Luận văn Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Nhật Bản của công ty cổ phần May 10

Trong thời gian qua, Công ty cổ phần May 10 đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng cũng như thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường khác. Kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này tăng đều từ năm 2003 – 2007, trung bình 7 – 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Đây là một trong những thị trường nhập khẩu chính hàng may mặc của công ty. Tuy nhiên đây cũng là thị trường có nhiều thách thức đối với công ty, một trong những thị trường có những đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm. Do đó, trong thời gian tới, công ty cần chú trọng hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường Nhật Bản cũng như các thị trường xuất khẩu khác của công ty. Đồng thời, công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã sản phẩm, dần dần tạo sự chủ động trong khâu thu mua nguyên phụ liệu đầu vào, nâng cao trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công nhân viên trong công ty nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận cho công ty. Xuất khẩu là một chiến lược quan trọng của nước ta trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, không chỉ May 10 mà các doanh nghiệp khác trong nước nên có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trên thị trường trong và ngoài nước. Nhất là những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Có như thế mới đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1823 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Nhật Bản của công ty cổ phần May 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h xuất khẩu của mặt hàng này chỉ chiếm 10,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty sang thị trường Nhật. Nhưng đến năm 2006, con số này là 13,6%. Điểm đáng chú ý là mức tăng tuyệt đối của năm 2006 so với năm 2005 là 132.000 USD (48,7%). Ngoài các mặt hàng chính, công ty còn xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản một số mặt hàng khác như quần âu nam nữ, váy, các bộ đồ ngủ, đồ bộ thể thao… Công ty tiếp tục thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng Nhật Bản. 3. Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Nhật đã áp dụng Để thúc đẩy xuất khẩu, trong thời gian qua công ty đã áp dụng những biện pháp chủ yếu sau: · Quản lý tốt chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là vấn đề quan tâm hàng đầu của công ty khi xuất khẩu hàng may mặc của mình sang thị trường Nhật Bản. Các khách hàng Nhật Bản có yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm. Nếu không đáp ứng được yêu cầu của họ thì hàng của công ty sẽ bị trả lại, dẫn đến công ty sẽ phải chịu những tổn thất lớn. Vì thế, công ty luôn phấn đấu đảm bảo chất lượng sản phẩm khi xuất vào thị trường này. Hiện công ty xây dựng đồng bộ 3 hệ thống quản lý chất lượng: ISO 9000, SA 8000, ISO 14000 trên toàn công ty ở 13 xí nghiệp tại các tỉnh thành phố và các phòng ban, đơn vị trong công ty với yêu cầu cao nhất: xây dựng khả thi và áp dụng nghiêm túc, không hợp thức và không có bộ phận nào nằm ngoài hệ thống với 1 sổ tay, 21 quy trình và 257 biểu mẫu. Nhờ đó, chất lượng sản phẩm của công ty luôn là mục tiêu hàng đầu mà mỗi cán bộ, công nhân trong công ty phấn đấu đạt được. Ở những xí nghiệp được giao nhiệm vụ sản xuất hàng để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản (xí nghiệp 1, xí nghiệp Veston 2, xí nghiệp Veston3) thì chất lượng sản phẩm lại càng được quan tâm, chú ý hơn. Tại các xí nghiệp này, vai trò của nhân viên QA rất quan trọng. Vì thế, việc tuyển chọn nhân viên QA rất được quan tâm, được lựa chọn kỹ càng và được tham gia các khoá đào tạo nâng cao nghiệp vụ. Nhân viên QA của các xí nghiệp này đều là những người có chuyên môn nghiệp vụ cao, có tay nghề bậc 7 – 8, được trang bị những thiết bị kiểm tra hiện đại. Các nhân viên này ý thức được vai trò quan trọng của mình trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm nên họ làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao. Bên cạnh nhân viên QA thì đội ngũ công nhân là người có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Công ty thực hiện khẩu hiệu “Chất lượng sản phẩm là sự sống còn của doanh nghiệp”, phấn đấu sản xuất được những sản phẩm có chất lượng tốt nhất phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Hàng năm, công ty đều tổ chức thi đua giữa các xí nghiệp về việc thực hiện đảm bảo chất lượng sản phẩm. Điều này tạo ra một không khí làm việc có hiệu quả hơn cho cán bộ, công nhân viên trong công ty. Nhờ đó, năng suất lao động tăng lên, giảm được những chi phí không cần thiết mà lại đảm bảo được chất lượng sản phẩm. Năm 2007, là năm chất lượng sản phẩm của công ty được tập trung mọi nguồn lực cao nhất để củng cố, phấn đấu đem đến cho người tiêu dùng sản phẩm có chất lượng cao nhất. Trong năm 2007 vừa qua, Xí nghiệp 5, xí nghiệp Veston 2, xí nghiệp May Thái Hà là những đơn vị dẫn đầu về chất lượng sản phẩm; Xí nghiệp 1, xí nghiệp 2, xí nghiệp Veston 1 liên tục có những cải tiến về chất lượng sản phẩm; các đơn vị khác trong công ty đều tự xây dựng, bổ sung lao động để công tác quản lý chất lượng sản phẩm của đơn vị mình ngày càng tốt hơn. Tại các xí nghiệp đều có các chính sách khen thưởng đối với những tổ, những cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đây là động lực để cán bộ, công nhân viên trong công ty làm việc hăng say, nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm. · Tích cực xây dựng và quảng bá thương hiệu của công ty, tham gia các hội chợ triển lãm Quảng bá thương hiệu là vấn đề mà hiện nay tất cả các doanh nghiệp đều đặc biệt chú ý để đạt được thành công trong kinh doanh. Công ty đã đầu tư một nguồn kinh phí đáng kể để thực hiện hoạt động quảng bá thương hiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, báo, tạp chí…), tham gia các hoạt động thời trang trong và ngoài nước, tham gia các chương trình tài trợ… Công ty đã thực hiện quảng bá thương hiệu của mình ra nước ngoài thông qua Website của công ty và thông qua các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Qua việc tham gia các hội chợ triển lãm do Hiệp hội Dệt may tổ chức công ty giới thiệu đến các đối tác và người tiêu dùng những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng đảm bảo của công ty. Những doanh nghiệp và người tiêu dùng tham gia hội chợ sẽ biết đến sản phẩm, thương hiệu cũng như uy tín của công ty. Những khách hàng có nhu cầu sẽ tiến hành ký hợp đồng mua bán ngay tại hội chợ với công ty. Các doanh nghiệp, người tiêu dùng nước ngoài tham quan hội chợ khác tuy không có nhu cầu mua bán sản phẩm của công ty nhưng đã biết đến thương hiệu của công ty. Họ sẽ giới thiệu cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng ở nước mình về sản phẩm, hình ảnh của công ty. Các doanh nghiệp này nếu có nhu cầu về sản phẩm của công ty thì sẽ liên hệ trực tiếp với công ty, từ đó có quyết định làm ăn với công ty hay không. Công ty cũng tham gia một số hội chợ triển lãm quốc tế ở nước ngoài nhằm giới thiệu với các doanh nghiệp, người tiêu dùng nước ngoài về sản phẩm của công ty. IV. Một số kết luận rút ra qua nghiên cứu 1. Ưu điểm + Kim ngạch xuất khẩu của công ty nhìn chung tăng qua các năm. Giai đoạn 2003 – 2006 kim ngạch xuất khẩu của công ty bình quân tăng 15 – 20%. + Thị trường xuất khẩu chính của công ty là Mỹ, EU và Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu của công ty vào các thị trường này luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty và nhìn chung có xu hướng tăng đều qua các năm. Mặc dù tỉ trọng các thị trường có thay đổi qua các năm nhưng tỷ lệ % thay đổi không đáng kể, chứng tỏ sự tin tưởng của các đối tác ở các thị trường đối với sản phẩm của công ty, công ty đã duy trì được mối quan hệ làm ăn tốt đẹp với các đối tác của mình. + Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của công ty. Thị trường này có những đặc điểm riêng biệt so với các thị trường khác, nhất là yêu cầu rất cao về chất lượng hàng hoá. Nhưng kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này vẫn tăng đều qua các năm. Điều này chứng tỏ sản phẩm của công ty đang được thị trường này chấp nhận về chất lượng. Nó cũng chứng tỏ sự nỗ lực, phấn đấu thực hiện mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường Nhật của toàn cán bộ, công nhân viên trong công ty trong thời gian qua. + Tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản của công ty trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng. Công ty đã áp dụng những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu vào Nhật và bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan. Trong thời gian tới, công ty sẽ duy trì việc thực hiện các biện pháp này, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, đề xuất những biện pháp khác nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này. + Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản của công ty ngày càng phong phú, đa dạng. Các mặt hàng này không chỉ gia tăng về số lượng mà chất lượng được đảm bảo và ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu của những khách hàng Nhật Bản khó tính. Kim ngạch xuất khẩu của những mặt hàng như Veston, áo khoác, Comple ngày càng gia tăng, cho thấy khách hàng Nhật đang ngày càng ưa chuộng những sản phẩm này của công ty. Công ty đặc biệt chú trọng tới mẫu mã, chất lượng sản phẩm của các mặt hàng này khi xuất khẩu vào thị trường Nhật nhằm đáp ứng yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Nhật. + Công ty ngày càng quan tâm hơn đến công tác nghiên cứu thị trường Nhật Bản do nhận thức được đây là một thị trường đầy hứa hẹn. Mặt khác, công ty cũng đã có sự chuẩn bị, đầu tư trong vấn đề giao dịch, đàm phán với các khách hàng Nhật. Do đó, trong thời gian qua công ty đã tìm được những bạn hàng, ký được những hợp đồng có giá trị với các đối tác Nhật, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này. 2. Những hạn chế cần khắc phục + Kim ngạch xuất khẩu của công ty còn chưa tương xứng với tiềm năng của công ty cũng như chưa tương xứng so với nhu cầu của thế giới. Hàng năm, công ty chỉ xuất khẩu khoảng trên 26 triệu USD tính theo hợp đồng. Đây là một con số rất nhỏ so với nhu cầu của thị trường thế giới cũng như tiềm năng sản xuất của công ty. + Nhật Bản là một thị trường có sức tiêu thụ lớn của thế giới. Nhưng kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này còn chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của công ty (chỉ chiếm từ 7 – 11%) + Hình thức xuất khẩu của công ty sang thị trường Nhật cũng như sang các thị trường khác chủ yếu là hình thức gia công và xuất khẩu trực tiếp thông qua việc thực hiện các đơn đặt hàng. Vì thế còn chịu sự phụ thuộc trong khâu thu mua nguyên phụ liệu từ các nhà cung cấp nước ngoài, lợi nhuận thu được từ việc xuất khẩu chưa cao, sản phẩm của công ty ít được biết đến với thương hiệu riêng của mình mà chủ yếu được biết đến dưới thương hiệu của một doanh nghiệp khác ở nước ngoài. + Biện pháp hiệu quả nhất để người tiêu dùng Nhật biết đến sản phẩm của công ty là tham gia các hội chợ triển lãm. Tuy nhiên, số lượng các hội chợ mà công ty tham gia còn hạn chế do những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Công ty chủ yếu tham gia các hội chợ triển lãm do Hiệp hội dệt may tổ chức ở trong nước. Số lượng các hội chợ quốc tế mà công ty tham gia còn rất ít, nhất là các hội chợ triển lãm được tổ chức tại Nhật Bản. Điều này làm hạn chế cơ hội được người tiêu dùng Nhật biết đến sản phẩm của công ty. + Công tác giao dịch đàm phán với các đối tác Nhật Bản đặc biệt quan trọng trong vấn đề duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài. Mặc dù có sự đầu tư, chuẩn bị nhưng trong thời gian qua, công ty đã để mất một số hợp đồng với các đối tác Nhật Bản (do chuẩn bị chưa thực sự thích đáng, còn chủ quan). Công ty còn thụ động trong việc chờ đợi các đơn hàng. Thay vị phải chờ đợi sự đặt hàng từ các đối tác, công ty cần chủ động, tích cực thực hiện các hoạt động chào hàng. + Kimono là trang phục truyền thống của Nhật Bản. Nhiều công ty xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Nhật trong thời gian qua đang thực hiện chiến lược thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng này vào Nhật. Đây là một hướng đi mới trong tương lai mà công ty có thể thực hiện để đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. 3. Nguyên nhân của những tồn tại trên + Chất lượng sản phẩm còn chưa cao, mẫu mã chưa phong phú, đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. + Công ty còn hạn chế về khả năng tài chính, dây chuyền sản xuất của công ty ở một số xí nghiệp cong chưa hiện đại, chưa có khả năng đổi mới công nghệ. + Trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn của cán bộ, công nhân viên còn hạn chế, năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo còn thấp nên năng suất lao động chưa cao. + Công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường Nhật và các thị trường khác thực hiện chưa thực sự có hiệu quả. Hệ thống thông tin về thị trường Nhật Bản chưa được cập nhật đầy đủ, kịp thời. + Số lượng hội chợ triển lãm mà công ty tham gia còn ít, nhất là số lượng các hội chợ triển lãm quốc tế tổ chức tại nước ngoài. Một mặt do thông tin của công ty về các hội chợ triển lãm cả trong và ngoài nước chưa được cập nhật kịp thời. Mặt khác, kinh phí để tham gia các hội chợ triển lãm (đặc biệt là hội chợ triển lãm quốc tế) lớn, phải có sự đầu tư, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt. Trong thời gian tới, công ty cần quan tâm và tập trung vào công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường cả trong và ngoài nước, tiếp tục duy trì các thị trường hiện tại, mở rộng sang các thị trường tiềm năng khác. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN I. Mục tiêu và phương hướng phát triển của công ty 1. Mục tiêu phát triển ngành dệt may đến năm 2010 và 2020 Mục tiêu chung: phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc vào kinh tế khu vực và thế giới. Mục tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn 2006-2010 Giai đoạn 2011-2020 - Tăng trưởng sản xuất hàng năm 15 – 17% 11 – 12% - Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 14 – 16% 11 – 12% Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2020: + Lấy xuất khẩu làm mục tiêu phát triển cho ngành, tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa. + Tập trung nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh để đẩy mạnh xuất khẩu. + Phát triển mạnh các sản phẩm thời trang tại các thành phố và đô thị lớn, đồng thời thực hiện chuyển dịch các cơ sở sản xuất sử dụng nhiều lao động ra các vùng nông thôn. + Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong ngành dệt may, huy động mọi nguồn lực đầu tư vào ngành, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực mà trong nước các nhà đầu tư còn yếu và thiếu kinh nghiệm. + Ưu tiên phát triển các sản xuất hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu dệt may trong nước, đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia thiết kế mẫu mã và công nhân lành nghề nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh của ngành. Đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động đảm bảo sự phát triển ổn định của ngành. + Phát triển ngành dệt may phải gắn với vấn đề bảo vệ môi trường và xu thế chuyển dịch lao động nông nghiệp nông thôn. 2. Mục tiêu, phương hướng phát triển của Công ty cổ phần May 10 Mục tiêu lớn nhất của công ty May 10 là trở thành công ty hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng may mặc. Vì vậy, công ty đã và đang đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện tiết kiệm trên mọi mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong thời gian tới công ty tiếp tục giữ vững, mở rộng thị trường nội địa phục vụ cả hai nhóm khách hàng: nhóm khách hàng sử dụng sản phẩm cao cấp và nhóm khách hàng sư dung sản phẩm giá rẻ. Đồng thời duy trì các thị trường xuất khẩu hiện tại (Mỹ, EU, Nhật Bản…), tăng kim ngạch xuất khẩu sang các nước khác (Nga, các nước Nam Phi… ), phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu tăng 50% so với năm 2006. Quan điểm của May 10 đối với hàng xuất khẩu cũng như tiêu thụ trong nước: không chỉ may gia công theo đơn đặt hàng với mẫu mốt sẵn có mà phải thiết kế tạo ra các sản phẩm “độc” và khó, mà nơi khác không dễ gì làm được, có như thế thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế, May 10 đã thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Từ các loại áo sơ mi nam nổi tiếng, May 10 đã cho ra đời các loại áo veston cao cấp (2 cúc, 3 cúc, vạt vuông, vạt tròn, xẻ tà giữa, xẻ hai bên…) với công nghệ đặc biệt. Gần đây, công ty đưa ra một loạt sản phẩm thời trang cho giới trẻ như các loại áo boding, quần âu… Công ty đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ thiết kế thời trang. Công ty liên kết với các công ty nước ngoài ở Đức, Pháp,… để gửi người đi đào tạo về thiết kế thời trang. Trong nước, công ty liên doanh với trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội, Đại học Bách Khoa tổ chức các khoá đào tạo cả ngắn hạn và dài hạn chuyên sâu về thiết kế thời trang cho cán bộ kỹ thuật, thiết kế mẫu, cán bộ quản lý của công ty và các đơn vị, cá nhân có nhu cầu, tạo thành một mạng lưới thiết kế thời trang. Dự kiến công ty sẽ dành một khoản chi phí khoảng 650 triệu đồng – 1 tỷ đồng để chi cho hoạt động Marketing. Để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, công ty tiếp tục duy trì hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, 14000, SA 8000 và đặc biệt coi trọng công tác phát triển nguồn nhân lực bởi con người là yếu tố quan trọng nhất tạo nên thành công của May 10. Do đó, công ty nỗ lực hết mình đào tạo một đội ngũ nhân viên theo đúng mục tiêu đã đề ra, có những chương trình hỗ trợ đội ngũ nhân viên phát triển các kỹ năng nghề nghiệp và trình độ quản lý, tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp để nhân viên phát huy tối đa năng lực cá nhân, có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Công ty phấn đấu đến năm 2010 đào tạo mới và tuyển dụng được 8000 lao động, trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp các phòng ban nghiệp vụ đạt 100%. Đồng thời công ty sẽ tiếp tục đầu tư các thiết bị công nghệ, các dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại và đồng bộ, luôn luôn thực hiện công tác cải tiến tổ chức sản xuất, nâng cao năng lực quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Năm 2007, với sự phấn đấu của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, công ty đã hoàn thành các chỉ tiêu đề ra. Về lợi nhuận, thực hiện được 752.516 USD, đạt 123,9%. Hoàn thành kế hoạch về doanh thu đạt 100,1% (thực hiện được 12.750.516 USD) (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của công ty năm 2007). Tại buổi lễ mít tinh kỷ niệm 62 năm thành lập May 10, 49 năm ngày Bác Hồ về thăm công ty diễn ra ngày 08/01/2008, trên cơ sở những kết quả đã đạt được, công ty đã thông báo các chỉ tiêu thi đua năm 2008 của May 10 năm 2008 như sau: Doanh thu: 590 tỷ đồng, tăng 20% với năm 2007. Lợi nhuận: 17,5 tỷ, tăng 6% so với năm 2007. Thu nhập của công nhân: 1.800.000 đồng/người/tháng. Chi phí giảm: 10% – 15% so với năm 2007. Giảm lao động không hiệu quả ở bộ phận gián tiếp: 5 – 10%. II. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Nhật Bản 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm Như chúng ta đã biết, chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu của cả khách hàng cũng như của doanh nghiệp. Trong thời kỳ giá cả gia tăng đến “chóng mặt” như hiện nay, giá cả nguyên phụ liệu ngày càng tăng thì doanh nghiệp không thể dựa vào việc giảm giá bán để cạnh tranh vì như thế sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hoạt động khác của doanh nghiệp. Biện pháp tốt nhất để cạnh tranh, tạo được uy tín và giữ chân được khách hàng là nâng cao chất lượng sản phẩm, bao gồm chất lượng thành phẩm và chất lượng dịch vụ sau bán hàng. Để làm được việc đó, trước hết công ty cần phải đảm bảo chất lượng các yếu tố đầu vào, vấn đề quyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Muốn như vậy, cần quan tâm đến việc xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp nguyên phụ liệu. Đặc biệt là với các nhà cung cấp nước ngoài do khách hàng chỉ định. Công ty có thể yêu cầu khách hàng của mình đôn đốc nhà cung cấp thực hiện cung cấp đầu vào đúng thời gian, tiến độ, đồng bộ đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nâng cao chất lượng của đội ngũ công nhân lao động là vấn đề quan trọng không kém. Chất lượng làm việc của tất cả các công nhân từ cắt, may, là,… đều ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Trong đó, công nhân may vai trò quyết định, quan trọng nhất. Bởi vì đặc điểm của sản phẩm may mặc là ngoài thiết kế đẹp, thời trang, chất liệu tốt thì vấn đề thẩm mỹ của đường may cũng được quan tâm không kém. Một đường may đẹp, đều, chắc chắn, không bị sùi, đúng quy cách về ly của khách hàng, ép mép phẳng… tất nhiên được khách hàng ưa thích, lựa chọn nhiều hơn. Không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của nhân viên QA và nhân viên kiểm tra sơ bộ thành phẩm tại mỗi tổ làm việc. Họ là người đảm bảo chất lượng sản phẩm đúng yêu cầu khách hàng, là người có những sáng kiến về cải tiến chất lượng sản phẩm. Do đó, họ phải là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, tay nghề tối thiểu phải bậc 5, được trang bị những thiết bị kiểm tra tiên tiến, hiện đại, phải được xây dựng hệ thống thông tin về tiêu chuẩn chất lượng,… để họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng của mình là kiểm tra chất lượng sản phẩm. Một quyết định sai của nhân viên QA trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của bán thành phẩm cũng như của thành phẩm, từ đó ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động của công ty. Vấn đề công nghệ cũng phải được quan tâm khi nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cần có sự đầu tư mua các công nghệ, trang thiết bị tiên tiến, hiện đại, các dây chuyền sản xuất phù hợp với yêu cầu sản xuất của công ty. Không thể thiếu được những sáng kiến, cải tiến kỹ thuật của chính đội ngũ lao động trong công ty, những người am hiểu nhất về tình hình sản xuất của công ty. Công ty cần phải có những chính sách khen thưởng hợp lý đối với những sáng kiến, cải tiến của người lao động, có các biện pháp khuyến khích người lao động phát huy khả năng sáng tạo của họ. 2. Đảm bảo tiến độ sản xuất để thực hiện hợp đồng Khi thực hiện công tác giao dịch, đàm phán để ký kết hợp đồng với các đối tác, công ty cần thoả thuận thời gian giao hàng hợp lý sao cho khoảng thời đó đủ cho công ty thực hiện các hoạt động sản xuất để có đủ số lượng sản phẩm giao cho khách hàng đúng thời hạn cũng như đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Nếu tiến độ sản xuất không được đảm bảo, công ty giao hàng không đúng thời hạn đã ký kết hoặc hàng hoá không đảm bảo yêu cầu về chất lượng thì sẽ công ty phải chịu phạt theo quy định về thưởng phạt trong hơp đồng. Điều này làm gia tăng chi phí, giảm lợi nhuận, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như uy tín của công ty đối với bạn hàng. Mặt khác, việc giao hàng đúng thời hạn cũng đảm bảo tính thời trang, thời tiết đối với sản phẩm may mặc. Điểm đáng lưu ý nhất đối với các doanh nghiệp khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản là đảm bảo thời gian giao hàng. Các đối tác Nhật Bản rất coi trọng việc giao hàng đúng thời hạn, đây là yêu cầu khắt khe sau yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu này của phía đối tác Nhật thì vừa bị phạt theo hợp đồng (có thể dẫn tới hậu quả là đối tác Nhật không nhận hàng nữa), vừa không có cơ hội hợp tác lần sau, công ty cũng không tạo được uy tín đối với đối tác cuả mình. Để làm đảm bảo được tiến độ sản xuất, công ty phải xây dựng một kế hoạch thực hiện thật chi tiết, cụ thể theo tháng, từng quý, theo từng lô hàng, từng hợp đồng xuất khẩu. Kế hoạch này phải được triển khai đến từng bộ phận, phòng ban trong toàn công ty và phải có sự điều hành, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đảm bảo kế hoạch được thực hiện đúng. Như thế, mới có thể đảm bảo được tiến độ sản xuất để có thể giao hàng đúng thời hạn. Trước hết công ty cần thực hiện tốt công tác thu mua nguyên phụ liệu, trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, tiên tiến, thực hiện tốt công tác bảo trì bảo dưỡng máy móc trang thiết bị sao cho máy móc thiết bị luôn trong trạng thái làm việc tốt, đạt năng suất cao nhất; sau đó tổ chức thực hiện sản xuất theo quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty. Trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất cần có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ cũng như sự phân công công việc, chức năng rõ ràng giữa các phòng, ban, các bộ phận trong công ty nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, nhanh chóng, không bị gián đoạn, nhằm nâng cao năng suất lao động, đảm bảo kịp tiến độ đã ký kết. Cũng cần có những biện pháp xử lý thích đáng đối với những trường hợp cố tình làm gián đoạn quy trình sản xuất, công nhân cần có sự chủ động trong trường hợp máy móc, thiết bị có sự cố, tránh sự ỷ lại vào đội ngũ sửa chữa của công ty. 3. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường Trong thời buổi cạnh tranh như hiện nay thì việc chủ động tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp. Đây là một việc làm có ý nghĩa quan trọng giúp công ty có được nguồn thông tin đẩy đủ, chính xác và kịp thời để có thể đưa ra được những quyết định chiến lược khi xuất khẩu vào thị trường này. Nhật Bản không chỉ là một thị trường có khả năng tiêu dùng lớn mà còn là một thị trường gần gũi về mặt địa lý và có nhiều điểm tương đồng về văn hoá đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đây là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới của Việt Nam (sau Mỹ) và lớn nhất châu Á. Ở Việt Nam, hơn một nửa các công ty ty Nhật Bản có văn phòng đại diện và hoạt động của họ rất hiệu quả, thường xuyên theo dõi và nắm vững tình hình thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp Nhật Bản tương đối khó tính trong việc lựa chọn đối tác làm ăn. Khi chọn được đối tác nhập khẩu họ thường có nhu cầu thẩm định hàng hoá. Mặt khác, người Nhật có thói quen đến tận nơi mua hàng để xem cơ sở của đối tác, để họ có thể tin tưởng hơn vào chất lượng sản phẩm. Đặc biệt người Nhật rất chú trọng đến môi trường, họ đưa ra nhiều quy định về an toàn thực phẩm để bảo vệ sản xuất trong nước và có xu hướng ngày càng thắt chặt. Trong khi đó, các doanh nghiệp của Việt Nam chưa thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường, còn thiếu thông tin, còn thụ động chờ đợi các đơn hàng nên chất lượng sản phẩm không đồng đều, giá thành còn cao, thời gian giao hàng không đảm bảo. Để xuất khẩu được hàng hoá sang thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhập gia tuỳ tục, tức là phải tìm hiểu rõ các phong tục tập quán cũng như thị hiếu của người Nhật. Đồng thời phải đảm bảo được yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường này. Tuy nhiên, Công ty May 10 còn yếu về mặt nghiên cứu thị trường nước ngoài. Công ty mới chỉ tìm kiếm các đối tác chứ chưa thực hiện việc thu thập thông tin, tìm hiểu môi trường nước ngoài. Công ty mới chỉ thực hiện công tác nghiên cứu thị trường đối với thị trường trong nước, còn với thị trường nước ngoài công ty vẫn chưa chủ động, vẫn còn tâm lý chờ đợi các đối tác. Nguyên nhân của tồn tại trên là do Ban Marketing của công ty mới được thành lập. Ban Marketing được chia làm ba bộ phận thực hiện ba nhiệm vụ chính: tìm kiếm đối tác, tìm kiếm nhà cung cấp nguyên phụ liệu, lập chiến lược. Ba bộ phận này có quan hệ tương tác với nhau. Cần có sự kết hợp chặt chẽ hoạt động của ba bộ phận này để có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Hiện bộ phận tìm kiếm khách hàng có 2 nhân viên và chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm bạn hàng đơn thuần. Công ty nên kết hợp việc tìm kiếm bạn hàng với những thị trường cụ thể và tăng thêm 2 nhân viên nữa. Phân chia nhiệm vụ cụ thể cho các nhân viên để nâng cao hiệu quả của việc tìm kiếm khách hàng. Một nhân viên phụ trách thị trường EU, một nhân viên phụ trách thị trường Mỹ, một nhân viên phụ trách thị trường Nhật Bản và các thị trường khác. Thông tin thu thập từ các thị trường này sẽ được ba nhân viên này phân tích, đưa ra những dự đoán cung cầu, giá cả cũng như mức biến động của cung cầu, giá cả trong tương lai…đồng thời đưa ra những chiến lược đối với từng thị trường cụ thể. Các thông tin trên sẽ được nhân viên còn lại tổng hợp và chuyển đến phòng kế hoạch, bộ phận chiến lược của công ty để tiến hành lập kế hoạch và chiến lược kinh doanh xuất khẩu phù hợp với đối tác trên từng thị trường cụ thể. Nhiệm vụ nghiên cứu thị trường nhà cung cấp hiện nay chỉ do một nhân viên đảm nhiệm nên chưa hoàn thành tốt khối lượng công việc khá lớn: tìm hiểu và thống kê số lượng các nhà cung cấp nguyên phụ liệu may mặc có uy tín, tìm hường tiếp cận, nghiên cứu sự biến động của thị trường nguyên phụ liệu, dự báo cung cầu, giá cả… và quan trọng là phải dự báo tương đối chính xác số lượng nguyên phụ liệu cần cho hoạt động của công ty trong một thời kỳ nhất định nhằm hạn chế ảnh hưởng do sự biến động của thị trường. Trong thời gian tới nên có thêm một nhân viên nghiên cứu thị trường nhà cung cấp. Có như thế mới hoàn thành tốt công việc, phối hợp nhịp nhàng hơn với hai bộ phận còn lại. Bộ phận lập chiến lược kinh doanh cần kết hợp chặt chẽ với hai bộ phận trên. Trên cơ sở những thông tin và kết quả thu thập được của bộ phận tìm kiếm khách hàng và bộ phận nghiên cứu nhà cung cấp, bộ phận lập chiến lược kinh doanh đưa ra những chiến lược phù hợp với từng thi trường cụ thể( chiến lược về giá, chiến lược nguồn hàng,…). Nhiệm vụ của các thành viên cũng như các bộ phận trong ban Marketing của công ty hiện nay chưa được phân công một cách rõ ràng, cụ thể. Công ty cần có sự phân công, mô tả công việc một cách chi tiết, chính xác, giao nhiệm vụ đến từng nhân viên, có chế độ kiểm tra giám sát đối với việc hoàn thành công việc của các nhân viên này. Để thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu thị trường công ty cần đa dạng các nguồn thông tin thu thập. Bên cạnh các nguồn thông tin chính thống công ty đang sử dụng, cần khai thác các nguồn thông tin khác như Internet, các báo cáo của các tổ chức nghiên cứu về thị trường, có thể thuê nghiên cứu, mua thông tin thị trường, và nếu có thể thì trực tiếp thực hiện các cuộc nghiên cứu tại thị trường. Cũng cần phải đổi mới cách thức xử lý, lưu trữ thông tin đã thu thập được nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu thị trường. Cùng với việc triển khai hệ thống ERP công ty cần tích hợp thêm hệ thống thông tin thị trường để có thể tối đa được hiệu quả của hệ thống. Nếu điều kiện cho phép, công ty có thể mở các văn phòng đại diện, các chi nhánh của mình tại thị trường Nhật Bản, cũng như các thị trường khác để thu thập thêm nhiều thông tin hơn, nâng cao mức độ chính xác của thông tin. 4. Tổ chức tốt công tác thu mua nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất thực hiện đơn hàng Như đã phân tích ở trên, công tác thu mua nguyên phụ liệu đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như đảm bảo tiến độ thực hiện hợp đồng của công ty. Công ty phải xác định được nhu cầu về nguyên phụ liệu, tìm được nguồn cung cấp ổn định, đảm bảo nguyên phụ liệu được cung cấp đủ, đúng về số lượng, đảm bảo về chất lượng, kịp thời và đồng bộ. Thị trường giá cả vật tư, nguyên phụ liệu hiện nay có sự biến động lớn theo xu hướng ngày càng tăng làm cho chi phí sản xuất tăng lên, giá thành sản phẩm do đó cũng tăng lên đáng kể. Trong khi đó, giá sản phẩm của công ty tăng không đáng kể. Vì vậy, lợi nhuận của công ty thu được sẽ bị giảm xuống. Để hạn chế ảnh hưởng xấu do sự gia tăng của giá cả vật tư, nguyên phụ liệu, công ty cần thực hiện đa dạng hoá nguyên phụ liệu, ký hợp đồng thu mua nguyên phụ liệu với các bạn hàng có quan hệ làm ăn lâu dài với công ty nhằm đảm bảo sự ổn định về nguồn hàng cũng như chất lượng của nguồn hàng. 5. Tăng cường công tác quảng bá thương hiệu May 10 Giá trị mà thương hiệu mang lại cho doanh nghiệp là rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO. May 10 đã sản xuất được những sản phẩm thương hiệu AOYAMA - Nhật Bản với giá bán một bộ veston từ 500 – 1000 USD, những sản phẩm áo sơ mi Vanrgaff, Jacques Britt, J.C Penny, Gillberto… với giá bán từ 80 – 100 – 200 EUR. Sản phẩm sơ mi và veston của May 10 có chất lượng cao như vậy nhưng giá bán chỉ bằng 1/4 hoặc 1/5 giá bán của các sản phẩm có thương hiệu trên thế giới. Thương hiệu May 10 đã được nhiều quốc gia khác biết đến và tạo được ấn tượng tốt đối với người tiêu dùng. Công ty đã dành nguồn kinh phí đáng kể để quảng bá thương hiệu và hình ảnh của mình trong thời gian qua, thông qua các hoạt động và các phương tiện khác nhau như truyền hình VTV, truyền hình Hà Nội, báo chí, tạp chí của cả Trung ương và địa phương, các hoạt động thời trang, các hoạt động tài trợ… Công ty cần tiếp tục thực hiện quảng bá hình ảnh công ty và thương hiệu May 10 ở cả thị trường trong và ngoài nước. Đây là một trong những yếu tố tác động đến quyết định mua sắm của người tiêu dùng. Sản phẩm của công ty có tạo được ấn tượng, uy tín đối với khách hàng thì khả năng khách hàng tiêu dùng sản phẩm của công ty mới được nâng lên. 6. Nâng cao khả năng thiết kế, đa dạng hoá sản phẩm Không chỉ có May 10 mà các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu của Việt Nam đều còn kém về khả năng thiết kế. Mẫu mã sản phẩm chủ yếu do khách hàng cung cấp, doanh nghiệp chỉ việc tổ chức sản xuất theo mẫu mã khách hàng yêu cầu nên còn thụ động trong việc tổ chức sản xuất. Để tồn tại và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, công ty cần tập trung vào công tác nghiên cứu mẫu mã sản phẩm theo hai hướng chính: thứ nhất là sáng tác theo ý tưởng của mình, có tham khảo các mẫu mốt đang thịnh hành trên thế giới; thứ hai là khai thác mẫu mốt qua các thông tin trên mạng, có tham khảo các mẫu thời trang tại thị trường của khách hàng nước xuất khẩu. Tiếp tục duy trì liên kết với các công ty nước ngoài để gửi nhân viên đi đào tạo về thiết kế thời trang, liên doanh với các Trường Đại học, các tổ chức về thời trang trong nước để tổ chức các khoá đào tạo thiết kế thời trang nhằm nâng cao khả năng thiết kế của công ty. Đồng thời với việc nâng cao khả năng thiết kế, công ty cũng cần thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tính thời trang là một trong những đặc điểm nổi bật của hàng may mặc. Sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng về sản phẩm may mặc luôn thay đổi và có yêu cầu ngày càng cao. Công ty phải đầu tư nghiên cứu, tìm hiểu sở thích người tiêu dùng để có thể tạo ra được những sản phẩm thời trang, thoả mãn nhu cầu khách hàng. 7. Chú trọng công tác thâm nhập thị trường và lựa chọn kênh phân phối sản phẩm Trước đây, các doanh nghiệp nhập khẩu hàng may mặc Nhật Bản luôn đưa ra những hợp đồng giá trị lớn do quan điểm chỉ có nhà sản xuất quy mô lớn mới cho ra đời những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Điều này làm cho các doanh nghiệp Việt Nam bị mất đơn hàng chủ yếu do đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ vốn và quy mô nhà xưởng. Nhưng hiện nay, họ không phân biệt về quy mô sản xuất của doanh nghiệp nữa. Họ đưa ra những đơn hàng nhỏ lẻ, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản, miễn là đảm bảo tốt tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá. Người tiêu dùng Nhật có xu hướng thích sử dụng sản phẩm may mặc của Việt Nam hơn do giá cả tương đối và kỹ thuật sản xuất luôn được đảm bảo. Các doanh nghiệp Nhật Bản đang có chiều hướng thích làm các đơn hàng bán thành phẩm (FOB). Đó là cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để có thể ký kết được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, khách hàng Nhật Bản có yêu cầu cao về kỹ thuật và tính chính xác trong vấn đề giao hàng nên khi mới làm đơn hàng đầu tiên các doanh nghiệp đều cảm thấy hơi khó, nhưng khi đã làm tốt và tạo được mối quan hệ thì mọi việc sau đó diễn ra rất dễ dàng. Việc tiếp cận thị trường Nhật Bản cũng có tính đặc thù. Doanh nghiệp có hàng tốt tự chào bán chưa chắc người Nhật đã mua. Muốn bán được hàng hoá cho người Nhật cần phải có quan hệ cá nhân. Chúng ta đã biết, người Nhật có thói quen khi mua hàng hay bắt tay với đối tác thường thông qua một người bạn hay một đối tác trung gian giới thiệu, sau đó mới trực tiếp bàn bạc. Để có điều kiện làm quen, thiết lập mối quan hệ đối tác với các nhà kinh doanh Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam nên tích cực tham gia các hội chợ triển lãm tại Nhật để nắm thông tin về thị trường Nhật và để cho người Nhật có điều kiện hiểu hơn về doanh nghiệp. Trong thực tế, khi hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản thì chi phí lưu thông cộng thêm cước phí vận chuyển có thể làm đội giá lên rất cao. Các doanh nghiệp nên thoả thuận trực tiếp với các nhà phân phối và nhà bán lẻ, bỏ qua chợ bán buôn. Tháng 6/2007 vừa qua, tại hai cuộc hội thảo xúc tiến thương mại tại Fukuoka và Tokyo đã có hàng trăm doanh nghiệp Nhật Bản tham gia. Nhiều doanh nghiệp phân phối lớn của Nhật cho biết họ sẵn sàng tiếp nhận các mặt hàng chất lượng cao của Việt Nam đưa vào hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại… Các doanh nghiệp Việt Nam nên nắm bắt cơ hội này để có thể ký được những hợp đồng xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Nhật Bản. 8. Đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, thương mại điện tử là phương thức giao dịch hữu hiệu và được sử dụng phổ biến đối với doanh nghiệp. Đây là cách tiếp cận, thâm nhập thị trường nhanh nhất, tiết kiệm chi phí nhất và hiệu quả nhất. Với các doanh nghiệp Việt Nam, việc ứng dụng thương mại điện tử còn khá mới mẻ. Công ty nên đầu tư, phát triển các ứng dụng của thương mại điện tử trong các giao dịch ngoại thương với các đối tác nước ngoài nói chung cũng như các đối tác Nhật Bản nói riêng. Xây dựng Website riêng của công ty là một ứng dụng thương mại điện tử quan trọng. Trang Web của công ty thể hiện sự năng động, chuyên nghiệp trong làm ăn kinh doanh của công ty trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Nhờ trang web có nhiều khách hàng Nhật Bản biết đến công ty hơn. Đây là một lợi thế giúp công ty có thể thâm nhập vào thị trường nhanh nhất. Trang web là phương tiện cung cấp thông tin nhanh nhất, đầy đủ và kịp thời nhất. Khách hàng có thể biết được thông tin về doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp chỉ sau vài ba phút. Theo cách là truyền thống, nếu khách hàng muốn biết thông tin, hình ảnh về sản phẩm của công ty thì công ty phải gửi catologue cho khách hàng qua bưu điện. Việc làm này vừa mất nhiều thời gian, vừa tốn kém và có thể làm mất đi cơ hội kinh doanh. Qua trang web, khách hàng có thể nhận ngay được Catologue sản phẩm của công ty, giảm thiểu thời gian, chi phí, lại có thể cập nhật từng phút, từng ngày. Vì thế, công ty nên có sự đầu tư thích đáng vào việc xây dựng và quản lý trang web, thường xuyên cập nhật tin tức về sản phẩm, về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty… lên trang web. Sử dụng thư điện tử cũng là một trong những ứng dụng thương mại điện tử mà công ty cần đẩy mạnh trong thời gian tới. Thư điện tử giúp tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí, ngôn ngữ trình bày không cần phải trau chuốt, không kiểu cách như khi trình bày trên giấy. Thay vì cách trao đổi thông tin truyền thống với khách hàng thông qua các văn bản giấy, công ty nên sử dụng việc trao đổi bằng các văn bản điện tử. Các hợp đồng buôn bán được soạn thảo trên giấy và phải đóng dấu có thể được thay thế bằng các văn bản điện tử và sử dụng chữ ký điện tử để xác nhận. Như thế, thời gian giao dịch với khách hàng được rút ngắn lại, giảm được chi phí giấy tờ, chi phí vận chuyển. Nên sử dụng việc truyền đạt thông tin điện tử ngay trong nội bộ công ty sẽ giúp rút ngắn thời gian truyền đạt thông tin, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Công ty còn có thể ứng dụng thương mại điện tử trong việc thanh toán với các đối tác đặt gia công, với các nhà cung cấp nguyên phụ liệu nước ngoài. Thanh toán theo cách truyền thống thì các giấy tờ trong chứng từ thanh toán phải là văn bản được đóng dấu. Nếu thanh toán điện tử thì toàn bộ chứng từ đó được chuyển thành các dữ liệu điện tử, có sử dụng chữ ký điện tử. Nhờ đó, giúp rút ngắn thời gian lưu chuyển thông tin, rút ngắn thời gian thực hiện giao dịch. Vai trò quan trọng của thương mại điện tử là không thể phủ nhận. Bên cạnh việc đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống ứng dụng thương mại điện tử, công ty còn phải đầu tư kinh phí để đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên trong công ty thành thạo việc sử dụng các ứng dụng của thương mại điện tử. Có như thế, công ty mới giành được lợi thế trong kinh doanh so với các doanh nghiệp khác. III. Một số kiến nghị 1. Đối với Chính phủ, Nhà nước + Nâng cao vai trò của Chính Phủ trong việc định hướng và quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu. Đưa ra những chủ trương, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động. + Nên tăng ngân sách Nhà nước cho hoạt động xúc tiến thương mại, lựa chọn được những doanh nghiệp tham gia vào các chương trình xúc tiến hợp lý, có hiệu quả, xây dựng được hệ thống thu thập thông tin về các thị trường xuất khẩu của Việt Nam và cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh. + Tiếp tục ban hành các khuôn khổ pháp lý cho thương mại điện tử, có các biện pháp hỗ trợ và bảo vệ người tiêu dùng khi thực hiện giao dịch điện tử. + Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về hải quan nói riêng, có sự đồng bộ giữa hệ thống pháp luật của Việt Nam với hệ thống pháp luật của nước ngoài và thông lệ quốc tế. Đảm bảo sự đồng bộ giữa chính sách pháp luật hải quan và pháp luật trong các lĩnh vực khác. Áp dụng hải quan điện tử một cách rộng rãi trong cả nước nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, hạn chế được tình trạng tham nhũng. + Tiếp tục thực hiện chế độ tự kê khai thuế, xây dựng hệ thống thu thuế minh bạch, đơn giản, tiếp tục thực hiện rà soát hệ thống pháp luật về thuế để hạn chế những kẽ hở có thể bị lợi dụng khi thực thi pháp luật về thuế. 2. Đối với Bộ Công thương và các cơ quan có liên quan 2.1 Đối với Bộ Công thương + Cung cấp các thông tin về tình hình xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Các thông tin này cần được cập nhật thường xuyên theo từng mặt hàng, từng thị trường. Đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong việc cấp giấy phép xuất khẩu, cấp hạn ngạch. + Tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế để tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Thông tin về các hội chợ triển lãm phải đảm bảo đến được với tất cả doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức khác nhau (phổ biến nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất là thông qua Website của Bộ). 2.2 Đối với hệ thống ngân hàng Hệ thống ngân hàng cần tăng cường khả năng cung cấp tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc. Các doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Khách hàng lại thường xuyên đặt những đơn hàng có số lượng cũng như giá trị lớn. Bản thân doanh nghiệp không thể huy động đủ vốn để đầu tư mà cần có sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng giúp doanh nghiệp có thể vay được vốn với lãi suất phải chăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống ngân hàng cũng cần được hiện đại hoá công nghệ thanh toán, đẩy mạnh thực hiện các dịch vụ ngân hàng điện tử, có sự kết nối giữa các ngân hàng nhằm rút ngắn thời gian thanh toán 2.3 Đối với các cơ quan hải quan Cần xoá bỏ những quy định đã trở nên lạc hậu, đơn giản hoá hơn nữa thủ tục hải quan, giảm thiểu giấy tờ, thủ tục hành chính trong kê khai làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá. Áp dụng hải quan điện tử rộng rãi hơn. Rút ngắn thời gian từ lúc làm thủ tục hải quan đến lúc có được quyết định thông quan. 3. Đối với Tổng Công ty dệt may Việt Nam và Hiệp hội dệt may Việt Nam + Có những biện pháp nhằm xây dựng và phát triển nguồn nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu trong nước như việc thành lập các kho ngoại quan dành riêng cho việc lưu giữ nguyên phụ liệu ngành may; chủ động phát triển ngành công nghiệp dệt… Để làm được việc này cần phải có sự quy hoạch cụ thể phát triển nguồn nguyên liệu, nhất là phát triển cây bông, dâu tằm, sợi tổng hợp và các loại hoá chất, các loại phụ liệu… + Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu thị trường Nhật Bản, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về thị trường này cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Đây là một thị trường có những đặc điểm đặc thù về văn hoá, thị hiếu… nên cần phải có sự đầu tư nghiên cứu, tìm hiểu để cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cơ bản nhất về thị trường Nhật, cũng như đưa ra cho các doanh nghiệp những vấn đề cần lưu ý khi xuất khẩu vào thị trường này. + Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ký kết được những hợp đồng có giá trị lớn. Các hội chợ triển lãm do Hiệp hội Dệt may tổ chức cần được công bố rộng rãi, phổ biến tới tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc. Các hội chợ triển lãm quốc tế tổ chức tại Nhật Bản có liên quan đến hàng may mặc cần được thông báo kịp thời cho các doanh nghiệp để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị tham gia, có cơ hội giới thiệu doanh nghiệp với người tiêu dùng và các đối tác Nhật Bản (vì đây là kênh thâm nhập thị trường Nhật có hiệu quả nhất). + Các chuyến thăm và làm việc của các doanh nghiệp Nhật Bản tại nước ta nói chung và đối với Tổng Công ty Dệt may Việt Nam nói riêng chứng tỏ sự quan tâm của doanh nghiệp Nhật tới thị trường Việt Nam. Vì thế, cần phải thông tin đầy đủ và kịp thời về các sự kiện này tới các doanh nghiệp dệt may trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tiếp xúc, tìm hiểu và làm việc với các doanh nghiệp Nhật Bản. + Tổ chức chương trình đào tạo, học tập kinh nghiệm từ nước ngoài cho doanh nghiệp. Có chính sách khen thưởng các doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong xuất khẩu, có các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Hiện Nhật Bản đã đạt được tiêu chí xuất xứ “hai công đoạn” với hàng dệt may trong EAP với 6 nước ASEAN ((Singapore, Malaysia, Philipines, Indonesia, Bruney và Thái Lan) và các nước này đã hạ mức thuế quan xuống 0%. Do đó Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực do thuế của ta vào thị trường Nhật vẫn khoảng 10%. Hàng may mặc của công ty May 10 và các doanh nghiệp khác của nước ta muốn được hưởng mức thuế ưu đãi 0% (theo Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản, VJEPA đang được đàm phán và sẽ ký kết trong năm 2008) thì phải đảm bảo yêu cầu xuất xứ “hai công đoạn”, tức là phải sản xuất từ nguồn nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam, của Nhật hoặc từ các nước thành viên của ASEAN. Điều này rất khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may nước ta vì hiện ngành này phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu và trên 80% nguồn nguyên phụ liệu được nhập từ các nước ngoài Nhật và ASEAN. Vì vậy, phát triển các ngành sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may cần được chú trọng, đầu tư và có những chiến lược phát triển phù hợp trong thời gian tới. Có như thế mới giảm được sự phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài, giúp hàng may mặc của Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường Nhật cũng như các thị trường khác. Ngày 1/4/2008 vừa qua, Bộ truởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng và Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam - Sakaba đã ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản. Đây là một văn kiện pháp lý quan trọng, xác lập mối quan hệ hợp tác kinh tế chặt chẽ và toàn diện giữa ASEAN và Nhật Bản trong thời gian tới. Các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc nên tận dụng những cơ hội mang lại từ Hiệp định này để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chính phủ và các Bộ, ban ngành củng cố hơn nữa quan hệ hợp tác ngoại giao, kinh tế thương mại với Nhật Bản. KẾT LUẬN Trong thời gian qua, Công ty cổ phần May 10 đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng cũng như thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường khác. Kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này tăng đều từ năm 2003 – 2007, trung bình 7 – 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Đây là một trong những thị trường nhập khẩu chính hàng may mặc của công ty. Tuy nhiên đây cũng là thị trường có nhiều thách thức đối với công ty, một trong những thị trường có những đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm. Do đó, trong thời gian tới, công ty cần chú trọng hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường Nhật Bản cũng như các thị trường xuất khẩu khác của công ty. Đồng thời, công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã sản phẩm, dần dần tạo sự chủ động trong khâu thu mua nguyên phụ liệu đầu vào, nâng cao trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công nhân viên trong công ty nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận cho công ty. Xuất khẩu là một chiến lược quan trọng của nước ta trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, không chỉ May 10 mà các doanh nghiệp khác trong nước nên có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trên thị trường trong và ngoài nước. Nhất là những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Có như thế mới đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU KẾT LUẬN DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng I.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản từ năm 2004 – 2007 …25 Bảng II.1: Thống kê máy móc thiết bị của công ty May 10 năm 2007 ..34 Bảng II.2: Tình hình vốn sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần May10 năm 2007 35 Bảng II.3: Tình hình lao động của công ty cổ phần May 10 năm 2007 36 Bảng II.4: Doanh thu, lợi nhuận của Công ty từ năm 2004 – 2007 39 Bảng II.5: Bảng thống kê lao động và thu nhập của Công ty May 10 42 Bảng II.6: Năng suất lao động của Công ty cổ phần May 10 44 Bảng II.7: Tình hình xuất nhập khẩu của Công ty từ năm 2003 – 2007 45 Bảng II.8: Bảng thống kê các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của công ty May 10 giai đoạn 2003 – 2007 55 DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ Biểu đồ II.1: Doanh thu của công ty may 10 qua các năm 39 Biểu đồ II.2: Lợi nhuận của công ty May 10 qua các năm 39 Biểu đồ II.3: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của công ty May 10 trung bình giai đoạn 2003 – 2007 47 Biểu đồ II.4: Kim ngạch xuất khẩu của công ty May 10 sang thị trường Nhật Bản trong những năm gần đây (2003 - 2007) 54 Sơ đồ II.1: Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần May 10 31 Sơ đồ II.2: Quy trình công nghệ sản xuất áo sơ mi nam 38 TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS Đỗ Đức Bình, TS. Nguyễn Thường Lạng (2004), “Giáo trình kinh tế quốc tế”, Nxb Lao động – xã hội. Công ty cổ phần May 10 (1998), “Có một May 10 ở Việt Nam”, NXb Chính trị Quốc gia. Công ty cổ phần May 10, Báo cáo tổng hợp cuối năm 2003 – 2007. Công ty cổ phần May 10, Báo cáo tài chính, các chỉ tiêu chủ yếu, xuất nhập khẩu trực tiếp… PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2003), “Giáo trình kinh doanh quốc tế”, tập 2, Nxb Lao động - Xã hội. GS.TS Bùi Xuân Lưu (2006), “Giáo trình Kỹ thuật ngoại thương”, Nxb Lao động – xã hội. GS.TS Hoàng Đức Thân (2006), “Giáo trình Giao dịch và đàm phán kinh doanh”, Nxb Thống kê. GS.TS Võ Thanh Thu (2006), “Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu”, Nxb Lao động – xã hội. Vũ Hữu Tỉ, “Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”, Nxb Giáo dục. Một số luận văn tốt nghiệp Khoá 45, Khoa thương mại. Một số Website: www.baothuongmai.com.vn http:// www.garco10.com.vn (Công ty cổ phần May 10) www.vnagency.com.vn (Thông tấn xã Việt Nam) www.mof.gov.vn (Bộ Tài chính) www.mot.gov.vn (Bộ Công thương) www.nhatban.net www.thongtinthuongmaivietnam.com.vn www.vcci.com.vn www.vietnamtextile.org.vn (Hiệp hội dệt may Việt Nam) Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (2006), “Cẩm nang xuất khẩu cho các doanh nghiệp”, Nxb Văn hoá thông tin. Tài liệu hội thảo quốc tế: “Doanh nghiệp may Việt Nam và những thách thức khi kết thúc hiệp định dệt may, các chiến lược và chính sách”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Trường Đại học East Anglia (Anh), tháng 3 – 2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10639.doc
Tài liệu liên quan