Trên cơ sở phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế trong hoạt động giám sát
của HĐND tỉnh Nghệ An, luận văn đưa ra một số quan điểm chỉ đạo, những giải
pháp chủ yếu nhằm tập trung nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An
nói riêng và cấp tỉnh nói chung; xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Các giải
pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ để phát huy hơn nữa sức mạnh của
HĐND, góp phần xây dựng BMNN ngày càng trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
98 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2490 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Ngược lại, nếu thiếu sự nhận thức đúng đắn trên thì mọi nỗ lực về đổi mới hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An sẽ không có ý nghĩa.
3.2.2. Giám sát phải tôn trọng sự thật khách quan và phải được tiến
hành theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật
- Để có cơ sở thực tế và căn cứ khoa học cho HĐND đưa ra các nhận xét,
đánh giá, kết luận, kiến nghị hoặc ra nghị quyết đối với hoạt động của các đối tượng
chịu giám sát, thì hoạt động giám sát phải được tiến hành một cách khách quan.
Điều đó được nhìn nhận dưới hai khía cạnh:
Thứ nhất, phải căn cứ vào quy định của pháp luật, nghị quyết của HĐND
cùng cấp với tình hình hoạt động thực tế của các cơ quan để đưa ra nhận định đúng sai
về tình trạng hoạt động của các cơ quan đơn vị đó. Không được lấy ý kiến chủ quan
của một cá nhân hay tập thể để áp đặt cho thực tế hoạt động của cơ quan chịu giám sát.
Làm như vậy không những gây tác hại cho đối tượng chịu giám sát, cho xã hội mà
còn làm ảnh hưởng tới uy tín của HĐND.
Thứ hai, các thông tin, tài liệu làm cơ sở đánh giá cũng phải mang tính khách
quan. HĐND không chỉ dựa vào báo cáo của đối tượng chịu giám sát mà phải thu
thập từ nhiều nguồn thông tin khác nhau như báo chí, dư luận xã hội, ý kiến phản
ánh của cử tri... Bởi thực tế nếu cơ quan nào trung thực báo cáo thẳng thắn, đề xuất
cụ thể thì HĐND mới có điều kiện nghiên cứu sâu được nội dung giám sát, đưa ra
kết luận chính xác. Trường hợp ngược lại nếu HĐND không chủ động chuẩn bị thì
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát.
- Giám sát phải được tiến hành theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật, có nghĩa hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An phải được tiến hành
theo những quy trình và quy định do luật định. Đây là cơ sở pháp lý đảm bảo
cho hoạt động giám sát tiến hành một cách khách quan, tránh tuỳ tiện.
Trước đây do pháp luật quy định chưa rõ, nên trong hoạt động giám sát mỗi
địa phương thực hiện một cách khác nhau, theo kinh nghiệm của mình. Nhưng hiện
nay đa có Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, quy chế hoạt động của HĐND
năm 2005 quy định khá cụ thể về hình thức, trình tự, thủ tục giám sát cũng như
nhiệm vụ và quyền hạn của các bên tham gia giám sát. Do vậy, mọi hoạt động giám
sát cần phải tuân theo quy định của pháp luật, tránh bệnh chủ quan, tùy tiện, qua loa
đại khái và thái độ thờ ơ vô trách nhiệm trong hoạt động giám sát.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát, HĐND cấp tỉnh
cũng cần có sự giúp đỡ của nhiều cơ quan cho nên sẽ phát sinh nhiều mối quan hệ.
Tất cả những mối quan hệ trên, hiện nay tuy chưa đầy đủ, chi tiết nhưng đã có luật
điều chỉnh. Vì vậy khi HĐND cũng như các cơ quan liên quan tham gia vào hoạt
động giám sát phải tuân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và quy chế hoạt
động của HĐND năm 2005.
3.2.3 Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục, có kế hoạch
- Hoạt động giám sát của HĐND phải được tiến hành thường xuyên liên tục
vì lý do sau:
Giám sát là một trong hai chức năng cơ bản của HĐND được ghi nhận trong
Hiến pháp và pháp luật, nên hoạt động của HĐND phải thường xuyên để cụ thể hoá
chức năng đó thành các nhiệm vụ cụ thể. Mặt khác các cơ quan nhà nước chịu sự
giám sát của HĐND tỉnh cũng là những đơn vị hoạt động thường xuyên, liên tục.
Do đó hoạt động giám sát của HĐND cũng phải đảm bảo tính thường xuyên, liên
tục mới có thể kịp thời phát hiện được những vi phạm Hiến pháp, pháp luật và nghị
quyết của HĐND trong hoạt động của các đối tượng chịu giám sát. Từ đó ngăn
chặn, hạn chế được những tác hại có thể xảy ra cho Nhà nước và xã hội.
Hơn nữa, việc thường xuyên tiến hành hoạt động giám sát là điều kiện thực
tế giúp chúng ta kịp thời phát hiện tính bất hợp lý, lạc hậu trong các quy định Hiến
pháp, pháp luật, nghị quyết của HĐND trước tình hình kinh tế xã hội đã biến đổi, để
nhanh chóng sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bổ sung cho phù hợp. Đây là một trong những
yếu tố đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, tránh được sự vi phạm
pháp luật do thiếu kiểm tra, giám sát hoặc do những quy định của pháp luật đã lạc
hậu cản trở sự phát triển của đời sống kinh tế, xã hội của địa phương.
Ngoài ra, nếu hoạt động giám sát của HĐND tỉnh được tiến hành thường
xuyên, liên tục, đại biểu HĐND sẽ có cơ hội để tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình
độ, năng lực giám sát. Đồng thời các chủ thể bị giám sát cũng như các đối tượng
liên quan sẽ luôn chú ý hơn đến tinh thần trách nhiệm của mình khi thực hiện nhiệm
vụ quyền hạn được giao.
- Hoạt động giám sát cần được thực hiện một cách có kế hoạch.
Thực tiễn đã chứng minh bất kỳ một hoạt động nào dù lớn hay nhỏ, dù phức
tạp hay đơn giản, nếu được chuẩn bị chu đáo thì bao giờ cũng mang lại kết quả cao
hơn. Điều đó thể hiện tính chủ động và kết quả trong công việc có mối quan hệ
nhân quả với nhau. HĐND tỉnh có phạm vi giám sát rộng, nội dung hoạt động của
các đối tượng chịu giám sát cũng rất đa dạng và phức tạp bao gồm nhiều khâu,
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá... Vì thế HĐND tỉnh
Nghệ An không thể một lúc tập trung giám sát tất cả các lĩnh vực, cho nên phải đặt
ra phương án lựa chọn theo kế hoạch. Căn cứ vào tình hình và mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội ở địa phương, căn cứ vào báo cáo hàng năm và các kiến nghị của
HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, HĐND tỉnh lập kế hoạch để lựa chọn
những vấn đề cần giám sát trong năm.
3.2.4. Hoạt động giám sát phải mang lại hiệu quả thực tế
Hoạt động giám sát nói chung và giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An nói
riêng là một dạng hoạt động có định hướng, mục đích. Tuỳ vào từng nội dung giám
sát mà mục đích đặt ra khác nhau, "nhưng nhìn chung tất cả các hoạt động giám sát
đều có một mục đích đảm bảo cho sự hoạt động đúng đắn, minh bạch, liên tục của
từng cơ quan, của từng người có chức vụ quyền hạn trong BMNN nói chung trên cơ
sở tuân thủ thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật quy định về chức năng thẩm quyền
của họ" [46, tr.96]. Do đó hoạt động giám sát phải mang lại hiệu quả thực tế thì trước
hết hoạt động đó phải đạt được mục đích đề ra. Nói cách khác, khi HĐND tỉnh Nghệ
An tiến hành bất kỳ một hoạt động giám sát nào, dù trực tiếp hay gián tiếp hoạt động
đó phải có những tác dụng, ảnh hưởng tích cực góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động của BMNN; giải quyết được những vấn đề bức xúc đặt ra trong đời sống kinh tế -
xã hội, cũng như nhu cầu chính đáng của nhân dân, thiết thực góp phần bảo đảm lợi
ích của nhân dân, thực hiện tốt các nghị quyết của HĐND đề ra.
3.3. những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay
Để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cần có sự kết hợp của nhiều yếu
tố, từ vấn đề thể chế, con người đến các điều kiện cơ sở vật chất... nghĩa là phát huy
một sức mạnh tổng hợp. Do vậy các giải pháp đưa ra phải mang tính toàn diện và
đồng bộ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND
tỉnh Nghệ An và những nguyên nhân yếu kém đã nêu, có thể đưa ra một số giải
pháp sau:
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh
Để chức năng giám sát của HĐND cấp tỉnh nói chung và Nghệ An nói riêng
thực hiện có hiệu quả trước hết cần hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động
giám sát của HĐND. Bởi lẽ, nếu không có quy định cụ thể về quyền giám sát của
HĐND thì sẽ không có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng giám sát của Hội
đồng. Mặc dù hiện nay Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã có một
chương quy định về chức năng giám sát của HĐND các cấp, song vẫn còn rất sơ sài
so với yêu cầu thực tiễn, chưa đủ cơ sở pháp lý để HĐND thực hiện tốt chức năng
của mình.
Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện cơ chế giám sát ở nước ta hiện nay, từ nhận
thức giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND với một phạm vi đối tượng
giám sát khá phong phú và phức tạp, cần phải xây dựng luật về giám sát của
HĐND, trong đó quy định một cách rõ ràng, đầy đủ về khái niệm giám sát của
HĐND. Nội hàm của khái niệm phải được thể hiện ở chủ thể giám sát, đối tượng
chịu giám sát, nội dung và phạm vi hoạt động giám sát của HĐND. Nói chung về
nội dung luật giám sát của HĐND cần tiếp tục hoàn thiện ở một số vấn đề sau:
- Về chủ thể giám sát: cần bổ sung ghi rõ thành một mục riêng trong luật chủ
thể giám sát của HĐND là các đại biểu HĐND, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các đại
biểu hoạt động cũng như để họ phát huy tinh thần, trách nhiệm của mình. Bởi thực
tế đã chứng minh rằng đại biểu HĐND là nhân tố quan trọng nhất để nâng cao hiệu
quả giám sát của Hội đồng.
- Về đối tượng chịu giám sát của HĐND.
Thứ nhất, trong luật hiện hành không quy định HĐND giám sát các Ban của
Hội đồng. Do đó, Luật giám sát của HĐND cần bổ sung thêm đối tượng giám sát
của HĐND là các Ban của HĐND, vì các Ban của HĐND cũng là cơ quan được
HĐND trao quyền và trách nhiệm nhất định trong các hoạt động nhằm giúp HĐND
thực hiện tốt chức năng của cơ quan đại diện. Chẳng hạn, theo Điều 75 Luật Tổ
chức HĐND và UBND năm 2003, các Ban của Hội đồng được giao trách nhiệm
kiểm tra báo cáo đề án - một công việc rất quan trọng liên quan đến sự đúng sai,
chất lượng nghị quyết của HĐND. Theo đó, đối tượng giám sát của HĐND bao
gồm: TTHĐND, các Ban của HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp và các tổ
chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương.
Thứ hai, cần phân cấp đối tượng chịu giám sát của các cấp Hội đồng, khắc
phục tình trạng phạm vi giám sát của HĐND tỉnh quá rộng như hiện nay dẫn đến
quá tải và hiệu quả giám sát sẽ không cao.
- Về trách nhiệm của các thành phần trong đoàn giám sát.
Hiện nay thành phần của các đoàn giám sát thường bao gồm các đại biểu
HĐND do một cơ quan của HĐND chủ trì cử ra, sự tham gia đại diện các cơ quan
nhà nước hữu quan như Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các tổ chức thành viên và một số cán
bộ có chuyên môn. Từ đây, đặt ra vấn đề lý luận và thực tiễn phải xác định rõ trách
nhiệm giám sát của các chủ thể thực hiện quyền giám sát và mức độ tham gia đến
đâu của các tổ chức, cá nhân, để đảm bảo tính pháp lý của hoạt động giám sát. Do
vậy trong luật giám sát của HĐND cần phải bổ sung thêm nội dung này.
- Về trách nhiệm pháp lý của các đơn vị liên quan khi không thực hiện các
kết luận giám sát.
Để tạo điều kiện cho hoạt động giám sát của HĐND có hiệu quả thiết thực, phải
có quy định về các chế tài xử lý đối với các cơ quan ban ngành khi không thực hiện các
kiến nghị, yêu cầu của HĐND. Có như vậy mới nâng cao tinh thần trách nhiệm của các
đơn vị và đảm bảo uy tín cho HĐND.
Qua các vấn đề nêu trên, Luật Giám sát của HĐND phải được tiến hành khẩn
trương, đáp ứng và phản ánh kịp thời các yêu cầu khách quan của thực tiễn ở địa
phương, bám sát chủ trương đường lối của Đảng về phát huy dân chủ cơ sở xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần phải chú trọng yếu tổ kỷ luật lập pháp đảm bảo tính cụ thể và mức độ
khái quát hợp lý của các quy phạm nhằm làm cho các quy định về giám sát của
HĐND dễ hiểu, dễ áp dụng, rõ ràng, minh bạch, không phải chờ đợi những văn bản
có hiệu lực pháp lý thấp hơn hướng dẫn, giải thích. Hơn nữa, xây dựng Luật Giám
sát của HĐND phải đồng bộ với các quy định khác của pháp luật có liên quan, trên
cơ sở đó điều chỉnh các hoạt động giám sát của HĐND một cách toàn diện, thống
nhất và thuận lợi.
3.3.2. Nâng cao năng lực các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An
3.3.2.1. Nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân
Toàn bộ hoạt động thực hiện quyền lực của HĐND nói chung và quyền giám
sát nói riêng xét đến cùng chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của đại biểu HĐND.
Lênin đã từng phân tích trách nhiệm trong hành động của Nghị sĩ ở cơ quan đại diện
Nhà nước XHCN như sau: "các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình thực hiện
những luật pháp của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy, tự
mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình" [28, tr.33]. Hồ Chí
Minh cũng nhiều lần nói về phẩm chất năng lực của người đại biểu Quốc hội,
Người cho rằng: "tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn người có
tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước" [33, tr.438].
Như vậy, theo quan điểm của Lênin và Hồ Chí Minh đại biểu Quốc hội cũng
như HĐND phải là người có năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu, hoạt động độc
lập và tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ của mình.
Xét riêng trong việc thực hiện chức năng giám sát, đại biểu HĐND phải thực
sự là người có năng lực giám sát. Năng lực giám sát của đại biểu HĐND thể hiện ở
việc đại biểu HĐND phải nắm chắc những quy định của pháp luật, chính sách nhà
nước, những nội dung chủ yếu và thông tin cần thiết của vấn đề được giám sát. Đại
biểu HĐND phải hiểu biết thực tiễn tới mức cần thiết và phải có kiến thức về quản
lý nhà nước ở mức độ nhất định. Trong giám sát, ngoài công nhận cái đúng, còn
phải có cách nhìn sáng suốt để phát hiện những vấn đề sai trái của người khác, trên
cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và biện pháp hữu hiệu để loại bỏ các hiện tượng
tiêu cực trái pháp luật. Do đó, đại biểu HĐND không những chỉ có trình độ, kỹ năng
giám sát mà còn phải có quan điểm, bản lĩnh vững vàng, dám nói thẳng, nói thật
không nể nang, né tránh, nghĩa là trong khi làm nhiệm vụ đại biểu, họ phải vì lợi ích
của dân, của Nhà nước để "vượt qua chính mình". Tóm lại, muốn làm tốt công tác
giám sát, người đại biểu HĐND phải có đủ tâm, đủ tầm và đủ tài.
- Để đạt được những tiêu chuẩn đó, biện pháp trước mắt mỗi đại biểu phải tự
nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ của mình; tự trang bị cho mình các kiến thức
về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt phải nghiên cứu, cập nhật các kiến
thức pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; phải chú trọng giữ
mối liên hệ với cử tri để phản ánh được tâm tư nguyện vọng của họ với HĐND. Nói
một cách khái quát đại biểu HĐND phải tự xây dựng cho mình được những "uy tín
cá nhân", thì sẽ có nhiều thuận lợi khi thực hiện chức năng giám sát.
- Về trách nhiệm của HĐND cần chú ý mấy vấn đề sau:
+ Trong cơ cấu đại biểu HĐND tỉnh cần có một tỷ lệ thích hợp số đại biểu có
trình độ kiến thức về luật. Những đại biểu này sẽ giữ vai trò tích cực trong việc đưa
ra ý kiến giúp HĐND, các cơ quan của HĐND có những hành động phù hợp khi
thực hiện chức năng giám sát.
+ Ngay sau khi được bầu làm nhiệm vụ đại biểu, TTHĐND tỉnh cần chỉ đạo
các cơ quan chuyên môn biên soạn, cung cấp cho đại biểu HĐND những tài liệu về
kỹ năng thực hiện nhiệm vụ đại biểu, đặc biệt tài liệu về kỹ năng giám sát.
+ HĐND tỉnh và các cơ quan có chức trách phải thường xuyên cung cấp sách
báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa học về chức năng giám sát của HĐND
và những thông tin cần thiết khác như tình hình hoạt động của các cơ quan ban
ngành, đơn vị cho đại biểu HĐND. Đặc biệt phải tổ chức các đợt tập huấn hội thảo
về kỹ năng giám sát, đi thực tế học hỏi kinh nghiệm hoạt động của các HĐND ở địa
phương khác.
+ Xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đại
biểu HĐND.
3.3.2.2. Nâng cao năng lực giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân
Theo quy định của pháp luật hiện hành, TTHĐND tỉnh có vị trí rất quan
trọng trong việc thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng. Ngoài công việc chuẩn
bị nội dung, chương trình kỳ họp còn phải đảm nhiệm hầu hết công việc giữa hai kỳ
họp và thực hiện chức năng giám sát khá toàn diện trên các lĩnh vực tại địa phương.
Điều đó làm cho TTHĐND tỉnh Nghệ An đứng trước một khối lượng công việc
khổng lồ. Trong khi cơ cấu của Thường trực chỉ gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ
viên thường trực (Điều 52 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Mặc dù
thành viên của Thường trực HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND,
nhưng trong thực tế họ chỉ có 3 người và chủ tịch HĐND lại hoạt động kiêm nhiệm.
Cơ cấu tổ chức của TTHĐND như vậy chưa ngang tầm với quyền hạn, nhiệm vụ pháp
luật quy định, đã đặt TTHĐND vào tình trạng không giải quyết hết hoặc giải quyết
không có chất lượng, hiệu quả những công việc thuộc thẩm quyền của mình.
Để khắc phục tình trạng trên cần phải:
+ Tăng số lượng thành viên cho TTHĐND tỉnh. Có ý kiến cho rằng cần bổ sung
thêm 6 uỷ viên nữa thì TTHĐND mới đảm đương được nhiệm vụ đề ra.
+ Thành viên của TTHĐND phải hoạt động chuyên trách, không được giữ
một chức vụ nào trong cơ quan nhà nước khác. Đặc biệt phải sớm khắc phục tình
trạng chủ tịch HĐND tỉnh kiêm nhiệm cả Bí thư hoặc Phó Bí thư Tỉnh uỷ như hiện
nay. Bởi lẽ, trong xu thế phát huy hết vai trò các thành viên của Thường trực Hội
đồng, chế độ kiêm nhiệm sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của họ và làm hạn chế
khả năng điều hành của TTHĐND.
+ Khi bầu TTHĐND, bên cạnh đảm bảo về mặt cơ cấu cần phải chú ý đến
năng lực của từng thành viên. Thành viên của TTHĐND phải là người có đạo đức,
có trách nhiệm và năng lực tổ chức điều hoà phối hợp trong công việc; phải là
người có kiến thức sâu rộng về mọi lĩnh vực mới có khả năng đôn đốc kiểm tra
được các hoạt động của UBND cùng cấp. Có như vậy, khi thực hiện chức năng
giám sát của Hội đồng, TTHĐND vừa đảm bảo là chủ thể giám sát, trực tiếp giải
quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền giám sát của mình, vừa là người điều hoà
phối hợp hoạt động giám sát của các ban một cách có chất lượng và hiệu quả.
+ Phải có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền giám sát của TTHĐND với
các ban của HĐND. Khi đó TTHĐND và các ban mới có khả năng vừa thực hiện
tốt công tác phối hợp chỉ đạo vừa thực sự chủ động, độc lập trong khi thực hiện
chức năng giám sát của HĐND.
3.3.2.3. Nâng cao năng lực giám sát của các ban thuộc Hội đồng nhân dân
Hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều ở năng
lực hoạt động của các ban. Trong khi đó năng lực của các ban lại được đánh giá
thông qua năng lực của các thành viên ở ban đó. Vì vậy để nâng cao hiệu quả giám
sát của HĐND, các thành viên của các ban phải đủ về số lượng, chất lượng và điều
kiện làm việc.
Trước hết, thành viên của các ban phải là những đại biểu hoạt động chuyên
trách mới có đủ thời gian và các điều kiện khác tập trung cho công việc của Hội
đồng. Đặc biệt trưởng, phó ban không được hoạt động kiêm nhiệm để đảm bảo tính
chuyên sâu và chuyên nghiệp trong hoạt động của các ban [2, tr.23].
Thứ hai, về cơ cấu, thành viên của các ban, nhất là trưởng, phó ban phải có
chuyên môn thuộc lĩnh vực ban phụ trách. Tránh tình trạng như hiện nay: trưởng
ban pháp chế của HĐND tỉnh Nghệ An nhưng lại không có chuyên môn luật.
Thứ ba, cần phải tăng thêm thành viên cho các ban theo hướng chọn các đại
biểu có trình độ chuyên môn, có năng lực giám sát, phẩm chất uy tín và trách nhiệm
cao trong công việc. Đặc biệt phải thật sự quan tâm đến chức trách trưởng phó ban,
ngoài tiêu chuẩn của một người đại biểu nói chung họ còn phải có một quá trình
làm việc và thâm nhập thực tiễn sâu rộng, được nhân dân tín nhiệm cao.
3.3.2.4. Nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy giúp việc cho Hội đồng
nhân dân
Văn phòng của HĐND - là bộ máy giúp việc cho HĐND. Tuy không phải là
một chủ thể thực hiện chức năng giám sát nhưng trên thực tế năng lực, hiệu quả
hoạt động của HĐND nói chung và chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND nói riêng không chỉ phụ thuộc vào bản thân các chủ thể giám sát mà còn phụ
thuộc rất nhiều vào bộ máy giúp việc cho Hội đồng. Đây chính là bộ phận tham
mưu cho hoạt động của Hội đồng.
Vì vậy, những chuyên viên giúp việc cho các cơ quan của HĐND tỉnh, phải
có chuyên môn sâu. Đặc biệt cần có đủ độ nhạy bén về chính trị, kịp thời phát hiện,
đề xuất lựa chọn những vấn đề phù hợp tham mưu cho HĐND thực hiện chức năng
giám sát. Về lý luận cũng như yêu cầu thực tiễn đặt ra, các chuyên viên của HĐND
phải có năng lực, trình độ không những chỉ tham mưu cho HĐND nên giám sát
những vấn đề gì, mà quan trọng phải hướng dẫn cho Hội đồng nên giám sát như thế
nào, chứ không phải chỉ là một cán bộ đơn thuần làm theo sự chỉ đạo của cấp trên
như hiện nay.
Để đáp ứng được yêu cầu trên, chúng ta phải có chính sách, chế độ phù hợp
thu hút các chuyên gia giỏi của mọi lĩnh vực về giúp việc cho HĐND. Ngoài ra văn
phòng HĐND tỉnh cần phải có kế hoạch củng cố bộ phận trực tiếp giúp việc cho các
ban của HĐND. Trước hết yêu cầu chuyên viên giúp việc cho các ban phải có
chuyên môn về lĩnh vực ban đó phụ trách; đồng thời phải có một tỷ lệ thích hợp số
chuyên viên chuyên trách là người đã làm việc ở các lĩnh vực đó trong thực tế.
Đối với cán bộ vừa tuyển dụng cần có kế hoạch đưa đi thực tế ở cơ sở, đồng
thời nên bố trí họ tham gia các buổi hội thảo, hội nghị nhằm bồi dưỡng kiến thức, kinh
nghiệm chuyên môn giám sát. Có như vậy văn phòng của HĐND tỉnh mới đủ khả năng
phục vụ HĐND thực hiện tốt chức năng giám sát.
3.3.3. Nâng cao chất lượng thực hiện các hình thức giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Nghệ An
Trong thời gian vừa qua, mặc dù hoạt động giám sát của HĐND đã được
tăng cường, song qua đánh giá của dư luận quần chúng, báo cáo tổng kết nhiệm kỳ
1999 - 2004 và những kỳ họp đầu nhiệm kỳ 2004 - 2009 của HĐND đều cho thấy
rằng: Hiệu quả giám sát chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước của
chính quyền địa phương. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tồn tại trên vì
HĐND chưa thực hiện tốt các hình thức và phương pháp giám sát, chưa có cơ chế
rõ ràng đảm bảo HĐND thực hiện tốt chức năng của mình. Do đó, để thực hiện có
hiệu quả chức năng giám sát, trước hết đòi hỏi HĐND phải nâng cao chất lượng các
hình thức và phương pháp giám sát. Cụ thể như sau:
+ Nâng cao chất lượng xem xét báo cáo.
Xem xét báo cáo là hoạt động giám sát quan trọng. Đây là hình thức HĐND
xem xét tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc đánh giá các
báo cáo đó. Nên trong luật cần quy định cụ thể về chế độ báo cáo, hình thức báo
cáo; đặc biệt phải quy định trách nhiệm nếu báo cáo không phản ánh đúng thực
trạng hoạt động của cơ quan, đơn vị đưa nhiều thông tin sai lệch hoặc thiếu thông
tin.
Về phía các cơ quan lập báo cáo yêu cầu thông tin trong báo cáo phải đầy đủ,
khách quan phản ánh đúng thực trạng hoạt động cũng như những vấn đề trọng tâm
cần tập trung giải quyết. Đồng thời phải nêu những kết quả đạt được, những khó
khăn yếu kém tồn tại, từ đó đề ra các biện pháp giải quyết và những kiến nghị đề
xuất việc giải quyết đó.
Phương pháp thực hiện hình thức giám sát này phải đảm bảo tính khép kín.
Khi nhận được báo cáo, cơ quan hay người có thẩm quyền đọc, xem xét góp ý cho
báo cáo. Đặc biệt, người được phân công thẩm tra báo cáo có thể trao đổi với cơ
quan lập báo cáo, nếu thấy cần thiết phải đi thực tế kiểm tra những vấn đề mà báo
cáo nêu chưa rõ hoặc có mâu thuẫn về thông tin với những nguồn thu nhận thông
tin khác. Cần công khai hoá nội dung của các báo cáo xét thấy cần thiết.
Khi báo cáo và báo cáo thẩm tra được trình ra HĐND, đại biểu HĐND cần
nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp ý kiến xác đáng và có thể nêu vấn đề chất vấn để
các cơ quan báo cáo giải trình trước HĐND. Việc thảo luận và thông qua báo cáo
tại kỳ họp của HĐND phải thể hiện trình độ độc lập của Hội đồng bằng cách ra nghị
quyết riêng về vấn đề đó.
Các báo cáo phải được gửi trước tới đại biểu HĐND theo quy định của pháp
luật và phải được đăng tải trên các phương tiện báo chí thông tin đại chúng trước kỳ
họp, để đảm bảo tính công khai, khách quan. Có như vậy, kết luận bằng nghị quyết
của HĐND mới thực sự là kết quả của việc sử dụng hình thức xem xét báo cáo một
cách có chất lượng.
+ Nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn.
Chất vấn và trả lời chất vấn là hình thức giám sát quan trọng của HĐND.
Nhưng trong thực tế "hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn mới chỉ mang tính chất
gợi mở các vấn đề, chưa đảm bảo hiệu lực thực sự. Người chất vấn thường chưa đủ
các thông tin cần thiết còn người trả lời chất vấn chưa đủ thoả đáng và cụ thể" [39,
tr.467]. Để hình thức giám sát chất vấn mang lại hiệu quả thiết thực thì HĐND và
các đại biểu dân cử phải đổi mới về nội dung và phương pháp chất vấn. Cụ thể:
Trong phiên họp, chủ toạ điều hành chương trình phải tạo ra không khí dân
chủ, khuyến khích, động viên đại biểu tham gia chất vấn. Đoàn Chủ tịch cần phải
lựa chọn trong số các chất vấn mà đại biểu HĐND gửi tới đoàn thư ký, nội dung nào
cử tri địa phương và nhiều đại biểu quan tâm đưa ra chất vấn tại hội trường. Từng câu trả
lời chất vấn, HĐND phải nhận xét, kết luận, giao nhiệm vụ cụ thể cho đối tượng bị chất
vấn hoàn thành trong thời gian nhất định.
Về phía đại biểu chất vấn phải đặt các câu hỏi ngắn gọn, đúng đối tượng,
đúng trọng tâm vấn đề mà cử tri dư luận đang quan tâm. Tránh tình trạng hỏi mang
tính chất tìm hiểu để củng cố kiến thức. Muốn vậy, các đại biểu phải nắm được tình
hình chung về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; hiểu rõ về nhiệm vụ, quyền
hạn của người trả lời chất vấn; đồng thời phải am hiểu các quy định pháp luật về
vấn đề liên quan đến nội dung chất vấn. Ví dụ: chất vấn về vấn đề môi trường cần
phải hiểu rõ những quy định của pháp luật (Luật Bảo vệ môi trường; các nghị định
hướng dẫn; xử lý vi phạm hành chính trong vấn đề môi trường…) [2, tr.91].
Việc trả lời chất vấn cũng cần có sự đổi mới theo hướng nâng cao tinh thần
trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Do thời gian tiến hành kỳ họp HĐND không
dài, quỹ thời gian dành cho chất vấn đã được ấn định trong chương trình kỳ họp,
nên việc trả lời chất vấn của các cá nhân có chức trách phải đảm bảo:
Về mặt nguyên tắc, mọi chất vấn viết và chất vấn bằng lời nói phải trả lời
công khai tại kỳ họp của hội đồng.
Nội dung trả lời chất vấn phải cụ thể, ngắn gọn dễ hiểu; đi thẳng vào bản
chất của vấn đề mà đại biểu quan tâm; tránh tình trạng báo cáo thành tích, diễn đạt
vòng vo, phân tích nhiều về tình hình, nhằm đảm bảo chương trình làm việc của Hội
đồng. Đối với vấn đề cần có thời gian để điều tra, nghiên cứu thì nhất thiết phải trả
lời tại kỳ họp tiếp theo.
Trong chất vấn, vấn đề đặt ra hiện nay người trả lời chất vấn không chỉ
dừng lại ở việc phải trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung mà đại biểu HĐND đã
chất vấn, điều quan trọng hơn là người bị chất vấn phải xác định rõ trách nhiệm và
các biện pháp khắc phục sai phạm của mình.
Qua phân tích các nội dung trên, có thể đề ra một số biện pháp cụ thể sau:
+ Trong cơ cấu đại biểu HĐND tỉnh nên tăng tỷ lệ quần chúng có năng lực,
tăng số đại biểu chuyên trách, giảm đại biểu là cán bộ quản lý lãnh đạo. Bởi vì hiện
nay số đại biểu là cán bộ ở các cơ quan nhà nước, cấp uỷ và đoàn thể đang chiếm tỷ
lệ khá nhiều. Có những đại biểu vừa tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước vừa tư
cách là người đứng đầu cơ quan hành pháp, thậm chí tư pháp. Trong khi đó chất
vấn, buộc người bị chất vấn phải giải thích trước cơ quan quyền lực nhà nước về
những khuyết điểm, tồn tại trong hoạt động, công tác của cơ quan, cá nhân đó phụ
trách; trả lời những nguyên nhân, biện pháp khắc phục khuyết điểm đó. Rõ ràng đây
là vấn đề khách quan mà HĐND cũng như các đại biểu Hội đồng không thể vượt
qua [38, tr.43]. Do vậy để khắc phục hạn chế này chúng ta phải chuyển dịch cơ cấu
đại biểu HĐND một cách hợp lý.
+ Cần xây dựng quy chế chất vấn: quy định cụ thể về hình thức chất vấn;
trình tự, chủ thể, đối tượng, nội dung chất vấn... về hậu quả pháp lý của chất vấn; sự
tham gia của cử tri, các phương tiện thông tin đại chúng vào quá trình chất vấn; vấn
đề giám sát theo dõi kết quả, trả lời chất vấn. Trong đó đặc biệt phải thể hiện được
một số nội dung:
Trong phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn nhất thiết phải tổ chức truyền
hình và phát thanh trực tiếp. Bởi thông qua kênh này, cử tri thấy được những đại
biểu nào có trách nhiệm, có chất vấn trong kỳ họp những vấn đề cử tri kiến nghị.
Đây là một trong những hình thức để cử tri giám sát, đánh giá trách nhiệm của đại
biểu.
HĐND và các đại biểu phải thường xuyên theo dõi và đôn đốc tiến độ thực
hiện những cam kết của người trả lời chất vấn bằng các giải pháp và thời gian thực
hiện nhất định.
Phải xây dựng cơ chế đánh giá những biện pháp khắc phục của các cá nhân
đó bằng việc bãi nhiệm, miễn nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm.
Khi cần thiết HĐND có thể ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người bị chất vấn.
Tăng thời gian chất vấn.
+ Đổi mới hình thức tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các
đoàn đi giám sát tại địa phương.
Hình thức tổ chức các đoàn đi giám sát tại cơ sở thời gian qua được HĐND
tỉnh Nghệ An sử dụng nhiều và triển khai rộng rãi ở hầu hết các địa phương trên địa
bàn và đã đạt nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện hình
thức giám sát này còn bất cập về chương trình giám sát, thành viên của đoàn giám
sát và phương pháp giám sát. Chính vì vậy, mặc dù HĐND đã cố gắng tổ chức được
nhiều cuộc giám sát song hiệu quả vẫn còn thấp. Để hình thức tổ chức đoàn giám
sát tại địa phương đạt được mục đích, yêu cầu đề ra phải thực hiện đồng bộ những
biện pháp cơ bản sau:
Về chương trình giám sát: khi xây dựng nghị quyết giám sát hàng năm,
HĐND tỉnh ngoài việc xây dựng chương trình giám sát theo định kỳ, cần phải dự
báo những vấn đề phát sinh, nổi cộm cần giám sát đột xuất. Trên cơ sở đó
TTHĐND tỉnh và các ban xây dựng chương trình giám sát của mình theo kế hoạch
cụ thể của từng kỳ họp, từng quý, từng tháng nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm.
Bởi hiện nay đối tượng, phạm vi, nội dung giám sát của HĐND tỉnh rất rộng, trong
khi đó lực lượng giám sát còn mỏng. Nếu chúng ta vẫn tổ chức giám sát tràn lan,
giàn trải thì hiệu quả chắc chắn sẽ không cao và làm ảnh hưởng đến uy tín của Hội
đồng. Do đó có thể tổ chức ít cuộc giám sát, nhưng cuộc giám sát nào cũng phải
triệt để và đến cùng thì tác dụng của nó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
- Về thành viên của đoàn giám sát: ngoài quyền hạn và kỹ năng giám sát,
thành viên của đoàn giám sát cần phải có chuyên môn về lĩnh vực được giám sát.
Để đáp ứng được yêu cầu đó, có thể thực hiện chế độ hợp đồng mời các chuyên gia
giỏi trên các lĩnh vực tham gia hoạt động với đoàn giám sát [25, tr.5]. Đồng thời
phải có quy định cụ thể, để chính kiến giám sát của họ trở thành ý chí của người đại
biểu. Vì thực tế đã xảy ra tình trạng, các thành viên chuyên môn không phải là đại
biểu của Hội đồng đã đóng góp một vai trò rất lớn trong việc xem xét, tìm hiểu giúp
HĐND phát hiện vấn đề chính xác và nhanh gọn. Nhưng xuất phát từ tư cách pháp lý,
cho nên ý kiến của họ không phải lúc nào cũng được các chủ thể giám sát và đối tượng
bị giám sát chấp nhận. Để khắc phục hạn chế này, cần phải xem ý chí của các thành
viên đó về bản chất cũng là ý chí của những người dân. Với quy định như vậy, việc
mời các thành viên chuyên môn tham gia đoàn giám sát mới thật sự có ý nghĩa.
- Về phương pháp giám sát: tuỳ thuộc vào từng đối tượng có thể lựa chọn
hình thức, phương pháp giám sát khác nhau. Nhưng dù sử dụng phương pháp, hình
thức nào cũng phải đảm bảo tính khách quan, chính xác và triệt để.
Như vậy, để một cuộc giám sát có hiệu quả chúng ta phải kết hợp nhiều yếu
tố khác nhau. Tuy nhiên hiệu quả giám sát không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra các ưu
điểm, khuyết điểm, đề ra những biện pháp khắc phục cho cơ quan đơn vị chịu giám
sát mà điều quan trọng là đơn vị đó đã khắc phục sửa sai khuyết điểm của mình như
thế nào. Tức là những kiến nghị, đề xuất của HĐND có được các cơ quan, đơn vị
chịu trách nhiệm tiếp thu, tổ chức thực hiện trong thực tế một cách triệt để hay
không. Do đó HĐND tỉnh phải có chế độ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết
luận của đoàn giám sát, đồng thời pháp luật phải quy định cho HĐND có những chế tài
cụ thể đối với cơ quan đơn vị bị giám sát nếu họ không thực hiện tốt các đề xuất, kiến
nghị của Hội đồng.
3.3.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giám sát giữa các cấp, các
ngành và các tổ chức đoàn thể
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh là một mắt khâu quan trọng trong cơ chế
giám sát. Cơ chế đó bao gồm hệ thống các yếu tố tác động qua lại với nhau từ giám
sát tối cao của Quốc hội, HĐND, giám sát của Mặt trận Tổ quốc, giám sát của nhân
dân..., đến hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát, thanh tra của các cơ quan ban
ngành. Mỗi chủ thể có một nhiệm vụ giám sát khác nhau nhưng tất cả đều có chung
mục đích bảo đảm tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự xã hội và bảo vệ pháp luật
nhà nước. Do vậy, HĐND tỉnh cần chú trọng phối hợp với các chủ thể giám sát
khác, với các cấp các ngành cũng như các chuyên gia để tránh sự chồng chéo và tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát.
Thời gian qua HĐND tỉnh Nghệ An đã chú ý đến vấn đề này song cần phải
tăng cường hơn nữa. Cụ thể:
Thứ nhất, tăng cường phối hợp với Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các tổ chức
thành viên. Chẳng hạn như:
Mời Mặt trận Tổ quốc tỉnh tham gia hoạt động giám sát cùng với
các ban để tăng thêm giá trị chức năng tư vấn của các ban đó. Bởi vì khi
thực hiện nhiệm vụ của mình các ban không có thẩm quyền độc lập đưa ra
các quyết định giám sát nên sự phối hợp tham gia của Mặt trận Tổ quốc sẽ
tăng thêm sức mạnh tư vấn trong các kết luận giám sát làm cho đối tượng bị
giám sát thấy rõ hơn hành vi của mình. Từ đó nội dung giám sát có thể
không phải đưa ra kỳ họp HĐND nhưng vẫn được các cơ quan nghiêm
chỉnh chấp hành [36, tr.132].
Thứ hai, tăng cường phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan nhằm
cung cấp thêm thông tin cho giám sát. Ví dụ: TTHĐND và các ban của Hội đồng
phải tham gia đầy đủ các cuộc họp của UBND; yêu cầu các sở, ban, ngành nhất là
cơ quan Tư pháp, các cơ quan chuyên môn tổng hợp như Sở Kế hoạch đầu tư, tài
chính, vật giá, ngân hàng, kho bạc... phải cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động hàng
quý, hàng tháng cho Hội đồng. Có như vậy, cùng với nguồn thông tin khác (do nhân
dân phản ánh, qua phương tiện thông tin đại chúng...) HĐND mới có đủ căn cứ xác
định các đối tượng và nội dung cần tập trung giám sát.
Thứ ba, tăng cường phối hợp với các đơn vị được giám sát để tạo điều kiện
thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như các nội dung, hiện trường phục vụ giám sát.
Khi báo cáo yêu cầu các đơn vị phải quán triệt quan điểm khách quan, trình bày
đúng thực trạng hoạt động của cơ quan đơn vị mình. Muốn làm tốt điều đó trước hết
phải thay đổi cách đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước theo hướng đi vào
thực chất hiệu quả của công việc, hạn chế "bệnh thành tích" hình thức như hiện nay.
Mặt khác trong quá trình phối hợp, HĐND phải chỉ rõ cho các đơn vị thấy rằng:
giám sát là để ngăn chặn tồn tại, giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ, đó là động
lực để phát triển chứ không phải "vạch lá tìm sâu" gây cản trở cho nhau.
Thứ tư, tăng cường phối hợp với các chuyên gia về lĩnh vực được giám sát sẽ
giúp cho HĐND nhìn nhận đánh giá một cách khách quan chính xác các vấn đề
giám sát.
Thứ năm, tăng cường phối hợp với các đoàn giám sát của Quốc hội. Khi có
đoàn đại biểu Quốc hội xuống địa phương giám sát, Thường trực, các ban của
HĐND có thể kết hợp thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, vừa tránh được
chồng chéo, vừa tranh thủ được trí tuệ của các đại biểu Quốc hội trong việc tháo gỡ
những vướng mắc cho địa phương, đồng thời giảm bớt việc gây phiền hà cho các
đơn vị bị giám sát.
Tóm lại, xuất phát từ chế độ làm việc HĐND, không thể sử dụng mệnh lệnh
hành chính như UBND hay các biện pháp cưỡng chế của ngành Tư pháp mà chỉ có
thể đưa ra các kiến nghị, đề xuất mang tính chất tư vấn. Do vậy để nâng cao hiệu
quả giám sát thì giải pháp tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan ban
ngành và các tổ chức đoàn thể trong hoạt động giám sát là việc làm hết sức cần
thiết.
3.3.5. Tạo các điều kiện thuận lợi cho Hội đồng nhân dân trong hoạt
động giám sát
Theo đánh giá chung, một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả
giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An là do thiếu điều kiện vật chất và phương thiện
thông tin cho các đại biểu. Trong điều kiện xã hội đang thay đổi hàng ngày, hàng
giờ như hiện nay, nhu cầu được cung cấp thông tin là rất cần thiết. Hơn nữa các đại
biểu HĐND, các cơ quan của Hội đồng muốn thực hiện tốt chức năng của mình thì
nhu cầu được đảm bảo về thông tin là một yêu cầu lớn, cần phải được hỗ trợ một
cách đầy đủ nhất.
Thông tin cần phải được cập nhật, sâu rộng trong mọi lĩnh vực giám sát. Để
làm tốt nội dung trên cần phải tăng cường công tác thông tin lưu trữ và công tác tư
liệu, đảm bảo đầy đủ về nội dung thuộc mọi lĩnh vực giám sát của Hội đồng. Đồng
thời việc cung cấp thông tin phải phù hợp với kế hoạch giám, tránh tình trạng gần
đến khi Hội đồng họp hoặc trong kỳ họp mới gửi tài liệu cho đại biểu không đủ thời
gian để đại biểu nghiên cứu, phân tích tài liệu đối chiếu thông tin một cách kỹ
lưỡng.
Để tăng nguồn thông tin trong thời gian chuẩn bị và diễn ra kỳ họp, HĐND
tỉnh nên thành lập một số đường dây điện thoại để tiếp nhận thông tin do cử tri phản
ánh. Với biện pháp này HĐND sẽ nắm được những bức xúc của cử tri, kịp thời giải
quyết, tránh hiện tượng xảy ra điểm nóng, làm ảnh hưởng đến ổn định an ninh,
chính trị của địa phương.
Nên ứng dụng khoa học, công nghệ vào hoạt động của HĐND tỉnh như thành
lập trang Web của HĐND tỉnh trên mạng internet, tiếp tục biên tập phát hành bản
tin của HĐND mỗi quý một cuốn. Đó sẽ là những địa chỉ tin cậy để các đại biểu
HĐND, cử tri và mọi người dân nghiên cứu tham gia trao đổi, góp ý kiến cho Hội
đồng hoạt động hiệu quả hơn.
Về điều kiện vật chất: xuất phát từ Nghệ An là một tỉnh miền núi với diện
tích khá rộng, dân cư lại sống rải rác khắp địa bàn, đã gây ra những khó khăn nhất
định trong hoạt động của đại biểu HĐND. Vì vậy, nhà nước cần phải có chính sách
đảm bảo cho HĐND tỉnh Nghệ An thực hiện tốt chức năng giám sát của mình. Cần
quan tâm hơn nữa đến chế độ đãi ngộ khen thưởng, phụ cấp lương cho đại biểu.
Với đặc thù của Nghệ An như trên, việc đi lại của đại biểu HĐND rất khó
khăn nên ngoài phụ cấp lương, chúng ta cần phải quan tâm đến chế độ thanh toán
tiền tàu xe đi lại, sinh hoạt phí cho đại biểu một cách hợp lý. Đồng thời, đảm bảo
các điều kiện cần thiết (điện thoại, phương tiện nghe nhìn...) phục vụ một cách tốt
nhất cho công tác giám sát. Ngoài ra chính quyền địa phương cần bố trí trụ sở riêng
cho HĐND tỉnh hoạt động, trong đó phải chú ý đến bộ phận văn phòng. Cung cấp
đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ chuyên viên,
cán bộ phát huy hết năng lực trách nhiệm của mình, giúp HĐND tỉnh hoàn thành
nhiệm vụ.
Tóm lại, các nhóm giải pháp nói trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có một
vai trò vị trí riêng, khó có thể đánh giá giải pháp nào quan trọng nhất. Tuy nhiên
chúng chỉ đem lại hiệu quả thực sự nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và
kiên quyết, trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà
nước đối với công tác nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh hiện nay.
kết luận
Trong một đất nước mà "nạn tham nhũng và tệ quan liêu" được xem là một
nguy cơ thì giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm làm trong sạch bộ
máy, duy trì bản chất tốt đẹp của chế độ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên
đây là một sự nghiệp to lớn và phức tạp, thể hiện ở chỗ: xuất phát từ một đất nước
có quan hệ sản xuất nhỏ, hàng trăm năm "đậm nét thuần nông" với một thời gian
khá dài duy trì chế độ tập trung quan liêu bao cấp nay lại bước vào cơ chế thị
trường, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu của một nền dân chủ thật sự đã
đặt ra những thách thức không nhỏ đến việc thống nhất và tổ chức thực hiện quyền
lực ở nước ta. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả giám sát của các chủ thể nói chung và của
HĐND tỉnh Nghệ An nói riêng là một yêu cầu khách quan, cấp bách trong giai đoạn
hiện nay.
Thực hiện công cuộc đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND đã được đề
cập trong các nghị quyết của Đảng, thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND đã
được coi trọng. Đặc biệt, sau khi Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ra đời,
bước đầu đi vào cuộc sống, hoạt động này đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hàng
năm HĐND tỉnh đã xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát cụ thể bằng việc ra
nghị quyết trên cơ sở yêu cầu của thực tiễn cuộc sống; công tác tổ chức thực hiện
giám sát đã diễn ra toàn diện, chủ động và bài bản hơn. Công tác theo dõi, đôn đốc
sau giám sát đã được chú ý, thực hiện nghiêm túc hơn, làm tăng lòng tin của nhân
dân đối với cơ quan quyền lực, góp phần nâng cao vai trò quản lý nhà nước của
chính quyền địa phương trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Vì vậy, trên thực tế rất
nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức đơn vị đã kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn các hoạt
động của mình phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của
HĐND.
Tuy nhiên, dù đã có những tiến bộ nhất định, hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh Nghệ An vẫn chưa thực sự đổi mới ngang tầm với vị trí, vai trò còn tồn tại
nhiều bất cập hạn chế. Hệ thống pháp luật về giám sát chưa hoàn thiện, một số quy
định còn lỏng lẻo thiếu tính khả thi, một số vấn đề pháp lý quan trọng còn "bỏ
ngỏ"... Hiệu quả giám sát chưa cao. Đa số các cuộc giám sát chưa đi đến triệt để, chỉ
dừng lại ở việc báo cáo các kết quả ghi nhận được bằng các kiến nghị, đề xuất; việc
các cơ quan đơn vị có thực hiện kiến nghị đề xuất đó hay không chưa được HĐND
đánh giá, tổng kết. Điều này cho thấy các hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ
An chưa thường xuyên, thiếu chủ động, thiếu kiên quyết... đến nay theo đánh giá
chung vẫn còn là một hoạt động mang tính hình thức.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế trong hoạt động giám sát
của HĐND tỉnh Nghệ An, luận văn đưa ra một số quan điểm chỉ đạo, những giải
pháp chủ yếu nhằm tập trung nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An
nói riêng và cấp tỉnh nói chung; xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Các giải
pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ để phát huy hơn nữa sức mạnh của
HĐND, góp phần xây dựng BMNN ngày càng trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Khắc Bộ (2001), Công tác giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân dân -
Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát
của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
2. Bộ Nội vụ (2005), Tài liệu bồi dưỡng trưởng, phó ban chuyên trách và ủy viên
thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Hà Nội.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội và Hội đồng nhân dân (1996), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Như Du (2004), "Cử tri đang mong chờ vào hiệu quả giám sát", Báo
Người đại biểu nhân dân, (31), tr.1.
5. Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên) (2004), Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và
thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ
An lần thứ XVI, Tài liệu lưu hành nội bộ.
9. Nguyễn Minh Đoan (2001), Hiệu quả pháp luật, Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Trần Hữu Đức (2006), "Nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân",
Bản tin Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội, (1), tr.19.
11. Minh Đức (2006), "Giám sát là động lực của phát triển", Bản tin Hội đồng
nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội Nghệ An, (1), tr.6.
12. Ninh Viết Giao (2005), Nghệ An lịch sử và văn hoá, Nxb Nghệ An,
Nghệ An.
13. Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra giám sát trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, trong sách: "Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
14. Hiến pháp nước Cộng hoà xã h chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa
đổi bổ sung 2001) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (1999), Báo cáo kết quả bầu cử Hội đồng
nhân dân tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 1999-2004.
16. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2004), Báo cáo tổng kết hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 1999-2004.
17. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2004), Báo cáo kết quả bầu cử Hội đồng
nhân dân tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2004 - 2009.
18. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo kết quả hoạt động của
thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An năm 2005 khoá XV tại kỳ
họp thứ 6.
19. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo kết quả hoạt động của Ban
pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An năm 2005 và định hướng
trọng tâm công tác 2006.
20. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo hoạt động của Ban Kinh tế
và ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An 2005 định hướng công tác
năm 2006.
21. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), "Giám sát dễ dãi sẽ mất lòng dân",
Bản tin Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An,
tr.14.
22. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo thẩm tra của Hội đồng nhân
dân tỉnh Nghệ An về tình hình văn hoá - xã hội trên địa bàn năm 2005.
23. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2006), Báo cáo kết quả hoạt động của
thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh 6 tháng đầu năm 2006.
24. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2006), Báo cáo kết quả hoạt động của Ban
pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh 6 tháng đầu năm và định hướng trọng
tâm công tác 6 tháng cuối năm 2006.
25. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2006), Báo cáo kết quả hoạt động 6 tháng
đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2006 của Ban
Kinh tế ngân sách.
26. Trần Đình Huề (2001), Mấy vấn đề về vai trò hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân và bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám sát, Kỷ
yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn
phòng Quốc hội.
27. Vũ Hùng (2001), Hoạt động giám sát của Ban Văn hoá xã hội, Hội đồng nhân
dân thành phố Đà Nẵng và một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu nâng
cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng
Quốc hội.
28. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
29. Leni Montiel (2001), Bài phát biểu tại Hội thảo nâng cao năng lực và hiệu
quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu Nâng cao năng lực và hiệu
quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
30. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
31. Nguyễn Văn Mạnh (2002), Cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả giáo dục pháp
luật cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn
Hà Nội, Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ "Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp
luật trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay", Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
32. Một vụ thất thoát, tham nhũng được nêu trên Vietnet ngày 19/10/2005, tr.1.
33. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Chu Hồng Thanh (1993), Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật trong cơ
chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
35. Lê Minh Thông (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội nhân văn, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Thuật (2001), Phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh thực
hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An, Kỷ yếu
về nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn
phòng Quốc hội.
37. Vũ Thư (2003), Vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân, Trong sách: "Giám sát và cơ chế giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước ở nước ta", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Tri (2001), Chất vấn và trả lời chất vấn, một hình thức giám sát
quan trọng của Hội đồng nhân dân, Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả, Kỷ yếu nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
39. Dương Quang Tung (2001), Bàn về mô hình tổ chức chính quyền địa phương,
Trong sách: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Từ điển bách khoa luật (1987), Mátxcơva
41. Từ điển học sinh (1971), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Từ điển Lepetitlasousse (1999), Paris.
43. Từ điển luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
44. Đào Trí úc (2003), "Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước
và các cơ chế thực hiện giám sát", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6),
tr.4.
45. Trần Văn Vinh (2006), Lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Hội đồng nhân
dân bầu, thực trạng và giải pháp, Bản tin Hội đồng nhân dân và đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An.
46. Võ Khánh Vinh (2003),Một số vấn đề chung về hiệu quả và việc nâng cao
hiệu quả giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước, Trong sách: "Giám
sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước", Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
47. Hồ ĐứcViệt (chủ biên) (2005), Sổ tay hướng dẫn hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực khoa học và công nghệ bảo vệ môi
trường và tài nguyên thiên nhiên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Viện Ngôn Ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
49. Vụ Công tác đại biểu (2005), Những điểm mới trong quy chế hoạt động của
Hội đồng nhân dân 2005, Nxb Chính trị quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 129_7876.pdf