đầu các cán bộ ngành đã không kiểm soát chặt chẽ
quy trình hoàn thuế, không thực hiện công tác hậu kiểm một cách nghiêm túc. Nguyên nhân
là do chưa có sự phân công rõ trách nhiệm thuộc về bộ phận nào, dẫn đến tình trạng đùn đẩy
trách nhiệm cho nhau, làm thất thoát tiền của NSNN.
- Sau một thời gian áp dụng đã phát hiện ra những thiếu sót ban đầu, chính sách hoàn
thuế đã dần dần được hoàn thiện:
+ Giảm dần tỷ lệ khấu trừ theo tỷ lệ %, tiến đến bãi bỏ việc khấu trừ theo tỷ lệ %
trên giá trị thu mua hàng nông, lâm, thủy sản.
+ Quy định các CSKD xuất khẩu phải thanh toán tiền hàng xuất khẩu qua ngân hàng,
nhằm ngăn chặn trường hợp xuất khẩu khống.
+ Đồng thời sắp xếp lại cơ cấu tổ chức ngành thuế, phân công rõ ràng quyền hạn và
trách nhiệm nhằm tránh trường hợp đùn đẩy trách nhiệm cho nhau dẫn đến không hoàn
thành nhiệm vụ.
¾ Năm 2002:
- Đã giải quyết 92 hồ sơ hoàn thuế cho 40 doanh nghiệp, với số tiền hoàn thuế là
51.146 triệu đồng, ngoài ra còn giải quyết cho 2 trường hợp hoàn thuế GTGT cho dự án sử
dụng nguồn vốn ODA: 30 triệu đồng và hoàn trả thuế GTGT cho công trình quản lý đường
sông: 73 triệu đồng. Tổng số tiền hoàn thuế là 51.249 triệu đồng, giảm so với năm 2001 là
21.096 triệu đồng, tương đương 29,16%.
- Đặc biệt, công tác kiểm tra, thanh tra hoàn thuế được đẩy mạnh. Kiểm tra, thanh tra
cả những đối tượng của năm trước đó chưa được kiểm tra. Đã kiểm tra hoàn thuế cho 79
lượt doanh nghiệp với 122 hồ sơ, số tiền hoàn thuế là 51.323 triệu đồng. Kết quả phát hiện
23 trường hợp vi phạm, đã thu hồi và phạt 32 triệu đồng, trong đó:
+ Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Đã tổ chức kiểm tra 14 doanh nghiệp với 51 hồ
sơ, số thuế được hoàn là 44.718 triệu đồng, trong đó phòng Thanh tra phụ trách 7 doanh
nghiệp với 40 hồ sơ; phòng quản lý doanh nghiệp phụ trách 7 doanh nghiệp với 11 hồ sơ,
trong đó có 1 hồ sơ kiểm tra trước hoàn thuế.
+ Khu vực CTN – NQD: Đã tổ chức kiểm tra hoàn thuế 65 lượt doanh nghiệp với 71
hồ sơ:
Phòng quản lý DN NQD kiểm tra trước hoàn thuế 18 lượt doanh nghiệp với 18 hồ
sơ, số thuế đề nghị hoàn là 5.074 triệu đồng.
Kiểm tra sau hoàn thuế 47 lượt doanh nghiệp với 53 hồ sơ hoàn thuế: phòng Quản lý
DN NQD kiểm tra 31 lượt doanh nghiệp, 34 hồ sơ với số tiền hoàn thuế là 3.112 triệu đồng;
phòng Thanh tra thực hiện 16 doanh nghiệp với 19 hồ sơ, số tiền hoàn thuế là 3.493 triệu
đồng, đã phát hiện 7 trường hợp vi phạm với số tiền thu hồi và phạt 16 triệu đồng.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 52
- Đồng thời trong năm đã phúc tra hoàn thuế từ năm 1999 đến năm 2002 của 41 lượt
doanh nghiệp với 225 hồ sơ hoàn thuế, trong đó:
+ Phòng Thanh tra đã tiến hành rà soát phúc tra lại 10 DNNN với 191 hồ sơ thời
gian của 2 năm 2000 và 2001.
+ Phòng quản lý DN NQD đã phúc tra 31 doanh nghiệp với 34 hồ sơ, thời gian từ
năm 1999 đến 2001, số tiền thu hồi và phạt trên 16 triệu đồng.
¾ Năm 2003:
- Đã giải quyết hoàn thuế cho 106 hồ sơ của 29 doanh nghiệp, số tiền thuế đã hoàn là
59.745 triệu đồng. Ngoài ra trong năm còn giải quyết hoàn thuế cho dự án sử dụng nguồn
vốn ODA, số tiền hoàn thuế là 62 triệu đồng. Cả năm số tiền hoàn thuế là 59.807 triệu đồng,
tăng hơn năm 2002 là 8.661 triệu đồng, tương đương 16,9%.
- Công tác kiểm tra, thanh tra trong năm 2003: đã kiểm tra 44 hồ sơ hoàn thuế, phát
hiện vi phạm 13 hồ sơ, tổng số tiền thu theo biên bản kiểm tra lên đến 298 triệu đồng trong
đó truy thu 190 triệu đồng, phạt vi phạm về thuế 98 triệu đồng, phạt vi phạm hành chính 10
triệu đồng.
Đến cuối năm 2003 số hồ sơ còn tồn cần phải tiến hành kiểm tra là 63 hồ sơ.
R Qua quá trình kiểm tra hồ sơ hoàn thuế; kiểm tra, thanh tra trước và sau hoàn thuế có
những biểu hiện sai sót, vi phạm sau:
+ Qua kiểm tra hồ sơ hoàn thuế, cho thấy các trường hợp doanh nghiệp gửi chưa đầy
đủ hồ sơ theo quy định hoàn thuế GTGT như:
Kê khai thuế trùng lắp hai lần trên 1 hóa đơn
Chứng từ thanh toán không phù hợp với phương thức thanh toán do Nhà nước quy
định, thanh toán không qua ngân hàng đối với hàng xuất khẩu.
Hồ sơ chứng minh hàng xuất khẩu gửi không kịp thời tại thời điểm đề nghị hoàn
thuế GTGT.
+ Qua kiểm tra tại các CSKD, có nhiều trường hợp vi phạm dưới nhiều hình thức,
mức độ khác nhau:
Vi phạm kê khai sót doanh thu
Hóa đơn không có mã số thuế, viết với 2 màu mực
Hóa đơn đầu vào ghi không đầy đủ chỉ tiêu
Kê khai hóa đơn không chịu thuế
Kê khai hóa đơn đối với những hàng hóa không phục vụ cho việc sản xuất, kinh
doanh
Kê khai hóa đơn bán hàng trễ hạn
Lập bảng kê sai với quy định
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 53
Kê khai hóa đơn đầu vào không chịu thuế và kê khai doanh số xuất khẩu không
đúng quy định…
Æ Qua kết quả 5 năm thực hiện hoàn thuế GTGT, của Ngành thuế tỉnh An Giang thấy được:
Công tác giải quyết hoàn thuế trong khoản 3 năm đầu chưa đạt hiệu quả cao, do cơ
chế thông thoáng của Luật đầu tư, quy trình hoàn thuế còn lỏng lẻo, cán bộ ngành còn thiếu
kinh nghiệm và trình độ trong công tác quản lý hoàn thuế, chưa có sự phối hợp đồng bộ,
chặt chẽ giữa các bộ phận với nhau…
Sang 2 năm kế tiếp, thấy được công tác giải quyết hoàn thuế của cán bộ ngành ngày
một chặt chẽ hơn, đảm bảo thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời nhu cầu
vốn cho đối tượng hoàn thuế. Đồng thời giảm được các hành vi gian lận nhằm chiếm đoạt
tiền từ NSNN, đảm bảo tính công bằng giữa các CSKD.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, vẫn còn một số mặt hạn chế do điều kiện
khách quan và chủ quan gây ra, cần được Chính quyền, các ngành, các cấp quan tâm khắc
phục để chính sách thuế ngày càng hoàn thiện hơn, tiên tiến hơn, phù hợp với thông lệ quốc
tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của đất nước.
6. Phương hướng, nhiệm vụ trong năm 2004:
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra. Xử lý kịp thời các hành vi gian lận về thuế,
chống thất thu ngân sách, chống tình trạng các CSKD lợi dụng hoàn thuế để gian lận chiếm
đoạt tiền từ NSNN. Nhằm đảm bảo công bằng và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa
các CSKD với nhau.
Giải quyết các hồ sơ hoàn thuế còn tồn đọng, giải quyết kịp thời các hồ sơ hoàn thuế
phát sinh trong năm 2004, nhằm đảm bảo nguồn vốn tạo điều kiện cho các CSKD hoạt động
thuận lợi. Bên cạnh đó cần đẩy nhanh công tác hậu kiểm nhằm đảm bảo phát hiện kịp thời
các hành vi gian lận tiền hoàn thuế và thu hồi về cho NSNN.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 54
CHƯƠNG IV:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOÀN THUẾ TẠI CỤC THUẾ TỈNH
AN GIANG
Qua thực tế, quá trình quản lý công tác hoàn thuế tại Cục thuế tỉnh An Giang có
nhiều mặt thuận lợi, bên cạnh đó vẫn còn một số mặt tồn tại cần được khắc phục, đảm bảo
ngăn chặn và đẩy lùi kịp thời các hành vi gian lận nhằm chiếm dụng tiền hoàn thuế của
NSNN. Đảm bảo cơ chế hoàn thuế là một trong những vai trò tích cực nhất thúc đẩy sản
xuất phát triển, khuyến khích xuất khẩu, đưa kinh tế nước ta nhanh chóng hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới.
1. Thuận lợi:
1.1. Về chính sách thuế:
Đã hình thành một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu.
Thuế GTGT cũng mở rộng các đối tượng chịu thuế mà trước đây chưa có quy định.
Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với
nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến
khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế…
Hệ thống chính sách thuế từng bước hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu của hội
nhập. Từng bước tiến tới đơn giản, rõ ràng, tạo điều kiện giảm chi phí hành chính cho cả
người nộp thuế và cơ quan Thuế. Thuế GTGT từ 4 mức thuế suất: 0%, 5%, 10%, 20% giảm
xuống còn 3 mức: 0%, 5%, 10%, làm cho việc tính toán đơn giản hơn, hợp lý hơn trong nộp
thuế và hoàn thuế.
Tăng cường quản lý hạch toán kinh doanh trong từng doanh nghiệp, thúc đẩy việc tổ
chức và sắp xếp lại doanh nghiệp.
1.2. Về quản lý:
- Đã hình thành một hệ thống quản lý thuế thống nhất trong cả nước, ngày càng được
củng cố và tăng cường về mọi mặt. Đội ngũ cán bộ quản lý thuế được đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ quản lý và phẩm chất.
Các cán bộ tại Cục thuế có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm làm việc lâu
năm. Công tác bồi dưỡng cán bộ luôn được quan tâm.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 55
Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, tạo điều kiện làm việc thoải mái, năng suất làm việc
cao.
Trang bị hệ thống máy tính, tạo điều kiện ứng dụng tốt công nghệ thông tin trong
công tác quản lý thuế. Nối mạng nội bộ giữa các ngành Thuế, Tài chính và Kho bạc cấp tỉnh
giúp đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trao đổi, cập nhật thông tin nhanh chóng, kịp
thời.
- Công tác quản lý thuế được chuyển từng bước từ chế độ chuyên quản khép kín
sang chế độ người nộp thuế tự tính, tự khai và tự nộp thuế. Cơ chế này đã đề cao nghĩa vụ,
trách nhiệm của người nộp thuế trước Pháp luật.
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế bước đầu thực hiện tương đối tốt,
đã có soạn thảo và phát hành các nội dung tuyên truyền về chính sách thuế, ban hành văn
bản trả lời các vướng mắc cho các đối tượng nộp thuế qua phương tiện thông tin đại chúng.
- Công tác quản lý thuế đã có những chuyển biến tích cực, theo hướng rõ ràng, công
khai, dân chủ và minh bạch hơn.
Quy trình hoàn thuế được niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan Thuế nhằm giúp
doanh nghiệp hiểu rõ hơn về ưu điểm của hoàn thuế và thực hiện một cách dễ dàng.
- Tổ chức quản lý thuế được tổ chức thành 3 bộ phận độc lập: Bộ phận cấp đăng ký
mã số thuế, nhận và kiểm tra tờ khai thuế: bộ phận tính thuế, thông báo nộp thuế và đôn đốc
thu nộp thuế; bộ phận thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về thuế. Đã hạn chế được tiêu
cực trong công tác quản lý thuế theo kiểu “khép kín” trước đây. Từng bước thực hiện
chuyên môn hóa quản lý thuế theo chức năng, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ thuế.
- Thông báo “đường dây nóng” của lãnh đạo cơ quan Thuế các cấp tại địa phương để
đối tượng nộp thuế thuận tiện trong việc trao đổi kịp thời những vướng mắc, những sai trái
của cán bộ thuế nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ thuế có phầm chất đạo đức tốt, lề lối, thái độ
làm việc văn minh, lịch sự, chân thành, có tinh thần trách nhiệm vững vàng.
- Các đối tượng kinh doanh được hoàn thuế GTGT đều phải được kiểm tra sau hoàn
thuế, điều này sẽ giảm thiểu được tình trạng gian lận chiếm đoạt tiền hoàn thuế của NSNN.
- Công tác hoàn thuế cơ bản đã thực hiện theo thời gian quy định, theo đúng quy
trình nghiệp vụ, giải quyết phần nào khó khăn về vốn kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hoàn thiện hơn công tác hoàn thuế, bãi bỏ một số quy định dễ dẫn đến phát sinh tiêu
cực:
+ Bãi bỏ quy định khấu trừ theo tỷ lệ % đối với hàng nông, lâm, thủy sản.
+ Quy định phải thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa xuất khẩu.
+ Tổ chức kiểm tra sự tồn tại thực tế các hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với các
doanh nghiệp mới thành lập.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 56
+ Hoàn thiện bộ hồ sơ hoàn thuế.
+ Quy trình quản lý hóa đơn chặt chẽ hơn.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra…
2. Những tồn tại, hạn chế:
2.1. Về chính sách thuế:
- Hệ thống chính sách thuế vẫn chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp
thuế.
Sắc thuế GTGT cũng còn nhiều đối tượng không thuộc diện chịu thuế, làm cho quá
trình tính thuế không trở thành một quy trình khép kín, là cơ sở cho một số đối tượng cố tình
gian lận trốn thuế.
- Hệ thống chính sách thuế còn nhiều mức thuế suất nên chưa thúc đẩy mạnh mẽ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyên môn hóa và hợp tác trong sản xuất kinh doanh.
Thuế GTGT vẫn còn đến 3 mức thuế suất, trong tương lai nên giảm xuống còn 2
mức thuế suất 0% và 10% để công việc tính toán dễ dàng, đơn giản hơn.
Do còn có nhiều mức thuế suất, điều kiện ưu đãi nên chưa thực sự đảm bảo tính bình
đẳng, công bằng xã hội về nghĩa vụ thuế.
- Hệ thống chính sách thuế vẫn còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội, còn nhiều
mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập, không đảm bảo công bằng giữa các đối
tượng nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực, làm phức tạp công tác quản lý thuế.
2.2. Trong công tác quản lý thuế:
- Tình trạng trốn lậu thuế, nợ đọng thuế ở nhiều sắc thuế, ở các địa phương trong cả
nước. Trước hết là do đối tượng nộp thuế chưa nhận thức đúng về nghĩa vụ, trách nhiệm nộp
thuế theo Pháp luật. Một số tổ chức, cá nhân cố tình tìm mọi cách gian lận thuế.
Trong những năm đầu thực hiện Luật thuế GTGT có khá nhiều hành vi gian lận trốn
thuế, do cơ chế quản lý trước đây chưa chặt chẽ, đồng thời quản lý chưa đồng bộ đã có
nhiều kẻ hở cho các đối tượng lợi dụng gian lận để trốn thuế, chiếm đoạt tiền từ NSNN.
Hiện nay qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đã khắc phục được nhiều thiếu sót, giảm được đáng
kể các vụ việc gian lận. Nhưng vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như:
+ Các CSKD đã lợi dụng quy trình tự tính thuế, tự kê khai thuế. Một số doanh
nghiệp có dấu hiệu vi phạm trong kê khai, nhằm mục đích trốn thuế: vi phạm về ghi chép sổ
sách kế toán không kịp thời, không đầy đủ, hạch toán chi phí, sử dụng chứng từ không hợp
lý, vi phạm về hóa đơn như xuất bán hàng không lập hóa đơn, xuất hóa đơn không đúng giá,
không đúng số lượng so với thực tế như giá cao hơn giá thực tế hoặc lập hóa đơn thấp hơn
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 57
giá thanh toán. cơ quan Thuế chủ yếu thu theo tự kê khai của doanh nghiệp, chỉ khi phát
hiện doanh nghiệp có biểu hiện trốn thuế thì mới tập trung kiểm tra, xử lý.
+ Việc thực hiện quy trình kiểm tra, thanh tra đối tượng nộp thuế, đối tượng hoàn
thuế, trong việc phối hợp giữa các bộ phận: quản lý, thanh tra, ấn chỉ chưa chặt chẽ nên hiệu
quả chưa cao.
+ Việc phối hợp giữa cơ quan Thuế với các cơ quan chức năng, các tổ chức, cá nhân
có liên quan như: cơ quan Địa chính, Xây dựng, Công an, Kiểm sát, Ngân hàng, các cơ quan
thông tin đại chúng… đến việc thu thuế chưa chặt chẽ, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Vì thế
đã tạo nên kẻ hở để một số đối tượng có cơ hội gian lận trốn thuế.
- Chế tài xử phạt vi phạm về thuế chưa được quy định rõ ràng, các hình thức xử phạt
vi phạm về thuế còn quá nhẹ chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn các hành vi gian lận thuế.
- Có nhiều doanh nghiệp, nhất là ở khu vực ngoài quốc doanh chưa nhận thức đúng
đắn về ý nghĩa của việc hoàn thuế, sợ thanh tra, kiểm tra, ngại làm thủ tục hoàn thuế. Vì thế
có nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện được hoàn thuế nhưng không đề nghị xin hoàn mà để
trừ dần số thuế phát sinh dương làm cho số thu ngân sách địa phương giảm đi.
- Các quy định về chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu qua Campuchia chưa được
ngành ngân hàng hướng dẫn rõ ràng nên ảnh hưởng đến việc hoàn thuế GTGT hàng xuất
khẩu qua Campuchia, kéo dài thời gian hoàn thuế cho doanh nghiệp. Đặc biệt là xuất khẩu
qua Campuchia bằng đường tiểu ngạch, thói quen thường là nhận tiền thanh toán là tiền mặt,
đã gây khó khăn cho cán bộ ngành thuế trong việc giải quyết hoàn thuế.
- Còn gặp nhiều khó khăn về địa điểm in hóa đơn tự in cho các doanh nghiệp của
tỉnh, chi phí in ấn khá cao điều này cũng làm trở ngại trong việc khuyến khích các doanh
nghiệp sử dụng hóa đơn tự in.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến Pháp luật, giáo dục và hướng dẫn đối tượng nộp
thuế chưa đạt hiệu quả cao, hình thức chưa phong phú. Việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý thuế vẫn còn ở mức độ thấp.
- Chưa có một tờ báo viết riêng về thuế nhằm hướng dẫn, trả lời những vướng mắc
của đối tượng nộp thuế trong tỉnh và những đối tượng có quan tâm. Phân tích những tác
động của thuế, sự cần thiết của thuế đối với địa phương cũng như trong cả nước. Dư luận
rộng rãi chưa lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận về thuế.
- Người tiêu dùng chưa có thói quen lấy hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ, điều
này làm trở ngại trong công tác quản lý doanh số bán của các đơn vị, gây khó khăn cho cán
bộ thuế trong việc xác minh hồ sơ hoàn thuế.
- Các CSKD chưa có thói quen thanh toán qua ngân hàng đã gây nhiều khó khăn cho
cơ quan Thuế trong việc xác minh chi phí, doanh thu, thuế đầu ra, thuế đầu vào tạo kẻ hở
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 58
cho các đối tượng nộp thuế gian lận trong ghi chép các số liệu trên hóa đơn chứng từ, sổ
sách kế toán…
3. Một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế đang tồn tại:
3.1. Tăng cường cung cấp dịch vụ cho các đối tượng nộp thuế:
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong kinh doanh, đồng thời Việt Nam đã mở cửa hội
nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Với cơ chế tự kê khai thuế, tự tính thuế và tự nộp thuế
vào Kho bạc Nhà nước, đây là một điểm mới hết sức linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của
nền kinh tế trong nước và bắt kịp xu thế chung của thế giới.
Việc chuyển sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính thuế phải gắn liền với
việc thực hiện cung cấp dịch vụ cho đối tượng nộp thuế nhằm hỗ trợ và giúp họ hiểu và thực
hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế của mình, cụ thể là:
+ Giúp các đối tượng nộp thuế nắm vững chính sách, quy trình, thủ tục thu nộp thuế,
trên cơ sở đó thực hiện đúng, đủ, kịp thời vào NSNN.
+ Tạo điều kiện để đối tượng nộp thuế thực hiện tự khai, tự tính, tự nộp thuế, giảm
dần những sai phạm mà đối tượng nộp thuế thường mắc phải.
+ Lập mối quan hệ thân thiện, thường xuyên giữa cơ quan Thuế với các đối tượng
nộp thuế, giúp họ thuận lợi khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Vì vậy cần đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế tại Cục thuế và các Chi
cục thuế huyện, thị, thành. Giải đáp thắc mắc của các đối tượng nộp thuế có thể là ở tại các
phòng, bộ phận hỗ trợ và tuyên truyền trực tiếp tại các trụ sở thuế hoặc qua điện thoại, fax,
mạng máy tính…
* Cung cấp dịch vụ thuế gồm nhiều nội dung như:
+ Hướng dẫn, giải thích về luật thuế, giúp các đối tượng nộp thuế cập nhật nhanh
những thay đổi bổ sung trong luật để thực hiện cho đúng.
+ Hướng dẫn về cách tính thuế, kê khai thuế, nộp thuế.
+ Giải đáp những thắc mắc của đối tượng nộp thuế xung quanh việc thực hiện Luật
thuế như: cách sử dụng hóa đơn chứng từ, cách ghi chép số sách kế toán liên quan đến hạch
toán các nghiệp vụ về thuế phát sinh...
+ Cung cấp những thông tin liên quan như: những doanh nghiệp không có thật,
những doanh nghiệp ngừng hoạt động, các hóa đơn không còn giá trị lưu hành…
+ Và cung cấp các dịch vụ tư vấn khác về thuế và liên quan đến thuế.
Có thể thấy nếu quy định của Luật thuế quá phức tạp hoặc thay đổi thường xuyên thì
khối lượng công việc sẽ rất lớn, điều này sẽ chiếm một khối lượng lớn về thời gian và nhân
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 59
lực của cơ quan Thuế. Vì vậy để giảm bớt gánh nặng này cần phối hợp giữa Nhà nước và tư
nhân, nên khuyến khích loại hình kinh doanh mới là làm dịch vụ tư vấn pháp luật về thuế và
các vấn đề có liên quan được phép thực hiện. Khi đó cơ quan Thuế tập trung vào biên soạn
các tài liệu giải thích, hướng dẫn về nghĩa vụ nộp thuế một cách chi tiết và cụ thể, đồng thời
tổng kết những vướng mắc của đối tượng nộp thuế, định hướng các nội dung cần hỗ trợ cho
đối tượng nộp thuế.
3.2. Đảm bảo công tác giải quyết hoàn thuế đúng quy trình nghiệp vụ:
Nhìn chung công tác giải quyết hoàn thuế tại Cục thuế tỉnh khá tốt, thực hiện đúng
theo quy trình nghiệp vụ, nhưng thời gian giải quyết còn kéo dài, chưa đáp ứng kịp thời cho
các đối tượng hoàn thuế. Hiện tại còn một số trường hợp đặt biệt chờ văn bản trả lời của
Tổng Cục Thuế và Bộ Tài chính như hiện nay còn tồn đọng 10 hồ sơ hoàn thuế với số thuế
GTGT đề nghị hoàn là 6.145 triệu đồng do hàng hóa xuất qua Campuchia có phương thức
thanh toán bằng tiền mặt và đề nghị hoàn trước thời điểm có quy định hàng xuất khẩu phải
thanh toán qua ngân hàng; và một số trường hợp cần thanh tra nhưng có phạm vi ảnh hưởng
rộng cần thời gian thanh tra dài.
Bộ phận Quản lý doanh nghiệp hoặc bộ phận Tổng hợp và dự toán của Cục thuế cần
thực hiện và hướng dẫn chi tiết cho cán bộ thuế tại Chi cục thuế về quy trình giải quyết hoàn
thuế nhằm giúp cán bộ tại Chi cục thuế thực hiện đúng, đầy đủ và nhanh chóng đảm bảo
thời gian theo quy định.
Theo Luật thuế GTGT sửa đổi, bổ sung thì quy định về bộ hồ sơ hoàn thuế đã hoàn
thiện hơn so với trước, nó đảm bảo hơn trong việc chống gian lận trong hoàn thuế, khắc
phục được nhiều thiếu sót trước đó. Vì vậy các cán bộ xử lý hồ sơ hoàn thuế cần phải kiểm
tra hồ sơ đầy đủ không nên bỏ sót, góp phần tích cực trong công tác chống gian lận trong
hoàn thuế.
3.3. Tăng cường công tác quản lý hóa đơn:
Tăng cường công tác quản lý hóa đơn nhằm giảm thiểu các sai phạm, gian lận về hóa
đơn như:
+ Về việc bán hóa đơn: cơ quan Thuế có thể tổ chức việc đóng dấu mã số thuế trước
khi bán hóa đơn cho từng đối tượng nộp thuế đối với các đối tượng thường xuyên sử dụng
hóa đơn với số lượng nhiều; đối với các đối tượng nộp thuế sử dụng ít, không thường xuyên,
sử dụng hóa đơn lẻ thì phải tự đóng dấu hoặc ghi mã số thuế tại nơi mua hóa đơn.
+ Việc hướng dẫn đối tượng nộp thuế cách sử dụng hóa đơn phải tận tình, phải rõ
ràng để tránh nhiều trường hợp các đối tượng ghi chép có những sai sót không đáng có làm
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 60
ảnh hưởng đến kết quả báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn, ảnh hưởng đến kết quả kê khai
thuế, gây phiền phức cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan Thuế.
+ Thực hiện tốt công tác lưu sổ theo dõi các đối tượng sử dụng hóa đơn. Tổ chức
thường xuyên việc xác minh hóa đơn. Có biện pháp thích hợp để việc xác minh hóa đơn
trong thời gian nhanh nhất, như là thêm vào luật thuế GTGT quy định rằng mọi CSKD đều
có trách nhiệm nhận xác minh hóa đơn cho cơ quan Thuế trong thời gian từ 1 đến 5 ngày.
Có như vậy công tác giải quyết hồ sơ hoàn thuế sẽ nhanh chóng hơn cho các đối tượng hoàn
thuế, đồng thời các công việc khác cũng sẽ được giải quyết nhanh hơn như công tác chống
thất thu…
+ Tăng cường công tác quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ qua đó phát hiện và
chống các trường hợp sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn chứng từ mà hàng hóa đó không phục
vụ cho việc sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Thường xuyên xác minh hóa đơn, trên cơ sở xác minh được lập kế hoạch kiểm tra,
thanh tra hóa đơn tại các CSKD một cách khoa học nhằm phát hiện nhanh chóng, kịp thời
các hành vi vi phạm và xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm. Đồng thời việc thường xuyên
xác minh hóa đơn hàng tháng, nhất là đối với các đơn vị thường xuyên có hàng xuất khẩu
trước khi họ xin hoàn thuế, đến khi các đối tượng này xin hoàn thuế công việc sẽ nhanh
chóng và nhẹ nhàng hơn, đảm bảo giải quyết kịp thời cho các đối tượng hoàn thuế, đảm bảo
cho các đối tượng này xoay vòng vốn một cách kịp thời, không gây khó khăn và gián đoạn
trong sản xuất. Từ đó nâng cao uy tín của cơ sở sản xuất, kinh doanh, giúp CSKD ngày một
phát triển hơn.
+ Áp dụng công nghệ tin học trong khâu xác minh hóa đơn.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các CSKD sử dụng hóa đơn tự in,
như: hướng dẫn rõ ràng cách lập hồ sơ xin sử dụng hóa đơn tự in, nêu rõ ưu điểm của việc
sử dụng hóa đơn tự in, giải quyết nhanh chóng các hồ sơ xin được sử dụng hóa đơn tự in.
+ Hiện nay chi phí in hóa đơn còn khá cao, phải in với số lượng nhiều mới có thể
giảm được chi phí. Đồng thời ở An Giang lại chưa có cơ sở được phép in hóa đơn, cơ sở in
hóa đơn gần nhất là tại thành phố Hồ Chí Minh, điều này gây không ít khó khăn cho các
CSKD trong việc in hóa đơn như tốn nhiều thời gian và chi phí cho việc đi lại.
Vì vậy để khuyến khích được các CSKD sử dụng hóa đơn tự in ngày càng nhiều ở
An Giang nên có cơ sở in đủ điều kiện in hóa đơn để giảm bớt chi phí in hóa đơn cho các
CSKD sử dụng hóa đơn tự in bằng cách thành lập cơ sở in mới đủ điều kiện được phép in
hóa đơn, hoặc đưa các điều kiện để một cơ sở in hiện có của tỉnh thực hiện đúng, nhằm mục
đích để cơ sở in đó được phép in hóa đơn cho các cơ sở muốn sử dụng hóa tự in, ví dụ như
công ty cổ phần in An Giang.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 61
3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra:
Tập trung lực lượng đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra nhằm ngăn chặn các gian
lận về khấu trừ và hoàn thuế, đảm bảo NSNN không bị thất thoát, đảm bảo công bằng và tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh:
+ Đảm bảo kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác kiểm tra, thanh tra thuế nói chung
và kiểm tra thanh tra về hoàn thuế nói riêng. Cán bộ làm công tác kiểm tra, thanh tra thuế
phải được đào tạo và đào tạo lại thường xuyên để đáp ứng kịp thời với những yêu cầu mới,
đối phó lại những hành vi gian lận ngày càng tinh vi hơn, nghiêm trọng hơn.
+ Triển khai kiểm tra ngay khi có quyết định hoàn thuế, tập trung vào xử lý kịp thời
nghiêm minh các trường hợp vi phạm, thu hồi đến mức cao nhất các khoản tiền hoàn thuế bị
gian lận. Phát hiện, ngăn chặn và đẩy lùi kịp thời tình trạng lập doanh nghiệp không nhằm
mục đích sản xuất, kinh doanh mà mua, bán hóa đơn bất hợp pháp, tiếp tay cho các tổ chức
cá nhân rút tiền NSNN dưới nhiều hình thức.
+ Đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra nội bộ ngành, chú trọng đến việc chấp hành kỷ
cương, kỷ luật của cán bộ thuế trong toàn ngành. Quan tâm nhiều đến đạo đức của cán bộ
thuế, xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp tham nhũng, lấy tiền thuế làm của riêng,
gây nhũng nhiễu, phiền hà cho các đối tượng nộp thuế mỗi lần kiểm tra, thanh tra làm mất
lòng tin của nhân dân, gây nhiều dư luận xấu, làm cho tâm lý chung của các CSKD là sợ bị
kiểm tra, thanh tra.
+ Công tác kiểm tra, thanh tra phải được xây dựng từ đầu năm, có như vậy mới tránh
được tình trạng bị động trong công tác kiểm tra, thanh tra.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra ngay từ bây giờ và thực hiện đều đặn,
thường xuyên công việc sẽ không bị ứ đọng. Được như vậy công tác kiểm tra, thanh tra sau
này sẽ nhẹ nhàng và dễ dàng hơn. Kiểm soát, ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận.
+ Công việc kiểm tra với tinh thần hợp tác giữa cán bộ thuế và các đối tượng nộp
thuế, để các đối tượng nộp thuế hiểu rằng đây là một thủ tục thông thường không gây khó
khăn trong kinh doanh và ảnh hưởng đến uy tín của mình trên thương trường.
+ Một số doanh nghiệp bị âm thuế liên tục trong 3 tháng nhưng vẫn không yêu cầu
hoàn thuế cũng cần phải thực hiện kiểm tra như hoàn thuế để phát hiện sớm những hành vi
gian lận nếu có. Đồng thời khuyến khích các cơ sở này xin hoàn thuế nhằm đảm bảo nguồn
thu cho ngân sách địa phương.
+ Công việc kiểm tra, thanh tra không chỉ dừng lại ở khâu hóa đơn chứng từ, ghi
chép sổ sách kế toán mà cần phải kiểm tra sự hiện hữu thực tế của hàng hóa, nguồn gốc,
xuất xứ của hàng hóa, chủ sở hữu thực của hàng hóa, có như vậy mới đảm bảo kiểm soát
được và giảm thiểu các hành vi gian lận của CSKD.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 62
3.5. Thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong ngành thuế; các ngành
chức năng có liên quan với nhau:
Cần phải phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong cơ quan Thuế, giữa Cục thuế và
các Chi cục thuế, nhất là 3 bộ phận: Quản lý, Thanh tra và Ấn chỉ nhằm liên kết được các
thông tin có liên quan về đối tượng nộp thuế lại với nhau để tránh được nhiều thiếu sót
không cần thiết, giảm thiểu được công việc mà hiệu quả lại cao. Các bộ phận này cần phân
công trách nhiệm và công việc rõ ràng, sau đó nối kết các thông tin cần thiết lại với nhau,
như thế sẽ đảm bảo công việc quản lý và giám sát được chặt chẽ hạn chế được nhiều trường
hợp gian lận.
Để đảm bảo hạn chế tối đa các gian lận, nhất là gian lận về khấu trừ thuế và hoàn
thuế GTGT thì cơ quan Thuế cần phải phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng khác có
liên quan như là cơ quan Thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Thuế của tỉnh bạn và
Ban quản lý thị trường, cơ quan Hải quan, Cảnh sát kinh tế, Thanh tra Nhà nước, ngành Địa
chính, Xây dựng… kiên quyết chống trốn lậu thuế, chống gian lận thương mại, chống tình
trạng thành lập các doanh nghiệp không nhằm mục đích kinh doanh mà nhằm mua bán hóa
đơn bất hợp pháp, chống tình trạng xuất khẩu khống nhất là ở các cửa khẩu xuất sang
Campuchia, đưa các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào nề nếp, kỷ cương, đúng Pháp luật
và góp phần làm lành mạnh nền kinh tế.
3.6. Tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục về thuế:
Tình trạng trốn, lậu thuế còn khá phổ biến vừa làm thất thu cho NSNN, vừa không
đảm bảo công bằng xã hội và đưa quản lý thuế vào nề nếp. Nguyên nhân trước hết là do
người nộp thuế chưa hiểu sâu sắc về nghĩa vụ nộp thuế và đặc biệt là chưa hiểu được quyền
thụ hưởng lợi ích từ khoản tiền thuế mà mình đóng góp; chưa hiểu rõ về nội dung, chính
sách và nghiệp vụ tính thuế, kê khai và nộp thuế; chưa nhận thức đúng trách nhiệm pháp
luật về nghĩa vụ phải kê khai nộp thuế của mình. Do đó tính tuân thủ tự nguyện chưa cao. Vì
vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao trình độ hiểu biết
của nhân dân về thuế.
Nhằm mục đích tăng sự hiểu biết của nhân dân về thuế, về tầm quan trọng của những
khoản đóng góp từ thuế, nâng cao sự hiểu biết, tính tự giác của các đối tượng nộp thuế về
nghĩa vụ nộp thuế của mình từ đó làm giảm đi những hành vi gian lận trốn thuế, một số biện
pháp trước mắt và lâu dài như sau:
+ Bên cạnh dịch vụ hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nộp thuế, các bài viết về thuế đăng
trên báo An Giang, chuyên mục về thuế phát sóng trên đài phát thanh địa phương và truyền
hình của tỉnh vào mỗi tối thứ tư hàng tuần, cần phải phát hành một tờ báo chuyên về thuế
với nội dung hấp dẫn, mang tính thời sự như:
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 63
Tuyên truyền về nghĩa vụ nộp thuế; tầm quan trọng của việc lấy hóa đơn khi mua
hàng hóa; khuyến khích các CSKD và người dân có điều kiện hạn chế việc sử dụng tiền mặt.
Bàn luận, phân tích, hướng dẫn thực hiện những nội dung của luật thuế, cập nhật
những nghị định, thông tư mới để hướng dẫn cho các đối tượng nộp thuế biết và thực hiện
được dễ dàng hơn.
Có phần giải đáp thắc mắc cho đối tượng nộp thuế và những người dân có quan
tâm; có phần trao đổi, nghiên cứu của nhân dân, các nhà nghiên cứu.
Lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận về thuế, đồng thời khen thưởng,
tuyên dương các CSKD hoạt động hiệu quả, thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ về thuế, có
đóng góp nhiều cho nguồn thu NSNN.
Công khai các khoản chi tiêu phục vụ lợi ích công cộng để nhân dân được biết,
được như vậy sẽ nâng cao trình độ hiểu biết của người dân, họ sẽ nhận thức được tầm quan
trọng của thuế, ý thức được nghĩa vụ nộp thuế của mình và những quyền lợi mà mình được
hưởng.
3.7. Một số giải pháp khác:
- Tuy thuế suất thuế GTGT đã giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức thuế suất
nhưng vẫn còn gây khó khăn phức tạp trong vấn đề xác định chính xác số thuế được hoàn,
tạo kẻ hở cho một số đối tượng gian lận nhằm chiếm đoạt tiền của NSNN. Vì vậy, trong thời
gian tới cần giảm mức thuế suất xuống còn 2 mức thuế suất thống nhất: 10% cho hàng hóa
tiêu thụ nội địa và 0% cho hàng hóa xuất khẩu, có như vậy công việc xác định số thuế được
khấu trừ sẽ được dễ dàng hơn và đảm bảo được tính thống nhất, công bằng của sắc thuế.
- Khuyến khích các CSKD, nhất là các CSKD hiện đang nộp thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp trên GTGT và trực tiếp trên doanh thu thực hiện ghi chép sổ sách kế
toán và sử dụng hóa đơn chứng từ theo đúng quy định hiện hành. Tạo cho các cơ sở này đủ
điều kiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và đủ điều kiện để được hoàn thuế khi
xuất khẩu hoặc mua sắm tài sản cố định… Đồng thời khuyến khích các loại hình kinh doanh
dịch vụ kế toán phát triển bên cạnh các dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế.
- Phải xử lý nghiêm minh và phạt thật nặng đối với các trường hợp vi phạm. Các vụ
vi phạm nghiêm trọng về thuế nên để cơ quan Thuế cùng phối hợp với các cơ quan Pháp
luật điều tra, vì cơ quan Thuế có kinh nghiệm hơn cơ quan Pháp luật về các hành vi vi phạm
về thuế, đồng thời các cơ quan Pháp luật phải nhanh chóng đưa các đối tượng vi phạm ra
khởi tố, xét xử.
- Bên cạnh việc xử lý nghiêm minh các đối tượng gian lận về thuế cũng cần phải có
chính sách khen thưởng, tuyên dương kịp thời các đối tượng chấp hành tốt, hoạt động sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả, đóng góp cho ngân sách ngày càng nhiều.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trang 64
- Cần chăm lo hơn đến mức sống của cán bộ ngành thuế, nhiệm vụ càng nặng nề thì
quyền lợi được hưởng cũng tương xứng, có như vậy mới đảm bảo ngăn chặn các hành vi
gian lận, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân. Phải khen thưởng, tuyên dương kịp thời các cán
bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đồng thời phải xử lý thật nghiêm khắc các hành vi tiêu
cực, tham nhũng, không làm tròn trách nhiệm… đủ sức răn đe cán bộ ngành.
4. Kiến nghị:
Nhằm hoàn thiện hơn quy trình hoàn thuế và công tác quản lý hoàn thuế, nhằm nâng
cao tính tự giác của người dân đối với nghĩa vụ nộp thuế của mình và giảm các trường hợp
gian lận trong kê khai khấu trừ thuế GTGT, các ngành, các cơ quan chức năng cần phải có
những biện pháp sau:
Giảm số lượng mức thuế suất từ 3 mức (0%, 5%, 10%) xuống còn 2 mức (0% và
10%) nhằm đơn giản hóa việc tính toán cho đối tượng nộp thuế và cơ quan Thuế.
Nên quy định thủ tục đăng ký sử dụng hóa đơn tự in đơn giản hơn. Tạo điều kiện cho
An Giang thành lập các cơ sở được phép in hóa đơn. Các cơ sở được phép chọn lựa nhà máy
in cho mình mà không phải theo chỉ định của Tổng Cục thuế.
Nâng mức xử phạt vi phạm về thuế.
Đầu tư sách, báo, tạp chí thuế cho các thư viện.
Rút ngắn thời gian giải quyết hoàn thuế cho các đối tượng được hoàn thuế trước,
kiểm tra sau.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
PHẦN KẾT LUẬN
Sau 5 năm thực hiện Luật thuế GTGT nói chung và cơ chế hoàn thuế GTGT nói riêng
đã mang lại những kết quả bước đầu, đồng thời công tác quản lý của cán bộ ngành đã đi vào
nề nếp và có nhiều kinh nghiệm trong quá trình quản lý. Số thu thuế GTGT ngày càng tăng
lên, công tác giải quyết hoàn thuế được thực hiện ngày càng chặt chẽ hơn, giảm thiểu được
các vụ việc gian lận trong hoàn thuế, đảm bảo được sự công bằng xã hội.
Cơ chế hoàn thuế đã góp phần thiết thực vào việc sắp xếp lại chiến lược kinh doanh,
thúc đẩy hạch toán kế toán, sử dụng chế độ hóa đơn chứng từ trong quá trình kinh doanh,
thúc đẩy các cơ sở mở rộng đầu tư, khuyến khích xuất khẩu… từ đó đã mang lại những hiệu
quả đáng tự hào.
Tuy những năm gần đây tỉnh An giang gặp không ít khó khăn do thiên tai liên tiếp,
tình hình tiêu thụ nông, thủy sản không ổn định, gần đây ảnh hưởng nhiều nhất là vụ kiện
bán phá giá cá tra, cá ba sa của Mỹ đã ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu của
tỉnh. Nhưng tốc độ tăng trưởng và kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đều tăng cao.
Để đạt được những kết quả như vậy là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Tỉnh ủy, sự điều
hành của UBND tỉnh, sự năng động của các doanh nghiệp, các chính sách ưu đãi đầu tư,
cộng với cơ chế thông thoáng của Luật doanh nghiệp, cách tính thuế hợp lý đã khuyến khích
được người dân mạnh dạn bỏ vốn ra làm ăn, mở rộng đầu tư và hoạt động kinh doanh có
hiệu quả.
Tuy trong thời gian đầu mới áp dụng Luật thuế GTGT, kết quả của công tác quản lý
hoàn thuế cho chúng ta thấy còn nhiều thiếu sót kể cả trong chính sách lẫn trong công tác
quản lý thuế. Điều này đã gây nhiều tổn thất cho xã hội, chưa đảm bảo được tính công bằng
của thuế. Mặt khác, còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội như cho khấu trừ theo tỷ lệ % đối
với giá trị thu mua hàng nông, lâm, thủy sản đã làm hạn chế tính trung lập của thuế. Những
điều này dễ dẫn đến phát sinh tiêu cực và làm phức tạp công tác quản lý thuế.
Tuy nhiên chính sách thuế luôn được bổ sung, sửa đổi nhằm khắc phục kịp thời, lấp
đầy các lỗ hỏng phát sinh tiêu cực. Đồng thời phải đảm bảo cho mục tiêu quan trọng nhất là
khuyến khích sản xuất phát triển, tạo công ăn việc làm ổn định, nâng dần mức sống của
người dân kể cả vật chất lẫn tinh thần. Quan tâm đúng mức đến năng lực quản lý, năng lực
chuyên môn và phẩm chất đạo đức của cán bộ ngành, đảm bảo bắt kịp sự thay đổi của nền
kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập, nhằm xây dựng hệ thống quản lý thuế ngày một
hiệu quả và khoa học phù hợp với xu thế chung của thời đại.
GVHD: Th.S Nguyễn Duy Nhứt SVTH: Huỳnh Hà Thái Dương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MOT SO GIAI PHAP NHAM HOAN THIEN QUY TRINH HOAN THUE GTGT TAI CUC THUE TINH AN GIANG.PDF