LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài 2
3. Phương pháp nghiên cứu 2
4. Cơ cấu của luận văn 2
CHƯƠNG I 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 3
VÀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 3
1. Nhượng quyền thương mại 3
1.1. Lịch sử hình thành NQTM 3
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của NQTM 4
1.2.1. Khái niệm NQTM 4
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hoạt động NQTM 6
1.2.3. Phân loại NQTM 7
1.2.4.1. Đối với bên nhượng quyền 9
1.2.4.2. Đối với bên nhận quyền 10
1.2.4.3. Đối với nền kinh tế 11
1.3. Phân biệt NQTM với một số phương thức kinh doanh khác 12
1.3.1. NQTM và lisence đối tượng SHTT 12
1.3.2. NQTM và chuyển giao công nghệ 13
1.3.3. NQTM và Đại lý thương mại 14
2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng NQTM 15
2.1. Pháp luật về chủ thể hợp đồng NQTM 15
2.1.1. Mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền 16
2.1.2. Mối quan hệ các bên – khách hàng 16
2.2. Pháp luật về hình thức hợp đồng NQTM 17
2.3. Pháp luật về nội dung hợp đồng NQTM 17
2.3.1. Pháp luật điều chỉnh đối tượng hợp đồng 17
2.3.2. Pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng NQTM 17
2.3.3. Pháp luật điều chỉnh một số vấn đề khác liên quan đến hợp đồng NQTM 18
2.3.3.1. Phí nhượng quyền 18
2.3.3.2. Thời hạn, gia hạn hợp đồng 19
2.3.3.3. Thay đổi hợp đồng 19
2.3.3.4. Tạm dừng hợp đồng 19
2.3.3.5. Chấm dứt hợp đồng 19
2.3.3.6. Giải quyết tranh chấp 20
2.3.3.7. Đăng kí hoạt động NQTM 20
2.3.3.8. Công bố thông tin trong hoạt động nhượng quyền thương mại 20
CHƯƠNG II 21
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 21
VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ 21
1. Pháp luật về hợp đồng Nhượng quyền thương mại một số nước trên thế giới 21
1.1. Pháp luật Mỹ về hợp đồng NQTM 21
1.2. Pháp luật Trung Quốc về hợp đồng NQTM 22
1.3. Pháp luật Australia về hợp đồng NQTM 22
2. Pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại 23
2.1. Chủ thể hợp đồng NQTM 24
2.2. Hình thức hợp đồng NQTM 25
2.3. Nội dung hợp đồng 26
2.3.1. Về đối tượng hợp đồng NQTM 26
2.3.2. Về quyền và nghĩa vụ các bên 27
2.3.3. Một số vấn đề liên quan khác đến hợp đồng NQTM 28
CHƯƠNG III 31
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 31
Ở VIỆT NAM. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 31
1. Thực trạng hoạt động NQTM ở Việt Nam 31
2. Một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng NQTM ở Việt Nam 33
2.1. Về khái niệm NQTM 33
2.2. Về chủ thể 34
2.3. Về nội dung hợp đồng 35
2.3.1. Vấn đề đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ trong hợp đồng nhượng quyền thương mại 35
2.3.2. Về quyền và nghĩa vụ các bên chủ thể trong hợp đồng NQTM 38
2.3.3. Một số vấn đề khác liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại 39
KẾT LUẬN 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 49
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2428 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết hợp đồng
Yêu cầu công bố thôngtin trước khi ký hợp đồng
Nội dung hợp đồng
Các hình thức thanh toán phí nhượng quyền
Ngoài ra Thông tư còn quy định một số vấn đề khác như việc giải quyết tranh chấp; vấn đề công bố thông tin về vấn đề giải quyết tranh chấp, các bên sẽ được giải quyết theo cơ chế đã thỏa thuận trong hợp đồng. Về công bố thông tin thì thông tư có quy định như sau: “bên nhượng quyền phải nộp các tài liệu liên quan đến việc NQTM cho hiệp hội các doanh nghiệp kinh doanh theo mạng của Trung Quốc khi chính thức bắt đầu ký kết bất kỳ hợp đồng NQTM nào”
1.3. Pháp luật Australia về hợp đồng NQTM
Ngày 1/7/1998 luật về hoạt động NQTM ở Australa có hiệu lực, luật này có quy định khá toàn diện và cụ thể về các vấn đề liên quan đến hợp đồng NQTM.
Khái niệm hợp đồng NQTM được đề cập đến trong luật này như sau: “hợp đồng NQTM là một thỏa thuận mà một phần hoặc toàn bộ được thể hiện dưới một trong các hình thức văn bản, lời nói,hoặc thỏa thuận ngầm nhất định. Theo đó bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thực hiện hoạt động đề nghị giao kết hợp đồng, cung cấp hoặc phân phối hàng hóa, dịch vụ trong lãnh thổ Australia theo hệ thống hoặc kế hoạch kinh doanh mà cơ bản được xác định, kiểm soát hoặc được đề xuất bởi bên nhận quyền hoặc hiệp hội những bên nhượng quyền”
Luật này cũng đưa ra nhưng quy định cụ thể về các trường hợp hủy bỏ hợp đồng NQTM như:
Hủy bỏ hợp đồng do vi phạm của bên nhận quyền
Hủy bỏ hợp đồng không do vi phạm của bên nhận quyền
Huỷ bỏ hợp đồng trong các trường hợp đặc biệt
Bên nhượng quyền có quyền chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau:
Bên nhận quyền không còn giấy phép thực hiện kinh doanh theo hợp đồng NQTM:
Bên nhận quyền lâm vào tình trạng phá sản
Bên nhận quyền từ bỏ các hoạt động kinh doanh theo các quyền được nhượng
Bên nhận quyền bị kết án tù do có hành vi vi phạm nghiêm trọng trong họat động NQTM gây nguy hiểm cho an toàn và sức khỏe cộng đồng hoặc lừa dối về hoạt đông NQTM hoặc đồng ý hủy bỏ hợp đồng NQTM.
Trên đây là pháp luật về NQTM của các nước có hoạt động franchise phát triển mạnh trên thế giới, vì vậy đây là các văn bản có giá trị tham khảo rất lớn đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam về hoạt động nhượng quyền thương mại nói chung và hợp đồng nhượng quyền nói riêng.
2. Pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại
Từ thực tế hoạt động NQTM Việt Nam cho thấy NQTM ở Việt Nam có tiềm năng lớn, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn ít thương hiệu Việt tự tin kinh doanh theo mô hình kinh doanh này. Để xây dựng các thương hiệu nhượng quyền mạnh ở Việt Nam, cần có sự phối hợp đồng bộ của nhà nước và các doanh nghiệp, để đảm bảo hành lang pháp lý ổn định cho hoạt động NQTM, các nhà làm luật Việt Nam đã xây dựng các văn bản pháp luật quy định cụ thể các vấn đề của NQTM, đặc biệt là các quy định về hợp đồng NQTM bởi hợp đồng NQTM chính là căn cứ pháp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, mặt khác các quy định này sẽ đảm bảo khả năng quản lý của nhà nước đối với hoạt động NQTM. Tính đến thời điểm này đã có một số các văn bản pháp luật được ban hành để điều chỉnh hoạt động NQTM như: luật Thương mại 2005, NĐ35/ 2006/NĐ- CP, TT 09/2006/TT-BTM, luật sở hữu trí tuệ 2005, luật chuyển giao công nghệ 2006…Luật TM 2005 ra đời quy định các vấn đề liên quan đến hoạt động NQTM, tuy nhiên những vấn đề này chỉ được nêu một cách khái quát, chung chung gây khó khăn cho quá trình thực hiện hợp đồng của các chủ thể. Chính vì vậy NĐ35/2006/NĐ- CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết hoạt động NQTM và Thông tư 09/2006/TT-BTM ngày 25/05/2006 hướng dẫn đăng kí NQTM đã được ban hành. Đây là haivăn bản hướng dẫn khá chi tiết và đầy đủ về NQTM với việc xác định các vấn đề cơ bản như khái niệm quyền thương mại, điều kiện NQTM, hợp đồng NQTM, đăng kí hoạt động NQTM. Khi nghiên cứu pháp luật VN về hợp đồng NQTM, chúng ta sẽ nghiên cứu các vấn đề sau:
Chủ thể hợp đồng
Hình thức hợp đồng
Nội dung hợp đồng
Một số vấn đề khác liên quan đến hợp đồngNQTM
2.1. Chủ thể hợp đồng NQTM
Theo quy định tại luật thương mại 2005 và NĐ35 chủ thể hợp đồng NQTM gồm bên nhận quyền và bên nhượng quyền, tuy nhiên theo Đ290.LTM thì có thể còn xuất hiện thêm chủ thể thứ ba “bên nhận quyền có quyền nhượng quyền lại cho bên thứ ba (gọi là bên nhận quyền thứ cấp) nếu đựơc sự đồng ý của bên nhượng quyền, khi đó bên nhận lại quyền sẽ có các quyền và nghĩa vụ như bên nhận quyền theo quy định pháp luật”. Tuy nhiên quy định này không có nghĩa là bên nhượng quyền luôn có quyền từ chối nếu không muốn bên nhận quyền nhượng lại quyền cho bên thứ ba mà chỉ khi xảy ra một trong các trường hợp sau bên nhượng quyền mới có quyền từ chối (k3.Đ15. NĐ35):
• Bên dự kiến chuyển giao không đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính mà bên dự kiến nhận quyền chuyển giao phải thực hiện theo hợp đồng NQTM
• Bên dự kiến chuyển giao chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn lựa chọn của bên nhượng quyền trực tiếp
• Việc chuyển giao quyền thương mại sẽ có ảnh hưởng bất lợi lớn đối với hệ thống NQTM hiện tại
• Bên dự kiến nhận chuyển giao không đồng ý bằng văn bản sẽ tuân thủ các nghĩa vụ của bên nhận quyền theo hợp đồng NQTM
• Bên nhận quyền chưa hoàn thành các nghĩa vụ đối với bên nhượng quyền trực tiếp, trừ trường hợp bên dự kiến nhận chuyển giao cam kết bằng văn bản thực hiện các nghĩa vụ đó thay thế cho bên nhận quyền
Việc quy định các trường hợp bên nhận quyền có quyền từ chối việc bên nhận quyền nhượng lại quyền cho bên thứ ba đã làm hạn chế quyền của bên nhượng quyền và mở rộng quyền hạn của bên nhận quyền. Ngược lại qui định này cũng giúp bên nhượng quyền kiểm soát được hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền cũng như toàn bộ hệ thống nhượng quyền thương mại.
Đ5 và Đ6 NĐ35 qui định cụ thể điều kiện trở thành chủ thể đối với các thương nhân theo đó muốn trở thành bên nhượng quyền trong hợp đồng nhượng quyền Thương mại, thương nhân đó phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
• Hệ thống nhượng quyền kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động ít nhất 1 năm; trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 1 năm trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại
• Đã đăng kí hoạt động NQTM với cơ quan có thẩm quyền
• Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại không thuộc đối tượng cấm kinh doanh; Nếu thuộc danh mục hàng hóa, dich vụ hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
Đối với bên nhận quyền thì điều kiện rất đơn giản, thương nhân đó chỉ cần có đăng kí kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại là có thể kinh doanh NQTM.
2.2. Hình thức hợp đồng NQTM
Đ285 luật thương mại 2005 quy định hợp đồng NQTM phải được lập thành văn bản hoặc các hình thức pháp lý có giá trị tương đương. Quy định này rất phù hợp với tình hình hoạt động NQTM Việt Nam hiện nay vì đây là hoạt động khá mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ bằng hình thức văn bản mới có thể ghi nhận quyền và nghĩa vụ các bên một cách rõ ràng, cụ thể. Ngoài ra, quy định này cũng giúp nhà nước quản lý hoạt động NQTM tốt hơn, rõ ràng hơn.
Về ngôn ngữ của hợp đồng NQTM, Đ12.NĐ35 có quy định hợp đồng phải được lập thành tiếng việt, trong trường hợp nhượng quyền từ Việt Nam ra nước ngoài, ngôn ngữ hợp đồng sẽ do các bên thỏa thuận .
2.3. Nội dung hợp đồng
Theo quy định tại Đ11.NĐ35 thì “trong trường hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam, hợp đồng NQTM có thể có các nội dung chủ yếu sau đây:
Nội dung quyền thương mại
Quyền và nghĩa vụ các bên nhượng quyền
Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán
Thời hạn hiệu lực của hợp đồng
Gia hạn, chấm dứt hợp đồng NQTM
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu lần lượt các nội dung của hợp đồng NQTM
2.3.1. Về đối tượng hợp đồng NQTM
Như trên đã phân tích, đối tượng của hợp đồng NQTM chính là quyền thương mại, như vậy theo quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam thì đối tượng hợp đồng NQTM được hiểu như sau (K6.Đ3.NĐ35):
Quyền thương mại bao gồm một, một số hoặc tất cả các quyền sau đây:
Quyền được bên nhượng quền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo một hệ thống cho bên nhượng quyền quy định và gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
Quyền được bên nhượng quyền cung cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung.
Quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng NQTM chung.
Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại.
2.3.2. Về quyền và nghĩa vụ các bên
Được quy định từ Đ286 đến Đ289 LTM, theo đó quyền và nghĩa vụ các bên do các bên thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận, các bên sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ sau:
Bên nhượng quyền sẽ có các quyền sau: nhận tiền nhượng quyền; tổ chức quảng cáo cho hệ thống NQTM và mạng lưới NQTM; kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống NQTM và ổn định về chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Ngược lại bên nhượng quyền sẽ phải thực hiện một số nghĩa vụ như: cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền cho bên nhận quyền; thiết kế sắp xếp cửa hàng; bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền và phải đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống NQTM.
Hợp đồng NQTM là một loại hợp đồng song vụ, vì vậy quyền của bên nhượng chính là nghĩa vụ của bên nhận và ngược lại, từ đó ta có thể thấy bên nhận quyền có các quyền và nghĩa vụ như sau: Bên nhận quyền có quyền yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống NQTM và được đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền khác trong hệ thống NQTM. Bên nhận quyền có nghĩa vụ phải trả các loại phí cho bên nhận quyền; phải đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quền và các bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển gia; chấp nhận sự kiểm soát của bên nhận quyền; tuân thủ các yêu cầu về sắp xếp cửa hàng; điều hành hoạt động phù hợp hệ thống NQTM; không được nhượng quyền lại nếu không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền.
Để bảo vệ quyền lợi của bên nhượng quyền, pháp luật Việt Nam cũng quy định nghĩa vụ của bên nhận quyền sau khi hợp đồng NQTM chấm dứt. Theo đó bên nhận quyền phải ngừng ngay việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại…và các quyền sở hữu trí tuệ nếu có khi hợp đồng chấm dứt. Ngoài ra, bên nhận quyền luôn phải giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền trong quá trình kinh doanh và cả sau khi hợp đồng NQTM kết thúc hoặc chấm dứt.
2.3.3. Một số vấn đề liên quan khác đến hợp đồng NQTM
*) Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam thời điểm hợp đồng có hiệu lực tùy các bên thỏa thuận trong trường hợp các bên không thỏa thuận thì thời điểm có hiệu lực là thời điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên nếu trong hợp đồng có phần nội dung về chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ thì phần này có hiệu lực theo quy định pháp luật sở hữu trí tuệ (Đ14.NĐ35)
*) Thời hạn hợp đồng: Cũng như tất cả các nước trên thế giới, pháp luật VN quy định thời hạn hợp đồng do các bên thỏa thuận và khi hết thời hạn các bên có thể thỏa thuận để gia hạn thực hiện hợp đồng (Đ13.NĐ35)
*) Chấm dứt hợp đồng: Vì hợp đồng NQTM là một loại hợp đồng dân sự nên nó cũng sẽ chấm dứt nếu xảy ra một trong các trường hợp như: hợp đồng đã hoàn thành; theo thỏa thuận các bên; hợp đồng bị hủy bỏ, đơn phương chấm dứt; hợp đồng không thể thực hiện do đối tượng hợp đồng không còn; các trường hợp khác theo quy định pháp luật.
Mặt khác, Đ16 NĐ35 quy định trong các trường hợp sau, các bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng:
Bên nhận quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng NQTM trong trường hợp bên nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ theo quy định pháp luật
Bên nhượng quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu:
Bên nhận quyền không còn giấy phép kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị theo quy định pháp luật phải có để tiến hành công việc kinh doanh theo phương thức NQTM.
Bên nhận quyền bị giải thể hoặc bị phá sản theo quyết định của pháp luật Việt Nam.
Bên nhận quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng có khả năng gây thiệt hại lớn cho uy tín của hệ thống NQTM.
Bên nhận quyền không khắc phục được những vi phạm không cơ bản trong hợp đồng NQTM trong một thời gian hợp lí, mặc dù đã nhận được những thông báo bằng văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm đó từ bên nhượng quyền.
*) Đăng kí hoạt động NQTM: Đăng kí NQTM là thủ tục rất quan trọng trong hoạt động NQTM vì nó đảm bảo khả năng quản lí của nhà nước đối với hoạt động NQTM trên lãnh thổ của mình. Theo quy định NĐ35 và TT09 thì trước khi tiến hành hoạt động NQTM thương nhân dự kiến NQ (gồm cả bên nhượng quyền lần đầu và thứ cấp) phải đăng kí với cơ quan có thẩm quyền (Bộ thương mại đối với hoạt động NQTM từ Việt Nam ra nước ngoài và ngược lại; Sở thương mại đối với hoạt động NQTM trong nước). Bên dự kiến nhận quyền phải lập hồ sơ đề nghị đăng kí hoạt động NQTM và phải thực hiện việc đăng kí theo trình tự sau: Gửi hồ sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quỳen ; Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thực hiện đăng kí hoạt động NQTM vào sổ đăng kí, trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hoặc không hợp lệ cơ quan có thẩm quyền thông báo cho bên dự kiến nhượng quyền bổ sung, hoàn thiện hồ sơ; sau khi hết thời hạn luật định mà cơ quan nhà nước từ chối việc đăng kí thì phải thông báo bằng văn bản cho bên dự kiến nhượng quyền và nêu rõ lí do. Nếu không đồng ý với quyết định trên của cơ quan có thẩm quyền bên nhượng quyền có thể khiếu nại trong thời hạn do luật định
Khi có sự thay đổi thông tin đã đăng kí, bên nhượng quyền có trách nhiệm thông báo cho cơ quan có thẩm quyền nơi đã đăng kí hoạt động NQTM trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có thay đổi thông tin đó.
Đ22.NĐ35 quy định các trường hợp đăng kí hoạt động NQTM bị xóa:
Thương nhân kinh doanh NQTM ngừng kinh doanh hoặc chuyển đổi ngành nghề kinh doanh
Thương nhận bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày xóa đăng kí hoạt động NQTM của thương nhân thi cơ quan đăng kí có trách nhiệm công bố công khai việc đăng kí này.
*) Cung cấp thông tin: Theo pháp luật Việt Nam trách nhiệm cung cấp thông tin thuộc về cả hai bên chủ thể, nhưng chủ yếu là trách nhiệm của bên nhượng quyền. Theo quy định tại Đ8.NĐ35, bên nhượng quyền phải cung cấp bản sao hợp đồng NQTM mẫu và bản giới thiệu về hệ thống NQTM của mình cho bên dự kến nhận quyền ít nhất 15 ngày làm việc trước khi kí kết hợp đồng (nếu không có thỏa thuận khác). Khi có sự thay đổi quan trọng trong hệ thống NQTM làm ảnh hưởng hoạt động kinh doanh theo phương hức NQTM đối với bên nhận quyền thì bên nhượng quyền phải thông báo ngay cho bên nhận quyền. Trong trường hợp là bên nhượng quyền thứ cấp còn phải cung cấp các thông tin khác cho bên dự kiến nhận quyền như thông tin về bên nhượng quyền cho mình; nội dung NQTM chung; cách xử lý các hợp đồng NQTM thứ cấp trong trường hợp chấm dứt hợp đồng NQTM chung.
Bên dự kiến nhận quyền cũng có trách nhiệm cung cấp cho bên nhượng quyền các thông tin mà bên nhượng quyền yêu cầu một cách hợp lý để quyết định trao quyền thương mại cho bên dự kiến nhượng quyền.
Trên đây là các quy định pháp luật về hợp đồng NQTM ở Việt Nam, mặc dù các văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng này có hiệu lực chưa lâu, mới vài năm trở lại đây nhưng nó đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, không phù hợp với thực tế hoạt động của loại hình kinh doanh này. Sang chương 3 chúng ta cùng nghiên cứu về thực trạng hoạt động NQTM ở Việt Nam từ đó chỉ ra các điểm bất cập, không hợp lý giữa các quy định của luật và thực tế kinh doanh, từ đó nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về hợp đồng NQTM.
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng hoạt động NQTM ở Việt Nam
NQTM tuy đã xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng 15 năm trước nhưng đến nay nó vẫn được đánh giá là phương thức kinh doanh mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Trên thực tế, từ năm 1990 đến nay đã có nhiều thương hiệu lớn vào Việt Nam thông qua con đường NQTM, KFC đã thành công với hàng chục cửa hàng ở thành phố HCM, Hà Nội và sẽ tiếp tục mở rộng ở các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng. Nhiều thương hiệu nổi tiếng trên thế giới đã có mặt ở Việt Nam cũng thông qua phương thức kinh doanh này như trà Dimal, Quatelia, lotteria.
Tuy là phương thức kinh doanh khá mới mẻ nhưng NQTM cũng đã được một số thương nhân Việt Nam áp dụng và khá thành công. Không chỉ dừng lại trong nước các thương nhân VN còn có kế hoạch mở rộng thị trường ra các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trung nguyên là doanh nghiệp VN đầu tiên vận dụng phương thức kinh doanh này ở quy mô lớn, tính đến giữa năm 2002 đã có hàng trăm quán cà phê trung nguyên trên khắp 61 tỉnh thành trong cả nước và đến nay thương hiệu này đã có mặt khắp 64 tỉnh thành với khoảng 500 quán cà phê nhượng quyền chính thức và 2 triệu ly cà phê bán ra mỗi ngày[8]. Không chỉ dừng lại trong nước, năm 2000 cà phê Trung nguyên đã nhượng quyền thương hiệu thành công cho Singapo và hiện nay đã có mặt tại nhiều quốc gia như Nhật bản, Campuchia, Trung Quốc, Mỹ…Đối với các cửa hàng nhượng quyền chính thức của Trung nguyên, để được sử dụng thương hiệu cà phê Trung nguyên đều phải kí kết hợp đồng ràng buộc với công ty Trung nguyên, theo đó những cửa hàng này phải bày trí cửa hàng bàn ghế theo một mẫu chung, phải pha cà phê theo một công thức do Trung nguyên chuyển giao. Ngoài việc nhận khoản phí nhượng quyền, Trung nguyên còn thực hiện việc giám sát với các cửa hàng này về việc bảo vệ thương hiệu và cách thức quản lý cũng như cách pha chế cà phê đã quy định trước[2]
Nếu như cà phê trung nguyên là doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong mô hình kinh doanh NQTM thì chuỗi nhà hàng Phở 24 mới là doanh nghiệp làm phát triển phương thức kinh doanh này ở VN. Đây là chuỗi phở cao cấp và đang trên đà phát triển của VN nhờ chất lượng sản phẩm và mô hình kinh doanh đặc thù, dễ nhân rộng. Trong 2 năm đầu, thông qua các quán phở đầu tiên, Phở 24 tập trung mạnh vào xây dựng tính đồng bộ xuyên suốt tất cả các khâu của hoạt động kinh doanh Phở 24 với mục đích tạo nền tảng vững mạnh cho chiến lựơc NQTM dài hạn sau này. Với phương thức kinh doanh này, tính đến năm 2005 thương hiệu Phở 24 đã xây dựng được 35 cửa hàng tại 3 miền Bắc - Trung - Nam và có 3 cửa hàng nhượng quyền ở nước ngoài (2 Inđônêxia và 1 philippin). Theo dự kiến, tập đoàn Nam An (chủ thương hiệu Phở 24) sẽ xây dựng khoảng 80 cửa hàng nhượng quyền vào năm 2007 và 100 cửa hàng vào năm 2008. Với kết quả này, trong thời gian tới, Phở 24 sẽ mở rộng thương hiệu đến các nước trên thế giới và trong khu vực như Singapo, Malayxia, Đài loan...[3,Tr.116].
Bên cạnh đó một số thương hiệu Việt Nam cũng khá thành công trong nước khi kinh doanh NQTM như Kinh Đô với mạng lưới 150 nhà phân phối và trên 30.000 điểm bán lẻ trên khắp cả nước [4,Tr.74]; AQ Silk chuyển nhượng thành công nhẫn hiệu của mình tại Mỹ với giá 10.000 USD trong 10 năm; Thương hiệu thời trang Foci với 35 cửa hàng nhượng quyền trong tổng số 48 cửa hàng và mục tiêu lâu dài của họ là xây dựng một thương hiệu thời trang đẳng cấp quốc tế và đưa Foci ra thế giới bằng con đường NQTM.
NQTM đã xuất hiện ở VN khoảng thập niên 90, đến nay có khoảng 70 hệ thống NQTM nhưng chủ yếu là các thương hiệu nước ngoài nhượng quyền vào VN, con số này nếu đem so sánh với các nước trên thế giới và trong khu vực thì rất ít ỏi. Làm phép so sánh Việt Nam với Malayxia ta thấy thương hiệu gà rán KFC mới được nhượng quyền vào VN từ năm 1997 trong khi đã du nhập vào Malay từ năm 1970, còn chuỗi nhà hàng lớn nhất thế giới Mc Donald’s - biểu tượng của nước Mỹ- đã xuất hiện ở Malay từ 1981 mà đến nay còn chưa có mặt ở Việt Nam [4,Tr.16]. Điều này cho thấy hoạt động NQTM còn đang ở giai đoạn sơ khai, mới hình thành, tuy nhiên sau khi VN gia nhập WTO các thương hiệu lớn quốc tế sẽ tràn vào thị trường nội địa và ít nhiều sẽ làm thay đổi thói quen và cách suy nghĩ của cả người tiêu dùng lẫn các doanh nghiệp. Vai trò của thương hiệu chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều, dẫn theo sự lên ngôi của mô hình kinh doanh NQTM.
2. Một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng NQTM ở Việt Nam
Tuy đã được luật hoá qua các luật dân sự 2005, luật thương mại 2005 và luật chuyển giao công nghệ 2006… nhưng các quy phạm pháp luật điều chỉnh NQTM vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp với thực tế hoạt động NQTM hiện nay ở Việt Nam. Các quy định pháp luật về NQTM và hợp đồng NQTM chưa đủ tạo niềm tin cho các doanh nghiệp để họ kinh doanh theo phương thức này. Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại và hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng NQTM ở Việt Nam ta có thể đưa ra một số đánh giá và kiến nghị sau:
2.1. Về khái niệm NQTM
Tính đến hiện nay, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam chưa nhiều, mới chỉ tính trên đầu ngón tay nhưng các quy định lại không thống nhất và còn chồng chéo, chỉ riêng khái niệm về NQTM cũng chịu sự điều chỉnh của 2 văn bản pháp luật là luật chuyển giao công nghệ 2006 và luật thương mại 2005. Theo quy định của luật chuyển giao công nghệ (Đ12) thì việc chuyển giao công nghệ được thực hiện thông qua các hình thức sau:
- Hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập
- Phần chuyển giao công nghệ trong dự án hoặc hợp đồng sau đây:
+ Dự án đầu tư
+ Hợp đồng NQTM
+ Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
+ Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo
- Các hình thức khác theo quy định pháp luật
Như vậy, theo luật CGCN 2006 thì nhượng quyền thương mại là một loại chuyển giao công nghệ và nằm dưới sự quản lý của Bộ khoa học công nghệ. Tuy nhiên luật thương mại lại xác định NQTM là một hoạt động thương mại và chịu sự quản lý của Bộ thương mại. Như vậy, NQTM dường như đang bị kẹt giữa hai cơ quan quản lý nhà nước là Bộ thương mại và Bộ khoa học công nghệ mà mỗi Bộ có một định nghĩa và quy định khác nhau. Nếu xác định nhượng quyền thương mại thuộc sự điều chỉnh của luật thương mại thì các thương nhân tiến hành nhượng quyền sẽ đăng kí theo quy đinh luật thương mại (đối với hoạt động nhượng quyền thương mại trong nước, thương nhân sẽ đăng kí với sở thương mại nơi thương nhân dự kiến nhượng quyền dăng kí hoặc nơi đặt trụ sở chính; đối với hoạt động NQTM từ Việt Nam ra nước ngoài và ngược lại thì đăng kí với bộ thương mại (1.I.TT 09)) nhưng nếu xác định NQTM thuộc sự điều chỉnh của luật chuyển giao công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ đăng kí với cục sở hữu trí tuệ và bộ khoa học công nghệ. Như vậy đặt các doanh nghiệp vào thế bị kẹt giữa việc đăng kí với bộ thương mại và bộ khoa học công nghệ, mặc dù cho đến nay trên thực tế chưa có doanh nghiệp nào vướng vào vấn đề này nhưng cũng làm các doanh nghiệp dè chừng, e ngại trong việc tiến hành kinh doanh NQTM.
Trước thực trạng này, các nhà làm luật cần sửa đổi các quy định pháp luật, nên xác định cụ thể NQTM chỉ thuộc sự điều chỉnh của luật thương mại và do Bộ thương mại quản lí, với hoạt động chuyển giao công nghệ thực hiên thông qua hình thức hợp đồng nhượng quyền phải tuân theo quy định của luật thương mại và các văn bản hướng dẫn luật. Có như vậy Bộ thương mại (nay là Bộ công thương) với tư cách là cơ quan quản lí cao nhất về các hoạt động thương mại mới có thể quản lí hoạt động nhượng quyền một cách hiệu quả.
2.2. Về chủ thể
NĐ35.Đ5.K1 có quy định về điều kiện trở thành bên nhượng quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, theo đó thương nhân chỉ được phép cấp quyền thương mại khi hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 1 năm ở Việt Nam. Nếu trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức NQTM ít nhất 1 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại. Quy định như vậy sẽ làm mất đi ưu thế cạnh tranh, mở rộng thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài vì nếu các nhà đầu tư nước ngoài có đủ năng lực, điều kiện thì có thể mở rộng hệ thống để chiếm lĩnh thị trường, tăng khả năng cạnh tranh ngay từ thời gian đầu hoạt động mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ quy định tương tự nào từ phía nhà nước. Mặt khác quy định thời hạn như vậy cũng chưa chắc đủ cơ sở đảm bảo năng lực nhượng quyền của thương nhân bởi để tiến hành nhượng quyền, đòi hỏi bên nhượng quyền phải có khả năng tài chính, nhân sự để duy trì sự trợ giúp và kiếm soát thường xuyên liên tục đối với toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Ngoài ra quy định này cũng đặt ra một vấn đề Việt Nam là bên nhượng quyền thứ cấp (của bên nhượng quyền ban đầu là thương nhân ) có cần phải đáp ứng điều kiện “phải hoạt động theo phương thức nhượng quyền ít nhất 1 năm ở Việt Nam” như trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhượng quyền thứ cấp của bên nhượng quyền ban đầu là thương nhân nước ngoài hay không?
Giải pháp đặt ra trong trường hợp này là không nên quy định giới hạn về thời gian hoạt động của bên nhượng quyền mà chỉ nên quy định về các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật như quy định về khả năng tài chính, số cơ sở nhượng quyền, khả năng quản lí …của bên nhượng quyền. Vì những quy định như vậy mới mở rộng khả năng cạnh tranh cho các thương nhân nhượng quyền (đặc biệt là các thương nhân nước ngoài) và đảm bảo khả năng kiểm soát của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền cũng như toàn bộ hệ thống nhượng quyền thương mại.
2.3. Về nội dung hợp đồng
2.3.1. Vấn đề đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động nhượng quyền thương mại là một vấn đề rất quan trọng vì quyền sở hữu trí tuệ là cốt lõi của hoạt động này. Mặc dù đã có luật sở hữu trí tụê cùng các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như các cam kết quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ như công ước BERNE (Công ước về bảo hộ quyền tác giả), hiệp định TRIPs (Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ)… nhưng vấn đề bảo hộ quyền tác giả ở VN còn chưa được thực hiện hiệu quả. Thực tế cho thấy sự vi phạm bản quyền trong kinh doanh NQTM ở VN xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng. Các dạng vi phạm điển hình như hành vi làm trái với các quy định của chủ thương hiệu của các cửa hàng nhượng quyền hay hành vi “nhái” thương hiệu nhượng quyền. Cà phê Trung Nguyên tuy là doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình nhượng quyền khá lâu ở Việt Nam nhưng bảo vệ thương hiệu vẫn là vấn đề bức xúc của công ty.Tính đến hiện nay Trung Nguyên có khoảng 1000 cửa hàng cà phê nhượng quyền trên khắp cả nước nhưng cũng có đến vài trăm cửa hàng cà phê “nhái” mà cho đến nay công ty vẫn chưa xử lý được.
Để giải quyết vấn đề này, giải pháp đưa ra là các cơ quan chức năng cần áp dụng một các triệt để các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ đặc biệt khi có các vi phạm xảy ra. Mặt khác phải xây dựng các quy định pháp luật về vấn đề bảo vệ bản quyền trong NQTM vì hiện nay luật thương mại 2005 và NĐ35 mới chỉ đề cập đến đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, hay nói các khác cần xây dựng các quy định pháp luật để bảo hộ cho quá trình, hệ thống, cách thức tổ chức kinh doanh…(các tài sản trí tuệ) của bên nhượng quyền. Vì có như vậy bên nhượng quyền mới có thể yên tâm giao bí quyết, quy trình kinh doanh cho chủ thể khác khai thác, sử dụng. Khi đó quan hệ nhượng quyền mới có thể phát triển một cách lành mạnh với tốc độ tăng trưởng cao.
Luật sở hữu trí tuệ (Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005 và có hiệu lực ngày 01/07/2006) là một trong những văn bản pháp luật điều chỉnh gián tiếp hợp đồng NQTM. Tuy nhiên khi áp dụng các quy định của luật SHTT để điều chỉnh quan hệ NQTM thì có nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý. Có thể chỉ ra một số điểm đáng lưu ý trong việc áp dụng văn bản pháp luật này vào hợp đồng NQTM như sau:
Một là, việc xác định sự thành công, nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá trong hợp đồng NQTM là rất quan trọng, nhãn hiệu càng nổi tiếng thì giá trị “quyền thương mại” càng cao. Bởi thế cần có các tiêu chí để đánh giá như thế nào là một nhãn hiệu nổi tiếng. K20.Đ4.Luật SHTT đã đưa ra khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng như sau “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam ”. Ngoài ra, Đ75 của luật cũng đưa ra tiêu chí đánh giá một nhãn hiệu nổi tiếng như : phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ đó được lưu hành; thời gian sử dụng nhãn hiệu; uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu; số lượng quốc gia bảo hộ; giá chuyển nhượng; số lượng người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu…Tuy nhiên, thực chất các tiêu chí này chỉ mang tính định hướng mà chưa chỉ ra cụ thể cách xác định như thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng, điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tự đánh giá thương hiệu của mình.
Hai là, theo quy định tại K2.Đ10.NĐ35 thì “phần chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHCN trong hợp đồng nhượng quyền thương mại chịu sự điều chỉnh của pháp luật về SHCN”. Như đã biết hoạt động NQTM luôn gắn với các đối tượng SHCN như nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh…tuy nhiên đối tượng của NQTM không chỉ gồm những yếu tố đó mà còn gắn với các yếu tố khác được phát triển bởi bên giao quyền như bí quyết kỹ thuật, phương pháp, quy trình kinh doanh, các tiêu chuẩn chất lượng, tổ chức xây dựng và hoạt động kinh doanh….Vì vậy khi áp dụng các quy định của luật SHTT vào hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN riêng lẻ thì rất hợp lý nhưng nếu vận dụng vào quan hệ NQTM thì xảy ra một số điểm bất hợp lý như:
Thứ nhất, K1.Đ142 luật SHTT quy định tên thương mại là đối tượng SHCN không được chuyển giao, vì theo luật SHTT (K21.Đ4) tên thương mại là” tên gọi của các cá nhân, tổ chức dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”, quy định này rất hợp lý trong hợp đồng lisence, tuy nhiên nếu áp dụng vào hợp đồng NQTM thì không thể thực hiện được bởi tên thương mại là một trong những yếu tố cốt lõi tạo nên NQTM, nếu cấm chuyển giao quyền sử dụng tên thương mại thì bên giao quyền không thể thực hiện được việc nhượng quyền cho các đối tác mua quyền.
Thứ hai, Đa.K2.Đ144 luật SHTT quy định cấm bên được chuyển giao cải tiến đối tượng SHCN trừ NHHH, nếu áp dụng điều khoản này vào quan hệ NQTM có nghĩa là bên nhận quyền có quyền cải tiến NHHH của bên nhượng quyền. Điều này đi ngược với bản chất của hoạt động NQTM bởi đặc trưng của NQTM là tính đồng bộ và nghĩa vụ tuân thủ tuyệt đối của bên nhận quyền đối với mọi yêu cầu, quy định của bên nhượng quyền, nghĩa là bên nhận quyền không được thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong tất cả các đối tượng được chuyển giao từ bên nhượng quyền.
Nói tóm lại, NQTM tuy có các đặc điểm, tính chất giống với hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT nhưng nó có các đặc trưng riêng, vì vậy không thể áp dụng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động này vào NQTM mà cần phải có các quy định đặc thù về nội dung các đối tượng SHTT trong NQTM. Các vấn đề chung có thể dẫn chiếu đến luật SHTT để áp dụng, có như vậy mới có thể tránh được các xung đột giữa quy phạm về SHTT và các quy phạm về NQTM.
2.3.2. Về quyền và nghĩa vụ các bên chủ thể trong hợp đồng NQTM
K2.Đ284 luật thương mại 2005 quy định “bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh”, quy định như vậy có nghĩa là vấn đề “trợ giúp” cho bên nhận quyền của bên nhượng quyền không phải là bắt buộc, bên nhượng quyền có thể thực hiện hoặc không. Tuy nhiên K2.Đ287 luật thương mại lại quy định bên nhượng quyền có nghĩa vụ cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho bên nhận quyền để tién hành điều hành kinh doanh theo hệ thống NQTM. Như vậy đã có sự mâu thuẫn trong quy định của 2 điều luật này. Mặt khác qua thực tế ta có thể thấy quy định như Đ284 là chưa hợp lý vì nếu bên nhượng quyền không trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành kinh doanh thì hệ thống NQTM không đảm bảo tính đồng bộ và khó có thể tồn tại phát triển được.
Do đó, thay vì quy định “trợ giúp” là quyền, các nhà làm luật nên quy định nó là nghĩa vụ của bên nhượng quyền, theo đó K2.Đ284 sẽ có nội dung là “bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và nghĩa vụ trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh”.
Theo pháp luật Việt Nam, cung cấp thông tin là một trong những nghĩa vụ quan trọng của bên nhượng quyền trong suốt quá trình kinh doanh, vấn đề này được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Tuy nhiên đối với bên nhận quyền, quy định của pháp luật lại có phần lỏng lẻo, theo quy định tại Đ9.NĐ35 “bên dự kiến nhận quyền phải cung cấp cho bên nhượng quyền mà bên nhượng quyền yêu cầu một cách hợp lý để quyết định trao quyền thương mại cho bên dự kiến nhận quyền”, như vậy nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhận quyền chỉ tồn tại trước khi kí kết hợp đồng. Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng bên nhận quyền không cung cấp các thông tin về hoạt động kinh doanh của mình thì bên nhượng quyền khó có thể kiểm soát được công việc kinh doanh của bên nhận quyền. Điều này làm ảnh hưởng đến quyền “kiểm soát” của bên nhượng quyền được quy định tại K2.Đ284 và K3.Đ286. Vì vậy, nên bổ sung vào Đ9.NĐ35 trách nhiệm cung cấp thông tin của bên nhận quyền là trong cả quá trình kinh doanh chứ không chỉ ở giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng. Tuy nhiên bên nhận quyền cần lưu ý đến quy định “cung cấp các thông tin hợp lý” để xác định các thông tin phải cung cấp là thông tin nào, tránh sự lạm dụng quyền của bên nhượng quyền ảnh hưởng đến quyền tự do trong kinh doanh của mình.
Mặc dù pháp luật có quy định về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối với việc điều hành công việc kinh doanh của bên nhận quyền nhưng các quy định rất chung chung, không chỉ ra cụ thể bên nhượng quyền được kiểm soát như thế nào, trong lĩnh vực gì. Như thế dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền của bên nhượng quyền, xâm phạm đến quyền tự chủ trong kinh doanh của bên nhận quyền. Vì vậy để bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền pháp luật cần quy định một cách chặt chẽ hơn về giới hạn quyền kiểm soát của bên nhượng quyền (như việc quy định bên nhượng quyền không được ấn định doanh thu của bên nhận quyền, không được trực tiếp can thiệp vào công việc kinh doanh hàng ngày của bên nhận…), như thế mới đảm bảo quyền tự do, tự chủ trong kinh doanh của thương nhân nhận quyền
2.3.3. Một số vấn đề khác liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại
Một là về thời hạn hợp đồng: Đ13.NĐ35 quy định thời hạn hợp đồng NQTM do các bên thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế, vấn đề này rất khó thoả thuận bởi bên nhận quyền luôn muốn kéo dài thời hạn hợp đồng để thu hồi vốn và lãi, ngược lại bên nhượng quyền muốn yêu cầu hợp đồng NQTM thực hiện trong thời gian ngắn để có thể bổ sung thêm các điều kiện khắt khe đối với bên nhận quyền để thu lợi nếu bên nhận quyền vẫn muốn tiếp tục mua “ quyền thương mại “ của mình. Với thực tế pháp luật VN hiện nay là không quy định thời hạn tối thiểu của hợp đồng NQTM thì lợi thế càng về bên nhượng quyền, mặt khác quy định như vậy cũng không phù hợp với thông lệ quốc tế. Bởi vậy, trong điều khoản này nên bổ sung thêm quy định về thời hạn tối thiểu của hợp đồng NQTM, như thế mới bảo vệ quyền lợi cho bên nhận quyền và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hai là về chấm dứt hợp đồng: Đây là một vấn đề rất quan trọng trong hợp đồng NQTM vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của các bên trong hợp đồng và các chủ thể liên quan khác, do đó việc chấm dứt hợp đồng không thể thực hiện tuỳ tiện mà phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Pháp luật Việt Nam quy định những trường hợp các bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong Đ16.NĐ35, theo đó tại K1 xác định bên nhận quyền sẽ có quyền chấm dứt hợp đồng nếu bên nhượng quyền vi phạm các nghĩa vụ quy định tại Đ287 luật thương mại, nghĩa là bên nhận quyền sẽ có quyền chấm dứt hợp đồng khi có một vi phạm nghĩa vụ của bên nhượng quyền mà không cần biết mức độ vi phạm đó như thế nào. Quy định như vậy là bất bình đẳng cho bên nhượng quyền, vì vậy trong trường hợp này pháp luật nên quy định rõ mức độ vi phạm nghĩa vụ của bên nhượng quyền mà căn cứ vào đó bên nhận quyền mới có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng để tránh tình trạng lạm quyền của bên nhận quyền
Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng là các bên hoàn trả cho nhau những tài sản thuộc sở hữu của bên kia. Hợp đồng NQTM là loại hợp đồng đặc biệt với đối tượng là tài sản vô hình. Bởi vậy, sau khi hợp đồng chấm dứt (đặc biệt trong trường hợp một bên đơn phưong chấm dứt) rất dễ nảy sinh tranh chấp giữa các bên nếu việc giải quyết hậu quả không thoả đáng. Thoả thuận trong hợp đồng hay quy định của pháp luật về vấn đề này chính là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh nếu có, tuy nhiên pháp luật Việt Nam lại chưa có các quy phạm điều chỉnh, đây là một thiếu sót rất lớn của pháp luật về hợp đồng NQTM. Để giải quyết vấn đề này cần có các quy định của pháp luật về cách thức giải quyết hậu quả hợp đồng sau khi chấm dứt, mặc dù pháp luật không thể bao quát hết các trường hợp chấm dứt hợp đồng nhưng đó cũng là những quy định mang tính định hướng cho các bên trong việc giải quyết hậu quả hợp đồng sau khi chấm dứt và cũng là căn cứ giải quyết tranh chấp phát sinh.
Ba là về vấn đề đăng kí hoạt động NQTM:
Thứ nhất, về việc xác định thẩm quyền đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại, tại Đ18.NĐ35 và Thông tư 09 quy định sở thương mại có trách nhiệm đăng kí hoạt động NQTM trong nước, còn hoạt động NQTM từ Việt Nam ra nước ngoài (bao gồm cả hoạt động nhượng quyền từkhu chế xuất, khu phi thuế quan, hoặc các khu vực hải quan riêng ra nước ngoài) và ngược lại thuộc thẩm quyền của Bộ thương mại, nhưng lại không hề có quy định nào về việc xác định cơ quan có thẩm quyền trong việc đăng kí hoạt động từ nước ngoài vào các khu chế xuât, khu phi thuế quan, các khu vực hải quan riêng và ngược lại khiến các doanh nghiệp dự kiến nhượng quyền không biết phải đăng kí với cơ quan nào để tiến hành hoạt động. Vì vậy, nên quy định thêm vào Đ18 thẩm quyền của bộ thương mại trong việc đăng kí hoạt động NQTM trong những trường hợp trên vì bộ thương mại là cơ quan quản lí cao nhất về các hoạt động thương mại. Việc bổ sung quy định về thẩm quyền sẽ giúp bộ TM quản lý hoạt động NQTM của VN tốt hơn, chặt chẽ hơn.
Thứ hai về lệ phí đăng kí hoạt động NQTM, tại Đ23. NĐ35 quy định mức lệ phí đăng kí nhượng quyền do bên nhượng quyền dự kiến nộp cho cơ quan đăng kí với mức lệ phí theo quy định của bộ tài chính. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có văn bản nào của bộ tài chính quy định mức phí đăng kí nhượng quyền cụ thể, do đó dẫn đến sự lúng túng của cơ quan đăng kí khi tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng kí. Để giải quyết tình trạng này, Bộ thương mại cần phối hợp với Bộ tài chính để đưa ra mức lệ phí phù hợp để việc đăng kí hoạt động NQTM của các thương nhân diễn ra nhanh chóng, hiệu quả.
Một vấn đề nữa là với các quy định về thủ tục đăng kí với cơ quan có thẩm quyền trước khi kí kết hợp đồng NQTM làm cho hợp đồng này ngoài các thủ tục của một hợp đồng thương mại thông thường còn đi qua thêm một cửa xét duyệt. Mặc dù quy định như vậy sẽ đảm bảo khả năng kiểm soát môi trường kinh doanh NQTM vốn còn non trẻ ở VN tuy nhiên theo ông Frederic (phát biểu tại hội chợ triển lãm VN về Franchise tại Việt Nam tháng 06/2005) thì việc phải đi qua thêm một cửa này sẽ gây nhiều trở ngại cho doanh nghiệp và làm chậm đà phát triển của mô hình kinh doanh nhượng quyền tại VN.
Bốn là về vấn đề công bố thông tin trong hoạt động NQTM: Theo quy định tại IX phần B3 phụ lục III ban hành kèm theo TT09 thì bên nhượng quyền cần bố các thông tin về hệ thống NQTM cho cơ quan đăng kí như số lượng cơ sở kinh doanh của bên nhượng quyền đang hoạt động hoặc đã ngừng kinh doanh, các hợp đồng nhượng quyền đã kí với các bên nhận quyền, số lượng các hợp đồng nhượng quyền đã được chuyển giao cho bên thứ ba; … Việc quy định như vậy dường như đã can thiệp hơi sâu vào bí mật kinh doanh, làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên nhượng quyền. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho bên nhượng quyền, pháp luật nên hạn chế bớt yêu cầu cung cấp thông tin có thể ảnh hưởng đến bí mật kinh doanh của bên nhượng quyền.
Năm là vấn đề giải quyết tranh chấp trong hợp đồng NQTM: NQTM tuy là mô hình kinh doanh có nhiều ưu điểm nhưng nó cũng tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn có thể nảy sinh tranh chấp giữa các bên. Nếu trong hợp đồng, các bên thoả thuận cụ thể chi tiết điều khoản về giải quyết tranh chấp thì không có gì đáng bàn. Nhưng trên thực tế nhiều hợp đồng NQTM không hề có điều khoản nào quy định vấn đề này, khi đó căn cứ giải quyết tranh chấp giữa các bên chính là các quy định của pháp luật. Vậy mà luật thương mại 2005 và NĐ35 lại không có quy định nào đề cập đến vấn đề giải quyết tranh chấp trong hợp đồng NQTM (có chăng chỉ là việc áp dụng các chế tài trong giải quyết tranh chấp thương mại được quy định trong ba điều 317, 318 và 319 của luật thương mại). Vì thế các nhà làm luật cần bổ sung vào NĐ35 các điều khoản quy định vấn đề này để giúp việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho các bên trong hợp đồng.
Về vấn đề thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng NQTM: Trong hợp đồng NQTM bao giờ cũng có các điều kiên về hạn chế cạnh tranh giữa bên giao và bên nhận, những điều kiện về hạn chế cạnh tranh này có thể nói là hết sức nhạy cảm với pháp luật về cạnh tranh của quốc gia cũng như quốc tế, vì vậy hai bên phải hết sức cẩn thận khi đưa điều kiện này vào hợp đồng vì nếu một điều kiện nào đó trái với pháp luật về cạnh tranh thì hợp đồng coi như vô hiệu. Dưới góc độ pháp lý những điều kiện hạn chế cạnh tranh được coi là nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM, tuy nhiên luật Thương mại 2005 không có một quy định nào điều chỉnh về vấn đề này. Đây cũng là một trong những điểm bất cập, thiếu sót mà các nhà làm luật Việt Nam cần khắc phục trong việc xây dựng hệ thống pháp luật về NQTM ở Việt Nam.
Từ các phân tích trên có thể nhận thấy nền tảng pháp luật về hợp đồng NQTM ở Việt Nam hiện nay chưa thật vững vàng, hành lang pháp lý còn đi sau loại hình kinh doanh này. Điều này gây khó khăn cho các chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như đối với các cơ quan quản lí hoạt động NQTM. Một yêu cầu cấp bách đặt ra là phải xây dựng một hệ thống pháp luật về hợp đồng NQTM đủ mạnh, các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng phải có sức mạnh ràng buộc như luật đối với các bên, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động NQTM ở VN phát triển.
Bên cạnh đó, để hợp đồng NQTM được thực hiện một cách hiệu quả, các bên cần lưu ý một số vấn đề sau trước khi kí kết hợp đồng:
* Đối với bên nhận quyền
Thứ nhất, cần nắm rõ thông tin của bên nhượng quyền như tình hình kinh doanh, hệ thống kinh doanh nhượng quyền; tỷ lệ thành công của hệ thống; chính sách hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với các bên nhận quyền… Vì việc nắm rõ các thông tin đó giúp doanh nghiệp có cái nhìn toàn diện về doanh nghiệp nhượng quyền, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn trong việc nên hay không nên mua “quyền thương mại”
Thứ hai, cần nghiên cứu kỹ hồ sơ do bên nhượng quyền cung cấp để xem xét khả năng của mình có đáp ứng được các yêu cầu do bên nhượng quyền đưa ra không, các vấn đề cần nghiên cứu như: các khoản phí, quy định về đầu tư, khai trương, vận hành, sản phẩm…
Và cuối cùng là, trước khi quyết định mua franchise, bên nhận quyền cần tự đánh giá mình có phải mẫu người phù hợp để kinh doanh NQTM hay không, vì nếu bên nhận quyền là một người có đầu óc sáng tao, thích mạo hiểm trong kinh doanh thì rõ ràng không hợp để kinh doanh theo phương thức được đánh giá là “khá an toàn, ít rủi ro” này, vì một khi đã chấp nhận mua franchise, bên nhận quyền phải tuyệt đối tuân thủ quy định do bên nhượng quyền đặt ra.
* Đối với bên nhượng quyền:
Điều đầu tiên mà bất kỳ doanh nghiệp nào có ý định kinh doanh nhượng quyền thương mại phải nghĩ đến là đăng kí bảo hộ quyền SHTT cả trong và ngoài nước, có như vậy bên nhượng quyền mới ngăn ngừa được tình trạng tài sản trí tuệ của mình bị sử dụng, khai thác tự do, thậm chí còn bị chiếm đoạt (như cà phê Trung nguyên bị chính đối tác của mình ở Mỹ đăng ký bảo hộ thương hiệu ở Mỹ, sau đó Trung nguyên phải bỏ ra khoản tiền khá lớn để mua lại chính thương hiệu của mình, vì như thế mới xâm nhập được vào thị trường Mỹ). Đối với các thương nhân nước ngoài, đây là vấn đề rất quan trọng, tuy nhiên với các thương nhân VN, bảo vệ tài sản trí tuệ dường như chưa phổ biến. Vì vậy các thương nhân Việt Nam nên có ý thức hơn nữa trong việc chủ động bảo hộ quyền SHTT đặc biệt khi có ý định nhượng quyền ra nước ngoài.
Thứ hai, doanh nghiệp nhượng quyền phải xem xét cẩn trọng trong việc chọn đối tác nhận quyền, vì đây chính là một trong những nhân tố quyết định sự thành công cho hệ thống NQTM. Bởi nếu sau khi kí hợp đồng, bên nhận quyền không tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn của bên nhượng quyền có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một hệ thống, Do đó, bên nhượng quyền nên đặt ra các tiêu chuẩn khi lựa chọn đối tác nhận quyền. Ví dụ như phở 24 tiêu chuẩn đối với bên nhận quyền là “đối tác phải có sự đam mê tuyệt đối với mô hình kinh doanh NQTM để sau này không tự ý thay đổi, phá vỡ tính đồng bộ của hệ thống; phải có kinh nghiệm và khả năng quản trị điều hành và cuối cùng phải đủ vốn đầu tư (khoảng 60.000USD)”
Một điều đáng lưu ý nữa là các doanh nghiệp có ý định nhượng quyền nên sử dụng các chuyên gia tư vấn pháp lý, các chuyên gia tài chính, kiểm toán giúp mình trong việc soạn thảo hợp đồng NQTM mẫu, định giá “quyền thương mại” của doanh nghiệp cũng như khả năng tài chính của bên nhận quyền.
Nói tóm lại, để việc thực hiện hợp đồng NQTM có hiệu quả và thoả mãn lợi ích các bên, cần có hệ thống pháp luật riêng điều chỉnh một cách chi tiết và đầy đủ các vấn đề pháp lý liên quan hợp đồng NQTM. Đồng thời việc soạn thảo hợp đồng phải được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, chính xác làm căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp và là cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ các bên. Ngoài ra, sự hợp tác, thiện chí của các bên trong việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng cũng là một yếu tố quyết định sự thành công của hợp đồng NQTM.
KẾT LUẬN
Luận văn với kết cấu gồm 3 chương chính đã phần nào nêu được các đặc trưng của hợp đồng NQTM ở Việt Nam , từ đó có thể phân biệt với các hợp đồng thương mại khác tuy hình thức giống với NQTM nhưng lại khác về bản chất. Qua thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng NQTM ta có thể thấy những điểm bất cập, chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật, như quy định việc kinh doanh nhượng quyền phải đi qua các bước từ cấp phép, phân phối, đăng kí nguồn vốn với ngân hàng…đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp, trong khi vấn đề doanh nghiệp cần là hỗ trợ các văn bản đảm bảo quyền SHTT thì đang bị xem nhẹ. Mặt khác, hợp đồng chuyển nhượng quyền SHTT, cung cấp dịch vụ...cũng không được đảm bảo tính an toàn tuyệt đối. Ngoài ra nhiều vấn đề quan trọng trong hợp đồng NQTM chưa được đề cập đến trong các quy đinh pháp luật như vấn đề giải quyết tranh chấp, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng NQTM, hậu quả hợp đồng sau khi chấm dứt…Với những điểm bất cập như vậy đã làm cho hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam bị chững lại. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra là cần phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về nhượng quyền thương mại nói chung và hợp đồng NQTM nói riêng để tạo đà phát triển cho hoạt động NQTM.
Trong khi chờ đợi sự thay đổi, hoàn thiện của hệ thống pháp luật về hợp đồng NQTM, các bên chủ thể trong hợp đồng cần chủ động có biện pháp khắc phục, đó chính là việc soạn thảo hợp đồng chặt chẽ, chi tiết, đầy đủ làm cơ sở cho việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Để có thể thiết lập một hợp đồng chặt chẽ, thoả mãn lợi ích các bên, hai bên chủ thể cần lưu ý một số điểm trước khi kí kết hợp đồng (đã nêu trên). Tuy nhiên hợp đồng dù có được soạn thảo chi tiết, đầy đủ đến đâu cũng không mang lại lợi ích gì cho các bên nếu không được thực hiện hiệu quả, vì thế các bên chủ thể cần hợp tác với nhau để có thể khai thác triệt để thế lợi mà mô hình kinh doanh này mang lại.
Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng để phát triển phương thức kinh doanh nhượng quyền, với thời gian tồn tại chưa lâu nhưng hoạt động NQTM ở VN cũng đã có những bước khởi sắc và đang chờ thời cơ, cơ hội bùng nổ. Để tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh quá trình ấy, nhà nước cần phải xây dựng nền kinh tế thị trường vững mạnh và một môi trường pháp lý minh bạch, hiệu quả.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1): Thạc sỹ Điêu Ngọc Tuấn – “Những vấn đề cơ bản về nhượng quyền thương mại” – tạp chí toà án nhân dân số 9 (tháng 05/2005)
(2): Thạc sỹ Vũ Đặng Hải Yến – “Nhượng quyền thương mại – những vấn đề lý luận và thực tiễn” –Tạp chí luật học số 3 năm 2005
(3): Tiến sỹ Lý Quý Trung - “franchise – bí quyết thành công bằng mô hình kinh doanh nhượng quyền kinh doanh” - Nhà xuất bản trẻ 2006
(4): Tiến sỹ Lý Quý Trung - “Mua franchise – cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam” - Nhà xuất bản trẻ 2006
(5): Trần Ngọc Sơn – luật sư văn phòng luật sư Phạm và liên doanh – “nhượng quyền kinh doanh ở Việt Nam”.
(6): Luật Thương Mại 2005 Quốc hội ban hành ngày 14/06/2005 có hiệu lực ngày 01/01/2006
(7): Luật Sở hữu trí tuệ 2005 Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005 có hiệu lực ngày 01/07/2006
(8): Luật Chuyển giao công nghệ 2006 Quốc hội ban hành ngày 29/11/2006 có hiệu lực ngày 01/07/2007
(9): Nghị định số 35/2006/NĐ-CP Chính phủ ban hành ngày 31/03/2006 quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại
(10): Thông tư số 09/2006/TT- BTM do Bộ thương mại ban hành ngày 25/05/2006 hướng dẫn đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại.
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
NQTM Nhượng quyền thương mại
LTM Luật thương mại
CGCN Chuyển giao công nghệ
SHTT Sở hữu trí tuệ
NĐ Nghị định
TT Thông tư
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (57).doc