MS: LVVH-LLVH019
SỐ TRANG: 134
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2010
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1 Say mê trên hành trình tìm kiếm “hạt ngọc” ẩn chứa trong mỗi con người, Nguyễn
Minh Châu đã yêu thương và tin tưởng, lặng lẽ và sẻ chia, thấu hiểu và dâng tặng đời bao tặng
phẩm quý giá. Đó là những trang viết vừa giàu chất văn, chất thơ ở tình người cao đẹp vừa nồng
mặn xót xa ở những dòng cảm nhận về cuộc sống đời thường nhiều bộn bề trăn trở.
Trước 1975, người đọc đã biết đến Nguyễn Minh Châu qua Những vùng trời khác nhau,
Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông, Dấu chân người lính những tác phẩm ghi nhận sinh động
bức tranh về hiện thực cuộc sống và chiến đấu của quân dân Việt Nam trong những năm chống
Mĩ cứu nước hào hùng.
Sau 1975, nhất là sau công cuộc đổi mới đất nước, với Bức tranh, Cỏ lau, Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ Giát , Nguyễn Minh Châu và các sáng tác của ông một
lần nữa có sức hấp dẫn đặc biệt đối với bạn đọc. Và mọi người đã nghĩ nhiều đến Nguyễn Minh
Châu hơn với tư cách “nhà văn sớm nhất có sự trăn trở, khát khao đổi mới văn học” [48;tr 5], là
một trong “những người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất.” [52; tr 256]
Từ chiến tranh về hòa bình, từ chiến trường về hậu phương nhưng tác phẩm Nguyễn Minh
Châu vẫn không hề đứt đoạn trong cảm hứng sáng tạo, trong việc thể hiện tư tưởng và quan niệm
nghệ thuật về con người của tác giả. Nhà văn đã nhận chân được ở đây một gương mặt thật của hậu
phương nhưng vẫn tiếp tục là chiến trường trong cuộc sống đời thường không khói súng. Bên cạnh
đó, không thể không kể đến một sự tiếp nối và cách tân khác đã góp phần không nhỏ trong việc
khẳng định cái riêng, cái đặc sắc của trang sáng tác Nguyễn Minh Châu. Đó là sự tiếp nối và cách
tân chính trong nghệ thuật kể chuyện, trong “cái duyên kể chuyện” của tác giả.
1.2 Có thể nói, so với những sáng tác ở thể loại tiểu thuyết, thì mảng truyện ngắn và bút ký
của Nguyễn Minh Châu được các nhà nghiên cứu chú ý muộn hơn. Nhưng không vì thế mà thành
tựu của những trang viết sau này của tác giả mất đi sự quan tâm, ưu ái và đánh giá cao của bạn đọc.
Ngược lại, có nhà nghiên cứu còn nhận diện được ở đây sự hiện thân đầy đủ cho quá trình sống còn
của trang viết nhà văn “Nguyễn Minh Châu viết nhiều tiểu thuyết. Từ Cửa sông đến Mảnh đất tình
yêu, tất cả 8 cuốn ( ). Nhưng cái mà nhà văn để lại cho đời không phải là những tác phẩm dài hơi
ấy mà là dăm ba truyện ngắn in rải rác trên báo chí, trong các tập truyện cuối đời của anh.” [38; tr
346]. Riêng Nguyễn Minh Châu cũng đã một lần nói rõ sự tâm đắc của mình đối với thể loại sáng
tác này “ có thể viết một truyện vừa hay một truyện dài nhưng tôi lại đem cô đúc tất cả vào trong
một truyện ngắn vì tôi không thích viết dài.” [38; tr 306] và cũng đã từng ngậm ngùi mà hạnh phúc tự đánh giá “Mình viết văn, cả đời tràng giang đại hải có khi chỉ còn lại vài cái truyện ngắn.” [38; tr 259]
Khi xét ở phương diện nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm, thì những sáng tác thuộc thể loại
truyện ngắn của nhà văn có những đặc trưng riêng rất đáng được khảo sát và tìm hiểu. Đó là đặc
trưng ở sự hạn định của câu chữ, sự lựa chọn đề tài, tạo tình huống truyện, kết cấu trần thuật
Những điều này vừa quy định cũng vừa được thể hiện một cách sinh động, cụ thể qua việc chọn
điểm nhìn, xác định chủ thể trần thuật, tổ chức, sắp xếp các sự kiện, tình tiết câu chuyện cũng như
việc lựa chọn dạng lời văn với giọng điệu trần thuật phù hợp. Đây chính là những yếu tố quan trọng
góp phần làm nên cái riêng, cái độc đáo của nghệ thuật trần thuật của tác giả.
1.3 Đa dạng ở lĩnh vực sáng tác (tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình tiểu luận), phong phú ở
tầng vỉa ý nghĩa trên từng trang viết, sáng tác Nguyễn Minh Châu cả trước và sau 1975, đặc biệt là
những năm cuối thập niên 80, luôn nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu
phê bình. Mỗi bài viết, mỗi công trình nghiên cứu là một cách nhìn, một tiếng nói, một suy nghĩ,
một cảm nhận riêng của người viết xoay quanh vấn đề con người và tác phẩm của nhà văn. Trong
những bài viết đó, ít nhiều các vấn đề về điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật xây dựng tình huống
truyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong sáng tác Nguyễn Minh Châu đã được đề cập và lý giải. Nhưng
thật sự chưa có công trình khoa học nào lấy việc tìm hiểu về “Nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu” làm đối tượng nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc.
Với tất cả những lý do đó, trên cơ sở kế thừa thành tựu của người đi trước, người viết mong
trong giới hạn nhất định, đề tài mà luận văn đã chọn - “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu” sẽ là cơ hội để người viết tiến hành tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật làm nên
nghệ thuật trần thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất
có thể, để từ đó hướng đến một cách hiểu và cách lý giải thuyết phục về cái hay, cái độc đáo và hấp
dẫn của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là dưới góc độ thi pháp trần thuật.
Hy vọng việc tìm hiểu tính nghệ thuật trong “cái duyên kể chuyện” của Nguyễn Minh
Châu là một đóng góp của người viết trong việc làm đầy đặn hơn chân dung của một tài năng lớn
về văn học nghệ thuật của dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề:
Theo thống kê của một số nhà nghiên cứu thì “từ truyện ngắn đầu tiên Sau một buổi tập in
trên Văn nghệ quân đội số 10/1960 đến truyện ngắn cuối cùng Phiên chợ Giát và những ghi chép
Ngồi buồi viết mà chơi hoàn thành trong những ngày cuối cùng trên giường bệnh thì Nguyễn Minh
Châu đã có 29 năm cầm bút với 13 tập văn xuôi và 1 tập tiểu luận phê bình” [48; tr 13]. Thành tựu
đó thể hiện rõ quá trình lao động không mệt mỏi của nhà văn trong nỗ lực vươn tới những tác phẩm
có khả năng chuyển tải được những vấn đề bức xúc thuộc về tầng tâm của cuộc sống con người
ngày ấy và hôm nay.
Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Minh Châu và các sáng tác của ông, đặc biệt ở mảng truyện
ngắn, đến nay đã có nhiều bài viết, nhiều công trình khoa học gắn liền với nhiều tên tuổi lớn như:
Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Văn Long, Huỳnh Như
Phương, Trịnh Thu Tuyết, Tôn Phương Lan, Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một
suy nghĩ và một cảm nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi
bật trong bài viết có liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn.
2.1 Những nhận xét về cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu:
Ngay từ rất sớm, khi tiếp xúc những sáng tác thuộc giai đoạn đầu của Nguyễn Minh Châu,
trên báo Văn nghệ số 364 - năm 1970 các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá đã đưa ra nhận
định “Chưa có thành tựu nào thật tài hoa, xuất sắc. Nhưng bước đi của anh – dù sao cũng đã 10
năm rồi, nói chung là chắc chắn. Từ những bút ký, truyện ngắn đến Cửa sông, anh cứ tiến dần từng
bước rõ ràng về con đường mình đi, với thái độ cần cù, thận trọng của một con người không chủ
quan, tự mãn.” [38; tr 27].
Sau 1975, tiếp tục tự khẳng định mình qua loạt tác phẩm ra đời sau đó, Nguyễn Minh Châu
và các sáng tác của ông, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn đã không ngừng thu hút được sự quan tâm
của nhiều người. Điển hình nhất phải kể đến Hội thảo “Trao đổi về truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu những năm gần đây” do Tuần báo Văn nghệ tổ chức vào tháng 6 năm 1985.
Xem xét truyện ngắn Nguyễn Minh Châu từ nhiều phương diện khác nhau, có người đã lên
tiếng khẳng định và ủng hộ những dấu hiện tích cực trong bước đường cách tân nghệ thuật của nhà
văn.
Phan Cự Đệ đã đưa ra nhận xét khái quát về hai giai đoạn sác tác của Nguyễn Minh Châu:
“Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của ta. ( ). Truyện ngắn của ta sau bảy
năm có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng cao
hơn. Truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu cũng có những ưu điểm ấy. Nó
không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý tiềm thức. Nguyễn Minh Châu muốn đóng góp vào
sự thức tỉnh con người từ phần sâu kín bên trong của bạn đọc.” [38;tr 292].
Cùng với Phan Cự Đệ thì Tô Hoài và Xuân Thiều đồng cảm nhận được nét cộng hưởng
đáng quý giữa con người thật và câu chuyện hiện diện trên trang viết Nguyễn Minh Châu. Tô Hoài
khẳng định: “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng
đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình
thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở
thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý” [38;tr 295]. Xuân Thiều khi làm cuộc đối sánh
trang sách và trang đời của nhà văn, cũng đã không quá lời khi khẳng định: “Nguyễn Minh Châu có
thiên hướng tìm cái đẹp trong đời sống bình thường, những con người bình thường ngay từ lúc cầm
bút viết văn. ( ). Nguyễn Minh Châu sống như thế nào thì những trang sách của anh thể hiện như
thế ấy, bản lĩnh ngòi bút của anh được khẳng định. [38;tr 396].
Riêng với Lê Lựu, tác giả của một Thời xa vắng thì cái tài văn của Nguyễn Minh Châu xét
đến cùng được quy lại hai điều đáng kể: “Điều thứ nhất: anh là một trong những nhà văn duy trì sự
tìm tòi, góp phần làm cho văn học không nhạt, giúp cho văn học có cái để bàn. Điều thứ hai là anh
nhìn đâu cũng ra truyện ngắn. Đến gần đây sự thể hiện của Nguyễn Minh Châu đã thành công.
Trước đây, nếu như truyện Giao thừa còn ương thì nay truyện của anh đã chín.” [38; tr 298-299].
Tiếp tục nhìn nhận giá trị về tư tưởng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu,
Phong Lê cũng đã chỉ ra tính “không dễ hiểu ”, tính “đa thanh phức điệu” của truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu trong sự cảm nhận của độc giả “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu không dễ
hiểu. ( ). Trong truyện của anh, mọi cái đã vỡ ra tạo nên những khoảng trống, phải nghi ngờ, phải
nghĩ”. [38; tr 299]. Và tác giả bài viết cũng chỉ ra rằng cái khoảng trống ấy đã được lấp dần bởi tài
năng sáng tạo của Nguyễn Minh Châu khi mà “Nguyễn Minh Châu dần tạo ra một thế giới nghệ
thuật của anh: cái quyết định không phải ở đề tài ( ). Trên chặng đường đi tìm, Nguyễn Minh
Châu đào sâu vào tầng tâm, tham gia vào cuộc đấu tranh giữa các xấu và cái tốt. Trong cái mấp mé
hằng ngày, giữa cái xấu và cái tốt, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giúp níu chúng ta lại.” [38; tr
299].
Nguyễn Kiên cũng góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị tích cực mang tính định hướng mở
đường của truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là những tác phẩm ra đời ở giai đoạn sau.
Tác giả viết: “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu phù hợp với nhu cầu phát triển chung. Nó vượt
ra một cái gì gọi là chuyện riêng của Nguyễn Minh Châu. Sáng tác của anh để chúng ta bàn bạc
được nhiền vấn đề lớn hơn” [38; tr 300].
Nhìn chung thì nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng ủng hộ sự tìm tòi đổi mới của Nguyễn
Minh Châu, khẳng định một tài năng đã được định hình và càng dần về sau càng vươn tới độ chín
cần thiết. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có nhiều ý kiến tỏ ra băn khoăn lo ngại về sự tự bứt mình
sang một cương thổ sáng tạo mới của nhà văn.
Phong Lê khi khẳng định văn tài của Nguyễn Minh Châu cũng đã chỉ ra những điều khó
hiểu trong tác phẩm “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu không dễ hiểu. Tôi cũng có lúc nghi ngờ
cả sự hiểu của chính mình. Đọc Khách ở quê ra, tôi khó khăn tự hỏi rồi phải liệt kê ra một loạt ý
tưởng của truyện nhưng rốt cuộc vẫn không biết đâu là vấn đề của truyện.” [38; tr 299]
Và Bùi Hiển, ông đánh giá cao bước tiến trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu ở “ý nghĩa rõ, thái độ dứt khoát, nội dung ấy lại được phục vụ bằng những tình tiết khá
đắt và tập trung, những chi tiết độc đáo, sắc sảo” nhưng đồng thời cũng tỏ ra quan ngại khi cho
rằng “Về một số truyện ngắn khác nữa, trong đó anh đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, về hình
ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa hẳn là sâu sắc
hơn. Đặc biệt tôi nghĩ đến Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Khách ở quê ra [38;tr 291].
Cùng đề cập đến phần “không dễ hiểu” của truyện ngắn Khách ở quê ra, Vũ Tú Nam cũng
không ngại nêu lên ý kiến: “Một vài truyện của anh Châu bị rối, có phần khó hiểu.( ). Ở một vài
truyện anh tìm chưa tới, chưa đạt.” [38; tr 302].
Với Triều Dương thì điều khiến ông quan tâm khi tiếp xúc truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
chính là một phong cách viết hơn “lạ” của nhà văn mà theo ông thì “Ngay cả trong một truyện ngắn
sau đó, truyện Hai con nhóc Nguyễn Minh Châu lại bộc lộ lối viết ấy, rối rắm, lan man, để người
đọc không bắt được chủ đích hoặc muốn hiểu thế nào cũng được” và “Gần đây anh lại cho in
truyện ngắn Khách ở quê ra vẫn lại lối biểu hiện ấy nhưng do độ dài và dung lượng của truyện, sự
rối rắm càng tăng lên.” [38; tr 303].
Từ đây có thể thấy trong cuộc Hội thảo đã cùng lúc xuất hiện hai luồng ý kiến có vẻ trái
chiều nhau nhưng điều thú vị là cả hai đều đồng khẳng định cái mới (dù là rối rắm hay khó hiểu đi
nữa) trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là trong dăm bảy năm gần đây. Cái mới đó
trước hết phải kể đến “những vệt tư tưởng mà tư duy nghệ thuật và sáng tác của ông đã để lại khá
sâu đậm trong văn học Việt Nam đương đại” [38;tr 513] và sau đó là “những nỗ lực cách tân sâu
sắc và toàn diện về nghệ thuật biểu đạt, từ nhân vật đến cốt truyện, tình huống, từ giọng điệu ngôn
ngữ đến điểm nhìn trần thuật của nhà văn”[38;tr 513]. Và đây cũng là những yếu tố chính góp
phần khẳng định “một phong cách trần thuật có chiều sâu” được bắt nguồn từ giai đoạn trước và
càng dần về sau càng vươn đến độ chín của tác giả.
2.2 Những nhận xét về Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975:
Có thể nói từ trước đến nay vấn đề về Nguyễn Minh Châu và các sáng tác truyện ngắn của
ông đã được các nhà nghiên cứu xem xét khá kỹ lưỡng ở từng tác phẩm cụ thể, ở từng giai đoạn
sáng tác gắn liền với quá trình trăn trở tìm tòi, với nhu cầu tự đổi mới mình trong cách nghĩ và cách
viết của nhà văn. Trong giới hạn nào đó, các bài viết này đã ít nhiều đề cập đến “nghệ thuật trần
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” ở một vài khía cạnh cụ thể nhất của nó.
Trong một bài viết của mình, Nguyễn Thanh Tú đã cập đến vấn đề “chủ thể trần thuật” khi
tiến hành khảo sát “Nghệ thuật kể chuyện trong Mảnh trăng cuối rừng”. Ở đây, tác giả đã phân tích
và lý giải khái niệm kịch hóa nhân vật người kể chuyện để từ đó chỉ ra hiệu quả nghệ thuật mà dạng
chủ thể trần thuật này trực tiếp mang lại cho câu chuyện kể. Đó là khả năng “tăng cường tính thời
sự cho câu chuyện được kể, thời điểm kể rất gần so với thời điểm câu chuyện được kể xảy ra, chất
thời sự vẫn nóng hổi, mọi chi tiết vẫn tươi nguyên sự sống” [38; tr 164].
Và Nguyễn Thanh Hùng khi tìm hiểu về “Cái hay và cái đẹp của Mảnh trăng cuối rừng”
cũng đã phát hiện: “Với Mảnh trăng cuối rừng, mỗi thi pháp trong phương thức kể đều thể hiện kết
quả tìm tòi nghệ thuật sáng tạo của Nguyễn Minh Châu” [38; tr 144]. Theo tác giả, việc Nguyễn
Minh Châu để câu chuyện được tái hiện qua lời kể của nhiều chủ thể trần thuật khác nhau chính là
biểu hiện cụ thể của “biện pháp phục khuyết (catalyse) trong nghệ thuật kể chuyện”[38; tr145]. Xét
cụ thể ở Mảnh trăng cuối rừng, tác giả bài viết đã chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của biện pháp phục
khuyết này “Người này bổ sung cho người kia những lãng quên và chưa rõ ràng để làm đầy dần
câu chuyện. Mỗi người kể là một người người nghe, theo dõi khắc khoải không kém gì nhân vật
Lãm. Chỉ có một người biết tất cả đó là chúng ta - những người đọc” [38; tr 145]. Để sau đó tác giả
bài viết đi đến khẳng định “Chẳng lẽ chỗ này không phải là cái mới trong cách kể của Nguyễn Minh
Châu đó sao?” [38; tr 145]. Như vậy ngay từ Mảnh trăng cuối rừng thì cách kể chuyện lôi cuốn thể
hiện rõ sự dụng công sáng tạo của Nguyễn Minh Châu trong việc xây dựng những dạng chủ thể trần
thuật sinh động đã thực sự chinh phục được sự mến yêu của độc giả.
Đến sau 1975, hàng loạt tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu như Bến quê, Người đàn
bà trên chuyến trên tàu tốc hành, Phiên chợ Giát lại tiếp tục gây xôn xao dư luận bởi những
bước đi tiên phong nhưng chắc chắn của nhà văn.
Tập truyện ngắn Bến quê thực sự làm hài lòng nhà nghiên cứu Trần Đình Sử bởi “một phong
cách trần thuật có chiều sâu”. Và ông đã không ngại khẳng định rằng: “Trong số những nhà văn
trăn trở tìm tòi đổi mới tư duy nghệ thuật và tiếng nói nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu là một ngòi
bút gây được nhiều hứng thú. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên chuyến
trên tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện như một
hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới” [38; tr 188].
Tôn Phương Lan khi tiến hành khảo sát hàng loạt sáng tác Nguyễn Minh Châu (bao gồm tiểu
thuyết và truyện ngắn) cũng đã đồng khẳng định quan niệm trên của Trần Đình Sử khi cho rằng
“Trước những năm 80, điểm nhìn trần thuật của Nguyễn Minh Châu cơ bản theo xu thế đối ngoại”
[48; tr145]. Nhưng càng dần về sau khi hiện thực cuộc sống thay đổi thì quan niệm nghệ thuật của
nhà văn cũng dần thay đổi theo: “Từ quan điểm trần thuật sử thi, Nguyễn Minh Châu đã dần chuyển
sang quan điểm đời tư thế sự, do vậy mà các hình thức trần thuật của ông cũng có những chuyển
đổi” [48; tr 146].
Cũng trong công trình nghiên cứu này, khi tìm hiểu về giọng điệu chủ đạo trong sáng tác
Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan đã khẳng định “Có một giọng điệu trữ tình xuyên suốt nhiều
sáng tác của Nguyễn Minh Châu mà điểm nhìn trần thuật của lối tư duy sử thi đã góp phần thi vị
hóa những khó khăn gian khổ” [48; tr 161]. Nhưng đến càng dần về sau, khi những điều triết lý giản
dị mà sâu sắc dần thay thế cho những yếu tố chính luận gắn liền với những bước đi lớn của thời đại
thì mặc dù vẫn đi về trong giọng điệu trữ tình quen thuộc nhưng giờ đây truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu trầm lắng hơn, đượm nhiều trắc ẩn hơn trong dòng cảm nhận, suy tư về cuộc đời của tác giả.
Cùng quan tâm đến vấn đề giọng điệu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Lê Thành Nghị
cũng cho rằng: “Trong những thiên truyện gần đây của Nguyễn Minh Châu, một phong cách tưởng
đã định hình đang tự biến đổi. Tác giả thay đổi chất giọng, ngôn ngữ, thay đổi góc nhìn phần lớn để
truy tìm đến tận cùng những biểu hiện tâm lý phức tạp” [38;tr 301].
Còn với Phong Lê thì ngòi bút Nguyễn Minh Châu cơ hồ đã tỏ hết vẻ đẹp thiên phú của nó
khi chuyển tải được cái muôn vàn phức tạp của thanh âm cuộc sống vào tất cả những khoảng trống
phải nghi ngờ, phải nghĩ trong tác phẩm. Tác giả viết: “Đúng là Nguyễn Minh Châu là người có
giọng điệu riêng, mà nói đúng hơn anh là người đa giọng điệu. Cái đa giọng điệu, cái đa thanh của
cuộc đời đã vào anh. Tất cả các cung bật có trong cuộc đời: cái cao thượng, cái ti tiện, cả cái bi lẫn
cái hài, anh đều đưa vào truyện ( ). Trong truyện của anh mọi cái đang vỡ ra tạo nên những
khoảng trống phải nghi ngờ, phải nghĩ” [38;tr 299].
Kế đó, Nguyễn Tri Nguyên trong “Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu sau năm 1975” cũng đã dành không ít sự quan tâm vào việc tìm hiểu giọng điệu trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Tác giả viết: “Giọng kể của tác giả không còn đơn thanh điệu nữa
mà đã chuyển sang đa thanh điệu và phức điệu. [38tr 245]. Và sự đa thanh phức điệu này cũng
được tác giả chỉ ra những sắc điệu cụ thể “lúc thì thân tình suồng sã, lúc hài hước kín đáo, lúc thì
nghiêm nghị đến khe khắt nhưng cũng có lúc đôn hậu ấm áp”. [38;tr 245].
Bên cạnh chủ thể trần thuật và giọng điệu trần thuật thì vấn đề về lời văn trần thuật và kết
cấu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được nhắc đến khá nhiều trên các bài
viết, các công trình nghiên cứu ở một vài nét sơ lược của nó.
Nguyễn Trọng Hoàn trong “Truyện ngắn Bức tranh – sự đối diện và thức tỉnh lương tâm ”
đã có cái nhìn khái quát về ngôn ngữ trần thuật, cách thức trần thuật, giọng điệu trần thuật trong
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu khi cho rằng: “Ở Nguyễn Minh Châu còn phải kể đến sự kết
hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ đa thanh và thời gian, không gian đồng hiện. Khi lùi vào độc thoại
nội tâm, lúc chuyển sang đối thoại trực tiếp, lúc cắt ngang bình luận ngoại đề, sự đan xen linh hoạt
đó khiến cho ngôn ngữ tác phẩm có một giọng điệu phức hợp, tạo nên hiệu quả cá biệt hóa hình
tượng nhân vật từ bình diện điểm nhìn trần thuật” [38; tr 171].
Ở một trường hợp khác, lời văn trần thuật tinh tế hấp dẫn trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu cũng được Nguyễn Thanh Hùng đề cập đến trong một tác phẩm cụ thể: “Ngoài ánh trăng kỳ
ảo, Mảnh trăng cuối rừng còn chứa đựng chất thơ trong lời kể tinh tế và chân xác. Nguyễn Minh
Châu đã kết hợp kể với tả. Tả như mơ, như siêu thoát, không bao giờ tát cạn.” [38;tr 148]. Hay một
kết cấu trần thuật “rất lạ” của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được Nguyễn Trung Hiếu nhận
diện “một trong những cái lạ của Nguyễn Minh Châu là Người đàn bà trên chuyến trên tàu tốc
hành: lạ về nhân vật, lạ kết cấu và lạ cả về logic của truyện”. [38; tr 185].
Riêng Trần Đình Sử thì thấy được biệt tài của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ trần
thuật làm cơ sở hình thành hệ thống giọng điệu trần thuật sinh động, phong phú và đa dạng. Tác giả
viết: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tiết, miêu tả chân dung, môi trường, khắc họa tâm lý
Anh lại sành vận dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp, dựng lại được những giọng điệu khác nhau của nhân
vật, chẳng hạn như Khách ở quê ra, Hương và Phai ”[38; tr192].
Bên cạnh đó, khi tìm hiểu về cái hay, cái đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu các
nhà nghiên cứu đã không quên đề cập đến vấn đề kết cấu truyện ngắn của nhà văn khi xem đây là
một trong những yếu tố chính làm nên nét riêng không trộn lẫn của ông trong bước đường cách tân
nghệ thuật văn chương ở giai đoạn đầu còn nhiều băn khoăn, bỡ ngỡ.
Hoàng Thị Văn trong “Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90”, khi
đặt truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu bên cạnh truyện ngắn của nhiều cây bút khác đã cho rằng
“Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu hầu như không có kiểu kết thúc mở. Khép lại những câu chuyện
đời, nhà văn đều bày tỏ thái độ hoặc dẫn dắt bạn đọc hướng đến một cách cảm nhận và biểu thị thái
độ đối với cuộc đời, với một số phận con người.”[89; tr165].
Kiểu kết cấu này phần lớn tương ứng với một loại truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mà ở đó
tính luận đề của nó hiện thị trên trang viết tương đối rõ. Và trong một lần tham gia Hội thảo,
Nguyễn Minh Châu cũng đã không ngại nói rõ chủ kiến của mình “Mỗi truyện ngắn tôi nêu ra một
trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể chuyện, tôi bàn bạc về quan niệm sống hoặc báo động một
điều gì”[ 38; tr 295].
Nguyễn Trọng Hoàn trong nhiều bài viết của mình đã chỉ ra những biểu hiện cụ trong nghệ
thuật xây dựng câu chuyện của nhà văn “Cốt truyện trong Bến quê là cốt truyện tâm lý. Ở đây có sự
nghịch lý trong sự tự ý thức cao độ của nhân vật”. [38; tr 139]. Còn “Ở Bức tranh tác giả đã sử
dụng kết cấu trùng điệp có tính liên khúc”. [38;tr 171].
Văn Chinh khi khảo sát tập truyện ngắn Cỏ Lau đã chỉ ra dấu vết của tiểu thuyết ẩn trong vài
câu chuyện ngắn ngủi của nhà văn: “Cỏ lau gồm ba truyện ngắn bị phá cách để thích nghi thời điểm
hiếm hoi của người hiện đại dành cho tiểu thuyết văn chương ( ). Mỗi truyện từ trên dưới 60
trang, dày đặc chi tiết, cuồn cuộn sức vóc và điệp trùng ý nghĩa.” [38; tr 224]
Có lẽ cũng bởi sự điệp trùng ý nghĩa này mà truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thường tạo ra
được nhiều cách hiểu từ phía bạn đọc. Từ đó cũng dễ dẫn đến nhiều luồng ý kiến khác nhau thậm
chí là trái chiều nhau khi đánh giá về nét đặc sắc, độc đáo của truyện ngắn của nhà văn. Nhưng điều
thú vị là dù có thể tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về ý nghĩa tác phẩm nhưng đến nay hầu hết
mọi người đều phải thừa nhận rằng trong sự tìm kiếm, nâng niu và gìn giữ “hạt ngọc” ẩn chứa trong
mỗi con người thì Nguyễn Minh Châu đã không ngừng nâng mình lên khỏi những lối mòn quen
thuộc để trở thành một đại diện tiêu biểu “thực hiện được những thay đổi khi cần phải đổi thay và
thực hiện được những chuyển biến bước đầu xuất sắc.” [38; tr 281]
Tóm lại có thể thấy rằng:
Từ trước đến nay, vấn đề về Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được sự quan tâm,
tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học trong và ngoài nước.
Có người đã hướng sự quan tâm của mình đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Minh Châu ở một
trường hợp cụ thể (Nguyễn Mạnh Hùng với Mảnh trăng cuối rừng; Nguyễn Trọng Hoàn với Bến
quê ). Có người tập trung làm rõ chất thơ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, chỉ ra cái
hay và biệt tài của nhà văn trong việc kịch hóa nhân vật người kể chuyện (Nguyễn Mạnh Hùng,
Nguyễn Thanh Tú ). Hoặc có người lấy việc khảo sát các kiểu cấu trúc và tình huống trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu làm đối tượng nghiên cứu (Bùi Việt Thắng). Và trong đó, không thể
không kể đến Tôn Phương Lan với chuyên luận khoa học của mình - tìm hiểu về “Phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu”. Ở đây, tác giả bài viết đã tiến hành khảo sát trên toàn bộ các sáng
tác của Nguyễn Minh Châu dưới góc nhìn phong cách học để tìm hiểu và chứng minh về sự tồn tại
một phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu ở các phương diện: Tư tưởng nghệ thuật, nhân vật,
tình huống và điểm nhìn trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trong các sáng tác của nhà văn.
Cũng chính ở những bài viết và các chuyên luận khoa học này mà một số phương diện trong
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã được đề cập và lý giải. Nhưng trong
giới hạn nhất định, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên sự
quan tâm ở những bài viết này mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát; hoặc thu
hẹp khi khảo sát một tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát trên toàn bộ sáng tác của
nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất nhiên khi các bài viết này chưa có điều
kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về các đặc điểm và nét riêng trong Nghệ thuật trần
thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Và người viết cũng được biết rằng đến nay, chưa có một
công trình khoa học nào lấy vấn đề tìm hiểu về Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu đặt dưới góc nhìn thi pháp học làm đối tượng nghiên cứu của đề tài. Người viết rất
mong trong giới hạn nhất định, đề tài mà luận văn đã chọn - Nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sẽ là cơ hội để người viết tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích và lý
giải các yếu tố nghệ thuật làm nên nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu trên tinh thần khoa
học và toàn diện nhất có thể.
Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Bất cứ một cây bút nào cũng không thể làm công việc của
cả một nền văn học. Miễn là mỗi người với tất cả tấm lòng chân thành đối với cuộc sống, hãy in cho
thật sâu đậm dấu vết bản sắc tư tưởng cùng tiếng nói nghệ thuật riêng của mình – tức cũng đã là
chút đóng góp” [38; tr 307]. Hy vọng kết quả nghiên cứu này cũng sẽ là một đóng góp nhỏ bé của
người viết trong việc đưa đến một cách hiểu, một cách nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về giá trị của
những thành quả lao động nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu đã cống hiến cho đời, đặc biệt khi xét
ở phương diện nghệ thuật trần thuật của nhà văn khuôn lại ở thể loại truyện ngắn và trải dài ở hai
giai đoạn sáng tác trước và sau 1975.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn tập trung vào mảng sáng tác của Nguyễn Minh
Châu ở lĩnh vực truyện ngắn trong cả hai giai đoạn trước và sau 1975. Đây là mảng sáng tác thể
hiện rõ sự dụng công và tài năng sáng tạo của nhà văn trong nỗ lực vươn tới những cách tân, đổi
mới về tư duy nghệ thuật tự sự. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn tập trung tìm hiểu những
yếu tố nghệ thuật chính làm nên một phong cách riêng về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu. Từ đó, luận văn hy vọng đưa ra những lý giải mang tính thuyết phục về cái
hay, cái hấp dẫn trong “nghệ thuật kể chuyện” của Nguyễn Minh Châu trải qua bao thế hệ bạn
đọc.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích đặt ra trong phạm vi tự giới hạn, trong quá trình nghiên cứu,
luận văn đã sử dụng phối hợp một số phương pháp chính sau:
4.1 Phương pháp phân tích tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng với tần suất cao trong luận văn. Đi từ việc khảo sát phân
tích từng tác phẩm, người viết chú ý đến những yếu tố nghệ thuật chính làm nên nét riêng trong
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu như chủ thể trần thuật, kết cấu trần
thuật, lời văn và giọng điệu trần thuật. Từ việc phân tích đó, người viết hướng đến tìm nhận
những kết luận mang tính tổng hợp nhất, khái quát nhất làm nên một ngòi bút Nguyễn Minh Châu
sẵn “cái duyên kể chuyện”.
4.2 Phương pháp hệ thống:
Người viết sử dụng phương pháp hệ thống trong quá trình nghiên cứu để từ đó có được
một cái nhìn hệ thống về những yếu tố nghệ thuật tương đồng, gần gũi, những yếu tố mang tính
“ổn định” góp phần hình thành phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, đặc biệt tập trung ở
mảng truyện ngắn, soi chiếu dưới góc nhìn của thi pháp trần thuật.
Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề, trong quá trình nghiên
cứu người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, đối chiếu với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ những yếu
tố nghệ thuật làm nên nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Song song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, người viết còn vận dụng
những kiến thức học được về các khoa học liên ngành như: lý luận văn học, thi pháp học, phong
cách học, phương pháp luận nghiên cứu văn học để phục vụ hiệu quả vấn đề người viết chọn
làm đề tài cho chuyên luận.
5 Đóng góp của luận văn:
Người viết hy vọng kết quả mà luận văn gặt hái được là những đóng góp hữu ích về:
- Khảo sát và lý giải một cách có hệ thống, thuyết phục đối với những yếu tố nghệ thuật
chính làm nên tính hấp dẫn của “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu”.
- Khẳng định có sự tiếp nối và cách tân trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh
Châu, đặc biệt ở lĩnh vực truyện ngắn. Đây luôn được xem là một trong những yếu tố nghệ thuật
chính khiến nhà văn có thể trụ vững và thật sự đã rất thành công ở cả hai giai đoạn sáng tác.
- Nguyễn Minh Châu còn là một trong những tác giả có tác phẩm được chọn giảng ở
trường Phổ thông nên kết quả luận văn nghiên cứu sẽ có những đóng góp nhất định cho việc
nghiên cứu và giảng dạy của người giáo viên đứng lớp sau này.
6 Kết cấu luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu tạo gồm 3 chương:
Chương 1: Chủ thể trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Chương 2: Kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Chương 3: Lời văn và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
134 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 5187 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y của cô và những người trong khu tập thể, việc cô gây
náo động cả khu tập thể vì tính đễnh đoảng của mình, cả việc mọi người càng yêu quý cô hơn vì
việc cô đứng ra bảo lãnh cho thằng Huấn về với gia đình… cứ tuần tự diễn ra một cách tự nhiên
trong mạch trần thuật vô tư của người kể chuyện. Không đả kích, phê phán, cũng như không hô
hào hay lên tiếng khẳng định một điều gì, vẫn một giọng điệu trần thuật bình thản và hết sức vô
tư, chủ thể trần thuật kể việc, nêu vấn đề cùng những kết quả đã ngẫu nhiên xảy ra từ vấn đề ấy.
Việc còn lại là của độc giả. Độc giả tiếp nhận câu chuyện, bình giá sự kiện để sau đó suy ngẫm và
tự chọn cho mình một cách sống thích hợp. Bài học nhân thế từ đó cũng trở nên nhẹ nhàng, bình
dị và tự nhiên hơn trong sự tiếp nhận của bạn đọc.
Tạo thành bộ ba tác phẩm liên hoàn thể hiện rõ sự quan tâm của tác giả về tính hồn nhiên,
vô tâm, vô tư của con người (đặc biệt là những người đàn bà trong khu tập thể), Đứa ăn cắp là
một tác phẩm khác được dẫn ra trên cái nền chung là giọng trần thuật cố gắng khách quan của tác
giả.
Chỉ là một thói quen hồn nhiên của con người, chỉ là sự nghi kỵ thường thấy ở những
người đàn bà… cốt truyện hầu như không có biến cố gì nổi bật, kể cả cái chết của một con người
(nó chỉ là một trong muôn ngàn đề tài bàn luận của những người đàn bà mà thôi). Điểm nhìn
hướng ngoại như một sự lựa chọn hữu ý của tác giả để tạo nên sự gián cách nhất định cho Tôi và
câu chuyện kể. Trong vai trò chứng kiến và thuật chuyện, Tôi đã điềm nhiên kể, điềm nhiên lướt
qua từng gương mặt với từng thái độ ứng xử cụ thể của mỗi người.
“Lòng thương cảm của những người đàn bà mỗi lúc mỗi dào dạt, mỗi lúc một nhân lên
mãi mãi, cũng y như ngày xưa, chỉ trước đây hơn một tháng, cũng vẫn những người đàn bà ấy,
chị áo bông, chị áo len xanh, chị xách xô nước…đã từng kêu lên những lời căm phẫn: “Tại sao
không tống cổ nó đi ngay! Tại sao ông Quân không giải quyết cho con Thoan về nhà quê ngay,
mà cứ để cho nó nán lại đây thêm một ngày, một giờ làm cái gì, hở?” [12; tr 252] Và “Những
người đàn bà trong khu gia đình lấy làm khổ sở, như phải chịu đựng một thứ tai hoạ, việc con
Thoan vẫn còn được ở lại, vẫn còn được nấn ná trong khu gia đình (…). Những người đàn bà lại
kêu lên”.[12; tr 254].
Ở đây, tính chủ quan vốn có của chủ hể ttrần thuật ngôi thứ nhất (người kể xưng Tôi) đã
không được phát huy mấy. Người kể chuyện cứ từ tốn và điềm nhiên kể lại câu chuyện của mình
theo kiểu: vô tình chứng kiến, vô tình biết được và tự nhiên thuật kể. Chất giọng bình thản đã che
giấu đi thái độ của người kể chuyện, qua đó góp phần làm cho câu chuyện vốn đã bình dị lại càng
bình dị hơn như vẫn có ngoài đời. Sự hư cấu của tác giả trong câu chuyện kể đã được giảm thiểu
gần như đến mức tối đa, khoảng cách giữa độc giả và câu chuyện càng được rút ngắn.
Nhìn chung thì ở ba tác phẩm này, ngoài một vài lời trữ tình ngoại đề xuất hiện ít ỏi trong
mạch trần thuật, bộc lộ trực tiếp thái độ của tác giả thì phần lớn ngôn ngữ trần thuật đã thanh lọc
một cách cố ý những yếu tố chủ quan, tình cảm của người kể. Trong tác phẩm chỉ còn lại nhân vật
và các sự kiện tuần tự nối kết, xâu chuỗi nhau vận động, nhân vật tự tìm đến độc giả và nói lên
những điều cần nói. Với giọng điệu trần thuật này, tác giả đã tước đi rào cản chắn giữa nhân vật
và độc giả. Không còn bị ngăn cách bởi lớp thái độ, tình cảm, tư tưởng của tác giả, người đọc trực
tiếp bộc lộ tình cảm của mình trước hiện thực tác phẩm. Từ đó, nhân vật và các sự kiện trong tác
phẩm đã trở thành đối tượng để độc giả hướng đến tìm hiểu, phân tích và đánh giá. Trong sự quy
chiếu với những giá trị nhân văn, nhân sinh đã được xã hội thừa nhận, mỗi người đọc sẽ có một
bài học cho riêng mình.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, bản thân người kể chuyện bao giờ cũng xuất phát từ một
điểm nhìn với một cảm quan nhất định nên khó có thể khẳng định thái độ bình thản ở đây là
khách quan hoàn toàn (tức là người kể giữ mãi một sắc giọng bình thường, trung tính khi trần
thuật các sự kiện, hành động). Vậy nên, sự bình thản trong giọng điệu trần thuật ở truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu cũng nên hiểu một cách ước lệ khi cần phân biệt với các giọng điệu trần
thuật khác như: trữ tình, hồn hậu; triết lý, suy ngẫm; dí dỏm, khôi hài…
Bình thản trong giọng điệu trần thuật nhưng không có nghĩa là người kể chuyện hoàn toàn
dửng dưng vô cảm trước những con người trong Mẹ con chị Hằng, Lũ trẻ ở dãy K, Đứa ăn cắp.
Hiện lên trong câu chuyện kể của tác giả, họ không phải là người xấu bụng hay độc ác một cách
cố ý nhưng do sự nông cạn, vô tâm của mình mà đã hành động một cách vô thức, tự nhiên, không
hề nghĩ đến hậu quả của cách sống và ứng xử của bản thân đối với người xung quanh. Nếu như
giọng triết lý, suy ngẫm phẩm bình tỏ ra thích ứng với kiểu nhân vật suy tư, sám hối, luôn boăn
khoăn trăn trở về sự hay dở, đúng sai của đời mình thì ở đây, giọng điệu bình thản, tự nhiên cũng
đã rất phù hợp với hệ thống nhân vật là những con người bình thường, có cách sống hồn nhiên
ngây thơ và tin vững chắc vào cách sống của mình (chị Hằng, cô Hoằng, những người đàn bà
trong khu tập thể). Dư luận xã hội và thậm chí lương tâm có thể bỏ qua cho họ vì cho rằng đó là
những chuyện nhỏ nhặt, những thói tục phổ biến không đáng quan tâm, nhưng người nghe với tư
cách là người sống có trách nhiệm và công tâm sẽ phải quan sát, lắng nghe thật tỉ mỉ để nhận thức
sâu sắc tính chất bi hài, đau xót của thói tục trong con người họ.
Vô tư chứng kiến, vô tư kể chuyện nhưng nghiêm khắc và sắc sảo trong cách nhìn, Nguyễn
Minh Châu đã thông qua câu chuyện kể của mình, thông qua nhân vật đời tư thế sự, mượn giọng
điệu trần thuật bình thản làm chất xúc tác để lật giở hai mặt phải trái của cuộc đời, để mọi người
kể cả những người vô tâm và thờ ơ nhất cũng phải bàng hoàng nhận ra hậu quả nặng nề và dai
dẳng của thói tục đời thường, tự soát xét và tìm ra cho mình một hướng đi đúng với một lẽ đời
tích cực.
Vì vậy mà ở mảng sáng tác này, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu tuy bình thản vô tư nhưng lại ẩn chứa bao điều giản dị và sâu sắc là như thế. Bình dị, giản
đơn mà lý thú, trang truyện ngắn Nguyễn Minh Châu có một sức hấp dẫn đặc biệt riêng đối với
người đọc. Đó là sự bình dị ở cách lựa chọn đề tài, bình dị ở văn phong, giọng điệu trần thuật
nhưng lại lý thú ở điều người đọc có thể cảm nhận được nhưng đôi lúc lại cảm thấy bối rối khi
muốn lý giải tận tường. Cũng như một lần, chính tác giả đã đề cập đến trong tác phẩm của mình
“Trong tác phẩm bà viết những chuyện chẳng có gì là to tát nhưng người ta vẫn thích đọc. Người
ta tìm thấy ở trong chất văn của bà một vẻ hấp dẫn không biết nằm ở đâu nhưng chính điều đó lại
gây cho người đọc cảm tưởng rằng ai cũng có thể cầm bút được.” [12; tr 457] (Sống mãi với cây
xanh)
3.3.4 Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, hài hước, dí dỏm một giọng điệu trần thuật nhiều
kịch tính
Ở giai đoạn sáng tác trước 1975, tư duy nghệ thuật sử thi có sức chi phối mạnh mẽ đến
cách tổ chức và thể hiện giọng điệu của các nhà văn. Cảm hứng anh hùng ca với âm điệu hào
hùng, sảng khoái của thời đại thống nhất và chi phối giọng điệu chủ đạo của tác phẩm. Đặt bên
cạnh giọng điệu hào hùng sảng khoái của văn học giai đoạn này thì giọng điệu trào tếu, hóm hỉnh,
giễu nhại, đả kích phê phán của văn nghệ sĩ đã trở thành “của hiếm”, nếu không nói là hoàn toàn
vắng bóng.
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn này được đông đảo bạn đọc biết đến là những
trang văn đẹp ấm áp chất giọng trữ tình hồn hậu khi ngợi ca những phẩm chất và tình cảm đẹp
của người lính, của triệu triệu lớp lớp người lao động trong cuộc chiến tranh thần thánh của dân
tộc. Vì vậy mà giọng điệu trần thuật hài hước, dí dỏm mang nhiều kịch tính của nhà văn gần như
là không có.
Sau 1975, chiến tranh đi qua, văn học Việt Nam có nhiều bước chuyển mình rõ nét, đi từ
khuynh hướng sử thi sang góc độ đời tư thế sự. Quan tâm đến việc phản ánh một phương diện
khác của hiện thực, phát hiện ra những bất ổn trong cách nghĩ, cách sống của một bộ phận con
người, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn này cũng phong phú và đa dạng hơn ở giọng
điệu trần thuật hài hước, dí dỏm mang nhiều kịch tính.
Người đọc có thể nhận ra chất giọng hài hước, dí dỏm này trong một vài đoạn mạch trần
thuật, trong cách suy nghĩ của nhân vật về một điều gì đó hoặc xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm
như một giọng chủ đạo.
“Lúc tỉnh dậy, anh chỉ thấy cái bờ đất của con đường tàu bỏ hoang, kéo dài một vệt sau
lưng. Anh chỉ kịp nghĩ “Nếu bây giờ muốn bắn anh, chúng phải sử dụng hoả lực cầu vồng chứ
súng bắn thẳng chẳng làm gì được nữa.” [12; tr 229] (Cơn giông). Ở đây, giọng điệu hài hước
được đặt trong lời độc thoại nội tâm của Thăng khi anh vừa tỉnh dậy sau cơn mưa đạn rượt đuổi
điên cuồng của kẻ thù. Trong giới hạn nào đó thì việc để giọng hài hước này chen giữa lời độc
thoại nội tâm của một người đang ở trong trạng huống “thập tử nhất sinh” như Thăng còn được
hiểu là sự thể hiện một cách linh hoạt, mềm dẻo của nhà văn về tinh thần lạc quan Cách mạng,
tinh thần thép của người chiến sĩ. Đặt đúng chỗ, giọng điệu trần thuật này đã góp phần tạo nên cái
nhìn thân thiện về nhân vật từ phía độc giả.
Một trường hợp khác ở Phiên chợ Giát, đã có nhiều đoạn tác giả dùng giọng điệu trần
thuật này để diễn tả những dòng suy nghĩ mơ hồ mà chất phát và ngây thơ của lão Khúng “Vậy
mà khổ chưa kìa, không biết cơ man nào là sao, có ít ỏi đâu, các chư vị đang thi nhau nhấp nháy,
đang toát mồ hôi hột ra để rặn ra thứ ánh sáng như đàn bà rặn đẻ, không phải một ông mà nhiều
ông, cả một trời sao đang chiếu sáng thế mà mặt đất thì vẫn tối thui mò mò thế này, con đường
chúng mình đi xuống phiên chợ Giát vẫn tối như hũ nút thế này?” [12; tr 594]
Ở đây, chất giọng hài hước được tạo ra từ chính sự cố ý sắp bày cạnh nhau của từ ngữ có
sắc thái trang trọng, nghiêm túc “các chư vị” với những từ mang tính khẩu ngữ, thông tục “tối
thui mò mò”, “tối như hũ nút”, đặc biệt là lối so sánh dí dỏm, có một không hai của lão Khúng
“ngôi sao thi nhau nhấp nháy như đang toát mồ hôi hột ra để rặn ra thứ ánh sáng như đàn bà rặn
đẻ”, tạo nên tiếng cười bất ngờ nơi người tiếp nhận.
Giọng điệu trần thuật này thật phù hợp với tính cách bỗ bã, quen nghĩ gì nói đó của Khúng,
đích thực là một lão nông chân chất, hiền lành chỉ quen bầu bạn với đất, đá với nắng và gió của
xứ biển miền Trung. Ngay trong giọng điệu hài hước, hóm hỉnh, tính vô thần ở con người lão
cũng được thể hiện rõ.
Xuất phát từ việc phát hiện mâu thuẫn bên ngoài của sự vật, hiện tượng, giọng điệu trần
thuật này đã góp phần tạo nên tiếng cười thoải mái, nhẹ nhàng cho câu chuyện kể, đưa vấn đề của
truyện đến gần hơn với sự tiếp nhận của người học.
Người đọc còn có thể bắt gặp tiếng cười này ở Hương và Phai, một trong những sáng tác
thuộc mảng đề tài thế sự của nhà văn.
Ngay từ đầu câu chuyện, cái hóm hỉnh, hài hước trong giọng điệu trần thuật của tác giả đã
được người đọc nhận diện qua lời bình trực tiếp của chủ thể trần thuật “Nói cho thật khách quan
và công bằng, anh Định và chị Phấn của chúng nó sắp trở thành vợ chồng như sắp tới đây, té ra
là do sự sắp đặt của chúng nó, hai đứa trẻ nhỏ này, chứ cũng chẳng phải ông tơ, bà nguyệt nào
sất ráo! Té ra người ta trở thành đôi lứa suốt đời cũng dễ dàng và đầy bất ngờ, chẳng có gì lạ
lùng và bí ẩn cả.” [12; tr 274]
Rất nhiều từ khẩu ngữ bộc lộ trực tiếp thái độ bông đùa của chủ thể trần thuật được sử
dụng ở đây “Té ra…, té ra…, chẳng phải …nào sất ráo, chẳng có gì là lạ lùng và bí ẩn cả”,
khiến cho việc trọng đại của đời người “việc anh Định và chị Phấn… sắp trở thành vợ chồng” đã
trở nên nhẹ nhàng và gần gũi hơn trong cách cảm, cách nghĩ của người đọc. Có thể nói, ở trường
hợp này, tác giả đã sử dụng biện pháp “nói giảm, nói bớt”, cố ý tạo nên sự lệch pha giữa sự việc
tác giả nêu (hôn nhân) cùng nguyên nhân gây ra sự việc ấy (hai con nhóc) với cách nghĩ thông
thường của mọi người (ông tơ bà nguyệt), đem lại ý vị hài hước bất ngờ cho câu chuyện kể.
Và cũng đôi lúc, tác giả lại dùng thao tác “nói thêm, nói quá”, cố ý nghiêm túc hoá, quan
trọng hoá những việc rất trẻ con của hai con nhóc, tạo nên cái cười nhẹ nhàng, yêu thương nơi
người tiếp nhận.
“Huống hồ, huống hồ bây giờ… cái điều khiến chúng đang phải leo lên tận trần nhà để
“quan sát” xuống lại còn lạ lùng hơn hiện tượng đĩa bay rất nhiều.” [12; tr 274]. Và hoá ra cái
điều “lạ lùng hơn cả hiện tượng đĩa bay” trong cách nghĩ của chúng nó là đây “Trên trần nhà, hai
con nhóc đang nhìn như dán vào cái khuôn mặt bầu bĩnh mỗi lúc một cứng đơ ra của chị Phấn
chúng nó. Đấy là lúc chị Phấn phải hơi hất cái mặt lên để cho chị Yên tô môi. Đến gãy cổ vì cái
môi.” [12; tr 273]
Điệp từ “huống hồ” được lặp lại hai lần kết hợp với hình thức dấu chấm lửng chen ngang
mạch trần thuật và từ ngữ cố ý phóng đại sự việc đã là một biện pháp nghệ thuật hữu hiệu được
tác giả sử dụng để quan trọng hoá lên việc tác giả muốn đề cập, một việc có vẻ rất bình thường
với người lớn nhưng lại vô cùng quan trọng đối với trẻ con. Như vậy, cùng một sự việc hiện
tượng (người ta đang trang điểm cho chị Phấn) nhưng khi thì tác giả “đưa lên quá cao”, cố ý
quan trọng hoá nó trong cách nghĩ của trẻ con khi thì “hạ xuống thật thấp” trong cách nhìn rất
thật và không kém phần hài hước của người lớn “Đến gãy cổ vì cái môi.” Tự trong sự so lệch một
cách cố ý này, giọng điệu trần thuật hài hước đã được sử dụng một cách hiệu quả.
Ngoài ra, người đọc còn có thể cảm nhận rõ dấu ấn của giọng điệu trần thuật này ở việc tác
giả mượn lời nói và ngữ điệu của hai đứa nhóc để bàn bạc chuyện trọng đại của đời người “Vậy là
chúng nó sang bàn với nhau: Phải làm sao đưa được chị Phấn sang bên nhà cái Hương, để chị
Phấn biết nhà cửa và mặt mũi anh Định cái đã” [12; tr 275] hay khi chúng phải ra mặt sắp xếp để
việc thực hiện phép tính “hoán vị” của chúng nó không đi chệch hướng “Trước một cuộc trò
chuyện đầy vẻ tào lao và trông thấy cả ba ông anh dàn hàng ngang mà tiến lên như vậy, hai con
nhóc thấy làm bất bình quá, chúng phải để lộ cho cả hai biết cái ý định mối manh như đinh đóng
cột của chúng: chúng muốn đưa chị Phấn sang đây để xem nhà cửa và nói chuyện chủ yếu với
anh Định – Số phận họ đã được sắp xếp ở bên cái vòi nước hôm trước như vậy rồi.” [12; tr 277]
và cả ở lý do rất chính đáng trong xu hướng chọn sách của chúng “Không bao giờ chúng thèm
đọc những cuốn sách người ta cố ý viết cho trẻ con bởi đọc những cuốn ấy chúng thấy gần như bị
người lớn nhại, thật khó chịu!” [12; tr 277]
Với sự trở lại nhiều lần của giọng điệu trần thuật này, tác giả đã tái hiện trước mắt người
đọc một thế giới trẻ con sinh động, dí dỏm và thật đáng yêu, đặc biệt là đáng yêu trong suy nghĩ
và hành động tinh nghịch, rất “trẻ con” của chúng. Đôi lúc, từ cách nghĩ và cách nói thành thật
một cách trẻ con này mà người lớn chúng ta lại trở thành đối tượng gây cười cho chính mình. Hãy
nghe một đoạn đối thoại giữa chị Phấn và cái Hương khi nói về anh Định.
“- Anh ấy không biết đang làm gì nhỉ? (Phấn hỏi về Định)
Con bé bản tính bộc tuệch:
- Lúc em sang đây thì thấy anh bê cái bếp dầu hỏa ra trước gương, cầm hai thanh đũa cả
hơ lên lửa cho nóng rồi kẹp lấy món tóc trước trán mà xoắn như xoắn thừng. Mà chị Phấn không
biết chứ, quần áo anh ấy mặc sang đây, hai phần ba là quần áo đi mượn. Bên ngoài trông ăn mặc
đẹp thế chứ bên trong, sơ mi và quần áo lót hàng nửa tháng không thay ra để giặt, không khéo
còn có rận nữa cơ! Cả tiền nữa, hồi này gặp ai cũng hỏi vay, em có chục bạc để trong cuốn sách,
thế mà anh ấy cũng “nhót” mất! Anh ấy bảo ít nữa tao sẽ trả mày hai chục. Có mà đến Tết! Thà
em biếu không cho anh ấy. Có lẽ bây giờ anh ấy đã uốn tóc xong, đang mặc quần áo để sang đây.
Bữa nay đầu tóc lại chẳng sặc sụa mùi dầu hoả. Rồi chị ngửi thử coi!...” [12; tr 280]
Mượn lời trần thuật ngây thơ đến bộc tuệch của cô bé, Nguyễn Minh Châu đã khiến người
đọc không khỏi buồn cười bởi những gì thật nhất ẩn sau dáng vẻ hào hoa, phong nhã, bóng bẩy
đến điệu đà của các chàng trai đi tán gái, đặc biệt là ở công đoạn chuẩn bị công phu đến buồn
cười của anh ta.
Nhìn sự vật, hiện tượng từ cái buồn cười, sử dụng giọng điệu trần thuật hài hước, hóm hỉnh
trở đi trở lại trong mạch trần thuật, cách trần thuật này đã tạo nên không khí vui nhộn, thân mật và
gần gũi giữa các nhân vật trong câu chuyện kể, cũng như giữa các nhân vật ấy với người đọc. Đây
cũng là một trong những thủ pháp để đưa câu chuyện kể của tác giả đến gần hơn với độc giả, đem
lại cho độc giả một nụ cười nhẹ, cười vui, vô thưởng, vô phạt. Điều này cũng thật phù hợp với
tấm chân tình nhẹ nhàng và dịu dàng của tác giả khi viết về những con người chân chất, hiền lành.
Nhưng thông thường người ta chỉ nhắc vai trò của tiếng cười trong việc chỉ rõ những thói
tật với những điều chưa hoàn thiện của con người. Nó thường được bắt nguồn từ cái người ta nghĩ
và chờ đợi đáng lẽ là thế này nhưng nó lại hiện ra với một dáng vẻ thế khác. Và khi đó, giọng
điệu trần thuật hài hước sẽ mang phong vị trào tếu, hoạt kê, đả kích, phê phán hơn là tiếng cười
vô tư trong lúc nhàn rỗi, vui tươi và dí dỏm của con người. Trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau 1975, tiếng cười dạng này cũng có nhưng không nhiều. Đọc Mùa trái cóc ở miền Nam,
người đọc cảm nhận được phía sau tiếng cười ấy là bao điều phải nghĩ.
Một giọng điệu trần thuật nghe có vẻ hóm hỉnh, vui vui nhưng mang nhiều kịch tính được
thể hiện trong sự quan sát và bình phẩm của chủ thể trần thuật về một sự thật đầy vẻ bất thường
đang diễn ra trong cuộc sống “Dù trời cho tôi một bộ óc có thể tưởng tượng ra toàn điều phi lý
tuyệt trần đến đâu cũng không thể tưởng tượng ra nổi cái cảnh này, trong một vị trí địch vừa
chiếm được mới dăm hôm. Mặt đất còn ngổn ngang. Thậm chí xác lính ngụy chưa được thu nhặt
hết những người lính giải phóng vừa chiến thắng đang luyện tập khoa mục đi đều, dưới trời
mưa!” [12; tr 528]
Hay ở một trường hợp khác, trong hoàn cảnh thời bình mà một vị thủ trưởng cùng ký giả
muốn ghé thăm một doanh trại lại khó khăn đến mức “Lối ra vào cổng cả lối cho xe ra vào ở giữa
cũng như lối hai bên đã bi bịt kín bằng những chiếc cự mã làm bằng những cuộn dây thép gai, y
như một bầy nhím khổng lồ đang giương lông lên trước mũi xe chúng tôi. Một chiến sĩ cầm súng
ra đứng trong bốt gác cũ bằng sắt dày năm ly”. Và “Ba người đàn ông chúng tôi cũng phải xúm
vào mới mở thông được lối vào trong trại. Làm xong công việc dễ mất đến hai mươi phút. Chúng
tôi y như đứng trước lối vào trại binh của một bộ lạc thời trung cổ, người nào người nấy đều bị
ướt và mệt lử” [12; tr 526] trong khi “Thời thằng Mỹ ngày xưa, cái cổng này ban ngày vẫn mở”
[12; 526]
Ở đây, chủ thể trần thuật đã cố ý sử dụng giọng điệu hài hước, ít nhiều nhen lẫn sự mỉa mai,
châm biếm để thuật kể câu chuyện. Khác với tiếng cười vỗ mặt sâu cay thường thấy trong sáng
tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, tiếng cuời này tuy mang màu sắc châm biếm, phê
phán nhưng mức độ còn nhẹ nhàng, hướng đến sự nhận thức và mang tính xây dựng hơn là sự thù
địch, đả kích. Kết hợp với giọng triết lý, suy ngẫm, phẩm bình – giọng chủ âm trong câu chuyện
kể, giọng điệu trần thuật này góp phần làm sáng tỏ thêm nội dung tư tưởng của tác phẩm, tạo nên
một cách hiểu tập trung và sâu sắc hơn ở phía người tiếp nhận.
Riêng ở tác phẩm Sắm vai, giọng điệu trần thuật này nổi lên như một âm chủ chi phối
mạch trần thuật. Đó là giọng hài hước dí dỏm của chủ thể trần thuật khi tự nhận mình là một nhà
văn mới tập tễnh vào nghề “Từ ngày rắp tâm tập tễnh thử viết một cái truyện ngắn đầu tiên…”
[12; tr 258]. Và dưới góc quan sát của nhà văn mới ấy, cuộc sống của căn nhà đối diện “cũng hay
hay mà trước kia thường ngày tôi không thấy, hoặc không để ý đến” [12; tr 258]. Tiếp tục chất
giọng bông đùa hài hước, người đọc nhận ra một nụ cười ý nhị của người trần thuật về những thói
quen công thức hàng ngày của con người, mà ở đây tác giả gọi tên nó là “cái thời khóa biểu tự
giác và vô cùng nghiêm ngặt” [12; tr 259].
Một ví dụ cho sự “nghiêm ngặt” trên, đôi mắt quan sát dí dỏm và tinh nghịch của chủ thể
trần thuật dừng lại ở một người hàng xóm đối diện nhà mình “Ví dụ, vào khoảng sáu giờ sáng
hoặc trễ hơn mấy phút, ngay trên đầu anh ở tầng ba, có một ông đầu hói bóng không còn một sợi
tóc nào, vậy mà đến cái giờ đó, cũng cầm một cái lược chải lật những sợi tóc tưởng tượng từ
đàng trước trán ra sau gáy, bàn tay cầm lược chải đến đâu thì bàn tay kia miết tóc đến đấy, như
sợ có một sợi tóc bướng bỉnh không chịu ốp sát vào bộ tóc” [12; tr 259]
….
Có thể nói, dù xuất hiện không nhiều nhưng giọng điệu trần thuật này đã có một vai trò
không nhỏ trong việc góp phần hình thành nên một phong cách trần thuật Nguyễn Minh Châu
phong phú, đa dạng và đặc sắc. Hướng đến nhiều đối tượng gây cười khác nhau nhưng nhìn
chung tiếng cười trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thường có giá trị mua vui, nhận thức, xây
dựng hơn là châm biếm, đả kích và phê phán. Ứng với tạng văn Nguyễn Minh Châu thì ẩn trong
chất giọng hài hước mang tính kịch này, phía sau nụ cười thường vẫn là bao điều suy ngẫm, có
khi đó còn là giọt nước mắt se sắt lòng người về cái sự thật rồi nó sẽ vào tận ngõ mỗi nhà.
Tiểu kết:
Như chính chủ thể trần thuật và kết cấu trần thuật, lời văn và giọng điệu trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu rất đa dạng và phong phú.
Để thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, tạo nên cách kể chuyện ấn tượng đối với độc giả,
trong quá trình sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu luôn có ý thức sử dụng và phối hợp linh
hoạt các dạng lời văn khác nhau trong cùng một câu chuyện kể.
Nếu như ở mảng sáng tác trước 1975, dạng lời văn gián tiếp một giọng có phần chiếm ưu
thế hơn so với dạng lời văn gián tiếp hai giọng (lời nửa trực tiếp) và lời trực tiếp của nhân vật
dưới hình thức lời nội tâm thì đến giai đoạn sau cán cân trong mối tương quan này đã thay đổi
theo xu hướng ngược lại. Điều này được giải thích từ sự thay đổi trong quan niệm trần thuật từ
khuynh hướng sử thi sang khuynh hướng đời tư thế sự của tác giả. Nhìn cuộc sống và chiến đấu
của người lính từ cái nhìn hậu chiến, quan tâm đến cuộc sống bình thường nhưng không mấy bình
ổn của nhiều con người, nhiều thế hệ và nhiều thân phận người trong dòng đời thế sự mặc nhiên
tuôn chảy, Nguyễn Minh Châu dành nhiều ưu ái hơn cho sự xuất hiện dạng lời văn trần thuật nửa
trực tiếp và lời nội tâm của nhân vật. Tính hướng nội, tính đa thanh, phức điệu của dạng lời văn
trần thuật này đã tỏ ra thích hợp để tác giả đi sâu tìm hiểu và thể hiện sinh động cái bộn bề, phức
tạp của đời sống nhân thế và cả cái tầng bậc bí ẩn của đời sống tâm linh của con người, tạo nên sự
đa nghĩa cho tác phẩm.
Cùng với đó, sự xuất hiện khá phổ biến dạng lời văn trần thuật trực tiếp của tác giả (lời trữ
tình ngoại đề) cũng được xem là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sức hấp dẫn trong nghệ
thuật kể chuyện của Nguyễn Minh Châu.
Chen giữa đoạn mạch trần thuật, người kể chuyện (cũng là hình bóng của tác giả) không
ngại thể hiện mình qua những lời trữ tình ngoại đề bộc lộ trực tiếp thái độ, tư tưởng, tình cảm của
bản thân đối với nhân vật, sự kiện, hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm. Điều đặc biệt là
những đoạn trữ tình ngoại đề này thường không là những trường đoạn cảm xúc cao trào mà
thường là những bình luận triết lý sắc sảo, thể hiện cách nhìn thế giới và con người đậm tính nhân
bản, nhân văn của tác giả.
Phối hợp đan xen, linh hoạt và nhuần nhị các dạng lời văn trần thuật, truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu đã khơi gợi ở người đọc những cảm xúc và nỗi day dứt lớn lao về số phận con người
trước và sau cuộc chiến, mở ra nhiều tầng bậc chủ đề cho tác phẩm, tựa như sự bề bộn của chính
cuộc đời.
Cùng với lời văn trần thuật là giọng điệu trần thuật. Ứng với mỗi tác phẩm, mỗi vấn đề của
truyện, mỗi nhân vật mà tác giả đã có sự lựa chọn về một giọng điệu trần thuật phù hợp.
Trước 1975, chịu ảnh hưởng của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng
anh hùng, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu luôn ấn tượng người đọc ở giọng điệu trữ tình ấm áp,
hồn hậu thiên về khẳng định, ngợi ca là chính. Sau 1975, chiến tranh đi qua, văn học Việt Nam
cũng từng bước thay đổi. Đặc biệt là “Sự chuyển đổi quan điểm trần thuật từ khuynh hướng sử thi
sang góc độ đời tư, thế sự đã chi phối tính gián đoạn và tiếp nối trong nghệ thuật trần thuật của
Nguyễn Minh Châu” [52; tr 208]. Đặt bên cạnh giọng điệu trữ tình ngợi ca – giọng điệu chủ âm
của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn chống Mỹ cứu nước thì giọng điệu triết lý, suy
ngẫm, phẩm bình được xem là dấu hiệu của sự kết tinh, lắng lọc những cảm xúc, những điều trăn
trở, trải nghiệm của tác giả về bao điều thật nhất giữa cuộc sống đời thường. Đó là một cuộc sống
đời thường nhưng không mấy bình thường. Đi qua chiến tranh, số phận con người chịu nhiều thay
đổi giữa hai điều bình ổn và bất ổn. Cái bình ổn tiếp tục trở lại trên trang viết Nguyễn Minh Châu
với niềm xúc cảm chân thành, tin yêu và ngưỡng vọng thì cái bất ổn lại thức dậy trong câu chuyện
kể của tác giả với niềm băn khoăn, trăn trở khôn nguôi về tình người, tình đời và một lẽ sống tích
cực.
Niềm trăn trở, băn khoăn đó, bên cạnh việc được thể hiện cụ thể, trực tiếp trong sự khắc
khoải, đau đáu của giọng điệu trần thuật đậm tính triết lý, suy ngẫm, phẩm bình thì nó còn được
thể hiện một cách gián tiếp và xuất hiện tương đối nhiều trong giọng điệu trần thuật bình thản
nhẹ nhàng nhưng chất chứa bao điều giản dị mà sâu sắc.
Với giọng điệu trần thuật này, tác giả đã cố ý tạo lập nên quyền bình đẳng giữa hình tượng
tác giả trong tác phẩm với nhân vật và độc giả. Hình tượng tác giả trong tác phẩm hay còn gọi là
chủ thể trần thuật sẽ tự giới hạn vai trò của mình lại trong tư cách một nhân chứng, một người
tình cờ phát hiện và ghi nhận lại bao điều mắt thấy tai nghe. Khi đó, nhân vật cùng bao biến động,
sự kiện làm nên biến cố, số phận cuộc đời nhân vật đã không trở thành đối tượng để tác giả trực
tiếp bày tỏ thái độ đồng tình, ngợi ca hay phản đối, chê trách. Phần nhiều nhân vật tự thể hiện
mình qua lời nói, cử chỉ, việc làm, từ đó trở thành đối tượng để người đọc phân tích, tìm hiểu và
đánh giá trong sự quy chiếu của những chuẩn mực về giá trị nhân bản, nhân văn đã được xã hội
thừa nhận. Và như thế nhiều bài học giản dị mà sâu sắc về bao giá trị nhân sinh giữa cuộc sống
đời thường cũng sẽ được người đọc tiếp nhận một cách tự nhiên bằng chính sự trải đời sâu sắc
cũng như sự nhạy cảm cao về nghệ thuật của bản thân.
Ngoài ra, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng cho giọng điệu trần thuật của truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu còn phải kể đến giọng điệu trần thuật hài hước, dí dỏm mang tính kịch,
chủ yếu xuất hiện trong các sáng tác thuộc giai đoạn sau của tác giả.
Không phải là giọng chủ âm trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, nhưng sự có mặt của
giọng điệu trần thuật này đã góp thêm một nét vẽ làm đầy đặn hơn sự phong phú đa dạng và hấp
dẫn trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt khuôn lại ở mảng truyện ngắn.
Kết hợp với các giọng điệu trần thuật khác, nó tạo nên sự đa thanh, nhiều bè, nhiều giọng điệu
cho trang truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đánh dấu một bước đường thành công trong tư duy
nghệ thuật của tác giả.
Xét đến cùng thì truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là sự phức hợp đa âm, đa thanh về giọng
điệu trần thuật nhưng chất giọng thâm trầm, suy ngẫm triết lý vẫn được xem là giọng chủ âm nổi
bật nhất và phù hợp nhất đối với tạng người tạng văn của ông. Và đó cũng là chất giọng góp phần
đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất, làm nên sức hấp dẫn riêng của truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu.
KẾT LUẬN
Từ sau những năm 1975 và nhất là đầu những năm 80, với những tìm tòi, khám phá “dũng
cảm và điềm đạm”, Nguyễn Minh Châu đã làm nên bước ngoặt trong đời văn của mình, trở thành
một trong số “những người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất”. Vai trò “mở
đường” ấy lại càng được khẳng định hơn ở một thực tế rõ ràng “Trong khi không ít hướng tìm tòi
và đổi mới, hoặc dừng lại, hoặc rơi vào bế tắc, đưa đến sự hoài nghi, bi quan với con người thì
hầu hết các sáng tác trong thập kỷ 90 thực chất vẫn là sự tiếp nối, đào sâu và mở rộng “vệt tư
tưởng” nhân văn mà Nguyễn Minh Châu đã khơi nguồn từ thập kỷ trước.” [52; tr 206].
Đó là “vệt tư tưởng” đã có từ trước trong các sáng tác viết về người lính và sau được tiếp
nối trong sự sắc sảo, thâm trầm trước cõi nhân thế đa đoan, phức tạp, trong ước muốn kiếm tìm và
khám phá chiều sâu thế giới bên trong của con người, tạo thành quá trình vận động biện chứng
trong ý thức nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Vừa chịu sự chi phối vừa có khả năng tác động
trở lại hiện thực xã hội, sự vận động ấy bao hàm cả chủ đề, cảm hứng tư tưởng tác phẩm lẫn nghệ
thuật trần thuật của tác giả, khiến người đọc vừa có thể nhận ra một Nguyễn Minh Châu sắc sảo
và nhân hậu vừa ý thức được vai trò “mở đường” của nhà văn trong sự nghiệp đổi mới văn học
(đổi mới về đối tượng, nội dung phản ánh lẫn nghệ thuật phản ánh của nhà văn).
Khảo sát riêng ở mảng truyện ngắn, đặc biệt soi rọi dưới ánh sáng của thi pháp trần thuật,
luận văn nhận ra dấu ấn của sự “tiếp nối” và “mở đường” ấy được thể hiện tương đối đậm nét
trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu mà tựu trung lại là những yếu tố trần thuật
chính yếu:
1. Về chủ thể trần thuật:
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu phong phú và đa dạng ở chủ thể trần thuật. Ở đó có chủ
thể trần thuật ngôi thứ ba theo hướng khách quan hóa lẫn chủ quan hóa và chủ thể trần thuật ngôi
thứ nhất với cái Tôi hướng nội mang quan điểm của con người cá nhân, cá thể. Cùng với sự đa
dạng ở chủ thể trần thuật ấy thì truyện ngắn Nguyễn Minh Châu còn là kết quả của sự dịch
chuyển linh hoạt, khéo léo giữa các điểm nhìn trần thuật. Có chuyện được kể từ điểm nhìn tập
trung bên ngoài (theo hướng khách quan hóa), cũng có chuyện được kể theo điểm nhìn tập trung
bên trong và điểm nhìn phức hợp (theo hướng chủ quan hóa). Đặc biệt, sau 1975, nhất là sau thời
kỳ đổi mới, trước hiện thực cuộc sống đã có nhiều thay đổi, nhà văn đã có cách nghĩ và cách giải
quyết vấn đề dưới một góc nhìn khác. Vì vậy mà song song với dạng chủ thể trần thuật ngôi thứ
ba với điểm nhìn hướng ngoại, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu có sự xuất hiện tương đối dày
dạng chủ thể trần thuật ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất với điểm nhìn hướng nội (mang quan điểm
của con người cá nhân cá thể). Và cũng có một điều được nhận ra như một đặc trưng riêng của
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đó là sự kết hợp và hoán chuyển linh
hoạt giữa hai điểm nhìn trần thuật trên trong hầu hết các sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở cả hai
giai đoạn. Sự linh hoạt này cho phép chủ thể trần thuật mở rộng được biên độ trần thuật ở tầm
rộng – thiên về khái quát hiện thực, đồng thời cũng tạo nên dấu ấn ở tầng sâu trong khả năng
thâm nhập và soi rọi vào đời sống nội tâm của nhân vật. Điều này tỏ ra thích hợp và và đặc biệt
thành công với ngòi bút Nguyễn Minh Châu, ngòi bút luôn suy tư, trăn trở về bao điều tốt xấu
trong cuộc đời, về con đường riêng để tự hoàn thiện nhân cách của mỗi người trên nền tảng giá trị
nhân văn của nhân loại. Vì vậy mà dạng chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất xưng Tôi trong nhóm
truyện tự thú, tự nhận thức, tự phán xét luôn là những nhân vật để lại ấn tượng đậm nét trong lòng
bạn đọc.
2. Về kết cấu trần thuật:
Đã có một phương thức trần thuật rất riêng của Nguyễn Minh Châu mà trong chừng mực
nhất định, luận văn có thể khuôn chúng vào bốn dạng kết cấu trần thuật tiểu biểu: kết cấu trần
thuật xuôi dòng theo mạch truyện, kết cấu trần thuật “gấp khúc” về thời gian trần thuật , kết cấu
trần thuật theo dòng tâm trạng nhân vật và kết cấu trần thuật “trùng phức” các mạch truyện.
Nhìn chung, những sáng tác Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước 1975 có xu hướng thiên
về dạng kết cấu trần thuật gấp khúc thời gian và xuôi dòng theo mạch truyện. Nhưng sau 1975 và
càng dần về sau càng đạt đến độ chín trong khả năng khám phá và nhận thức hiện thực cuộc sống
thì kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng linh hoạt và biến hóa hơn nhiều
ở khả năng tổ chức hệ thống sự kiện, tương ứng với điểm nhìn, thời gian, kỹ thuật và giọng điệu
trần thuật. Điều này góp phần hình thành nên một dạng kết cấu trần thuật chiếm ưu thế trong
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu lúc bấy giờ. Đó là dạng kết cấu trần thuật theo dòng tâm
trạng nhân vật và kết cấu trần thuật trùng phức mạch truyện.
Với hai dạng kết cấu trần thuật trên, ngòi bút Nguyễn Minh Châu có được sự tỉnh táo và
sâu sắc trong khả năng phân giải từng mảng khuất lấp thuộc về thế giới nội tâm của mỗi con
người. Đặt trong mối quan hệ mật thiết với dạng chủ thể trần thuật xưng Tôi ngôi thứ nhất với
điểm nhìn hướng nội thì kết cấu trần thuật này đã phát huy được sức mạnh của mình trong việc
dựng nên những chân dung văn học mang “gương mặt tâm hồn riêng” thật khó lẫn lộn với bất kỳ
nhân vật nào khác. Đó là Tôi trong Bức tranh, Lực trong Cỏ lau, Quỳ trong Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành… Đó là những con người luôn sống trong ý thức tự mổ xẻ tâm lý, ý thức
phân tích tự phán xét nghiêm khắc, trung thực nhất trong khả năng có thể. Vì vậy mà so với nhân
vật được xây dựng theo mô hình lý tưởng – hướng ngoại trước đây thì những nhân vật này có
chiều sâu và sức nặng hơn nhiều trong việc tạo nên ấn tượng trong lòng bạn đọc.
Hơn nữa, khi xuôi theo dòng tâm trạng nhân vật, mạch kể trôi trên trục thời gian phức hợp
(kiểu thời gian đảo ngược, quay vòng hay khép kín), câu chuyện Nguyễn Minh Châu có được sức
hấp dẫn của những luồng xoáy lách sâu vào từng biến thái nhỏ nhất của những phản ứng, những
hồi quang ý thức nhân vật. Đến với câu chuyện kể của Nguyễn Minh Châu, người đọc có thể
không bị hấp dẫn ngay ở những cái tít truyện giật gân hay những tình huống truyện căng thẳng
buộc phải giải quyết gấp rút, tức thời nhưng với dạng kết cấu trần thuật thế này thì người đọc dễ
bị hút vào từ trường của những luồng suy tư, trăn trở không dứt của nhân vật. Nhập vào nhân vật,
cùng nhân vật trải qua những biến cố tâm lý phức tạp cũng là cách để người đọc tiếp tục cuộc
hành trình “tự phán xét”, “tự phát hiện lại” chính mình. Đó là hành trình không điểm mở đầu
cũng không hồi kết thúc, có chăng chỉ là những điểm dừng chân trên mỗi chặng đường. Và ứng
với hành trình ấy, với nghệ thuật xây dựng kết cấu trần thuật linh hoạt ngòi bút Nguyễn Minh
Châu đã thật sự thành công khi luồn vào mạch suy tư của nhân vật để tạo nên những kết thúc bỏ
ngỏ khiến người đọc day dứt mãi không yên.
3. Về lời văn và giọng điệu trần thuật:
Bên cạnh chủ thể trần thuật và kết cấu trần thuật thì sức hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu còn được toát ra ở lời văn và giọng điệu trần thuật rất riêng và ấn tượng của tác giả.
3.1 Lời văn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng phong phú và đa dạng
như chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật. Sự xuất hiện cùng lúc lời gián tiếp và lời trực tiếp, đặc
biệt là dạng lời nửa trực tiếp và lời nội tâm của nhân vật (những dạng thức lời văn cụ thể của lời
văn lời văn gián tiếp và lời văn trực tiếp) đã tạo nên tính đa thanh phức điệu cho giọng điệu trần
thuật, tính đa nghĩa cho câu chuyện kể, từ đó giúp người đọc có được sự tri nhận về hiện thực
cuộc sống đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Từ đó, nó cũng đem đến cho người đọc một góc nhìn riêng về
lẽ đời trong sự tỉnh táo với một xu thế tích cực, một lẽ sống tiến bộ. Đó vừa là lời dự báo mang
tính cảnh tỉnh về một “sự thật nay mai sẽ vào tận ngõ mỗi nhà” vừa là lời khích lệ chân tình của
tác giả về một khát vọng luôn vươn tới điều chân thiện mĩ trong cuộc sống của mỗi người.
3.2 Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là một thế giới đa thanh, đa giọng điệu. Ở đó có chất
giọng trữ tình ấm áp, hồn hậu, cả chất giọng thâm trầm, khắc khoải ghi lại những khoảnh khắc
bừng ngộ hay những điều được đúc rút từ sự từng trãi của một đời người. Tất cả làm nên chất
giọng triết lý, suy ngẫm phẩm bình chi phối mạch truyện.
Bên cạnh đó, giọng điệu bình thản khách quan kết hợp với giọng hóm hỉnh pha tính kịch
cũng là yếu tố góp phần làm nên nét đặc sắc riêng cho giọng điệu trần thuật của Nguyễn Minh
Châu.
Chất giọng này tỏ ra phù hợp với sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở mảng đề tài thế sự. Ở
đó, chủ thể trần thuật khi xưng danh khi ẩn mình đều mặc nhiên trong vai trò nhân chứng thuật kể
lại câu chuyện mình đã nghe, chứng kiến và ghi nhận. Nhưng đó cũng không hẳn là truyện. Cái
người đọc cảm nhận được không hẳn là một câu chuyện hoàn chỉnh mà đúng hơn là lát cắt ngang
của những mảnh đời vụn vặt (Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp, Hương và Phai…), những trạng
thái tâm lý thoáng qua cùng những xung đột chỉ phác ra mà không giải quyết (Sắm vai, Một lần
đối chứng…)
Bình thản, khách quan nhưng không có nghĩa là tẩy trắng cảm xúc. Đằng sau chất giọng
bình thản ấy luôn là một Nguyễn Minh Châu đa đoan với nhiều mối lo toan. Để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc mãi là một Nguyễn Minh Châu với đôi mắt đau đáu nhìn đời cùng nỗi lo
âu sao lớn lao và đầy khắc khoải. Và từ đây, nhiều chân lý cuộc sống đơn giản nhưng vô cùng sâu
sắc cũng được vỡ ra.
Xét đến cùng thì chất giọng thâm trầm khắc khoải luôn được xem là nét chủ âm trong bản
hợp âm các giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Và điều này thật sự phù
hợp, thống nhất với tạng văn nói ít, gợi nhiều, với tạng người kín đáo, thâm trầm và sâu sắc của
Nguyễn Minh Châu.
Như vậy, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở hai giai đoạn trước và sau 1975 đều có được
những thành công đặc sắc. Và với một nghệ thuật trần thuật sinh động, hấp dẫn thể hiện qua cách
lựa chọn chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật, lời văn và giọng điệu trần thuật phù hợp thì
Nguyễn Minh Châu đã trầm tĩnh và rất mực khiêm tốn gửi đến cho đời bao câu chuyện hữu ích.
Đó là những câu chuyện rất bình thường, giản dị, những câu chuyện có thể không có mở đầu hay
kết thúc, thậm chí vắng bóng cả những thắt nút và mở nút hồi hộp nhưng ẩn sâu trong đó bao giờ
cũng là sự thật sinh động về hiện thực cuộc sống, hiện thực về những dòng đời đang tự nhiên trôi
chảy theo mạch chảy vốn rất tự nhiên, “nhi nhiên” của nó.
Cũng như dòng chảy cuộc sống, dòng chảy văn học luôn muôn vẻ và bất tận. Trong dòng
chảy ấy, bao lát cắt cuộc đời với bao nỗi ưu tư và sự lầm lạc cũng như niềm hạnh phúc và cảm
giác bừng ngộ của con người đã được văn học ghi nhận và gìn giữ hoặc bị cuốn trôi đến những
chân trời xa ngái. Và khi ấy, mâu thuẫn giữa góc tối và mảng sáng, giữa thói vị kỷ và lòng vị tha,
giữa những lợi ích vật chất hiện hữu và giá trị tinh thần vĩnh cữu luôn được đặt ra như một vấn đề
cần giải quyết của văn học mọi thời đại. Khi mâu thuẫn và nhu cầu giải quyết mâu thuẫn ấy còn là
một mệnh đề được đặt ra để xoa dịu những khối bất đồng thì mỗi tác phẩm văn học vẫn luôn là
câu chuyện kể thú vị mà người đọc tìm thấy ở đó tiếng nói tri âm, đồng ý, đồng chí, đồng tình
trong khát vọng vươn tới điều chân, thiện, mỹ của cuộc sống. Và cũng chính khi ấy câu chuyện kể
của Nguyễn Minh Châu còn có sức hấp dẫn và lôi cuốn lòng người.
THƯ MỤC SÁCH BÁO THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1996), “Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”, Tạp chí văn học,
Số 3, tr. 36 – 39.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Huy Bắc (1998), "Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại", Tạp chí văn học, Số 9, tr.
66 – 73.
4. Lê Huy Bắc (2004), "Truyện ngắn: nguồn gốc và khái niệm", Nghiên cứu văn học, Số 5, trang
84 – 95.
5. Lê Huy Bắc (2002), "Truyện ngắn hậu hiện đại", Tạp chí văn học, Số 9, tr. 57 – 68.
6. Lê Huy Bắc (2008), "Cốt truyện trong tự sự", Nghiên cứu văn học, Số 7, tr. 34 – 43.
7. Lê Huy Bắc (1996), "Đồng hiện trong văn xuôi", Tạp chí văn học, Số 6, tr 45 – 50.
8. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Bản dịch Tiếng Việt của Phạm Vĩnh Cư),
Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
9. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Dostoievki, (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí
Nhàn dịch), NXB GD Hà Nội.
10. Nguyễn Minh Châu (1970), Những vùng trời khác nhau - Tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà
Nội.
11. Nguyễn Minh Châu (2007), Tác phẩm văn học đạt giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Văn học,
Hà Nội.
12. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu , NXB Văn học, Hà
Nội.
13. Nguyễn Minh Châu (1983), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Tập truyện ngắn, NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội.
14. Nguyễn Minh Châu (1983), Bến quê - Tập truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
15. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5, NXB Văn học, Hà Nội.
16. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn - Tập phê bình tiểu luận, NXB KHXH.
17. Nguyễn Đức Dân (2000), "Hiện tượng đa thanh từ góc nhìn ngôn ngữ học", Tạp chí văn học,
Số 3, tr. 27 – 32.
18. L.T Timofeev (1962), Nguyên lý lý luận văn học, NXB Văn hóa Viện văn học Hà Nội.
19. Đặng Anh Đào (2008), "Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện", Nghiên cứu
văn học, Số 7, tr. 26 – 33.
20. Đặng Anh Đào (1996), "Truyện cực ngắn", Tạp chí văn học, Số 2, tr. 20 – 24.
21. Đặng Anh Đào (2002), "Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam", Tạp chí văn học, Số 2, tr.
10 – 17.
22. Đặng Anh Đào (1993), "Sự tự do của tiểu thuyết - Một khía cạnh thi pháp", Tạp chí văn học,
Số 3, tr. 44 – 46.
23. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.
24. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn học Hà Nội.
25. Hà Minh Đức (1994), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB Sự thật, Hà
Nội.
26. Hà Minh Đức (2006), "Suy nghĩ về vài hướng tìm tòi đổi mới trong văn học", Nghiên cứu văn
học, Số 4, tr. 21 – 28.
27. Trương Đăng Dung (2003), "Tác phẩm văn học như là cấu trúc ngôn từ động", Tạp chí văn
học, Số 10, tr. 19 – 32.
28. Trần Ngọc Dung (2006), "Đời sống thể loại văn học sau 1975", Nghiên cứu văn học, Số 2, tr.
91 – 97.
29. Nguyễn Bích Hà (2002), "Tự sự trong trữ tình dân gian", Tạp chí văn học, Số 8, tr. 55 – 59.
30. Nguyễn Hà (2000), "Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên
80", Tạp chí văn học, Số 3, tr.51 – 58.
31. Lê Bá Hán (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB GD Hà Nội.
32. Nguyễn Đức Hạnh (2003), "Loại hình tiểu thuyết thử thách nhân vật" trong văn xuôi Việt Nam
1945 - 1975", Tạp chí văn học, Số 6, tr. 49 – 54.
33. Đặng Thị Hạnh (2002), "Proust và các đồng đẳng của ông: Vài nét về kỹ thuật kể chuyện trong
tiểu thuyết Tây Âu đầu thế kỷ XX", Tạp chí văn học, Số 1, tr.43 - 51
34. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, NXB
GD TPHCM.
35. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
36. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB GD Hà Nội.
37. Trần Thái Học (2008), “Mấy vấn đề lý luận văn nghệ cách mạng trong giới hạn lịch sử", Tạp
chí văn học, số 7, tr. 44 - 55
38. Nguyễn Trọng Hoàn (2007), Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
39. Phạm Mạnh Hùng (2001), “Về quan niệm và cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh trong văn
học", Tạp chí văn học, Số 11, tr. 44 – 52.
40. Hoàng Mạnh Hùng (2003), "Các sắc thái giọng điệu trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 -
1975", Tạp chí văn học, Số 3, tr. 65 – 70.
41. Lại Văn Hùng (2001), "Truyện ngắn nhìn trong nguồn mạch", Tạp chí văn học, Số 2, tr.65 –
75.
42. Mai Hương (2001), "Nguyễn Minh Châu và di sản văn học của ông", Tạp chí văn học, Số 1, tr.
51 – 60.
43. Lê Thị Hường (1994), "Quan niệm về con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay", Tạp chí
văn học, Số 2, tr. 29 – 31.
44. Đinh Gia Khánh (1998), "Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hoá hàng đầu của dân
tộc", Tạp chí văn học, Số 6, tr. 13 – 16.
45. M. B Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, NXB
Tác phẩm mới (Hội nhà văn VN), Hà Nội.
46. I.P.Ilin (1999), Loại hình học trần thuật, NXB GD Hà Nội.
47. Đinh Trọng Lạc (1995), Phong cách học Tiếng Việt, NXB GD TPHCM.
48. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, NXB Khoa Học Xã Hội.
49. Cao Kim Lan (2005), "Mấy vấn đề về thi pháp cốt truyện", Tạp chí văn học, Số 6, tr. 66 – 84.
50. Cao Kim Lan (2008), "Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg",
Nghiên cứu văn học, Số 10, tr. 26 – 37.
51. Phạm Quang Long (1994), "Một đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao”, Tạp chí văn học, Số
2, tr. 20 – 25.
52. Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết (2007), Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học
Việt Nam sau 1975, NXB Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh.
53. Phương Lựu (chủ biên) (2002),Lý luận văn học, NXB Giáo dục.
54. Phương Lựu (1996), "Tản mạn về văn nghệ với tính dục", Tạp chí văn học, Số 3, tr 7 – 11.
55. Phương Lựu (2002), "Trích bút kí tự sự học (Về Thời gian giả trong tự sự)", Tạp chí văn học,
Số 7, tr. 31 – 35.
56. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Văn học, Hà Nội.
57. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB GD Hà
Nội.
58. Nguyễn Đăng Mạnh (1987), Một thời đại văn học mới, NXB Văn học, Hà Nội.
59. Milan, Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, NXB Đà Nẵng.
60. Phạm Xuân Nguyên (1994), "Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay", Tạp chí văn học Số 2, tr. 26
– 28.
61. Phùng Quý Nhâm (1991), “Giọng điệu văn xuôi nghệ thuật những năm gần đây”, Thẩm định
văn học, NXB Văn nghệ TPHCM.
62. Vương Trí Nhàn (2002), "Vài nét về tư duy tự sự của người Việt", Tạp chí văn học, Số 2, tr. 18
– 24.
63. G.N Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB GD Hà Nội.
64. Huỳnh Như Phương (2002), "Trường phái hình thức Nga và văn xuôi tự sự", Tạp chí văn học,
Số 5, tr. 58 – 66.
65. Phạm Thị Phương (1998), "Tìm hiểu tính cách nhân vật qua kết cấu truyện ngắn", Tạp chí văn
học, Số 4, tr. 95 – 98.
66. Nguyễn Hữu Sơn (2004), "Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử", Nghiên cứu văn học,
Số 6, tr. 113 – 116.
67. Trần Đình Sử (2003), Tự sự học, NXB Đại học Sư Phạm Hà Nội.
68. Trần Đình Sử (2001), "Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học Việt Nam thế kỉ
XX", Tạp chí văn học, Số 8, tr. 6 – 13.
69. Trần Đình Sử (1999), "Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm thương trong truyện Kiều",
Tạp chí văn học, Số 2, tr. 8 – 12.
70. Trần Đình Sử (2002), "Tự sự học - Một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng", Tạp
chí văn học, Số 2, tr. 3 – 9.
71. Lê Thời Tân (2008), "Tự sự học: Tên gọi, lược sử và một số vấn đề lý thuyết", Nghiên cứu văn
học, Số 10, tr. 13 – 25.
72. Đào Thản (1994), "Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi", Tạp chí văn
học, Số 2, tr. 13 – 16.
73. Đỗ Phương Thảo (2006), “Cốt truyện trong tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn Kháng”,
Nghiên cứu văn học, Số 8, tr. 123 – 134.
74. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thể loại, NXB NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội
75. Bùi Việt Thắng (1994), "Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu", Tạp chí
văn học, Số 2, tr. 23 – 25.
76. Bùi Việt Thắng (2004), "Truyện ngắn hôm nay", Nghiên cứu văn học, Số 1, tr. 69 – 78.
77. Hồng Tử Thành (2004), "Hoàn cảnh văn học những năm 80", Nghiên cứu văn học, Số 5, tr. 55
– 69.
78. Phạm Thị Thật (2009), "Về cốt truyện của truyện ngắn Pháp đương đại", Nghiên cứu văn học,
Số 1, tr. 90 – 102.
79. Bích Thu (1996), "Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975", Tạp chí văn học, Số 9, tr. 32 –
36.
80. Lê Ngọc Trà (1999),Lý luận văn học, NXB Trẻ Tp Hồ Chí Minh.
81. Lê Ngọc Trà (2007),Văn chương, Thẩm mỹ và Văn hóa, NXB GD.
82. Lê Ngọc Trà (2002), "Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới", Tạp chí văn học, Số 2, tr.
33 – 42.
83. Nguyễn Thị Như Trang (2006), "Truyện ngắn A. Chekhov dưới góc nhìn trần thuật học",
Nghiên cứu văn học, Số 3, tr. 118 – 126.
84. Cao Vũ Trân (1999), "Balzac và truyện kể", Tạp chí văn học, Số 6, trang 53 - 56
85. Hoàng Trinh (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, NXB Đà Nẵng.
86. Lê Minh Truyên (2003), "Những nét tương đồng và khác biệt trong truyện ngắn Nguyễn Tuân
và Thạch Lam", Tạp chí văn học, Số 12, tr. 69 – 74.
87. Phùng Văn Tửu (1996), "Một phương diện của truyện ngắn", Tạp chí văn học, Số 2, tr. 15 –
19.
88. Trịnh Thu Tuyết (1999), "Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện ngắn",
Tạp chí văn học, Số 1, tr. 76 – 82.
89. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ năm 1975 đến đầu thập niên 90,
Luận án Tiến sĩ ngành Ngữ Văn, Thư viện trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU ĐƯỢC DÙNG ĐỂ KHẢO SÁT TRONG
LUẬN VĂN
A. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thuộc giai đoạn sáng tác trước 1975:
1. Sau một buổi tập
2. Con đường đến trường học
3. Buổi tập cuối năm
4. Gốc sắn
5. Đôi đũa trúc
6. Đất rừng
7. Đất quê ta
8. Trên vùng đất sỏi
9. Những hạt thóc lép
10. Vùng sáng ở chân trời
11. Câu chuyện trên trận địa
12. Mùa hè năm ấy
13. Nguồn suối
14. Nhành mai
15. Những vùng trời khác nhau
16. Chuyện đại đội
17. Người mẹ xóm nhà thờ
18. Mảnh trăng cuối rừng
19. Lá thư vui
B. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thuộc giai đoạn sáng tác sau 1975:
1. Chú chim
2. Chợ tết
3. Sân cỏ ở Tây Ban Nha
4. Hạng
5. Giao thừa
6. Bên đường chiến tranh
7. Bức tranh
8. Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
9. Cơn giông
10. Mẹ con chị Hằng
11. Đứa ăn cắp
12. Sắm vai
13. Hương và Phai
14. Lũ trẻ ở dãy K
15. Dấu vết nghề nghiệp
16. Bến quê
17. Chiếc thuyền ngoài xa
18. Một lần đối chứng
19. Khách ở quê ra
20. Sống mãi với cây xanh
21. Cỏ lau
22. Mùa trái cóc ở miền Nam
23. Phiên chợ Giát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHLLVH019.pdf