Sau gần năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, tuy có nhiều hạn chế, song những kết quả đạt được rất khả quan, đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển chung của Bảo Việt Hà Nội. Mặc dù đây là một nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống, được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam, song hàng năm tỷ lệ kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước còn nhỏ bé chứng tỏ thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta đầy tiềm năng. Trong giai đoạn sắp tới, khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới một cách đầy đủ và toàn diện hơn, kéo theo đó là sự phát triển của ngành ngoại thương, thì tiềm năng của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu còn lớn hơn nhiều. Đồng thời đây cũng là thị trường bảo hiểm béo bở cho các Công ty, Tập đoàn bảo hiểm nước ngoài nhảy vào đầu tư khai thác, vì thế làm cho thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước vốn đã cạnh tranh gay gắt lại càng cạnh tranh gay gắt hơn. Trước tình hình này, đòi hỏi các Công ty bảo hiểm phải có chiến lược kinh doanh hợp lý, đồng thời nâng cao hơn nữa chất lượng triển khai nghiệp vụ, để có thể đứng vững trong cạnh tranh.
Với những thế mạnh sẵn có của Bảo Việt Hà Nội, sự chỉ đạo kịp thời của Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam, sự lãnh đạo tài tình của Công ty bảo hiểm Hà Nội, cùng với sự nỗ lực cố gắng của tất cả các cán bộ bảo hiểm Phòng bảo hiểm hàng hải, cán bộ bảo hiểm Quận Huyện, các Đại lý và các Cộng tác viên bảo hiểm, chúng ta tin tưởng rằng việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm Hà Nội sẽ đủ sức để tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
89 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỷ đồng năm 1998tăng 622,22%, hoàn thành kế hoạchphòng đằt ra 191,18% và số hợp đồng bảo hiểm (đơn bảo hiểm ) tăng từ 62 đơn năm 1997 lên 303 đơn năm 1998. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, mà Bảo Việt Hà Nội đạt được kết quả như vậy có thể nói là hết sức khả quan. Nguyên nhân chủ yếu mà Bảo Việt Hà Nội đạt được như vậy là do có sự cố gắng rất cao của các cán bộ Bảo Việt Hà Nội và bước đầu triển khai đúng hướng mạng lưới đại lý và cộng tác viên phủ kín địa bàn Hà Nội để tận dụng và khai thác triệt để mối quan hệ với khách hàng, đặc biệt là khách hàng cũ và các dự án trong nước.
Thông qua việc phân tích kết quả của năm 1997 và năm1998, ta có thể mạnh dạn nhận xét rằng: những phương hướng nhiềm vụ và mục tiêu mà Bảo Việt Hà Nội nói chung và phòng bảo hiểm hàng hải nói riêng đặt ra như đã nói ở trên là đánh dấu sự trở lại thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển năm 1997 và tạo ra bước ngoắt quan trọng có ý nghĩa chiến lược với Công ty, về cơ bản là đã thực hiện được một cách xuất sắc.
Trong hai năm 1999, 2000 tốc độ tăng giá trị xuất nhập khẩu tham gia ở Bảo Việt Hà Nội bắt đầu có dấu hiệu giảm xuống từ 699,29% năm 1998 xuống 69,72% năm 1999 và 34,85% năm 2000. Song tỷ lệ này vẫn còn cao hơn nhiều so với tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của Hà Nội (tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của Hà Nội năn 1998 là 25,49%, năm 1999 là 7,91% và năm 2000 là 11,94%).
Năm 1999, có thể nói là năm khó khăn đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá trên cả nước, doanh thu của toàn thị trường bảo hiểm hàng hoá giảm 5,14%. Bảo Việt Hà Nội cũng không tránh khỏi việc doanh thu của nghiệp vụ này bị giảm, doanh thu năm 1999 là 3,120 tỷ đồng giảm 0,04% so với năm1998 là 3,250 tỷ đông. Nguyên nhân chủ yếu làm cho doanh thu của Bảo Việt Hà Nội bị giam trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu bảo hiểm (giá trị bảo hiểm ) của Bảo Việt Hà Nội vẫn tăng (tăng 1480,2 tỷ đồng hay 69,72%) là do tỷ lệ phí bình quân bị hạ thấp 0,4344 lần về số tuyệt đối là -0,0665%, giảm từ 0,1531% năm 1998 xuống còn 0,0866% năm 1999. Mặc dù doanh thu bị giảm song so với kế hoạch đặt ra Công ty vẫn hoàn thànhvà vượt kế hoạch, tỷ lệ hoàn thành là 115,17%.
Năm 2000 là năm bản nề cho thế kỷ 21, trên địa bàn thủ đô, cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt giữa các công ty Bảo hiểm, Bảo Việt Hà Nội xác định được khó khăn nên đặt ra kế hoạch cho năm 2000 là 1,8 tỷ đồng, trên thực tế doanh thu thực hiện là 3,53 tỷ đồng, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch là 196,11% và vượt doanh thu năm1999 là 13,14%. Sở dĩ đạt được kết quả bất ngờ như vậy là do Công ty chưa đánh giá hết hiệu quả của việc đưa chính sách "khoán lương" vào thực tế, tức là ngoài việc trả lương cơ bản cho cán bộ thì Công ty còn trả lương trên cơ sở doanh thu và hiệu quả khai thác của từng cán bộ bảo hiểm.
Riêng năm 2001, có thể nói là năm đầy khó khăn và thử thách đối với Bảo Việt Hà Nội. Mặc dù Bảo Việt Hà Nội đã ý thức được những khó khăn và thử thách từ đó đề ra biện pháp tích cực để tăng doanh thu như tổ chức đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, mở rộng tuyển dùng đào tạo mạng lưới đại lý và cộng tác viên bảo hiểm. .. . . . song kết quả đạt đươc vẫn không hoàn thành kế hoạch đặt ra, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch là 94,49%. Doanh thu thực hiện năm 2001 là 2,281 tỷ đồng, giảm 35,38% so với năm 2000. Những tác động chủ yếu đưa đến tình trạng này là:
Thứ nhất: trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trên đà suy giảm nhịp độ tăng trưởng, cộng thên ảnh hưởng tiêu cực của vụ khủng bố ngày 11/9/2001 vào trung tâm thương mại thế giới (would trade central) tại mỹ làm cho thương mại thế giới suy giảm nhanh hơn, tất yếu làm cho đầu ra lớn nhất của nền kinh tế nước ta là xuất khẩu bị " co lại" rất nhanh. Mặt khác sức mua trong nước suy giảm mạnh càng làm cho tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta nói chung và của Hà Nội nói riêng bị chậm lại, tình trạng này gây khó khăn đáng kể cho Bảo Việt Hà Nội tăng số đơn bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Thứ hai: cũng trong 2001, ngoài tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu bị chậm lại thì giá xuất nhập khẩu của nhiều mặt hàng giảm mạnh so với năm 2000 hoặc ở mức thấp. Chẳng han giá cà phê xuất khẩu giảm 23,2%, giá dầu thô giảm 9,3%, giá gạo xuất khẩu giảm 11,8%, giá xăng dầu nhập khẩu giảm 9,1% giá hạt tiêu xuất khẩu giảm 38%..... làm cho giá làm cho giá trị mỗi hợp đồng khai thác được thấp. Xem xét bảng 5 ta sẽ thấy số lượng đơn bảo hiểm khai thác được năm 2001 là 680 đơn tăng 172 đơn so với năm 2000, song số tiền bảo hiểm bình quân một đơn năm 2001 chỉ có 5,16 tỷ đồng/đơn giảm 4,112 tỷ đồng hay 44,35% so với năm 2000. Giá trị xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm năm 2001 chỉ có 3509,7 tỷ đồng thấp hơn năm 2000 với 4710,1 tỷ đồng là 1200,4 tỷ đồng.
Thứ ba: có thể nói năm 2001 là năm mà các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài gặt hái được nhiều thành công, sau một thời gian hoạt động đã dần ổn định và bắt đầu mở rộng hoạt động khai thác, chứng tỏ khả năng ưu việt của mình cả về vốn, chuyên môn, chất lượng dịch vụ..... điều này làm cho thị phần của các công ty bảo hiểm vốn trong nước bị giảm mạnh. Thị phần của Bảo Việt giảm tới 5,6% giảm từ 38,7% năm 2000 xuống còn 32,77% năm2001. Sự cạnh tranh hết sức gay gắt giữa các Công ty bảo hiểm trên thị trường cả nước và đặc biệt là trên thị trường Hà Nội đã làm cho tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân toàn thị trường giảm mạh. Riêng tỷ lệ phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển toàn thị trường giảm từ 3% - 6%. Trong bối cảnh trung, tỷ lệ phí bình quân của Bảo Việt Hà Nội cũng giảm mạnh, giảm từ 0,075% năm 2000 xuống còn0,065% năm 2001. Tỷ lệ phí giảm xuống làm cho doanh thu phí giảm theo.
Trên đây là 3 nguyên nhân chính làm cho doanh thu phí nghiệp vụ này của Bảo Việt Hà Nội đạt ở mức thấp.
Nhìn lại bảng năm cho thấy, trong suốt giai đoạn 1997 - 2001, tỷ lên phí bảo hiểm bình quân giảm liên tục ở mức độ rất cao về cả số tuyệt đối và số tương đối. Việc tỷ lệ phí bình quân giảm không loại trừ do thay đổi cơ cấu hàng xuất, nhập khẩu, song nếu cứ đà này thì sang năm 2002, 2003 tỷ lệ phí sẽ còn lại bao nhiêu%?. việc cạnh tranh thông qua hạ tỷ lệ phí là cần thiết song việc hạ tỷ lên phí quá mức sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán là điều khó tránh khỏi.
Cũng qua bảng 5 cho ta thấy tỷ lên tham gia bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội tăng liên tục và tăng ở mức khá cao, tuy năm 2001 có giảm song đây là kết quả lý tưởng thể hiện khả năng cạnh tranh cũng như năng lực làm việc của Bảo Việt Hà Nội cần được duy trì và phát huy.
3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có vai trò rất quan trọng. Thực hiện tốt công tác này sẽ tránh được những tổn thất không đáng có sẩy ra. Nhận thức vai trò của công tác này,Bảo Việt Hà Nội đã thực hiện đúng chế độ đề phòng và hạn chế tổn thất hàng hoá do tổng công ty quy định. Cụ thể, và những hàng hoá có sự tổn thất tại cảng ngày một gia tăng như : hạt nhựa, hoá chất đóng bao,..... khi cấp đơn bảo hiểm Công ty đã ghi rõ tên, địa chỉ Công ty có trách nhiệm giám sát hàng hoá được bốc giỡ. Cán bộ giám sát sẽ kịp thời có biện pháp can thiếp sử lý khi có tổn thất. Để đối phó với tình trạng chủ tàu lừa đảo chiếm đoạt hàng hoá. .... Bảo Việt Hà Nội đã yêu cầu phòng bảo hiểm hàng hải trước khi vấp đơn bảo hiểm phải kiểm tra thông tin về bảo hiểm P and I của chủ tàu đồng thời trên đơn bảo hiểm tại mục điều kiện bảo hiểm phải ghi thêm câu "với điều kiện tàu chở hàng phải được bảo hiểm P and I tại hội bảo hiểm P and I hoặc tương đương". Còn đối phó với tình trạng trộm cắp, cố ý làm rách vỡ, hư hại hàng hoá để kiếm lợi của công nhân bốc rỡ...... Công ty đã cử nhân viên hoặc đại lý chuyên trách xuống tận nơi để giám sát các hoạt động xếp dỡ hàng hoã xem có đúng quy cách và thông lệ, tập quán quốc tế không. Đồng thời kiểm tra về số lượng và chủng loại hàng hoá trước khi chuyển từ tàu xuống phương tiẹn vận chuyển lưu kho và trước khi nhập kho, nếu hàng hoá bị thiếu hoăc không đúng chủng loại thì người vận chuyển hoàn toàn chịu trách nhiệm. Ngoài ra, Công ty đã phối hợp với bảo vệ cảng thực hiện xoá bỏ các tụ điểm, những điểm buôn bán không hợp pháp nhằm hạn chế việc tiêu thụ hàng hoá bị đánh cắp tại cảng. Công ty cũng kiến nghị các cơ quan chức năng xử phạt nghiêm khắc những ai cố tình vi phạm quy định của cảng.
Nhìn chung công tác đề phòng và hạn chế tổn thất của Bảo Việt Hà Nội những năm qua đã đạt được những kết quả có ý nghĩa lớn trong việc tăng hiệu quả triển khai nghiệp vụ. Tuy nhiên công tác đề phòng và hạn chế tổn thất còn có những hạn chế nhất định:
Do thiếu kinh nghiệm trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất mà Bảo Việt Hà Nội đã bồi thường cho một số vụ tổn thất mà nguyên nhân của nó là do hành vi lừa đảo của chủ tàu, tàu không đủ khả năng đi biển, tàu già. ..... đã gây ra những tổn thất trong quá trình vận chuyển mà không được ngăn ngừa kịp thời.
Lực lượng cán bộ làm công tác đề phòng và hạn chế tổn thất ở Bảo Việt Hà Nội còn thiếu về số lượng do vậu hiệu quả công việc còn chưa cao, bên cạnh đó giữa Công ty và các cấp các ngành liên quan chưa có sự phối hợp đồng bộ trong điều hành và kiểm tra công tác đề phòng và hạn chế tổn thất nên đã tạo khe hở cho người tham gia bảo hiểm lợi dụng để buông lỏng công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Việc chi cho đề phòng và hạn chế tổn thất của công ty vẫn cong thấp chiếm khoảng 0,001% tổng doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ. Con số này cho thấy công tác đề phòng và hạn chế tổn thất của nghiệp vụ này chưa được quan tâm thoả đáng. Như vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ cũng như gây ra một số khó khăn cho việc khai thác.
4. Công tác giám định và bồi thường.
Có thể nói, trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển đường biển thì khâu giải quyết khiếu nại bồi thường là khâu phức tạp nhất và cũng là khâu quyết định lòng tin của khách hàng đối với Công ty bảo hiểm. Nó thể hiện rõ nét nhất chất lượng dịch vụ bảo hiểm. Trên thực tế, với uy tín của Bảo Việt có trên 30 năm kinh nghiệm có quỹ bồi thường lớn Bảo Việt Hà Nội đã giải quyết rất nhiều vụ khiễu nại hàng hoá một cách nhanh chóng và chính xác tạo được tín nhiệm với khách hàng. Đã có một số khách hàng hoá sau một thời gian tham gia bảo hiểm tại một số công ty bảo hiểm mới ra đời hoặc Công ty bảo hiểm nước ngoài đã quay trở lại mua bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội với lý do chính là các Công ty bảo hiểm đó không giải quyết một cách chính xác, nhanh chóng việc bồi thường khi có tổn thất xảy ra hoặc thủ tục bồi thường quá rườm rà.
Nếu như khâu khai thác là khâu quan trọng hàng đầu, là cơ sở cho các khâu tiếp theo thì khâu giám định lại là khâu đầu tiên quan trọng nhất của việc giải quyết khiếu nại.
Khâu giám đinh được thực hiện tốt là cơ sở để tiến hành bồi thường cho khách hàng chính xác, đúng thiệt hại, vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng lại vừa tránh được thiệt hại cho Công ty. Trình tự giám định nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu được tiến hành như sau:
Bước 1: Nhận và sử lý yêu cầu giám định.
Khi phát hiện có tổn thất hoặc nghi ngờ có tổn thất, người được bảo hiểm phải gửi ngau thông báo yru cầu giám định cho Bảo Việt Hà Nội. Sau khi nhận được yêu cầu giám định, Bảo Việt Hà Nội sẽ xem xét, nếu là vụ tổn thất nhỏ thì đại lý giám định của hệ thống Bảo Việt trên toàn quốc gần nhất cử giám định viên của mình đến giám định. Đối với những vụ tổn thất lớn, Bảo Việt Hà Nội sẽ phối hợp với Tổng Côngty để xin ý kiến hoặc cử giám định viên có chuyên môn và kinh nghiệm đến giám định. Trong trường hợp Bảo Việt Hà Nội không đủ khả năng giám định hoặc là tổn thất sảy ra ở dịa bàn xa hay ở nước ngoài thì Bảo Việt Hà Nội sẽ yêu cầu đại lý giám định của mình ở nước ngoài hoặc thuê một cơ quan chuyên trách đảm nhiệm việc giám định.
Bước2: Thực hiện giám định:
Việc giám định bắt đầu ngay từ khi xem xét các văn bản có liên quan đến tình trành hàng hoá, hiệu lực bảo hiểm, các điều kiện bảo hiểm, kiểm tra các giấy tờ đăng kiểm, chứng minh tàu có đủ khả năng đi biển, các biên bản chứng nhận tổn thất về hàng hoá do tàu hoặc chính quyền cảng dỡ hàng cung cấp.
Tiến hành giám định được thực hiện tại hiện trường nơi sẩy ra tai nạn gây tổn thất hàng hoá (nếu có điều kiện ) hoặc tại cảng đầu tiên khi xảy ra thiệt hại.
Bước 3: Lập biên bản và cung cấp biên bản giám định.
Sau khi thực hiện giám định, giám định viên phải tổng kết, phân tích và phải phản ánh toàn bộ những sự kiện xảy ra tại hiện trường vảo trong biên bản giám định để người yêu cầu giám định có cơ sở pháp lý khiếu nại người có trách nhiệm với tổn thất đó.
Sau 15 ngày kể từ ngay nhận được yêu cầu giám định, giám định viên phải cấp biên bản giám định cho người yêu cầu giám định. Từ đây việc giám định kể như hoàn tất.
Sau khi nhận được đầy đủ hồ sơ yêu cầu bồi thường từ phía khách hàng, Công ty sẽ xem xét, đánh giá khiếu nại để quyết định có bồi thường hay không?.
Trong trường hợp tổn thất không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt Hà Nội sẽ gửi công văn từ chối bồi thường, trong dó nói rõ lý do từ chối bồi thường.
Nếu tônt thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, Công ty sẽ giải quyết bồi thường nhanh chóng cho khách hàng, giúp họ khắc phục khó khăn. Phương châm mà Bảo Việt Hà Nội đề ra để thực hiện công tác bồi thường cho cán bộ Công ty thực hiện là "bồi thường chính xác, kịp thời, nhanh chóng, hợp tình, hợp lý".
Trong một số trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm với giá trị bảo hiểm lớn, thường xuyên mà tổn thất sẩy ra nhỏ, rủi ro gây ra tổn thất khó xác định có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, thì để giữ khách hàng Bảo Việt Hà Nội sẽ xem xét bồi thường cho khách hàng.
Bảng6: Chi bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển đường biển của Bảo Việt Hà Nội (1997 - 2001).
Stt
Chỉ tiêu
Đơn
vị
1997
1998
1999
2000
2001
1
Tổng kim ngạch bảo hiểm (GTBH)
Tỷ đồng
265,62
2.123,1
3.603,3
4.710,1
3.509,7
2
Tổng phí bảo hiểm
Triệu đồng
450
3.250
3.120
3.530
2.281
3
Tổng chi bồi thường
Triệu đồng
132
831
990
1300
1382
4
Tỷ lệ tổn thất
%
0,049
0,039
0,027
0,028
0,039
5
Tỷ lệ bồi thường
%
29,33
25,57
31,73
36,83
60,58
6
Tốc độ tăng chi bồi thường
%
---
529,55
19,13
31,31
6,31
7
Tốc độ tăng tổng phí bảo hiểm
%
---
622,22
-0,04
13,14
-35,38
8
Tổng chi nhiệp vụ
Triệu đồng
178,4
1167,4
1302.9
1667,0
1589,5
9
Tỷ lệ chi bồi thường
%
73,99
71,18
75,98
77,98
86,95
(Nguồn theo báo cáo tổng hợp phòng hàng hải.) Qua bảng thống kê cho thấy: tỷ lệ bồi thường từ năm 1997 đến năm 2001 có xu hướng tăng lên, trong giai đoạn 1997-2000 tỷ lệ chi bồi thườnglà khá thấp, năm cao nhất cũng chỉ 36,83%, riêng năm 2001 tỷ lệ bồi thường là 60,58% cao hơn so với tỷ lệ bồi thường chung của toàn thị thường bảo hiểm hàng hoá ( tỷ lệ bồi thường chung của toàn thị trường bảo hiểm hàng hoá năm 2001 lá 60%). Nhìn vào tỷ lệ tổn thất năm 1998 ta sẽ thấy bằng tỷ lệ tổn thất năm 2001 là 0,039%, song tỷ lệ bồi thường năm 1998 chỉ có 25,57% (trong khi tỷ lệ bồi thương năm 2001 lă 60,58%). Điều này chứng tỏ rằng tỷ lệ bồi thường năm 2001 cao có nguyên nhân chủ yếu là do tỷ lệ phí năm 2001 khá thấp. Việc tỷ lệ phí thấp làm cho doanh thu giảm đi từ đó tỷ lệ bồi thường tăng nên.
Cũng qua bảng 6 cho thấy rằng, lỷ lệ chi bồi thường có xu hướng tăng lên qua các năm từ 71,18% năm 1998 nên 75,98% năm 1999, 77,89% năm 2000 và 86,95% năm 2001. Ngoài ra, ta còn thấy rằng trong cơ cấu chi nghiệp vụ thì chi bồi thường là khoản chi chủ yếu, trung bình cả giai đoạn 1997- 2001 thì tỷ lệ chi bồi thường chiếm khoảng 75% tổng chi nghiệp vụ, trong khi đó tỷ lệ bồi thường trung bình cả giai đoạn 1997- 2001 chỉ khoảng 35% chứng tỏ rằng việc chi ngoài bồi thường như chi tiền lương, chi hoa hồng đại lý, chi đề phòng và hạn chế tổn thất. ... là rất có hiệu quả(các khoản chi ngoài chi bồi thường chỉ chiếm khoảng 25% chi nghiệp vụ ). Đồng thời cũng chững tỏ rằng việc kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này của Công ty trong giai đoạn nay là rất có hiệu quả.
Mặc dù trong cả giai đoạn 1997 - 2001 việc kinh doanh của Công ty là có hiệu quả song nếu quan sát tốc độ tăng chi bồi thường và tốc độ tăng tổng chi phí bảo hiểm qua các năm ta sẽ thấy rằng hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ này cuả công ty có xu hướng giảm dần ( do tốc độ tăng chi bồi thường tăng nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu phí).
Nói tóm lại, mặc dù tỷ lệ bồi thường ở Bảo Việt Hà Nội có xu hướng ngày một tăng, song Bảo Việt Hà Nội thực hiện rất tốt công tác giám định bồi thường vì vậy cho đến nay hầu như không phát sinh tranh chấp, khiếu nại. Điều nay thể hiện sự cố gắng đáng ghi nhận của các cán bộ công ty, góp phần củng cố và nâng cao uy tín của Công ty.
5. Công tác "Truy đòi người thứ ba".
Việc "Truy đòi người thứ ba" là một việc hết sức cần thiết bởi nó giảm gánh nặng tổn thất cho Bảo Việt Hà Nội, song đây là một công việc tương đối phức tạp, đặc biệt là trong trường hợp "người thứ ba" là bên nước ngoài.
Việc đòi người thứ ba cần phải có cơ sở pháp lý và bằng chứng đầy đủ. Cơ sở pháp lý ở đây là theo luật quy định, bằng chứng ở đây là các biên bản giám định tổn thất, biên bản của cơ quan pháp luật về việc người thứ ba có lỗi trong việc gây ra tổn thất hàng hoá trong đó ghi rõ trách nhiệm và mức độ lỗi. Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu người thứ ba có thể là người chuyên chở chính, người chuyên chở khác, người làm công, chủ hàng khác......
Khi phát sinh tổn thất có liên quan đến người thứ ba,Bảo Việt Hà Nội có thể bồi thường cho chủ hàng trước đồng thời yêu cầu chủ hàng bảo lưu quyền khiếu lại người thứ ba và chuyển quyền này cho Bảo Việt Hà Nội cùng toàn bộ hồ sơ liên quan.
Việc đòi người thứ ba bao gồm các công việc như: Xác định đối tượng đòi, lập hồ sơ khiếu lại, khiếu nại bên thứ ba. Việc khiếu nại bên thứ ba có thể thực hiện thông qua đàm phán, khởi tố, giao phó luật sư hay đại lý đòi hộ, khiếu nại lên các cơ quan ngoại giao của các nước nmà chủ tàu mang quốc tịch đề nghị can thiệp.
Việc đòi người thứ ba của Bảo Việt Hà Nội thường xem xét dựa trên cơ sở so sánh giữa chi phí bỏ ra để thực hiên công tác truy đòi với số tiền dự kiến đòi được.
Qua một số năm thực hiện công tác truy đòi người thứ ba ở Bảo Việt Hà Nội, kết quả thu được như sau:
Đơn vị triệu đồng
Năm
1998
1999
2000
2001
Kết quả truy đòi
135
142
150
165
Kết quả này tuy nhỏ song cũng phần nào giảm gánh nặng bồi thường cho Bảo Việt Hà Nội.
6. Kết quả và hiệu quả kinh doanh.
Kết quả và hiệu quả kinh doanh của một nghiệp vụ, phản ánh một cách tổng hợp việc kinh doanh nghiệp vụ đó từ khâu khai thác cho đến khâu bồi thương và nó có ý nghĩa rất liứn trong việc mở rộng và hoàn thiện nghiệp vụ.
Kết quả kinh doanh là số tuyết đối, phản ánh cụ thế kết quả đạt được khi thực hiện công việc nào đó. Trong Bảo hiểm kết quả kinh doanh có nhiều chỉ tiêu như: doanh thu, lợi nhuận, số hợp đồng khai thác được . ... song ở phần này chỉ sử dụng hai chỉ tiêu cơ bản là: doanh thu và lợi nhuận.
Tổng doanh thu = Tổng phí bảo hiểm thực thu + các khoản thu khác.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - tổng chi phí.
Trong đó:
Tổng chi phí = Chi bồi thường + chi hoa hồng + chi đề phòng và hạn chế tổn thất + chi quả lý + chi khác.
Là những đơn vị khinh doanh mang tính chất dịch vụ nên hiệu quả kinh doanh của công ty bảo hiểm là thước đo sự phát triển của công ty và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả nhất định nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội.
Hiệu quả kinh doanh là số tương đối được các định bằng tỷ số so sãnh giữa kết quả và chi phí của nghiệp vụ đó. Nếu lấy mỗi chỉ tiêu kết quả kinh doanh so với một chỉ tiêu chi phí để tạo ra kết quả kinh doanh đó xẽ có một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh hoăc hoặc ngược lại lấy chỉ tiêu chi phí chia cho chỉ tiêu kết quả kinh doanh ta cũng có một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh.
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài náy sử dụng hai chỉ tiêu hiệu quả tiêu biểu là: Hiệu quả theo doanh thu và hiệu quả theo lợi nhuận.
Hiệu quả theo doanh thu.
Hiệu quả theo doanh thu =
Doanh thu trong kỳ
Tổng chi phí trong kỳ
Hiệu quả theo doanh thu phản ánh cứ một đồng hay một đơn vị chí phí bỏ ra trong kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng hau đơn vị doanh thu trong kỳ.
Hiệu quả theo lợi nhuận
Hiệu quả theo lợi nhuận =
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng chi phí trong kỳ
Hiệu quả theo lợi nhuận phản ánh cứ một đồng chi phí bỏ ra trong kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ.
Trong năm năm từ 1997 - 2001 tình hình thực hiện việc triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Hiểm Hà Nội thể hiện qua bảng sau.
Bảng 7: kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển (1997 - 2001)
Hiệu quả theo
Lợi nhuận
8 = 6/5
Đồng / đồng
1,52
1,78
1,39
1,12
0,44
Doanh thu
7 = 1/5
Đồng/ đồng
2,52
2,78
2,39
2,12
1,44
Lợi nhuận
6 = 1- 5
Triệu đồng
271,6
2.082,5
1.817,1
1.866,0
691,5
Chi phí
Tổng chi phí
5=2+3+4
Triêu đồng
178,4
1167,4
1302,8
1667,0
1589,5
Chi khác
4
Triệu đồng
37,2
268,2
249,6
209,3
161,9
Hoa hồng
3
Triệu đồng
9,20
68,25
62,40
76,70
45,62
Bồi thường
2
Triệu đồng
132
831
991
1.300
1.382
Doanh thu nghiệp vụ
1
Triệu đồng
450
3.250
3.120
3.533
2.281
Chỉ tiêu
Đơn . vị
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Triệu Đồng
Biểu 2.
Năm
Biểu đồ doanh thu, chi phí, lợi nhuận của Bảo Việt Hà Nội. Trong việc kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu (1997-2001)
Qua bảng 7 cho ta có một số nhận xét sau:
Thứ nhất: Trong năm năm triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Việt Hà Nội, năm nào nghiệp vụ này cũng mang lại lợi nhuân cho Công ty, năm cao nhất là năm 1998 với 2.082,5 triệu đồng và năm thấp nhất là năm 2001 với 691,5 triệu đồng.
Thứ hai: Hiệu quả theo doanh thu của nghiệp vụ này có xu hướng giảm dần, năm cao nhất là năm 1998 với một đồng chi phí bỏ ra mang lại 2,78 đồng doanh thu, năm thấp nhất là năm 2001 với một đồng chi phí bỏ ra chỉ mang lại 1,44 đồng doanh thu.
Thứ ba: Hiệu quả theo lợi nhuận của Việt Nam này qua các năm cũng có xu hướng giảm mạnh. Từ một đồng chi phí tạo ra 1,78 đồng lợi nhuận năm 1998 xuống còn 1,39 đồng lợi nhuận năm 1999, 1,12 đồng lợi nhuận năm 2000 và chỉ còn 0,44 đồng lợi nhuận năm2001. Tuy năm 2001 hiệu quả theo lợi nhuận giảm mạnh so với năm 2000, song nhìn chung hiệu quả theo lợi nhuận từ năm 1997 tới năm 2001 bình quân lớn hơn một hay tỷ suất lợi nhuận hơn100%. Như vậy có thể nói việc kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này ở Bảo Việt Hà Nội là tương đối có hiệu quả.
Thứ tư: Nhìn tổng hợp các con số về doanh thu nghiệp vụ, hiệu quả theo doanh thu, lợi nhuận, hiệu quả theo lợi nhuận của năm 2001 so với năm 2000 và các năm trước đó ta sẽ thấy một điều là tất cả các con số đều giảm mạnh, trong khi đó chi phí năm 2001 so với các năm trước đó lại giảm không đáng kể. Như vậy chứng tỏ một điều là năm 2001 việc kinh doanh nghiệp vụ này ở Bảo Việt Hà Nội rất khó khăn và hiệu quả mang lại không cao.
Chương III
Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ Bảo Hiểm Hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển Trong thời gian tới tại công ty bảo hiểm Hà Nội.
I. Thị trường Bảo Hiểm Hàng hoá XUấT NHậP KHẩU của Việt Nam và một số khó khăn, thuận lợi với Bảo Việt Hà Nội trong thời gian tới.
Quốc hội Khoá X, kỳ họp thứ mười ngày 25/12/2001 Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế đất nước 5 năm từ năm 2001 tới 2005, với mục tiêu cụ thể là: hàng năm tốc độ tăng trưởng GDP 7,5%, tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,1%, nông lâm ngư nghiệp tăng 4,8%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 14-16%.
Trong năm 2002, có hai thuận lợi lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu nước ta đó là: việc Hiệp định thương mại Việt Mỹ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10/12/2001, với việc này dự kiến tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu của nước ta vào thị trường Bắc Mỹ tăng lên 12% (từ 9% năm 2001). Thứ hai là việc Trung Quốc ra nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và dành ưu đãi tối huệ quốc cho Việt Nam, với việc này việc xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc sẽ thuận lợi hơn và nhannh chóng tăng nhanh kể cả về số lượng, chủng loại và giá trị hàng hoá.
Dự kiến năm 2002, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước là 34,1 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 16,6 tỉ USD tăng 10% so với năm ngoái, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD tăng 9,4% so với năm 2001. Riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội, dự kiến kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 12%, GDP tăng 10-11%.
Tất cả những điều trên mở ra một triển vọng rất khả quan cho thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta năm 2002 và trong những năm tiếp theo.
Một đặc điểm nữa của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nước ta trong năm 2002 và những năm tiếp theo là có sự góp mặt của rất nhiều các công ty Bảo hiểm phi nhân thọ có kinh doanh nghiệp vụ Bảo Hiểm này kể cả trong và ngoài nước. Một số công ty đã đi vào hoạt động ổn định và bắt đầu thể hiện ưu việt của mình. Vì vậy trong một vài năm tới việc cạnh tranh giữa các công ty Bảo Hiểm này là không thể tránh khỏi nếu không muốn nói là khốc liệt. Chính vì vậy, việc triển khai nghiệp vụ Bảo Hiểm này của Bảo hiểm doanh nghiệp trong thời gian tới sẽ có những khó khăn và thuận lợi sau:
* Thuận lợi:
- Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta trong năm 2002 và những năm tiếp theo sẽ phát triển mạnh, hay nói cách khác nhu cầu về Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tăng nhanh, đây là nhân tố thuận lợi cho Bảo Việt và các công ty Bảo Hiểm khác mở rộng khai thác.
- Nhân tố pháp lý: Tháng 12 năm 2000, luật kinh doanh Bảo Hiểm đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2001. Điều này đã tạo ra một hành lang pháp lý thống nhất cho các Doanh nghiệp Bảo Hiểm hoạt động, nâng cao tính cạnh tranh lành mạnh cho thị trường Bảo Hiểm nói chung và thị trường Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng.
- Là một doanh nghiệp kinh doanh các nghiệp vụ Bảo Hiểm, đồng thời là một trung gian tài chính và đóng góp vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, Bảo Việt Hà Nội trực thuộc Bảo Việt, chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ tài chính và các cơ quan quản lý khác. Để thúc đẩy thị trường Bảo Hiểm phát triển an toàn và ổn định, Bộ tài chính đã có các quy định về tỷ lệ phí, tỷ lệ hoa hồng phí...đối với các công ty bảo hiểm nhằm hạn chế tình trạng học phí quá thấp, dẫn đến các nguy cơ tiềm tàng về mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Quá trình quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực Bảo Hiểm. Bảo Việt Hà Nội thông qua tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam có thể mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế rộng rãi đặc biệt là với các tập đoàn Bảo Hiểm lớn, từ đó có thể học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu các kỹ thuật Bảo Hiểm tiêu biểu trên thế giới.
- Bảo Việt Hà Nội là một trong năm doanh nghiệp đứng đầu trong hệ thống Doanh nghiệp Bảo Việt, có khả năng tài chính lớn, có bề dầy kinh nghiệm trong Bảo Hiểm hàng hoá, hơn thế nữa đã tạo được sự tín nhiệm trong lòng khách hàng không chỉ trong Bảo Hiểm hàng hoá mà còn trong nhiều loại hình Bảo Hiểm khác. Đây là một thế mạnh rất lớn của Bảo Việt Hà Nội mà các công ty Bảo Hiểm khác không có.
- Bảo Việt Hà Nội có cơ cấu tổ chức khá hợp lý, có đội ngũ cán bộ trẻ khoẻ, có trình độ chuyên môn, có năng lực làm việc với năng suất cao, năng động nhiệt tình trong công tác cùng mạng lưới đại lý, cộng tác viên rộng khắp phủ kín địa bàn Hà Nội đã tạo ra sức mạnh to lớn không chỉ ở nghiệp vụ Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu mà ở tất cả các doanh nghiệp vụ khác.
-Bảo Việt Hà Nội thông qua tổng công ty Bảo Việt Hà Nội có mạng lưới giám định rộng khắp trên cả nước và một số nơi trên thế giới. Điều này tạo ra sự kịp thời và chính sách trong việc giám định hàng hoá tổn thất.
-Một thuận lợi nữa đối với Bảo Việt Hà Nội trong việc triển khai nghiệp vụ Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong thời gian tới và với nhiều nhăm hoạt động liên tục Bảo Việt Hà Nội đã tạo cho mình được một khối lượng lớn khách hàng truyền thống, những khách hàng này hàng năm mang lại một khối lượng doanh thu lớn cho Bảo Việt Hà nội.
* Khó khăn
- Bước sang năm 2002 tình hình thị trường Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước sẽ rất sôi động với sự tham gia của hơn 10 Công ty trong đó có cả công ty Bảo Hiểm trong nước và công ty Bảo Hiểm nước ngoài sau vài năm hoạt động đang tỏ rõ tính ưu việt của mình (đặc biệt là các công ty Bảo Hiểm nước ngoài). Đặc biệt Hà Nội là địa bạn mà Bảo Việt Hà Nội khai thác chủ yếu, cũng là nơi mà các công ty Bảo Hiểm khác có trụ sở chính hoặc chi nhánh lớn do đó đây là sẽ là nơi mà các công ty Bảo Hiểm cạnh tranh không khoan nhượng. Cũng có thể nói đây là thử thách chính đối với Bảo Việt Hà Nội trong năm 2002 và những năm tiếp theo.
- Hiện nay, trong cơ cấu của Bảo Việt Hà Nội chưa có bộ phận marketing chuyên đề nghiên cứu thị trường, quảng cáo và đưa ra những chiến lược phát triển cho công ty. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác.
- Cho tới nay, sau một thời gian tỷ lệ phí bình quân của Bảo Việt Hà Nội đã liên tục giảm thì việc hạ phí tiếp tục để nâng cao khả năng cạnh tranh là rất hạn chế do vậy Bảo Việt Hà Nội cần có giải pháp thích hợp để vấn đề được khả năng cạnh tranh sắc bén của mình.
Trên đây là một số khó khăn và thuận lợi chủ yếu mà Bảo Việt Hà Nội sẽ gặp phải trong những năm tiếp theo khi triển khai nghiệp vụ Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
II. Một số ý kiến để xuất nhập góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm hà nội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế nước ta ngày càng phát triển, hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm ngày càng sôi động. Công ty Bảo Hiểm Hà Nội cũng thực sự bước vào một thị trường cạnh tranh khốc liệt. Nghiệp vụ Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đang là một trong những nghiệp vụ chủ chốt của công ty, cần phải làm gì để nghiệp vụ này tăng trưởng hơn nữa trong tương lai. Sau khi được sự dạy dỗ tận tình của thầy cô về cơ sở lí luận Bảo Hiểm và sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ Bảo Hiểm phòng Bảo Hiểm hàng hải công ty Bảo Hiểm Hà Nội, trên cơ sở phân tích thực trạng, hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ trong thời gian qua và xem xét những khó khăn và thuận lợi đối với công ty trong thời gian tới đồng thời căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ kinh doanh của công ty và phòng Bảo Hiểm hàng hải trong năm 2002 và một số năm tiếp theo là “ tăng trưởng đi đối với hiệu quả”. Em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến, với mong muốn góp phần nhỏ bé nhằm nâng cao chất lượng triển khai nghiệp vụ Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển để kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ Bảo Hiểm này ngày một tốt hơn.
1. Về phía công ty Bảo Hiểm Hà Nội
a) Thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro trước khi kí hợp đồng Bảo Hiểm.
Có thể nói, kết quả khâu khai thác tốt không chỉ được thể hiện ở số doanh thu, số lượng hợp đồng được phát hành mà còn ở chỗ những hợp đồng này mang tính rủi ro thấp và có những điều kiện để công ty tiến hành biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất, tránh những tổn thất quá lớn cho Công ty. Vì vậy thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro trước khi kí hợp đồng Bảo Hiểm là vô cùng quan trọng. Ngoài việc tránh được các trường hợp trục lợi Bảo Hiểm từ phía người tham gia, nó còn giúp cán bộ bảo hiểm có thể điều chỉnh lại tỷ lệ phí (từ tỷ lệ phí chung của công ty áp dụng theo từng loại hàng hoá, hành trình, phương thức bảo quản) cho phù hợp hơn. Muốn vậy công ty cần:
- Có mối quan hệ chặt chẽ, thông tin quan lại với các cơ quan đơn vị tàu biển, hải quan, bến cảng để kiểm tra các thông tin mà người được bảo hiểm cung cấp.
- Công ty cần kiểm tra về phương thức đóng góp hàng hoá và hướng dẫn người được bảo hiểm về phương thức đóng gói cho hợp lý nhất.
- Yêu cầu người được bảo hiểm kê khai đúng, đầy đủ vào giấy yêu cầu bảo hiểm đồng thời phân tích cho người được bảo hiểm thấy rõ trách nhiệm của họ về việc kê khai này.
- Công ty nên hướng dẫn cho khách hàng chọn những đội tàu mạnh, có uy tín, lai lịch rõ ràng và khả năng tài chính tốt. Bởi bảo hiểm không chịu trách nhiệm cho tổn thất hàng hoá trong trường hợp tàu bị bắt giữ, cầm cố do mất khả năng tài chính của chủ tàu. Ngoài ra, công ty cần phải nắm bắt được cỡ tàu và tuổi tàu một cách chính xác để điều chỉnh tỷ lệ phí cho phù hợp.
b) Đẩy mạnh công tác khai thác:
Khai thác là khâu đầu tiên và quan trọng nhất, quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc triển khai một nghiệp vụ Bảo Hiểm.
Trong giai đoạn 1997-2001, hay công tác khai thác ở Bảo Việt Hà Nội đã được quan tâm chú trọng, song vẫn còn nhiều hạn chế chưa khai thác được hết tiềm năng của thị trường.
Muốn làm tốt công tác khai thác, trước hết công ty cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, khách hàng và đối thủ cạnh tranh để từ đó có đối sách hợp lý trong từng thời kỳ.
Để làm được điều này, hàng năm công ty cần có kế hoạch thu nhập các thông tin về kim ngạch xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng, nắm được định hướng xuất nhập khẩu trong năm, đồng thời cử cán bộ đến tiếp cận trực tiếp với khách hàng để nắm bắt được nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị. Từ đó để xác định được những mặt hàng nào là trọng tâm, cần khai thác mạnh và những mặt hàng nào nên hạn chế.
Đồng thời, cũng thông qua tiếp cận với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị để phân chia khách hàng thành từng nhóm như: nhóm khách hàng thường xuyên, nhóm khách hàng không thường xuyên trong nhóm khách hàng thường xuyên lại phân ra theo nhóm mặt hàng mà khách hàng thường xuyên đó xuất hay nhập... từ đó lập một bảng kế hoạch chi tiết trong đó có sự phân nhóm rõ ràng và kế hoạch tiếp cận, khai thác từng khách hàng cụ thể.
Mặt khác để khai thác khách hàng thành công, công ty cần quan tâm đến các biện pháp và cách thức cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp trong từng trường hợp tiếp cận với khách hàng.
Với sức mạnh và lợi thế của mình, Công ty nên coi khách hàng của mình không chỉ gồm khách hàng truyền thống, khách hàng mới, khách hàng tiềm năng mà cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Để tận dụng năng lực khai thác một cách triệt để, ngoài việc sử dụng các cán bộ phòng bảo hiểm hàng hải, các cán bộ khai thác tổng hợp ở các quận huyện, công ty cần tăng cường củng cố hệ thống đại lý chuyên nghiệp phi nhân thọ đã được đào tạo và có kế hoạch tuyển dụng bổ sung. Đồng thời có biện pháp khuyến khích cụ thể đối với mạng lưới này như cuối mỗi quý hoặc mỗi tháng công ty lập bảng thành tích đại lý và xét thưởng (ngoài hoa hồng) cho các đại lý đạt doanh thu cao- bảng thành tích này nên đặt tại các vị trí trang trọng ở văn phòng công ty và các văn phòng đại diện...
Một vấn đề khá quan trọng để hỗ trợ công tác khai thác là công tác truyền thông, quảng cáo, khuyếch trương hoạt động của Công ty nói chung và về sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng. Hiện nay, hoạt động quảng cáo của công ty còn rất nghèo nàn và khá đơn điệu. Trong bối cảnh hiện nay, thị trường bảo hiể không còn mang tính độc quyền như mấy năm trước, do vậy Bảo Việt Hà Nội cần sớm có biện pháp đầu tư thích đáng cho hoạt động này. Cách thức tiến hành là có thể chọn một biểu tượng thích hợp và có ấn tượng rồi cho trưng bày trên các tấm panô lớn. Đặt tại các vị trí thu hút sự chú ý của nhiều người (như trên đường quốc lộ, trên các ngã 3, 4 của đường phố, tại các bến cảng...), hoặc đăng trên báo, truyền hình.
Ngoài ra, một kiến nghị nữa để hỗ trợ cho công tác khai thác là việc tổ chức hội nghị khách hàng. Thực tế, việc này đã được công ty thực hiện, song hình thức còn đơn giản và không thường xuyên, nỗ lực này công ty nên tổ chức hội nghị khách hàng cuối mỗi quý để đánh giá, tổng kết tình hình hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đường biển trong quý và cùng nhau phân tích các nguyên nhân của từng trường hợp rủi ro, qua đó đề ra các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất. Đồng thời có những khuyến khích vật chất đối với khách hàng thường xuyên xuất nhập khẩu và ít xảy ra tổn thất. Thiết nghĩ điều này sẽ có tác dụng tích cực tới tâm lý khách hàng, là động lực thúc đẩy họ mua sản phẩm cho công ty và là chất keo gắn bó giữa nhà bảo hiểm và người được bảo hiểm ngày một khăng khít hơn.
c) Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất một mặt công ty giảm thiểu được việc chi trả bồi thường, mặt khác có điều kiện để giảm chi phí tăng cạnh tranh.
Để thực hiện tốt công tác này, Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện một số biện pháp sau:
+ Tổ chức một nhóm chuyên trách việc theo dõi, thống kê tổn thất để có những nhận xét chính xác về đối với loại hành trình nào, đối với chúng ta hàng hoá nào, thì thường gặp phải những rủi ro gì? từ đó có biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất thích hợp. Chẳng hạn như đối với hành trình từ Việt Nam sang IRAQ, đối với loại hàng là gạo thì thông thường rủi ro chủ yếu là gạo bị mốc do bị hấp hơi (do độ ẩm ở Việt Nam và IRAQ là quá chênh lệch) biết được tình hình như vậy cần có biện pháp bảo quản tốt tránh bị hấp hơi như bao gói hai lần...
+ Cử người giám sát quá trình sếp dỡ hàng để kịp thời có những biện pháp can thiệp, xử lý khi hàng bị tổn thất.
+ Cùng phối hợp với các công ty Bảo Hiểm khác trong việc xây dựng các hệ thống báo hiệu, tín hiệu báo nguy hiểm, các đội cứu nạn trên biển, hệ thống cảng lánh nạn và xây dựng hệ thống thông tin liên lạc thông xuốt để có thể theo dõi một cách chính xác và đầy đủ hành trình của hàng hoá, từ đó có các biện pháp xử lý thích hợp khi xẩy ra rủi ro với hàng hoá, giảm tối đa tổn thất xảy ra.
+ Nâng cao nhận thức của người được bảo hiểm trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất bằng cách thông tin cho họ về công tác này và khuyến cáo đối với khách hàng khi không thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
+ Đối với những khách hàng lâu năm hoặc những khách hàng tham gia Bảo Hiểm với giá trị lớn, Bảo Việt Hà Nội nên trích ra 1 phần phí để trang bị cho họ một số trang thiết bị cần thiết như, bình chữa cháy, thuốc chống ẩm, chống nấm mốc...
d) Nâng cao chất lượng công tác giám định-bồi thường:
Việc giám định bồi thường một cách nhanh chóng, chính xác và hợp lý là cách thức tốt nhất để tạo uy tín của công ty trên thị trường. Thực hiện tốt công tác giám định-bồi thường ở Bảo Việt Hà Nội. Hiện nay là hết sức quan trọng hơn bao giờ hết, bởi tỷ lệ phí Bảo Hiểm sau một số năm đã giảm đáng kể do vậy việc giảm tỷ lệ phí trong năm 2002 và những năm tiếp theo là khá hạn chế do đó Bảo Việt Hà Nội cần thực hiện thật tốt công tác này để nâng cao khả năng cạnh tranh duy trì và thu hút khách hàng về công ty mình.
Để tăng cường chất lượng công tác giám định, đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi phí, một mặt công ty cần không ngừng đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ giám định, mặt khác nên chuyên môn hóa khâu giám định bằng cách phân công mỗi cán bộ trong phòng Bảo Hiểm hàng hải đảm nhận giám định cho một số mặt hàng, nhóm hàng cụ thể, theo đó họ sẽ có khả năng đi sâu nghiên cứu và chuyên môn hoá trong lĩnh vực của mình nhằm giảm bớt các chi phí phát sinh và nâng cao hiệu suất công việc.
Ngoài ra để tăng cường chất lượng công tác này công ty Bảo Việt Hà Nội cần xây dựng mối quan hệ rộng khắp với các công ty, tổ chức, đại lý giám định trong nước và quốc tế.
Khách hàng chỉ thực sự thấy được ý nghĩa của bảo hiểm khi họ nhận được tiền bồi thường cho những tổn thất của họ. Do vậy công ty cần bồi thường cho khách hàng nhanh chóng kịp thời chính xác và dứt điểm, tránh tình trạng thủ tục rườm rà gây khó khăn cho khách hàng nhận tiền bồi thường.
Thực hiện tốt công tác giám định bồi thường, đảm bảo việc trực 24/24 giờ, chắc chắn Bảo Việt Hà Nội sẽ giữ chân khách hàng đã từng tham gia ở Bảo Việt cuốn hút được nhiều khách hàng mới.
e) Việc nâng cao hiệu quả công tác “Truy đòi người thứ ba”
Việc thế quyền đòi người thứ ba có lỗi là việc làm rất cần thiết đối với bất cứ một công ty Bảo Hiểm nào trên thế giới song, trên thực tế, việc đòi hỏi người thứ ba có lỗi là một công việc vô cùng khó khăn. Trong Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, việc thay mặt người được bảo hiểm đòi người thứ ba có lỗi (nhất là chủ tàu) gặp rất nhiều trở ngại. Vì các chủ tàu thường nằm trên lãnh thổ của nước khác nên việc truy đòi trực tiếp thường không đem laị kết quả cao.
Để nâng cao công tác truy đòi, Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện một số biện pháp sau:
+ Trong trường hợp người được bảo hiểm thông báo cho Bảo Việt Hà Nội các chủ tàu chính là nguyên nhân gây ra rủi ro, Bảo Việt Hà Nội các chủ tàu chính là nguyên nhân gây ra rủi ro, Bảo Việt Hà Nội cần yêu cầu chủ hàng tiến hành làm một số biện pháp cần thiết như lập biên bản tổn thất trong đó nói rõ nguyên nhân và mức độ tổn thất và yêu cầu chủ tàu xác nhận vào biên bản, yêu cầu cảnh sát đường biển giao cho một bản biên bản tai nạn (trong trường hợp hai tàu đâm va)...Sau đó thuê người áp tàu buộc chủ hàng phải ký Quỹ tại ngân hàng để được bảo lãnh mới thả tàu. Ngay sau khi bồi thường cho chủ hàng, Bảo Việt Hà Nội sẽ yêu cầu chủ hàng bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền khiếu nại này cùng toàn bộ giấy tờ cần thiết cho Bảo Việt Hà Nội. Sau đó Bảo Việt Hà Nội cần nhanh chóng hoàn chỉnh hồ sơ và tiến hành công việc truy đòi.
+ Trong trường hợp chủ tàu là người nước ngoài, để sổng tàu không áp tàu được thì Bảo Việt Hà Nội cũng cần phải tiến hành hoàn thiện Hồ sơ truy đòi, sau đó tiến hành đàm phán với chủ tàu nước ngoài thông qua đại diện của bên nước chủ tàu có quốc tịch hay cư trú hoặc qua điện báo, fax...nếu không thương lượng được, nên thuê một công ty đòi thuê nước ngoài nơi tàu cư trú hoặc đưa ra toà án. Tuy nhiên trong trường hợp này Bảo Việt Hà Nội cần so sánh giữa chi phí dự kiến để truy đòi với khoản mà sẽ đòi được từ chủ tàu từ đó có quyết định hợp lý.
g) Nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ Bảo Hiểm.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nghiệp vụ Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng và Công ty Bảo Hiểm Hà Nội nói chung có tồn tại và phát triển được hay không là phụ thuộc vào chính đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty.
Hiện nay ở công ty Bảo Hiểm Hà nội, đội ngũ cán bộ công tác trong phòng Bảo Hiểm hàng hải, nói chung đều rất tâm huyết với nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao. Hầu hết cán bộ đã tốt nghiệp đại học hệ chính quy, hàng năm những cán bộ này còn tham gia các khoá huấn luyện, hội thảo...trong nước cũng như nước ngoài hơn thế nữa hầu hết các cán bộ lại đã làm việc nhiều năm ở công ty nên về chuyên môn và khả năng làm việc tốt. Đây có thể nói là những thuận lợi rất cơ bản của Bảo Việt Hà Nội về mặt nhân sự, có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của Công ty trong thời gian quan.
Tuy nhiên, có một điểm chưa hợp lý là với số lượng cán bộ rất hạn chế của phòng trong khi phải đảm đương tất cả công việc từ khâu khai thác đến bồi thường của tất cả các nghiệp vụ mà phòng đang triển khai như: Bảo hiểm tàu biển, tàu sông, tàu đánh cá, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa...hơn thế nữa mỗi cán bộ thông thường phải thực hiện tất cả các công việc như trên đối với tất cả các nghiệp vụ mà cán bộ đó khai thác được (theo phân cấp). Như vậy với khối lượng công việc đã lớn lại dàn trải, nhiều lúc đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả làm việc của họ.
Để giải quyết vấn đề trên trong thời gian tới công ty nên thực hiện một số biện pháp sau:
+ Bố trí cán bộ theo phương thức vừa hợp tác vừa chuyên môn hoá. Nghĩa là mỗi người sẽ được phân công đảm nhiệm một mảng công việc nhất định tuỳ theo năng lực và sở trường của mỗi người. Có như vậy các cán bộ Bảo Hiểm mới có điều kiện để đi sâu hơn trong lĩnh vực của mình vừa có thể hợp tác với nhau để giải quyết các trường hợp phức tạp.
+ Tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn và tác phong làm việc cho các cán bộ Bảo Hiểm, tạo không khí làm việc sôi nổi cho phòng bảo hiểm hàng hải nói riêng và cho cả công ty nói chung. Một mặt, thông qua hình thức đào tạo và đào tạo lại, hình thức hội thảo đánh giá rút kinh nghiệm, cử đi du học nước ngoài...để nâng cao trình độ chuyên môn và cập nhật những thông tin mới về lĩnh vực của mình nhằm thích ứng với đòi hỏi của công việc mặt khác công ty cũng cần có chính sách hợp lý để tạo ra bầu không khí làm việc thi đua sôi nổi...có như vậy mới nâng cao được chất lượng và hiệu quả công việc.
Ngoài ra, công ty cũng cần có chính sách đãi ngộ, khen thưởng kịp thời cho các cán bộ bảo hiểm khi họ có thành tích cao trong công việc có như vậy công ty mới giữ lại được cán bộ giỏi và thu hút thêm nhân tài từ bên ngoài.
2. Về phía nhà nước
Thị trường Bảo Hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở nước ta mới thoát khỏi trình trạng độc quyền khoảng 10 năm trở lại đây song cho tới nay tính chất cạnh tranh của thị trường đã đến mức không khoan nhượng và nhiều khi sự cạnh tranh mang tính chất tiêu cực. Vì vậy, cần có sự can thiệp mạn hơn của Nhà nước để bảo đảm cho thị trường Bảo Hiểm của nước ta phát triển một cách lành mạnh và ổn định. Một số kiến nghị với nhà nước là:
+ Để tránh tình trạng hạ phí quá mức (có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán cho các công ty Bảo Hiểm) giữa các công ty Bảo Hiểm để dành khách và mở rộng thị trường của mình, các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm mà trực tiếp là Bộ tài chính cần xây dựng khung biểu phí thống nhất trong đó có quy định và mức sàn hợp lý. Theo đó các công ty Bảo Hiểm cứ thế mà thực hiện, đồng thời kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện theo biểu phí này. Như vậy tình trạng hạ tỷ lệ phí quá mức giữa các công ty Bảo Hiểm sẽ bị ngăn chặn.
+ Luật Bảo Hiểm đã có hiệu lực song để đi vào thực tế, Nhà nước cần ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn, để từ đó các công ty bảo hiểm có thể thực hiện đúng và thống nhất.
+ Như trên đã trình bày, kim ngạnh xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm ở thị trường Bảo Hiểm trong nước chỉ chiếm khoảng 25%-30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, còn lại 70% - 75% Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia Bảo Hiểm ở thị trường Bảo Hiểm nước ngoài. Như vậy một mặt nhà nước sẽ bị mất một khoản thuế lớn, mặt khác làm cho thị trường Bảo Hiểm trong nước và ngành vận tải biển trong nước chậm phát triển do vậy Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp khả thi để khuyến khích người xuất nhập khẩu dành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm trong nước.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có những nguồn vốn đầu tư vào các chương trình phòng chống tổn thất cấp Quốc gia như: chương trình tìm kiếm và cứu nạn trên biển, xây dựng các hệ thống cảng biển hiện đại (một mặt để lánh nạn mặt khác để phát triển hoạt động ngoại thương), xây dựng các biển báo giao thông, tín hiệu giao thông trên biển...
Kết luận
Sau gần năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, tuy có nhiều hạn chế, song những kết quả đạt được rất khả quan, đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển chung của Bảo Việt Hà Nội. Mặc dù đây là một nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống, được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam, song hàng năm tỷ lệ kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước còn nhỏ bé chứng tỏ thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta đầy tiềm năng. Trong giai đoạn sắp tới, khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới một cách đầy đủ và toàn diện hơn, kéo theo đó là sự phát triển của ngành ngoại thương, thì tiềm năng của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu còn lớn hơn nhiều. Đồng thời đây cũng là thị trường bảo hiểm béo bở cho các Công ty, Tập đoàn bảo hiểm nước ngoài nhảy vào đầu tư khai thác, vì thế làm cho thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước vốn đã cạnh tranh gay gắt lại càng cạnh tranh gay gắt hơn. Trước tình hình này, đòi hỏi các Công ty bảo hiểm phải có chiến lược kinh doanh hợp lý, đồng thời nâng cao hơn nữa chất lượng triển khai nghiệp vụ, để có thể đứng vững trong cạnh tranh.
Với những thế mạnh sẵn có của Bảo Việt Hà Nội, sự chỉ đạo kịp thời của Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam, sự lãnh đạo tài tình của Công ty bảo hiểm Hà Nội, cùng với sự nỗ lực cố gắng của tất cả các cán bộ bảo hiểm Phòng bảo hiểm hàng hải, cán bộ bảo hiểm Quận Huyện, các Đại lý và các Cộng tác viên bảo hiểm, chúng ta tin tưởng rằng việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm Hà Nội sẽ đủ sức để tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
Trên đây là những ghi nhận trong quá trình em thực tập nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Phòng bảo hiểm hàng hải, Công ty bảo hiểm Hà Nội. Do điều kiện trình độ và thời gian hạn chế nên chắc chắn rằng chuyên đề thực tập này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế, em rất mong được sự chỉ bảo góp ý kiến của các Thầy, Cô giáo và các bạn để giúp cho chuyên đề thực tập này được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn.
Tài liệu tham khảo
Giáo ttrình “Kinh tế Bảo hiểm” – Trường DDHKTQD – Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, Chủ biên: GS-TS. Hồ Sĩ Sà - Nhà xuất bản thống kê - 2000.
Giáo trình “Bảo hiểm” – Trường DDH Tài Chính Kế Toán, Chủ Biên GS-TS.Hồ Xuân Phương – Nhà xuất bản tài chính.
Giáo trình “ Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm” – Trường ĐHKTQD.
Giáo trình “Nghiệp vụ Kỹ thuật Nghiệp vụ Ngoại thương” Chủ biên Vũ Hữu Tửu - Trường DDDH Ngoại Thương – Nhà xuất bản Giáo Dục – 1998
Sách “Bảo hiểm – Nguyên Tắc và Thực Hành “ – Tiến Sĩ David Bland.
Incoterm – 2000.
Luật Kinh doanh Bảo hiểm Việt Nam.
Luật Hàng hải Việt Nam.
Tạp chí thông tin thị trường Bảo hiểm và Tái Bảo hiểm số 1,2,3,4 năm 2000, 2001 và số 1 năm 2002.
Tạp chí thị trường Bảo hiểm.
Thời báo Kinh tế Việt Nam, và một số tạp chí , chuyên sàn khác.
Báo cáo kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội từ 1997 đến 2001.
Quy tắc chung Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển của Bảo Việt (QTC – 1998).
Quy trình khai thác theo quy trình quản lý chất lượng ISO 9001 của bảo việt Hà Nội.
Và các báo cáo khác của Phòng Bảo hiểm Hàng hải Công ty Bảo hiểm Hà Nội.
Mục lục
Lời nói đầu:……………………………………………………………...1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29781.doc