Luận văn Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta hiện nay

Mở đầu 5 Chương 1. Một số cơ sở lý luận về nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi 9 1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu 9 1.2. Các cơ quan hành chính Nhà nước trong việc thực hiện pháp luật ưu đãi 19 1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công. 21 1.4. Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết vấn đề ưu đãi người có công với cách mạng. 23 Chương 2. Thực trạng năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công 26 2.1. Khái quát quá trình ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng từ năm 1945 tới nay 26 2.2. Khái quát về pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng hiện nay 31 2.3. Thực trạng năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng 45 2.4. Một số vấn đề rút ra từ phân tích thực trạng 69 Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng hiện nay 70 3.1. Những định hướng chung 70 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng của cơ quan hành chính Nhà nước 73 Kết luận chung 84 Tài liệu tham khảo 86

doc93 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2367 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tới hạn chế trong quá trình thực hiện. Việc ban hành các văn bản quy định chế độ trợ cấp hàng tháng chưa thay đổi kịp với mức sống chung của xã hội. Quy định về trợ cấp hàng tháng đối với học sinh, sinh viên thuộc đối tượng chính sách theo học ở các trường đào tạo dân lập chưa được hưởng như các trường công lập; chế độ ưu đãi giáo dục, đào tạo gồm nhiều loại mà kinh phí thực hiện còn phân tán do nhiều ngành phụ trách dẫn đến chồng chéo, mâu thuẫn khó quản lý. Hiện còn hàng trăm ngàn gia đình người có công với cách mạng đang gặp khó khăn về nhà ở; ở một số địa phương, vì kinh tế chưa phát triển hoặc đông đối tượng hay thường xuyên bị thiên tai, thì việc hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng còn gặp nhiều khó khăn... Hệ thống văn bản ban hành còn nhiều bất cập, vi phạm trong quá trình thực hiện; tổ chức thực hiện còn nhiều thiếu sót, nhiều đối tượng hưởng sai chính sách, nhiều cán bộ làm sai chính sách; việc xử lý sai phạm chưa nghiêm. Theo kết quả thanh tra việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công đối với hai đối tượng là thương binh và người nhiễm chất độc hoá học của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội năm 2006 tại một số tỉnh: - Miền Bắc: Tỉnh Sơn La, Hải Dương; - Miền Bắc Trung Bộ: Nghệ An; - Tây Nguyên: Gia Lai; - Nam Trung Bộ: Phú Yên; - Miền Nam: Cần Thơ. Có kết quả như sau: Bảng 2.2. Kết quả thanh tra người có công của Bộ LĐ- TB, XH năm 2006 STT Địa phương Số đối tượng được kiểm tra Số đối tượng chưa thực hiện đúng Thương binh Chất độc hoá học Thương binh Chất độc hoá học 1 Phú yên 38 21 5 19 2 Sơn La 96 9 9 7 3 Nghệ An 14 30 2 4 4 Hải Dương 37 15 8 5 Cần Thơ 50 110 4 44 6 Gia Lai 53 4 Tổng 288 185 24 82 Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Như vậy, qua kiểm tra tại 6 tỉnh với 437 đối tượng hiện đang hưởng chính sách chế độ thương binh và người bị nhiễm chất độc hoá học thì có tới 106 đối tượng hưởng không đúng quy định chiếm tới 24%. Từ các số liệu trên, ta có thấy việc tổ chức thực hiện chính sách vẫn còn nhiều thiếu sót về khâu tổ chức thực hiện và quản lý. Vậy nếu tính trên phạm vi cả nước, người đang hưởng chính sách ưu đãi thì số lượng người hưởng sai chính sách sẽ là rất lớn, hàng năm ngân sách chi lượng tiền rất lớn vào việc trả chế độ trợ cấp sai đối tượng. Trong hai đối tượng trên thì người nhiễm chất độc hoá học chiếm tới 18%, hai tỉnh có số lượng người hưởng sai chính sách nhiều nhất là Phú Yên kiểm tra 21 đối tượng có tới 19 đối tượng hưởng sai và Cần Thơ kiểm tra 110 đối tượng có 44 hưởng sai chính sách. Các sai phạm chủ yếu: - Nhiều đối tượng không đủ điều kiện nhưng đang hưởng chế độ; - Mức hưởng không chính xác; - Quyết định thời điểm được truy lĩnh chế độ người nhiễm chất độc hoá học còn nhiều trường hợp không chính xác; - Không kết hợp kiểm tra “chứng thực” mà chỉ căn cứ vào xác nhận của y tế. - Công tác kiểm tra, rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng còn dừng lại ở kiểm tra hồ sơ mà chưa điều tra thẩm định, làm rõ nguyên nhân để xử lý theo pháp luật. Theo kết quả của báo cáo tổng hợp của 61/64 sở Lao động - Thương binh và xã hội năm 2006 so sánh với số liệu tổng hợp từ báo cáo của 62/64 Sở năm 2005 về thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng có kết quả như sau: Bảng 2.3. Kết quả thanh tra người có công năm 2005 và 2006 của các tỉnh Năm 2005 2006 Số cuộc thanh tra 209 576 Số cán bộ làm sai chính sách bị phát hiện 12 43 Số đối tượng hưởng sai 104 814 Số tiền thu hồi hưởng sai 399.000 triệu đồng 1.307.000 đồng Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội các tỉnh báo cáo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội So với năm 2005 số lượng các cuộc thanh tra có tăng, số đối tượng hưởng sai và cán bộ làm sai cũng tăng lên, trung bình năm 2005, mỗi một cuộc thanh tra phát hiện ra 0,5 đối tượng hưởng sai chính sách, năm 2006 đã tăng lên 1,41 đối tượng hưởng sai, số cán bộ làm sai cũng tăng từ 12 cán bộ lên 43 cán bộ tăng gấp 3,5 lần. 2.3.2.5. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế - Thời điểm xảy ra sự việc quá lâu; - Quy trình xét duyệt, công nhận người có công được hưởng chính sách phải trải qua nhiều ngành, nhiều cấp quản lý; - Tổ chức và cơ chế hoạt động còn có những bất hợp lý. - Trình độ năng lực chuyên môn của bán bộ, công chức trong ngành còn hạn chế, đặc biệt là cấp cơ sở; năng lực chuyên môn của cán bộ chuyên trách có được chủ yếu từ kinh nghiệm và qua các lớp tập huấn. - Văn bản dưới luật về người có công luôn thay đổi, bổ sung nên dẫn tới tình trạng không hiểu văn bản và vận dụng sai chính sách; - Một số cán bộ làm giả hồ sơ thu lợi bất chính. - Các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền các cấp chưa làm tốt chức năng quản lý nhà nước về người có công. 2.3.3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng Bất kỳ một hoạt động quản lý nào cũng có nội dung thanh tra, kiểm tra như một khâu không thể thiếu được trong hợp thành quá trình quản lý. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mục đích của thanh tra, kiểm tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả của hoạt động quản lý; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của tổ chức và cá nhân. Cho nên, Nhà nước không những ban hành pháp luật ưu đãi người có công mà còn tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nó. Theo tổng kết của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong 10 năm qua, các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước đã tổ chức thanh tra việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công ở hầu hết các tỉnh, thành phố, gần 300 xã, phường, trên 100 huyện, thị; kiểm tra hơn 20 000 hồ sơ; tiếp xúc hàng nghìn đối tượng; đã phát hiện hơn 13 000 trường hợp hưởng không đúng quy định gây thiệt hại cho ngân sách hành chục tỷ đồng, đã thu hồi và kiến nghị thu hồi hàng tỷ đồng. Các cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương đã phân loại mức độ, tính chất, nguyên nhân sai phạm để xử lý và kiến nghị sử lý, kể cả việc chuyển hồ sơ sang cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật để truy tố các cá nhân vi phạm pháp luật. 2.3.3.1. Cơ quan thực hiện thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật người có công Hiện nay, cơ quan chuyên trách thực hiện công tác thanh tra pháp luật người có công với cách mạng: Trung ương là Vụ thanh tra trực thuộc Bộ Lao đông-Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng thanh tra chính sách người có công trên phạm vi toàn quốc. Địa phương là thanh tra chính sách Lao động – xã hội trực thuộc Sở Lao động thương binh và xã hội thực hiện chức năng thanh tra chính sách người có công trên phạm vi của tỉnh. 2.3.3.2. Số lượng thanh tra viên thực hiện thanh tra pháp luật ưu đãi người có công hiện nay. Số lượng thanh tra viên tính tới năm 2006: Bảng 2.4. Số lượng thanh tra viên thanh tra chính sách người có công Thanh tra Trung ương 34 cán bộ Thanh tra các tỉnh 275 cán bộ Tổng số 309 cán bộ Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Như vậy, tổng số cán bộ thanh tra ở Trung ương và các tỉnh còn thiếu nhiều so với thực tế: Thanh tra toàn ngành chỉ có 309 người, mỗi tỉnh bình quân 4 thanh tra viên (tỉnh nhiều nhất 13, thấp nhất 2 thanh tra viên). 2.3.3.3. Thực trạng tổ chức hoạt động thanh tra. Năm 2006 thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và xã hội tiến hành ở sáu tỉnh, thành phố; thanh tra các Sở đã tiến hành 576 cuộc thanh tra về chính sách người có công, gấp 2,76 lần so với năm 2005, thu hồi số tiền hưởng sai là 1,3 tỷ đồng. Các cuộc thanh tra theo kế hoạch, thanh tra đột xuất đã có các kết luận kịp thời nhằm kiến nghị các đơn vị thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Phát hiện kịp thời và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo được duy trì thường xuyên, kịp thời theo dõi được công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của ngành. Nhiều vụ khiếu nại phức tạp, kéo dài được giải quyết dứt điểm. Tuy nhiên, số lượng các cuộc thanh tra hàng năm của cả cấp Trung ương và tỉnh còn quá ít. Số lượng các cuộc thanh tra giữa các tỉnh không đồng đều, có nhiều tỉnh trong một năm không tiến hành cuộc thanh tra nào ví dụ như các tỉnh Lai Châu, Đà Nẵng, Lào Cai... trong khi đó có tỉnh thanh tra tới 40 đơn vị điều này thể hiện sự không nhất quán trong thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nhiều tỉnh còn phát hiện nhiều đối tượng hưởng sai. Một số tỉnh điển hình: Bảng 2.5. Thống kê thanh tra một số tỉnh năm 2005 STT Tỉnh Số đơn vị được thanh tra Số cán bộ làm sai Số đối tượng hưởng sai Số tiền cắt, thu hồi trợ cấp Ghi chú Bạc Liêu 6 0 5 21 000 000 đ Bến Tre 12 19 95 57 680 000đ Bình Thuận 4 1 1 5 800 000 Cà Mau 3 3 50 269 000 000đ Hà Nội 2 0 31 8 720 000 đ Quảng Nam 1 0 16 36 175 000đ Quảng Ninh 2 0 2 13 520 000 đ Sóc Trăng 41 0 27 56 000 000 đ Tây Ninh 7 0 2 32 000 000 đ Thái Nguyên 2 0 130 0 Nguồn : Ủy ban nhân dân các tỉnh báo cáo Bộ Lao động Thương binh và xã hội Bảng 2.6. Thống kê thanh tra một số tỉnh năm 2006 STT Tỉnh Số đơn vị được Thanh tra Số cán bộ làm sai chính sách Số đối tượng hưởng sai Số tiền cắt, thu hồi trợ cấp Ghi chú 1 Phú Yên 40 2 9 17 030 000đ 2 Hà Tây 0 7 22 016 000đ 3 Tiền Giang 8 3 37 23 345 000đ 4 Quảng Nam 8 0 24 90 162 200đ 5 Gia Lai 6 0 51 0 6 Nghệ An 36 3 24 29 910 000đ 7 Hải Phòng 1 0 5 1 244 000 đ Nguồn : Ủy ban nhân dân các tỉnh báo cáo Bộ Lao động Thương binh và xã hội 2.3.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác thanh tra - Trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí phục vụ công tác thanh tra thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng tuy đã được tăng cường nhưng vẫn còn thiếu (đặc biệt là cấp tỉnh) nên ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ theo kế hoạch. - Đối tượng người có công ngày càng được mở rộng trong khi đó số lượng thanh tra viên thì quá ít. - Chất lượng cán bộ, thanh tra viên còn có nhiều hạn chế, nhiều thanh tra viên chưa đủ khả năng thực hiện thanh tra. Việc tiếp cận, nắm bắt chính sách, chế độ về người có công chưa sâu, thiếu kỹ năng phát hiện, xử lý. 2.3.4. Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo Với chức năng là cơ quan hành chính chuyên trách, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng các Sở xác định rõ trách nhiệm và tăng cường cán bộ, điều kiện để giải quyết dứt điểm đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về tiếp công dân và xử lý đơn thư theo thẩm quyền. Ngoài ra còn phối hợp với các đơn vị có liên quan giải quyết đúng các các vụ khiếu kiện, đặc biệt là các vụ phức tạp kéo dài đảm bảo khách quan đúng pháp luật. 2.3.4.1. Khiếu nại, tố cáo của Trung ương Bảng 2.7. Bảng số liệu khiếu nại và tố cáo từ 2004 tới 2006 Năm Khiếu nại Tố cáo Kiến nghị Tổng số 2004 661 khiếu nại và tố cáo 2005 427 67 93 520 2006 542 14 63 619 Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, số lượng đơn thư có chiếu hướng gia tăng. Về nội dung còn một số vụ, việc công dân tái khiếu, nhưng các cấp không tập trung nghiên cứu, xem xét sự việc cụ thế hoặc tìm ra tình tiết mới, do vậy vẫn bảo lưu kết luận dẫn đến hiện tượng công dân bức xúc chuyển đơn đến nhiều cơ quan Trung ương. 2.3.4.2. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của địa phương Tình hình kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về chính sách người có công còn nhiều, mặc dù năm 2006 có giảm hơn so với năm 2005. Bảng 2.8. Bảng số liệu khiếu nại và tố cáo năm 2005, 2006 Năm Hỏi, đề nghị Khiếu nại, Tố cáo Tổng 2005 472 435 907 2006 367 409 776 Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội các tỉnh báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Tình hình khiếu nại và tố cáo một số tỉnh cụ thể: Bảng 2.9. Khiếu nại, tố cáo của một số địa phương năm 2006 STT Tỉnh Đơn thư Giải quyết Khiếu nại Tố cáo Hỏi, đề nghị Khiếu nại Tố cáo Đúng Sai 1 Phú Yên 12 10 17 6 7 8 4 2 Khánh Hoà 6 3 64 5 2 5 3 Đà Nẵng 4 2 6 4 2 4 Hà Tây 0 7 535 7 4 3 5 Đồng Tháp 66 5 61 64 5 20 48 6 Quảng Ninh 2 6 233 2 6 1 7 7 Đồng Nai 19 8 0 13 7 16 8 Tiền Giang 44 34 0 41 33 5 53 9 Quảng Nam 31 17 8 31 12 43 0 10 Bắc Giang 3 2 22 11 Tuyên Quang 1 3 130 1 3 0 4 12 Quảng Trị 6 5 6 5 13 Gia Lai 2 3 1 2 1 1 14 Nghệ An 49 58 319 26 46 23 44 Nguồn: Các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nhìn vào số liệu trên ta thấy số lượng đơn thư của một số tỉnh rất nhiều, số vụ khiếu nại, tố cáo đúng chiếm tỷ lệ cao điều này thể hiện việc ban hành văn bản, giải đáp các chính sách, tổ chức thực hiện pháp luật còn chưa đồng bộ giữa các địa phương. 2.3.4.3. Nội dung của đơn thư khiếu nại, tố cáo chủ yếu - Không đủ điều kiện hưởng chế độ; - Khiếu nại, tố cáo cán bộ thực hiện chính sách ưu đãi (nhiều khiếu nại, tố cáo liên quan tới đối tượng thương binh, nhiễm chất độc hoá học); - Khiếu nại các quyết định hành chính của cơ quan thực hiện chính sách. 2.3.4.4. Nguyên nhân của những vấn đề trên - Văn bản ban hành ở nhiều thời kỳ khác nhau, trải qua thời gian dài, nhiều quy định tuy đã được bổ sung, sửa đổi nhưng còn chưa đồng bộ nên việc áp dụng ở một số địa phương không thống nhất. - Nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, các nhân chứng, tư liệu không còn, dẫn đến việc xác minh, thẩm tra gặp nhiều khó khăn. - Công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa đến được với người dân. - Ở một số địa phương việc phân cấp cán bộ tiếp công dân không có chuyên môn, nghiệp vụ và hạn chế về kinh nghiệm hoặc thường xuyên thay đổi, dẫn đến hiệu quả chưa cao. 2.3.5. Thực trạng năng lực nguồn nhân lực Nhân lực là vấn đề cốt yếu, để xây dựng được một nền hành chính thống nhất, năng động, có hiệu quả, cần có đội ngũ công chức hành chính có năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức trong sạch, tận tụy với công việc. Trong lĩnh vực công tác người có công với cách mạng, nguồn nhân lực trong lĩnh vực này hiện nay có những đặc điểm sau: - Chủ yếu cán bộ, công chức làm trong lĩnh vực này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau (từ quân đội, thanh niên xung phong, đoàn thể, học từ ngành khác...), không được đào tạo bài bản về kiến thức chuyên ngành cũng như kỹ năng chuyên môn, họ giải quyết công việc chủ yếu dựa vào những kinh nghiệm trong quá trình công tác dẫn tới năng lực giải quyết công việc còn hạn chế. Đặc biệt là ở các địa phương. - Hàng năm, mặc dù Nhà nước đã dành những khoản kinh phí đáng kể để bồi dưỡng về mặt nghiệp vụ, kiến thức quản lý nhà nước nhưng vẫn mang tính đáp ứng công việc, mang tính thụ động, dẫn tới hiện nay trong lĩnh vực này đang thiếu cán bộ, công chức hàng đầu trong hoạch định chính sách. - Trình độ của cán bộ, công chức của cấp địa phương còn hạn chế. Theo khảo sát mới nhất của bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ở 36/64 tỉnh thành thì trình độ của cán bộ, công chức 3 cấp như sau: + Cấp tỉnh (Sở Lao động – Thương binh và Xã hội): Trình độ đào tạo so với đạt chuẩn: Chuyên môn (Cao đẳng, đại học): Thành phố trực thuộc Trung ương là 79%, đồng bằng, trung du 68%, miền núi 63%. Quản lý nhà nước: Thành phố trực thuộc Trung ương là 72,3%, đồng bằng, trung du 47,7%, miền núi 46,7%. Ngoại ngữ (Trình độ B): Thành phố trực thuộc Trung ương là 29,3%, đồng bằng, trung du 24,1%, miền núi 20,4%. Tin học (Trình độ B): Thành phố trực thuộc Trung ương là 75,6%, đồng bằng, trung du 61,1%, miền núi 51,4%. + Cấp huyện (Phòng Thương binh và Xã hội): Trình độ đào tạo so với đạt chuẩn: Chuyên môn (Cao đẳng trở lên): cấp huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã là 72,8%, đồng bằng, trung du 73,6%, miền núi 74,6%. Quản lý Nhà nước: cấp huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố trực thộc tỉnh, thị xã là 65,9%, đồng bằng, trung du 75%, miền núi 43%. Ngoại ngữ (Trình độ A): cấp huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã là 49,7%, đồng bằng, trung du 39,2%, miền núi 21,2%. Tin học (Trình độ B): cấp huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố trực thộc tỉnh, thị xã là 46,6%, đồng bằng, trung du 51,6%, miền núi 37,1%. + Cấp xã: Chuyên môn (trung cấp trở lên): cấp xã trực thuộc thành phố trực thuộc Trung ương 43,5 (trong đó đúng chuyên môn 24%); các xã thuộc các tỉnh đồng bằng, trung du 21,5% (trong 21,5% đó đúng chuyên môn 30%); miền núi 58% (trong 58% đó đúng chuyên môn 33%). Quản lý Nhà nước: cấp xã trực thuộc thành phố trực thuộc Trung ương là 60,4%; các xã thuộc các tỉnh đồng bằng, trung du 66,7%; miền núi 24,8%. Tin học (có khả năng sử dụng máy tính văn phòng vào giải quyết công việc): cấp xã trực thuộc thành phố trực thuộc Trung ương là 21,1%; các xã thuộc các tỉnh đồng bằng, trung du 16,2%. Nhìn vào số liệu trên ta có thể thấy trình độ chuẩn của cán bộ, công chức làm công tác người có công tuy đã đạt trình độ nhất định nhưng còn thấp và điều đáng chú ý là phần lớn không được trang bị kiến thức chuyên ngành, điều này ảnh hưởng rất lớn tới năng lực giải quyết công việc hàng ngày, nhất là lĩnh vực công tác này nhiều nhạy cảm. 2.3.6. Thực trạng tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động Trong những năm qua, Bộ máy quản lý Nhà nước và thực hiện chính sách ưu đãi người có công từ Trung ương xuống địa phương thường xuyên được đổi mới về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động. Quy trình quản lý và tổ chức thực hiện chế độ trợ cấp và chế độ ưu đãi khác đã đi vào nề nếp, sát với thực tế và gắn với trách nhiệm. Pháp luật ưu đãi đã thực sự trở thành công cụ quản lý của Nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội trong lĩnh vực ưu đãi người có công, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội, góp phần ổn định chính trị – xã hội, phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước ngày càng mở rộng đối tượng hưởng chính sách người có công, điều chỉnh chế độ phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất cho người có công trong cuộc sống. Tuy nhiên bên cạnh đó, trong bối cảnh mới khi mà nền kinh tế - xã hội có sự biến đổi nhanh chóng thì các cơ quan hành chính Nhà nước hiện nay cũng đã bộc lộ những khiếm khuyết: - Sự phối hợp giữa các cơ quan, giữa các địa phương còn chưa thực sự thống nhất ví dụ như hoạt động thanh tra kiểm tra, tổ chức thực hiện dẫn tới khiếu nại, tố cáo ở một số địa phương vẫn còn nhiều. - Khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học vào công tác người có công như ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ, quản lý đối tượng... chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp cũ trong quản lý. - Tổ chức bộ máy còn có những bất hợp lý làm giảm năng lực và hiệu quả hoạt động, đặc biệt là cấp địa phương. Ví dụ, năm 2003 sau khi có Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh đã công nhận chức danh văn hóa - xã hội là công chức cấp xã. Tuy nhiên, đối tượng công chức cấp xã này lại kiêm nhiệm thực hiện hai chức năng văn hóa và xã hội, đây là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ. - Hiện nay, cán bộ làm công tác người có công với cách mạng vừa thực hiện nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách đồng thời cũng thực hiện nhiệm vụ chi trả chế độ trợ cấp trực tiếp cho các đối tượng, dẫn tới hiện tượng rất phổ biến hiện nay là một số cán bộ, công chức làm chính sách này đã lợi dụng sự sơ hở đó để lập khống hồ sơ để hưởng tiền trợ cấp, khi đối tượng hưởng trợ cấp đã chết mà vẫn không báo cắt mà đề hưởng tiền trợ cấp, ăn bớt tiền của đối tượng người có công ... Rõ ràng với những điều kiện mới ở Việt Nam những tồn tại trên đòi hỏi các cơ quan hành chính Nhà nước phải kiện toàn lại khâu tổ chức và phương thức quản lý nhất là các cấp địa phương. 2.4. Một số vấn đề rút ra từ phân tích thực trạng năng lực thực hiện pháp luật ưu đãi người có công Như vậy, thực tiễn thực hiện pháp luật người có công với cách mạng của cơ quan hành chính có hai mặt – Mặt thứ nhất, pháp luật ưu đãi người có công được các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp các ngành, mọi công dân thực hiện nghiêm chỉnh, trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật; chính vì vậy mà pháp luật ưu đãi người có công đã trở thành công cụ quản lý mọi mặt đời sống xã hội trong lĩnh vực ưu đãi người có công, góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội, góp phần ổn định chính trị – xã hội, phát triển mọi mặt kinh tế – xã hội của đất nước. Mặt thứ hai, hạn chế của việc ban hành pháp luật ưu đãi người có công của cơ quan hành chính nhà nước là các văn bản ban hành còn chưa đồng bộ, thường xuyên thay đổi, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn vẫn còn mâu thuận với nhau, thủ tục rườm rà. Bộ máy quản lý và thực hiện chính sách ưu đãi người có công từ Trung ương xuống địa phương từng bước được đổi mới về tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động. Quy trình quản lý và tổ chức thực hiện chế độ trợ cấp và chế độ ưu đãi khác đã đi vào nề nếp, sát với thực tế và gắn với trách nhiệm. Tuy nhiên, cùng với sự hạn chế về năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, về tổ chức điều hành của bộ máy nên pháp luật ưu đãi người có công còn chưa thực hiện một cách đầy đủ, thậm chí còn có những vi phạm gây hậu quả xấu về cả mặt kinh tế, chính trị và đời sống xã hội. Hoạt động thanh tra, kiểm tra còn chưa đồng bộ, thiếu tính thống nhất, cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra còn thiếu rất nhiều so với thực tế. Việc khiếu nại, tố cáo mạng dù đã giải quyết tương đối tốt nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập do khâu tổ chức thực hiện pháp luật còn hạn chế. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1. Những định hướng chung Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như việc xây dựng CNXH và bảo vệ biên cương của Tổ quốc hiện nay nhằm duy trì thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng nước của dân tộc đã và tiếp tục còn có những người con của dân tộc hiến dâng tính mạng, xương máu, sức lực và tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc. Bởi vậy Tổ quốc và nhân dân đời đời nghi nhớ công lao to lớn về sự hy sinh ấy đồng thời phải có chính sách, pháp luật thỏa đáng để không chỉ ghi nhận công lao to lớn về sự hy sinh mà còn phải bù đắp xứng đáng thông qua việc ưu đãi của Nhà nước và của nhân dân. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trình đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định “thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sỹ, gia đình chính sách”. Với định hướng của Đảng nêu trên trong nhiệm vụ chính trị dựa trên sự phát triển nền kinh tế – xã hội. Chính sách, pháp luật ưu đãi người có công phải thể chế hóa định hướng của Đảng và hướng tới mục tiêu nghi nhận công lao, sự đóng góp, sự hy sinh cao cả của những người có công, tạo mọi khả năng, điều kiện đền đáp phần nào về đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công sao cho đời sông vật chất và tinh thần của họ không được thấp hơn mức chung bình của cộng đồng. Để thực hiện được những mục tiêu trên, cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật người có công cần phải: 1. Kiện toàn tổ chức bộ máy chuyên trách: - Phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn gắn liền với việc trách nhiệm của cán bộ, công chức thực hiện chức năng này, giữa các cơ quan thực hiện; thống nhất kế hoạch thực hiện giữa các địa phương trong quá trình thực hiện. Rà soát lại và sắp xếp những người có năng lực vào giải quyết công việc. - Đổi mới, ứng dụng các tiến bộ khoa học vào công tác quản lý Nhà nước với người có công nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. - Nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ, công chức thông qua nâng cao chất lượng đầu vào, đào tạo nghiệp vụ, đặc biệt là các cán bộ đầu ngành; nâng cao khả năng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực người có công với cách mạng. - Cải cách, đổi mới thủ tục hành chính trong thực hiện pháp luật đối với người có công với cách mạng. 2. Nâng cao năng lực hoạt động trên các mặt: - Nghiên cứu xây dựng, đề xuất chính sách. Trong đó cần tìm hiểu, đánh giá tính sát thực, tính đúng đắn của chính sách trong quan hệ thực tiễn, nhằm phát hiện những chỗ thiếu, chỗ lạc hậu trong chính sách, pháp luật để kịp thời có các biện pháp khắc phục. Hoàn thiện pháp luật về đối tượng người có công và gia đình người có công cả về nội dung và hình thức. Đặc biệt, các cơ quan hành chính cần nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về người và gia đình người có công với nước, trong đó quy định những vấn đề cơ bản như: các nguyên tắc chung, các khái niệm cơ bản và nội dung trong chính sách của Nhà nước đối với người có công với cách mạng; quyền lợi của người có công với nước; trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước, xã hội đối với người có công với đất nước; chế độ khen thưởng đối với cơ quan, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện chính sách ưu đãi đối với người và gia đình có công với đất nước; xử lý vi phạm chính sách ưu đãi đối với người và gia đình có công với đất nước,... - Tổ chức thực thi chính sách đối với người có công với cách mạng một cách có chiều sâu. - Tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng. 3. Hoàn thiện hệ thống chính sách đảm bảo chế độ ưu đãi phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Chính sách ưu đãi người có công vốn là chính sách mang tính nhạy cảm chính trị – xã hội. Tuy nhiên, cần có nhận thức hoàn thiện hệ thống chính sách đảm bảo chế độ phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Đặc điểm có tính chất quy luật cơ bản là giữa các chính sách và sự phát triển kinh tế xã hội có biện chứng với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Việc nâng cao đời sống của dân cư nói chung và đời sống của các đối tượng nói riêng và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế. Hoặc nói theo cách khác phát triển kinh tế là cơ sở, điều kiện vật chất để hoàn thiện hệ thống chính sách ưu đãi đối với người có công. Trước đây trong thời kỳ chiến tranh mặc dù Nhà nước đã có những cố gắng nhưng trong điều kiện kinh tế còn nghèo nàn nên quy chế, chế độ ưu đãi còn nhiều hạn chế. Đến nay, do cơ chế quản lý, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá ổn định, chúng ta đã có điều kiện để chăm lo, nâng cao đời sống của những người có công lao đối với đất nước và thực tế cho thấy thực hiện tốt chính sách người có công có tác dụng tích cực, thúc đẩy thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, tạo cho đối tượng yên tâm, tin tưởng vào Nhà nước, xã hội, cộng đồng. Tuy nhiên, một vấn đề mà cơ quan hành chính Nhà nước phải nhận thức rằng, trong việc ban hành, sửa đổi, bổ sung thệ thống chính sách của mình đối với người có công với cách mạng không thể thoát ly khả năng kinh tế, nếu với khả năng nền kinh tế hạn chế mà muốn thực hiện những mục tiêu vượt khả năng sẽ dẫn tới tình trạng duy ý chí, không thực hiện được. 4. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động chăm sóc người có công với cách mạng, trong đó cơ quan hành chính Nhà nước đóng vai trò trung tâm. 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng Để thực hiện được những định hướng nêu trên, Luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong tổ chức thực thi pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng như sau: 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật người có công Khi hệ thống pháp luật ưu đãi người có công được hoàn thiện thì cơ quan hành chính Nhà nước tổ chức thực thi đưa pháp luật đó vào đời sông xã hội cũng dề dàng và có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật ưu đãi người có công hiện nay ở nước ta còn nhiều bất cập như: hệ thống văn bản pháp luật và quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, thường xuyên thay đổi, điều chỉnh, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn vẫn còn nhiều mâu thuẫn, đưa ra các thủ tục rườm rà, thậm chí Thông tư của Bộ trưởng còn xét lại cả Quyết định của Thủ tướng... (Như đã nêu ở phần thực trạng). Một số đối tượng chưa có danh hiệu được tôn vinh và chế độ của họ cũng bị thiệt thòi hơn... Do đó đã gây ra những thắc mắc, những tâm lý xã hội nhất định. Để thực hiện định hướng của Đảng đối với vấn đề người có công trong điều kiện mới, mặt khác để nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong lĩnh vực này giải pháp đầu tiên là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật ưu đãi người có công trên các nguyên tắc của việc xây dựng hệ thống văn bản mà công cuộc cải cách nền hành chính đã xác định. 3.2.2. Giải pháp về đổi mới phương thức tổ chức và quản lý của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng Để nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện tốt pháp luật ưu đãi người có công, dưới giác độ quản lý phải đổi mới phương thức tổ chức và quản lý của cơ quan hành chính Nhà nước trong lĩnh vực này. Trong suốt nhưng năm qua, ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã hình thành bộ máy từ Trung ương tới địa phương để thực hiện công tác người có công. Ở Trung ương, để thực hiện chức năng quản lý về người có công Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã thể chế hóa quyết định của Chính phủ bằng ban hành Quyết định số 727/ 1997/QĐ - LĐTBXH thành lập Cục Thương binh – Liệt sỹ và người có công trực thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội với nhiệm vụ và quyền hạn không chỉ quản lý (nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ và ban hành chính sách, chế độ và tổ chức hướng dẫn, kiểm tra thực hiện) mà còn trực tiếp tổ chức chỉ đạo hoạt động sự nghiệp (chăm sóc nuôi dưỡng, điều trị phục hồi sức khoẻ, nghĩa trang liệt sỹ, các công trình ghi công...). Ở cấp tỉnh, có một phòng vừa thực hiện chức năng quản lý vừa thực hiện chức năng sự nghiệp. Trong lĩnh vực hoạt động này, hàng năm, ngân sách Nhà nước chi tới hàng ngàn tỷ đồng và động viên đóng góp hàng trăm tỷ đồng của các tổ chức cá nhân mà ngành đã góp phần quản lý, chỉ đạo thực hiện đúng mục tiêu và có hiệu quả. Trong bối cảnh mở rộng của chính sách nên đối tượng có công ngày càng tăng lên về số lượng, vì vậy công tác quản lý trong lĩnh vực ưu đãi ngày càng trở nên nặng nề và phức tạp, đòi hỏi phải đổi mới phương thức tổ chức thực hiện và đổi mới phương thức quản lý cho phù hợp. Cụ thể: - Tiếp tục cải cách bộ máy quản lý theo chương trình tổng thể cải cách bộ máy hành chính nhằm làm cho bộ máy gọn nhẹ hiệu quả; quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công với cách mạng. - Áp dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ vào quản lý, trang bị các điều kiện cần thiết cho các cơ quan quản lý hành chính các cấp có đủ điều kiện làm việc và phục vụ quản lý tốt. - Trả chế độ trợ cấp trực tiếp cho người và gia đình có công với cách mạng thông qua hệ thống tài khoản ngân hàng. Hiện nay, nguồn kinh phí chi trả chế độ trợ cấp cho người và gia đình có công với cách mạng là do ngân sách Trung ương đảm bảo. Cơ quan tài chính, kho bạc Nhà nước cấp phát đầy đủ, kịp thời kinh phí theo kế hoạch cho cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội. Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với ngành tài chính quản lý nguồn kinh phí ưu đãi đối với người có công và tổ chức thực hiện việc chi trả các chế độ ưu đãi thuộc phạm vi ngành quản lý. Nếu như trả qua hệ thống tài khoản ngân hàng sẽ có một số ưu điểm sau: + Trả chế độ cho người và gia đình có công với cách mạng đôi khi còn chậm trễ, vì phải mất thời gian qua nhiều cấp trung gian. Trả qua tài khoản ngân hàng sẽ nhanh chóng và chủ động hơn. + Hiện nay, cán bộ làm chính sách người có công thực hiện luôn việc chi trả chế độ trợ cấp, nếu trả trực tiếp chế độ thông qua hệ thống tài khoản ngân hàng sẽ giúp cho bộ máy gọn nhẹ hơn, tiết kiệm hơn. Cán bộ chỉ làm chính sách không phải làm nhiệm vụ trả chế độ trợ cấp, không phải tuyển thêm nhiều cán bộ, tiết kiệm cho các chi phí chi trả như tiền lương, các phương tiện làm việc... + Giảm được các tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện. Hiện nay, có thực trạng là một sô cán bộ làm chính sách lợi dụng việc chi trả chế độ trợ cấp để bớt, xén tiền trợ cấp hoặc khi đối tượng không còn hưởng chế độ nhưng không báo cắt mà vẫn để hưởng chế độ cho bản thân, làm khống hồ sơ để hưởng lợi... + Hệ thống ngân hàng hiện nay cũng đang phát triển hệ thống dịch vụ chi trả qua tài khoản ngân hàng, như các dịch vụ thanh toán điện, nước, lương..., cho nên, việc chi trả chế độ trợ cấp trực tiếp thông qua tài khoản ngân hàng là điều kiện thuận lợi để phát triển. 3.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý Tiếp tục triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý đối tượng và quản lý kinh phí chi trả trợ cấp ưu đãi người có công, đồng thời phối hợp với ngành chức năng triển khai ứng dụng phần mềm “Quản lý tài chính trợ cấp ưu đãi người có công”. Phần mềm này đã triển khai ở 16 tỉnh, thành phố. Tới đây tiếp tục phát triển phần mềm để phù hợp với chế độ, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay trình độ tin học của cán bộ còn thấp nên việc ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, do đó đòi hỏi Bộ ngành phải có định hướng đào tạo đội ngũ cán bộ nâng cao trình độ tin học để ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý toàn diện vào việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công đạt hiệu quả cao. - Thực hiện quản lý hồ sơ đối tượng và hồ sơ nghĩa trang liệt sĩ bằng hệ thống phần mềm. Cập nhật đầy đủ các dữ liệu phát sinh vào máy tính và tiến hành nối mạng từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đến các tỉnh. Giải pháp này vừa mang tính khoa học vừa đảm bảo được các nguyên tắc: + Khắc phục tình trạng sửa chữa, bổ sung thêm vào hồ sơ bất hợp pháp. + Khắc phục được yếu tố thiên tai tác động vào quản lý hồ sơ. + Ít tốn kém hơn việc xây dựng các cơ sở để lưu trữ hồ sơ. + Dễ bào quản, lưu trữ và tra cứu. 3.2.4. Giải pháp về cơ chế thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng Xuất phát từ những thực trạng như phân tích ở trên có thể thấy công tác tranh tra là hoạt động không thể thiếu, giúp phát hiện những hành vi vi phạm, những sơ hở trong hoạt động quản lý. Vì vậy, cơ chế thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật ưu đãi người có công thực hiện theo một hệ thống thống nhất như sau: - Trước hết là sự kiểm tra, thanh tra của hệ thống cơ quan quyền lực đối với toàn bộ hoạt động thực hiện pháp luật ưu đãi người có công nhằm làm cho tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức và hành vi của cá nhân phù hợp với pháp luật và tuân theo pháp luật, chấp hành pháp luật. - Thanh tra, kiểm tra nội bộ trong ngành chức năng quản lý công tác người có công nhằm tổ chức thực hiện và bảo vệ có hiệu quả các quyền ưu đãi người có công theo quy định của pháp luật. - Tăng cường sự giám sát của nhân dân, các tổ chức trong việc giám sát thực hiện pháp luật ưu đãi người có công đối với cách mạng. - Thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật người có công là phải tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải xử lý kịp thời và công minh những hành vi vi phạm pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo pháp luật ưu đãi có hiệu quả cao, có vai trò và ý nghĩa trong đời sống xã hội. - Hiện nay, nhiều đối tượng không đủ điều kiện hưởng chế độ. Vì vậy, giao cho các địa phương cần rà soát lại các hồ sơ, kết hợp kiểm tra “chứng thực” để thẩm định lại. - Việc kiểm soát về hồ sơ của các đối tượng còn nhiều bất cập do thủ tục xác nhân đối tượng tương đối phức tạp, do đó cần phải kiểm tra, kiểm soát chặt hơn nữa về công tác hồ sơ. - Tăng số lượng thanh tra viên có trình độ đáp ứng nhu cầu thực tế. 3.2.5. Giải pháp về cải cách, đổi mới thủ tục hành chính về người có công với cách mạng - Rà soát, bãi bỏ những thủ tục không cần thiết; bổ sung các thủ tục mới. Việc làm này cần tiến hành nhanh chóng, đồng bộ dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Cần chú trọng soát xét các thủ tục hành chính trong thực hiện chế độ ưu đãi về người có công trong thực hiện chế độ ưu đãi với người có công với nước mang tính bức xúc như thủ tục ưu đãi về thuế, nhà đất, vốn và tín dụng, giáo dục đào tạo... Một số thủ tục mang tính cấp thiết cần sớm được ban hành, như các thủ tục quản lý, sử dụng đền ơn đáp nghĩa; tặng cấp nhà tình nghĩa; ưu đãi bà mẹ Việt Nam anh hùng lúc từ trần; quản lý, sử dụng kinh phí cho nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm liệt sỹ, nhà bia ghi công liệt sỹ; ưu đãi các loại thuế cho người có công với đất nước. - Quy định rõ ràng, cụ thể dứt khoát và hợp lý thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng với nội dung sau đây: cấp huyện, xã và nhà chức trách không có quyền ban hành thủ tục; cấp tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương) chỉ được ban hành một số thủ tục theo quy định của pháp luật; Chính phủ và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là những cơ quan chủ yếu ban hành thủ tục, trừ những vấn đề riêng biệt của mỗi địa phương thì có thể uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân của địa phương đó ban hành; những thủ tục thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ, ngành Trung ương nếu xét thấy hợp lý hơn, đơn giản hơn mà không trái với pháp luật; giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc giải quyết các yêu cầu, kiến nghị của người có công với đất nước, không để phải trải qua nhiều cửa, nhiều cơ quan như hiện nay; cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết công việc thì cơ quan đó nhận hồ sơ, trả hồ sơ, lưu hồ sơ và có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan hữu quan để kiểm tra, thu thập, xác minh, giải quyết yêu cầu của người có công với nước. - Công khai hoá các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết các vấn đề liên quan tới chế độ ưu đãi người có công liên quan tới chế độ ưu đãi người có công với nước để mọi người biết mà thực hiện cho đúng đắn và kiểm tra việc thực hiện của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. 3.2.6. Giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật người có công Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác ưu đãi người có công với cách mạng trong các cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với người có công với cách mạng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đa số trong họ chưa được đào tạo để làm công tác ưu đãi người có công mà chủ yếu do nhu cầu công tác họ được thuyên chuyển, điều động sang làm công tác này. Vỡ vậy, việc tiến hành cụng việc hàng ngày chủ yếu họ dựa vào kinh nghiệm của bản thõn, kinh nghiệm của người đi trước. Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, không thể thực hiện công việc một cách bị động, không có quy hoạch kế hoạch. Một nhu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cụng chức ở cỏc cơ quan thực hiện chức năng này. Vì vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện pháp luật ưu đãi phải thực hiện tốt một số nội dung sau: - Đảm bảo cho họ nắm vững được chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật và những quy định của Nhà nước đối với người có công với cách mạng; Nắm được những kiến thức, kỹ năng để tổ chức thực hiện pháp luật ưu đãi một cỏch cú hiệu quả. - Thực hiện một cách chặt chẽ công tác tuyển chọn, đây là khâu rất quan trọng, quyết định đầu vào và là điều kiện để bố trí, sử dụng, cải thiện chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng ngày càng cao sự phát triển của công tác ưu đãi người có công. Đối tượng tuyển dụng phải đáp ứng các yêu cầu về trình độ cho từng loại đơn vị và lĩnh vực được quy định tại Nghị định 117/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 10/10/2003 và quy chế của cơ quan. - Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là rất cần thiết do vậy phải có chương trỡnh đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ riêng cho các cán bộ, công chức làm công tác này, có chương trỡnh và nội dung cụ thể để không ngừng nâng cao trỡnh độ của cán bộ, công chức thực hiện pháp luật ưu đãi người có công. Tuy nhiên, trước tiên phải tiến hành thống kê, phân loại chất lượng từng chức danh, đối chiếu với tiêu chuẩn chức danh quy định để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo từng năm, từng giai đoạn, sát với thực tiễn và gắn với yêu cầu công việc. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách. Hệ thống chính sách cán bộ trong các quy định của Nhà nước và được cụ thể hóa bằng nhiều quy trình, quy chế của từng cơ quan, bao gồm các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng; sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần... Tuy nhiên, hệ thống chính sách này cần phải sửa đổi, hoàn thiện phù hợp với cơ chế quản lý mới. Yêu cầu đặt ra là: + Hệ thống chính sách cán bộ phải rõ ràng, minh bạch, vừa đảm bào cho các cấp thực hiện, vừa khuyến khích được cán bộ phát huy hết khả năng ở từng vị trí công tác; đồng thời là căn cứ để kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện. Đi liền với các nội dung chính sách cán bộ, phải có hệ thống các quy định chặt chẽ, khoa học, đơn giản hóa về trình tự, thủ tục, đảm bào yếu tố thống nhất tập trung nhưng đồng thời đảm bảo cho cấp dưới phát huy khả năng sáng tạo chủ động trong giải quyết công việc. + Đổi mới cơ chế, chính sách cán bộ phải phù hợp với đổi mới cơ chế, chính sách tài chính, đổi mới cơ chế quản lý hành chính công của Nhà nước và tình hình thực tiễn của từng cơ quan. Thực hiện phân cấp mạnh mẽ hơn về công tác quản lý cán bộ cho các cấp. 3.2.7. Giải pháp đẩy mạnh xã hội hoá chính sách ưu đãi người có công với cách mạng Đảng và Nhà nước ta coi việc quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn xã hội. Xã hội hóa việc chính sách người có công và tổ chức thực hiện là vấn đề cùng với trách nhiệm chủ đạo của Nhà nước, toàn dân tham gia chăm sóc người có công, một công việc vừa là tình cảm vừa là trách nhiệm và phải biến nó là ý chí của toàn xã hội. Trong thực tiễn ở nước ta nhiều năm qua, do số lượng người có công lớn, điều kiện kinh tế còn nghèo; khả năng ưu đãi của Nhà nước với người có công còn chưa thỏa mãn nhu cầu đầy đủ, việc tổ chức thực hiện pháp luật còn những hạn chế nhất định. Tuy vậy, phát huy truyền thống đạo lý của dân tộc, động viên khuyến khích, phát động phong trào toàn dân chăm sóc người có công với cách mạng đã đạt được những kết quả to lớn. Xã hội hóa chính sách người có công bao gồm cả việc người dân tham gia giám sát, phối hợp cùng cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện pháp luật ưu đãi người có công. Đây chính là hiệu quả xã hội hóa chính sách người có công. Do hoàn cảnh lịch sử, địa phương (làng, xã) nào cũng có người có công, song tỷ lệ phân bố cũng không đồng đều, nếu không xã hội hóa thì Nhà nước không thể đầy đủ các điều kiện và nhân lực và vật lực để đảm bảo và tổ chức thực hiện tốt cho người có công với cách mạng. Đặc biệt là những nhu cầu trong đời sống thường ngày của các đối tượng chính sách. Tuy nhiên, xã hội hóa không phải là Nhà nước bỏ mặc cho cộng đồng, cho xã hội, trái lại càng xã hội hóa vai trò của Nhà nước càng quan trọng. Ở đây vai trò của Nhà nước được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật để điều hành, định hướng cho các hoạt động của cộng đồng, xã hội có hiệu quả. Theo tôi, để thực hiện tốt được chính sách và pháp luật ưu đãi đạt hiệu quả tốt, phát huy được năng lực của cả cộng đồng, cần lưu ý một số vấn đề sau: - Phải tuyên truyền sâu, rộng về chính sách và pháp luật ưu đãi người có công để mọi người dân được biết. - Từng làng xóm phải nắm rõ số lượng, hoàn cảnh của từng loại đối tượng người có công (thông qua chính quyền và đoàn thể các cấp) để có kế hoạch giúp đỡ thiết thực và phản ánh đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền những vần đề cần được pháp luật quan tâm, đồng thời giám sát việc thực hiện pháp luật của cán bộ thực thi đối với từng đối tượng. - Ưu tiên giúp đỡ những đối tượng khó khăn, các bố mẹ liệt sỹ già cả, cô đơn, các gia đình liệt sỹ neo đơn theo hưỡng dẫn của của Nhà nước và phù hợp với tình hình của địa phương. - Chú trọng giúp đỡ về vật chất, tạo công ăn việc làm để đối tượng tự vươn lên. - Theo dõi, chăm sóc sức khỏe kịp thời khi họ ốm đau hoặc bệnh tật tái phát. KẾT LUẬN CHUNG 1. Chính sách và thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng là hoạt động lớn mang tính chính trị, kinh tế, xã hội và nhân văn sâu sắc. Thực hiện chính sách người có công là thể hiện truyền thống đạo lý quý báu của dân tộc ta, truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn” và ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Chính sách ưu đãi đối với người có công thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cảm của Nhà nước, cộng đồng đối với người có công. 2. Từ khi giành được độc lập năm 1945 cho tới nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật ưu đãi người có công và thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế mỗi giai đoạn lịch sử. Trong quá trình thực hiện pháp luật ưu đãi thì vai trò của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật là hết sức quan trọng, với tư cách là cơ quan thực thi, cụ thể hóa và đưa pháp luật vào đời sống xã hội. Cho nên, năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi này đảm bảo thì phát huy được tính tích cực của chính sách người có công của Đảng và Nhà nước, và ngược lại năng lực yếu thì làm hạn chế tính tích cực này. 3. Xuất phát từ thực tiễn năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta hiện nay, bao gồm các hoạt đông cơ bản là ban hành các văn bản pháp luật; tổ chức thực hiện; thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo đã toát lên được những thành tựu đạt được và những khó khăn vướng mắc, những vấn đề cần giải quyết trong tổ chức thực hiện pháp luật ưu đãi người có công. 4. Thông qua nghiên cứu thực trạng năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng, Luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản cho việc nâng cao năng lực của cơ quan hành chính trong thực hiện pháp luật người có công. Đó là các giải pháp: giải pháp về đổi mới phương thức tổ chức và quản lý của cơ quan hành chính trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng; giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý; giải pháp về cơ chế thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng; giải pháp về cải cách, đổi mới thủ tục hành chính về người có công với cách mạng; giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện pháp luật người có công; giải pháp đẩy mạnh xã hội hoá chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992. 2. Pháp lệnh ngày 29/8/1994 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định danh hiệu vinh dự “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. 3. Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày 29 tháng 8 năm 1994. 4. Pháp lệnh sửa đổi Điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày 14 tháng 2 năm 2000; 5. Pháp lệnh sửa đổi Điều 22 và Điều 23 của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày 04 tháng 10 năm 2002; 6. Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005. 7. Nghị định số 176/NĐ- CP ngày 20/10/1994 về việc thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Bà mẹ Việt Nam anh hùng; 8. Nghị định số 147/2005/NĐ - CP ngày 30/11/2005 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp đối với người có công với cách mạng; 9. Nghị định số 32/2007/NĐ - CP năm 2007 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp đối với người có công với cách mạng; 10. Nghị định số 54/2006/NĐ- CP ngày 26/5/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; - Nghị định số 210/2004/NĐ - CP của Chính phủ ngày 20 tháng 12 năm 2004 quy định về chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng. - Quyết định số 120/2004/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05 tháng 7 năm 2004 về một số chế độ đối với người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị hậu quả do nhiễm chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. 13. Quyết định số 290/2005/QĐ - TTg ngày 8/11/2006 của Thủ Tướng Chính phủ về chế độ đối với một số đối tượng tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước chưa được hưởng chính sách của Đảng và nhà nước. 14. Thông tư 33/2005/TT- LĐTBXH ngày 09/12/2005 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 147/2005/NĐ - CP ngày 30/11/2005 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp đối với người có công với cách mạng; 15. Thông tư liên tịch số 17/2005/TTLT -BLĐTBXH-BTC ngày 09/5/2005 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ điều dưỡng đối với người có công với cách mạng; 16. Thông tư số 07/2006/TT-BLĐTBXH ngày 26/7/2006 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về hồ sơ, lập hồ sơ thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng; 17. Thông tư số 10/2005/TT – BLĐTBXH ngày 05/01/2005 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 210/2004/NĐ-CP của Chính phủ. 18. Lý luận chung Nhà nước và pháp luật- Trường Đại học Luật Hà Nội 2000. 19. Quản lý nhà nước đối với ngành và lĩnh vực – Học viện Hành chính Quốc gia 2004. 21. Tìm hiểu về hành chính Nhà nước – NXB Lao động 2003 (PGS. TS. Nguyễn Hữu Khiển). 22. Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công – NXB Chính trị Quốc gia 2000 (TS. Nguyễn Đình Liêu) 23. Giáo trình ưu đãi xã hội – Trường Đại học Lao động – Xã hội 2007. 24. Chính sách với thương binh, liệt sĩ và người có công - 4 tập, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội 1997. 25. Các báo cáo tổng kết thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng từ năm 1995 tới 2006 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. 26. Các báo cáo và các bảng thống kê của các tỉnh về thực hiện pháp luật người có công với cách mạng từ 2004 – 2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHCD (26).doc
Tài liệu liên quan