Luận văn Nghiên cứu Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Văn hoá là cái còn lại sau khi mọi thứ đã qua đi. Đồng thời cũng là cái còn thiếu sau khi chúng ta đã đầy đủ tất cả. Có thể nói, văn hoá là tài sản vĩnh hằng cao quý nhất cho mọi thời đại. Trong bản sắc văn hoá quý giá ấy thì văn hoá tâm linh thể hiện ở các di tích lịch sử, văn hoá và danh thắng là nét văn hoá đặc sắc nhất. Lịch sử 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứa đựng từ trong mình rất nhiều những di tích lịch sử, văn hoá và danh thắng có giá trị, đó là những tài sản vô giá của dân tộc. Khẳng định những giá trị văn hoá vĩnh hằng, phản ánh đầy đủ lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hoá Việt Nam. Xứ Đông nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc, là một trong các tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Do vị trí địa lý, chiến lược thuận lợi, gắn liền với những lịch sử truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Nơi đây vẫn còn lưu giữ những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống, những công trình di tích lịch sử văn hoá và danh thắng đã được cả dân tộc giữ gìn và bảo vệ: Di tích lịch sử Kiếp Bạc – Côn Sơn, đền An Phụ, đền thờ Yết Kiêu, Chử Đồng Tử – Tiên Dung, chùa Thanh Mai, đền Chu Văn An, đền Sinh, đền Hoá . Do được sự quan tâm của Nhà nước cùng với những ý nguyện tâm linh của toàn dân nên những giá trị văn hoá đó vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Huyện Chí Linh nằm trong vùng văn hoá xứ Đông, nơi gắn liền với nhiều anh hùng lịch sử dân tộc cùng với một bề dầy văn hoá, đã tạo nên một vùng đất Địa linh nhân kiệt, vùng đất của truyền thuyết, vùng đất của tâm linh. Trong tổng thể các di tích lịch sử thì đền Sinh, đền Hoá ở xã Lê Lợi được coi là lâu đời nhất ở vùng đất này gắn với Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái. Cùng với thời gian, Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái vẫn được truyền tụng và ngợi ca từ đời này sang đời khác, trải rộng ra nhiều địa phương, vùng miền trong cả nước. Nghiên cứu Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong hành trình tìm về lịch sử và văn học, giúp chúng ta hiểu biết truyền thống, văn hoá của dân tộc, thêm tự hào về đất nước con người Việt Nam, nhất là những con người đã làm rạng danh cho Tổ quốc. Từ chuyên ngành Văn học dân gian, nghiên cứu truyền thuyết với việc tìm hiểu lễ hội tưởng niệm Phi Bồng Nguyên soái đem lại sự hiểu biết sâu sắc về đặc trưng thể loại. Ngoài ra việc nghiên cứu này còn hỗ trợ thiết thực cho công tác giảng dạy Văn học dân gian ở nhà trường đối với các giáo viên bộ môn Văn. 2. Đi sâu tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội đền Sinh, đền Hoá ta sẽ thấy được những đặc điểm chung và những nét riêng trong những câu chuyện kể, cách tưởng niệm, thờ cúng, quan niệm riêng trong tâm linh của người dân địa phương. Bên cạnh đó là sự khúc xạ của các bản kể và nghi thức tưởng niệm xuyên qua những trầm tích văn hoá của thời gian và không gian lịch sử tạo nên sức hấp dẫn của danh thắng nơi đây. Nghiên cứu, mô tả truyền thuyết và lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương giúp cho việc nghiên cứu truyền thuyết dân gian như là một sản phẩm của Folklore và sự khúc xạ của yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo vào văn hoá tâm linh, vào kho tàng truyền thuyết dân gian Việt Nam. Phi Bồng Nguyên soái ngoài yếu tố Nhiên thần còn có sự chuyển dịch sang yếu tố Nhân thần. Ngài còn là vị thần đã trợ giúp vua Lý Nam Đế chống lại ách đô hộ của nhà Lương, trợ giúp vua Lê Đại Hành đánh thắng quân Tống xâm lược, trợ giúp Trần Hưng Đạo đánh bại giặc Nguyên Mông xâm lược lần 2 và 3. Những dấu tích còn lại, những lễ hội ngàn năm, những câu chuyện còn lưu truyền trong dân gian mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Hải Dương. 3. Là người con đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Chí Linh giàu truyền thống, tôi thấy mình phải góp một phần công sức cùng mọi người khơi thông thế giới tâm linh mà nhân dân gửi gắm trong truyền thuyết, thấy được những giá trị còn đọng lại trong những câu chuyện kể, trong những lễ hội thiêng liêng của những thế hệ một lòng ghi ơn, tưởng nhớ đến cha ông đã có công dựng nước và giữ nước. Công trình này cũng chính là một nén hương thành kính tưởng nhớ đến cha ông, là cây cầu nối giữa lịch sử đầy oai hùng với hiện tại, góp phần làm cho mảnh đất Chí Linh mãi là niềm tự hào của người viết nói riêng và của người dân Hải Dương nói chung. Đóng góp mới của luận văn. Luận văn là quá trình tổng hợp về những thành tựu nghiên cứu hệ thống Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái, những dấu ấn của tín ngưỡng dân gian, tôn giáo phản ánh trong truyền thuyết. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên đi sâu nghiên cứu, khảo sát, mô tả một cách hệ thống, chi tiết Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái gắn với lễ hội đền Sinh, đền Hoá. Cùng với các chuyên ngành khác, luận văn đóng góp một phần nhỏ vào công cuộc bảo lưu và phát triển vốn Văn học dân gian cổ truyền của dân tộc. VII. Cấu trúc của luận văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương I : Những vấn đề chung. Chương II : Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương. Chương III : Lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương.

pdf93 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1965 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cạn của ngài như là một di vật của một thời oai hùng vào bậc nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Trong truyền thuyết có nói đến người mẹ đá được thờ ở đền Sinh (Mẫu Sinh), chính là nơi mà Thánh Phi Bồng ra đời, hòn đá nứt ra làm hai, giống như hai vế đùi của người phụ nữ. Yếu tố này còn biểu hiện cho sự rơi rớt của tín ngưỡng dân gian thời nguyên thuỷ, đặc biệt là tín ngưỡng thờ mẹ nguyên thuỷ. Tín ngưõng thờ Mẫu là tôn thờ người mẹ đầy tài năng, bao trùm cả bốn miền của vũ trụ, cội nguồn của sự sống con người, cội nguồn của dân tộc, là cứu cánh của nhân quần, mang lại cho con người sức khoẻ, tài lộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta , Mẫu và những hoá thân của Mẫu đã thấm nhuần một tình yêu quê hương đất nước, hiện thân của một thứ chủ nghĩa yêu nước. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 độc đáo. Qua tín ngưỡng này có thể thấy nhân dân luôn cầu mong sự trợ giúp của sức mạnh trong thế giới siêu nhiên, của đủ mọi loại thần linh, để thoả mãn những mong muốn của con người. Đền Mẫu Sinh trong tâm thức của người dân địa phương cũng là một tín ngưỡng thành kính người Mẹ từ cõi cao xa trở về đời thực để giúp dân chống giặc ngoại xâm và cũng là biểu tượng cho sự tồn tại mãi mãi của dân tộc.  TIỂU KẾT. Tóm lại, truyền thuyết về Thánh Phi Bồng vừa mang mầu sắc của truyền thuyết tín ngưỡng vừa gắn với những chiến công của những anh hùng dân tộc. Tìm hiểu nội dung của truyền thuyết chính là khám phá những hình tượng, tính cách của những hình tượng, nhân vật. Bởi hình tượng và nhân vật trong những sáng tác dân gian vẫn được hiểu là “bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát của đời sống được xây dựng bằng hư cấu, có ý nghĩa thẩm mĩ.” Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái có những môtíp quen thuộc của thể loại truyền thuyết như: sinh ra một cách kỳ lạ, hình dáng khác thường, hoá thân… thì cũng có những nét rất riêng như: Ngài hoá về trời khi bị trẻ chăn trâu phát hiện, hầu như công ơn của Ngài là yếu tố âm phù… từ những nét chung và riêng đó cho thấy Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái mang đậm dấu ấn địa phương và cùng hoà chung với đặc trưng của thể loại truyền thuyết. Ngoài ra, Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái cũng ảnh hưởng nhất định của các triết thuyết tôn giáo, gắn với những chiến công trong lịch sử dân tộc tạo nên một đặc trưng rất riêng nhưng cũng mang tính quy luật của tín ngưỡng dân gian là Thiêng hoá cái Phàm (thiêng liêng hoá các sự vật, hiện tượng trong đời sống thường ngày), khi đã Thiêng hoá cái Phàm thì để gần gũi với con người hơn thì thì con người lại Phàm hoá cái Thiêng (những sự linh thiêng lại được cuộc sống hoá để con người tiếp cận). Tạo cho truyền thuyết vừa linh thiêng nhưng cũng không xa rời đời sống con người, con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 người vừa tôn thờ để nương dựa, cũng có thể gửi gắm tâm tư, nguyện vọng của mình để sống có ý nghĩa hơn. Hình tượng trong truyền thuyết bắt nguồn từ con người thực tiễn trong lao động và cuộc đời của nhân dân nhưng nó đã được nhào nặn theo xu hướng linh thiêng hoá và cường điệu hoá. Đó là xu hướng “thần thoại hoá” trong các chi tiết truyền thuyết, viền quanh các chi tiết lịch sử một lớp hào quang thần thoại óng ánh, lung linh nhiều khi làm cho người đọc, người nghe khó nhận ra “cái lõi sự thật lịch sử”. Truyền thuyết đã chứng minh một chân lý: dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì nhân dân ta vẫn luôn luôn lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống và tương lai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 CHƢƠNG III LỄ HỘI TƢỞNG NIỆM PHI BỒNG NGUYÊN SOÁI Ở LÊ LỢI – CHÍ LINH – HẢI DƢƠNG. I. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI. Từ mọi miền của đất nước, chúng ta thấy rất nhiều lễ hội được tổ chức, diễn ra trong nhiều thời điểm khác nhau của năm. Bởi mỗi một lễ hội lại gắn với những tích, nguồn gốc khác nhau. Nhưng chung quy lại nó mang đậm mầu sắc của nền văn hoá lúa nước. Lễ hội được tổ chức nhằm mục đích mua vui cho người dân, chứng tỏ ý niệm thiêng liêng của người dân qua lễ nghi, nêu cao lòng biết ơn của người dân với những vị Thần, Thánh, anh hùng dân tộc đã che chở, phù hộ cho nhân dân. Lễ hội là một từ kép: “Lễ và hội”. Lễ là một hệ thống nghi thức mang tính biểu tượng và được cảnh diễn hoá tạo thành một “lễ thức” toàn vẹn, nhằm biểu hiện sự tôn kính của cộng đồng với thần linh. Qua hành động của lễ các nguyện vọng, ước mơ, khát vọng chính đáng của con người được phản ánh trước cuộc sống khó khăn mà bản thân họ chưa có khả năng khắc phục. Lễ trong hội là một hệ thống liên kết, có trật tự bao gồm: Lễ cáo yết, Lễ Mộc dục, Lễ đón bóng, Lễ khai mạc, Lễ rước bộ, Đại tế, Tế tạ… Hội là một hoạt động diễn ra sau lễ. Đó là các hoạt động dân dã, phóng khoáng, sôi nổi, thu hút số đông người tham gia như hát văn, cờ người, đạp niêu, chọi gà, kéo co, đấu vật… nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của mọi thành viên cộng đồng. Lễ và hội thuộc phạm trù văn hoá xã hội nhưng lại có sự gắn kết khăng khít với truyền thuyết thuộc phạm trù Văn học dân gian. “Truyền thuyết là một thể loại truyện kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung của nó là kể lại truyện tích các hình tượng, nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân.”[54/141] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 Lễ và hội chú trọng khâu diễn xướng, thực hành nghi lễ, tổ chức hội hè vui chơi cho mọi người: “Lễ hội là một bách khoa đồ sộ, là một bảo tàng sống văn hoá tinh thần của người Việt. Nó đã và sẽ tác động mạnh mẽ, sâu sắc vào tâm linh, vào việc khuôn đúc tâm hồn và tính cách Việt Nam xưa, nay và mai sau.” [52/15]. Truyền thuyết tạo cho lễ hội thêm phong phú, cao cả, ngược lại, lễ hội nhằm minh chứng, khẳng định cho sự tồn tại của truyền thuyết. Truyền thuyết được thể hiện bằng diễn xướng trong lễ hội, tạo sự sinh động, hấp dẫn, thu hút và để lại ấn tượng sâu sắc cho mọi người, tạo nên một diện mạo văn hoá khá hoàn chỉnh, mang dấu ấn riêng về nét đẹp văn hoá làng, nước – một sản phẩm Folklore độc đáo của dân tộc. Trong việc tái hiện hình tượng Thần, Thánh, nhân vật anh hùng, ngợi ca chiến công của họ thì truyền thuyết là yếu tố phản ánh mang tính chất “tĩnh” , còn lễ hội là yếu tố phản ánh mang tính chất “động”. Mỗi một nét phản ánh đều có nét đặc sắc, lý thú riêng và luôn bổ sung cho nhau. Mối quan hệ này được biểu hiện rất rõ trong các truyền thuyết và lễ hội ở một số nơi: + Lễ hội Kiếp Bạc ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương được tổ chức hàng năm từ ngày 16/8 đến ngày 26/8 âm lịch, ngày giỗ chính là ngày 20/8. Là một lễ hội hoàn chỉnh về quy mô, mẫu mực trên nhiều bình diện: truyền thuyết, ý thức, tổ chức và nghệ thuật biểu diễn. Lễ hội tái hiện lại những chiến công hiển hách của vị tướng tài đời nhà Trần và người dân đến đây cũng mong muốn chữa bệnh, đuổi tà ma. Ngày diễn ra lễ hội cũng là ngày mất của Trần Hưng Đạo nên trong dân gian lưu truyền hàng loạt câu ca như: “Dù ai buôn xa bán xa, 20/8 giỗ cha thì về.” + Hội Gióng Phù Đổng – Hội được tổ chức hàng năm từ ngày 5/4 đến ngày 12/4 âm lịch. Lễ hội này diễn xướng theo truyền thuyết Thánh Gióng: lúc nhỏ, đánh trận, múa cờ, chém tướng. + Hội Hai Bà Trưng ở Hát Môn - Phúc Thọ – Hà Tây có tục lệ làm bánh trôi để dâng cúng. Tục lệ này xuất phát từ một truyền thuyết rất cảm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 động. Trước lúc nghĩa quân lên đường, có một bà già nghèo dâng cúng cả một gánh bánh trôi để tỏ lòng mến mộ. Hai Bà cảm ơn, vui vẻ nhận và cùng quân sĩ ăn trước lúc ra trận. Cũng vì vậy, người dân nơi đây không ăn bánh trôi vào ngày tết mồng ba tháng ba. Chỉ đến ngày mồng sáu tháng ba, cả làng mới làm bánh trôi dâng cúng lễ hội, tổ tiên, chỉ khi tế xong ở đình, dân làng mới dám ăn bánh trôi. Các lễ hội luôn gắn với các truyền thuyết dân gian. Truyền thuyết là nội dung còn lễ hội là hình thức. Nội dung có phong phú thì hình thức mới đa dạng. Càng có nhiều truyền thuyết thì càng có nhiều lễ hội tương ứng. Lễ hội là một “phương diện để bảo lưu truyền thuyết có hiệu lực nhất”. Thông qua lễ hội vừa nhằm mục đích hồi tưởng lại công lao to lớn của các vị Thần – anh hùng dân tộc, vừa là dịp để người dân bộc lộ, gửi gắm ước mơ, khát vọng của mình, cầu mong các vị thần hiển linh, phù trợ cho mọi sự bình an, mùa màng tươi tốt, dân giàu, nước mạnh. Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương cũng có những đặc điểm như đã nêu ở trên: Truyền thuyết gắn với lễ hội ở làng xã, với những nghi thức tế lễ, đón bóng, diễn xướng, trò chơi… sinh động. Truyền thuyết tạo cho lễ hội nội dung phong phú, còn lễ hội đem lại cho truyền thuyết sức sống lâu bền, trong đời sống xã hội và trong tâm linh. Khi lễ hội diễn ra và tham gia vào lễ hội người dân địa phương cũng như khách thập phương như gột bỏ hết bụi trần, thấy mình thiện hơn, được trở về với cội nguồn, truyền thống của quê hương, đất nước. II. LỄ HỘI TƢỞNG NHỚ PHI BỒNG NGUYÊN SOÁI Ở LÊ LỢI - CHÍ LINH - HẢI DƢƠNG. 1. Thời gian tổ chức lễ hội. Làng Yên Mô (Mô đất bình yên) thuộc xã Lê Lợi là nơi mà Thánh Phi Bồng xuất hiện và luôn hiển linh phù trợ cho những chiến công hiển hách trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Cũng là nơi mà người anh hùng Chu Phúc Uy sinh ra tại đây. Vì vậy, hàng năm nhân dân trong vùng tổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 chức lễ hội tưởng nhớ từ ngày 6 đến hết ngày 10 tháng 5 âm lịch. Trong những ngày đó thì ngày 8 tháng 5 là ngày tưởng nhớ chính (ngày mà ngài sinh ra tại hòn đá và cũng là ngày ngài hoá về trời như trong truyền thuyết). Những ngày diễn ra lễ hội không khí trang nghiêm, linh thiêng, huyền diệu. Về dự lễ từ người dân địa phương, đến những du khách thập phương, các thế hệ đều toát lên lòng thành kính, niềm tin thánh thiện với Thánh Phi Bồng luôn che chở và phù trợ cho nhân dân. 2. Không gian diễn ra lễ hội. Không gian diễn ra lễ hội là một không gian thiêng liêng, đó là những nơi mà người xưa đã lựa chọn thế đất đẹp, đã xây dựng những công trình kiến trúc nghệ thuật và mang mầu sắc tôn nghiêm như đình, chùa, miếu, lăng tẩm… để tổ chức lễ hội, mà còn là nơi lưu giữ những “di sản văn hoá vật thể” tồn tại qua chiều dài của thời gian lịch sử và cũng là nơi lưu giữ những “di sản văn hoá phi vật thể” như các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết… Không gian lễ hội tạo nên bản sắc văn hoá, nét riêng biệt của tín ngưỡng ở mỗi địa phương. Đền Sinh, đền Hoá nằm trên địa phận của làng Yên Mô, xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Từ trung tâm thị trấn Sao Đỏ (trung tâm của huyện) rẽ theo quốc lộ 37 khoảng 5km thì đến đền Sinh. Đền ở trên sườn núi Ngũ Nhạc, giữa rừng cây cảnh lâu đời và rừng thông đang thì sung sức. Cách đền Sinh khoảng 700m theo trục đường chính, đến ngã tư của làng rẽ trái thì đến đền Hoá. Hai ngôi đền này được xây dựng rất sớm nhưng mới đầu nó rất đơn sơ, do nhân dân trong vùng góp vật liệu dựng lên. Đến thế kỷ thứ XIII, Trần Hưng Đạo lưu trú tại đây một đêm và được Thần báo mộng, sau khi dẹp xong giặc giã, ông đã cho xây dựng khang trang hơn trước. Đến thế kỷ XIX được trùng tu một lần nữa nhưng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nó cũng bị tàn phá nhiều. Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng (1975), được sự quan tâm của Nhà nước, các sở, ban ngành quản lý văn hoá thì hai ngôi đền đã được xây dựng to đẹp, nằm núp dưới bóng đa cổ thụ càng làm cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 hai ngôi chùa trở nên cổ kính. Trải qua mấy chục thế kỷ, hương khói không bao giờ tắt và ngày càng được tu sửa đẹp đẽ hơn. Đền Sinh gồm hai phần, phần hậu cung và phần bái đường. Hậu cung dựa vào vách núi, trong hậu cung được chia ra thành các cung nhỏ như: Cung Mẫu (cung thờ Thánh Mẫu hoá đá), Cung Võng (cung có chiếc võng đào và một chiếc thuyền cạn, di chứng mà ngài đã giúp Trần Hưng Đạo), bên phải là Cung Đồng chính (là nơi đặt tượng Mẫu), bên trái là Cung Chúa ngũ phương (nơi đặt tượng Chúa ngũ phương). Từ hậu cung là một hành lang nối liền với bái đường. Bái đường thấp hơn so với hậu cung gồm năm gian nhà gỗ, lợp ngói âm dương, các kèo cột được trạm khắc tinh vi và ở hai bên bái đường là hai câu đối. Bên phải của bái đường là Ban thờ Phật, bên trái là Ban Mẫu địa, cạnh đó là Ban thờ Bác Hồ. Trước mặt bái đường là một chiếc sân gạch, có đặt một am hương bằng đá để khách thập phương về tưởng nhớ thắp hương tại đây. Từ đây đi xuống là một dải bậc xây bằng gạch, được che bởi những bóng đa cổ thụ quanh năm xanh tốt, phía dưới là cổng có hình chữ “Sơn”, đựơc xây cầu kỳ mang đậm dấu ấn của đạo Phật. Đền Hoá cách đền Sinh 700m, từ đền Sinh đến đền Hoá là một con đường dải nhựa, đền Hoá nằm trên một mô đất cao nổi lên giữa một dải đồng bằng thuộc làng Yên Mô, so với đền Sinh thì đền Hoá có diện tích rộng và bằng phẳng hơn nhưng có ít bóng cây cổ thụ hơn. Đền cũng có hai phần, phần hậu cung và phần bái đường. Phần hậu cung có ngai của Thánh Phi Bồng được đặt trong một tháp cung sơn son thếp vàng, bên phải thờ Nam Tào, bên trái thờ Bắc Đẩu. Ngoài gian bái đường đặt 4 thanh kiếm cổ, trên cùng là tượng Phật Tổ, thứ tự đặt tượng các vua Lý Nam Đế, Lê Đại Hành, Chủ tướng Trần Hưng Đạo, bên phải thờ người anh hùng Chu Phúc Uy, bên trái là ban thờ của Thiền phái Trúc Lâm thờ Phật tổ đệ nhị Pháp Loa. Ngoài ra đền còn là một công trình kiến trúc mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo, đền quay về hướng Đông, có các đường cong ở bốn góc của mái đền, mái đền được lợp ngói âm dương. Phía trong có các kèo cột được chạm, khắc tinh vi, treo rất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 nhiều các hoành phi, câu đối bằng chữ Hán. Trước mặt bái đường là sân gạch rộng và thoáng có đặt một am hương để nhân dân đến thắp hương tại đây. Từ đây nhìn thẳng ra cổng là cửa tam quan, phía trước và phía sau đều có các câu đối chữ Hán ca ngợi công ơn của Đức Thánh Phi Bồng. Đền Sinh, đền Hoá là nơi lưu giữ được nhiều những di vật cổ, đại tự, câu đối cổ, sắc phong của các đời vua, nhiều thi ca kim cổ và đồ thờ. Câu đối về Thánh Phi Bồng rất phong phú, câu đối thường súc tích và có nhiều điển tích, điển cố, hầu như được viết bằng chữ Hán. Chúng tôi ghi lại một vài câu đối do nhà Hán học Hoàng Giáp dịch: Đền Sinh: 1.Hà Hải Chung Tinh Sơn Xuyên Dục Tú (Sông biển hun đúc lên sự linh thiêng Núi sông tạo nên vẻ đẹp) 2.Thuỷ Cung Công Chúa Đại Nam Hiển Thánh (Công chúa ở Thuỷ cung Thánh linh hiển ở nước Nam) 3.Thạch Hoá Công Trung Nam Hiển Thánh Chu Phi Ngàn Thượng Bắc Cầm Hồ (Đá hoá (ngài) giữa trời Nam hiển Thánh Bay bốn phương trên bờ Bắc giết giặc Hồ) 4.Uy Phong Lẫm Liệt Bình Lương Tặc Quốc Sắc Tối Linh Thượng Đẳng Thần (Đức Thánh oai phong lẫm liệt đánh tan Lương tặc Được vua ban sắc là tối linh “Thượng Đẳng Thần”) 5.Vạn Cổ Yên Mô Lưu Thánh Tích Ức Niên Hồng Hạc Tụng Thần Công (Muôn thủa đất Yên Mô còn lưu sự tích Đức Thánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Triệu năm con Hồng cháu Lạc khen ngợi công thần) Đền Hoá: 1.Thiên Khai Sơn Thạch Tằng Sơn Bích Địa Tiếp Thuỷ Nguyên Lãng Thuỷ Thanh (Thiên khai núi đá tầng núi biếc Địa tiếp nguồn nước sóng nước trong xanh) 2.Ngũ Nhạc Uy Linh Thuỷ Đối Mai Hoa Trưng Thắng Cảnh Yên Mô Hùng Vĩ Long Chầu Hổ Phục Hiển Linh Từ (Núi Ngũ Nhạc linh thiêng thuỷ đối hoa mai phô thắng cảnh Đất Yên Mô hùng vĩ rồng chầu hổ phục tỏ đền thiêng ) 3.Thạch Xuất Đức Thánh Linh Đệ Nhất Thiên Hạ Vũ Trụ Đại Gia Danh Bá Đại Quốc Sư (Đá sinh ra đức thánh Anh linh đệ nhất thiên hạ Vũ trụ đại gia Danh làm Bá đại quốc sư) Ngoài ra ở đền Hoá còn có hai tấm bia đá cổ ghi lại nguồn gốc của đền được khắc vào năm 1941 (thời nhà Nguyễn). Bên cạnh đó còn có sắc phong cổ thời nhà Lê (thế kỷ X). Ngay ở gian bái đường có bia đá ghi lại công ơn của Đức Thánh Phi Bồng trợ giúp các chủ tướng trong công cuộc đánh thắng kẻ thù xâm lược. Ngay dưới tấm bia còn có thơ ghi nhớ công ơn của ngài: Tạo hoá sinh ra dấu Thạch Bàn Ban cho Thiên Mẫu cứu nhân gian Khí thiêng tích tụ điềm may mắn Thánh tử ra đời đất nước an. Cứ sắp đến ngày 8/5 âm lịch nhân dân địa phương và du khách bốn phương lại chuẩn bị thời gian về với lễ hội. Đúng ngày 8/5 sẽ làm lễ rước chính từ đền Hoá lên đền Sinh với ý nghĩa rước Đức Thánh lên thăm và vấn an Mẹ. Vì thế, không gian lễ hội đền Sinh, đền Hoá rất rộng ở cả nghĩa tâm linh và quy mô tổ chức. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 3. Mô tả lễ hội. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá cũng như tất cả các lễ hội truyền thống bao gồm hai phần: Lễ và hội. Lễ hội diễn ra từ ngày mồng 6 đến hết ngày 10 tháng 5 âm lịch. Hai phần này luôn đan xen vào nhau, trong lễ có hội, trong hội có lễ. 3.1 Phần lễ. Lễ là một hệ thống các hành vi, tác động mang tính chất tín ngưỡng dân gian, nhằm biểu thị lòng tôn kính của người dân đối với các vị thần linh được thờ phụng. Đức Thánh Phi Bồng Nguyên soái là vị phúc thần của làng Yên Mô, bên cạnh đó là người anh hùng Chu Phúc Uy có công chống giặc ngoại xâm. Để tưởng nhớ công ơn của họ, nhân dân tổ chức nghi lễ rất trọng thể. * Lễ cáo yết. Diễn ra vào chiều ngày 6 tháng 5 âm lịch. Có ý nghĩa xin phép Đức Thánh Phi Bồng cho phép dân làng Yên Mô được mở hội. Bắt đầu từ 16h các cụ trong Ban khánh tiết, các đại biểu của Ban quản lý di tích, Uỷ ban Nhân dân xã Lê Lợi, đại diện các cấp uỷ, chính quyền và đoàn thể làng Yên Mô, đội tế Nam, đội tế Nữ làng Yên Mô tập trung tại sân đền Hoá. Sau hồi chiêng, trống mở cửa đền, các cụ tiến lễ vật vào đền (Lễ chay: Hoa quả, bánh kẹo. Lễ mặn: Xôi, gà). Ban khánh tiết tổ chức 3 tuần tế (do đội tế Nam đảm nhiệm), tế xin phép cho được mở hội. * Lễ Mộc dục. Diễn ra đồng thời ở cả hai di tích đền Sinh, đền Hoá. Tại cung cấm đền Hoá và tại cung cấm đền Sinh (vào cửa bên phải, ra cửa bên trái). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 Có ý nghĩa Bao sái (Tắm tượng) thay áo mới cho Đức Thánh Mẫu và Đức Thánh Phi Bồng. Diễn ra vào buổi sáng ngày 7 tháng 5 âm lịch. Lễ vật: Lễ chay (thanh bông, hoa quả, xôi chè). Thành phần tham gia lễ hội (bắt đầu từ 1975 đến nay) gồm đại diện Ban quản lý di tích, đại diện lãnh đạo xã Lê Lợi, đại diện cấp uỷ, chính quyền làng Yên Mô và Ban khánh tiết của đền. Vật dụng ở mỗi di tích gồm hai choé đựng nước Ngũ vị hương, nước sạch, khăn tắm, khăn bao khô. Số người trực tiếp Bao sái: Hai cụ cao niên, hai cụ thủ nhang (mỗi di tích một cụ cao niên, một cụ thủ nhang). Trang phục: Áo tế đỏ, khăn quấn đầu đỏ, miệng bịt khăn điều (để tránh trần khí xông lên Thánh cung). Trong thời gian Bao sái ở mỗi di tích có bốn thanh niên (trong đội chân kiệu) cầm gươm đứng túc trực hai bên bảo vệ (các chân kiệu đều đội nón dấu, áo nẹp, thắt lưng bó que, chân quấn xà cạp). Số lần bao sái bằng nước sạch và Ngũ vị hương ba lần. Sau đó bao khô, đai măng mũ áo mới, sắp xếp lại đồ thờ, tượng thánh. Trong qua trình Mộc dục, chiêng, trống điểm trong suốt lễ Mộc dục. Áo cũ của Đức Thánh Mẫu và Đức Thánh Phi Bồng sau khi được thay ra, cắt thành những mảnh nhỏ phong trong túi vải mầu vàng (3 đến 5cm) với ý nghĩa cầu may, cầu sức khoẻ, mọi sự tốt lành. * Lễ đón bóng. Thời gian: 4h sáng ngày 8/5 âm lịch. Địa điểm: Tại gian công đồng đền Hoá, làng Yên Mô, xã Lê Lợi. - Nghi trình: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 + 4h sáng (giờ Dần): Ban quản lý mời quý khách ra khỏi khu vực nội tự đền, nhà đền đóng cửa, tắt đèn. + 4h03’ sau hiệu lệnh chiêng, trống 3 hồi 9 tiếng, bật điện mở cửa đền. + 4h03’ đến 4h10’ một già làng (mặc áo tế) lên thắp hương. + 4h10’ đến 4h30’ đọc văn đón bóng (quỳ đọc tại gian công đồng). Đọc văn là một già làng của làng Yên Mô, hai bên người đọc văn đón bóng là hai cụ bồi tế (áo vàng). + 4h30’ hoá văn đón bóng (trong thời gian hoá văn đón bóng, Ban tổ chức thả 5 đèn trời trong đó có một đèn to có ý nghĩa Đức Thánh về trời). + 4h30’ đến 5h30’ các đoàn dâng hương. Nguyên văn bài văn đón bóng được đọc ở đền Hoá: Dấu thiêng truyền mãi đất Yên Mô Non nhạc Hoá Sinh có một giờ Tảng đá Sinh thành lừng vũ trụ Bay tầu qua núi đuổi Quân Ô Bất tử trần Nam thiên bậc nhất Đền thờ Ngũ Nhạc đất Yên Mô Con nam lây Đức thiên thiên đế Đức quốc sư dáng thế ngự đền Anh linh đệ nhất nam thiên Thạch Bàn, Ngũ Nhạc có đền Hoá Sinh Tối Anh Linh thiên tôn thượng đẳng Ở Thạch Bàn được thiên đế định kỳ Tháng 5 mồng 8 giờ Dần còn ghi Đinh Sinh thiên đế dị kỳ khôi ngô Đoàn Mộc đồng Yên Mô tranh khước Dời Thạch Bàn chưa được bao lâu Ầm ầm nổi trận phong ba Kéo mây vần vũ mịt mù tứ vi Bay tầu qua núi ra đi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 Thứ tróc Phạm đẳng Ô Mã Nhi giúp Trần Thắng rồi ngài mới thu quân Văn quan vũ tường ngự về đền Sinh Đức thiên đế anh linh chính ngự Họp hội đồng tứ phủ phong công Vậy có câu rằng Dấu thiêng tích cổ từ ngàn xưa Sử chép dấu son đến bây giờ Giáng hạ hồi sinh chiêm tử xuất Đền thờ cao thượng đất Yên Mô Núi non Ngũ Nhạc sinh thời trang tú Kiếp Bạc đền thêm ngát mùi hương Sắc Phong phù quốc tận trung Trần triều đại thắng quân Nguyên ba lần Đức thiên đế thiên thần bậc nhất Phù Trần triều dậy đất sấm vang Giặc Nguyên khiếp vía kinh hoàng Thạch Bàn tích cổ sử vàng dấu son Nam Mô A di đà Phật (3 lần) * Lễ khai mạc. Thời gian: Sáng ngày 8 tháng 5 âm lịch, có phối cảnh kèm theo. Từ 7h đến 7h15’ Ban tổ chức ổn định tổ chức và thông báo một số quy định của Ban tổ chức. Các khối đứng đúng vị trí quy định, giữ trật tự trong quá trình diễn ra Lễ khai mạc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 Các đoàn rước, đại biểu của địa phương được ngồi phía trước đối diện với khán đài. Nội dung: Nêu công đức, vị thế Đức Thánh, mục đích, ý nghĩa của hội đền Sinh, đền Hoá. * Lễ rƣớc bộ. Ý nghĩa: Rước Đức Thánh lên thăm và vấn an Mẹ. Thời gian: Từ 8h30’ đến 9h30’. Lực lượng tham gia: Rước kiệu Thánh Phi Bồng (Đoàn rước làng Yên Mô), Kiệu Đức Thánh Trần, Kiệu cỗ (Xôi trắng, lợn đen). Số người trực tiếp khiêng rước: 65 người. Thứ tự đoàn rƣớc: 1. Đội múa lân. 2. Đội cờ thần (ngũ hành) 15 lá, các chân cờ đầu đội nón dấu, áo nẹp, thắt lưng bó que, chân quấn xà cạp. 3.Trống, chiêng: Thể hiện hiệu lệnh thần linh (trống, chiêng đều sơn son thếp vàng, dùi trống cũng sơn son thếp vàng). Một thanh niên vác lọng che cho chủ hiệu và trống, chiêng cũng có một thanh niên vác lọng che. Trống do hai người khiêng bằng đòn Rồng, chiêng do hai người khiêng bằng đòn ống và có hai người thủ hiệu (người vác lọng, khiêng trống mặc quần áo lính, người đánh trống, chiêng mặc áo the, khăn xếp). Tiết tấu của chiêng, trống đánh theo nhau trong đám rước, một tiếng trống lại điểm một tiếng chiêng (tùng - bi). 4. Đoàn vác đồ lộ bộ (chắp kich, vũ khí nhà Thánh) đi hai bên, ở giữa là một quan viên mặc áo màu thụng xanh có lọng che mang biển đề: “Thượng Đẳng Tối Linh”. 5. Phường bát âm: Gồm 8 nhạc cụ (đàn, sáo, nhị, trống, kèn…) thổi bát âm nhã nhạc, chủ yếu là lưu thuỷ hành vân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 6. Trống khẩu: 2 trống, 2 người cầm hai trống khẩu đi trước long đình cầm nhịp cho đoàn rước. 7. Kiệu long đình (kiệu có mái): Để lư hương và mũ của Đức Thánh Phi Bồng. Long đình do 4 chân kiệu khiêng, 4 chân kiệu khác đi kèm để thay thế (các chân kiệu đeo một tràng hoa để có hương thơm tránh mùi trần khí xông lên). Xung quanh long đình có tàn, lọng che: 1 tàn, 1 lọng, 2 quạt che hai bên diện Thánh. 8. Sau kiệu long đình là đội tế Nam, Nữ làng Yên Mô. 9. Long kiệu: Rước bát hương. Long kiệu do 8 chân kiệu khiêng và 8 chân kiệu đi kèm (các chân kiệu có tràng hoa để tránh trần khí xông lên). Hai bên kiệu có tàn, lọng che: 1 tàn, 1 lọng. 10. Đi sau là kiệu Đức Thánh Trần. 11. Kiệu chồng 8: Rước lễ vật (xôi trắng, lợn đen) để trong mâm gỗ hình bầu dục, chân quỳ đặt trong hậu bành kiệu chồng 8, do tám chân kiệu khiêng và tám chân kiệu đi kèm. 12. Các đoàn tế của địa phương và các đoàn thể, nhân dân. Hành trình rƣớc: + Nơi xuất phát: Sân đền Hoá. + Thời gian xuất phát: 8h30’. Sau tuyên bố của Ban tổ chức, các chân kiệu lên kiệu và quay tại chỗ 3 vòng, sau đó sắp xếp vào vị trí trong đội hình rước. Từ sân đền Hoá -> qua cửa tam quan -> rẽ phải -> đến ngã tư đường làng Yên Mô tiếp tục rẽ phải -> theo dọc đường nhựa đến tam quan đền Sinh -> đoàn rước dừng lại chờ hiệu lệnh của Ban tổ chức. Lúc đó chiêng, trống ở đền Sinh cũng điểm để chào đón đoàn rước. Tiến lễ vào đền theo trình tự sau: Rước mũ Đức Thánh Phi Bồng và bát hương thờ Đức Thánh Trần vào gian giữa công đồng (sắp xếp các đồ lễ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 theo hướng các kiệu). Tiến mâm gỗ để lễ vật (xôi trắng, lợn đen) vào công đồng gian tiền tế. Các đoàn lần lượt làm lễ dâng hương theo trình tự. * Đại tế. Sau khi các đoàn lần lượt làm lễ dâng hương kết thúc thì đến Đại tế. Đại tế diễn ra rất trang nghiêm, do các cụ cao tuổi trong làng Yên Mô thực hiện, nêu cao tình Mẫu Tử, sự biết ơn đến những bậc sinh thành. Trong quá trình Đại tế là sự kết hợp giữa lời văn với nhữnh tiếng gõ mõ tạo không khí thiêng liêng, thành kính. Sau khi Đại tế xong, các cụ đốt sớ của Đức Thánh gửi lên Mẹ và những bản sớ của nhân dân, vàng mã gửi lên Đức Mẹ mong Đức Mẹ phù hộ. 3.2. Phần hội. Nghi lễ là một hệ thống tĩnh có tính quy phạm nghiêm ngặt được cử hành tại đền thì trái lại, hội là một sinh hoạt dân dã phóng khoáng, ai cũng bình đẳng tham dự vui chơi. Phần hội được tổ chức sau lễ. Các hoạt động văn nghệ, các trò chơi dân gian diễn ra vô cùng đặc sắc, phong phú. Từ ngôn ngữ đến cử chỉ của các hoạt động văn nghệ và các trò chơi dân gian mang đậm mầu sắc của các trò chơi cổ. Tất cả các trò chơi này đều mang tính biểu tượng. * Liên hoan hát văn. Thời gian: Tối ngày 6 tháng 5 âm lịch. Địa điểm: Tại sân đền Hoá. Đến với liên hoan hát văn chính là cuộc thi hát văn giữa các làng trong xã Lê Lợi và các đoàn được mời tham gia, mỗi đoàn biểu diễn không quá 45’. Đến với hội hát văn là những giọng ca và ngôn từ mượt mà với nhiều chủ đề khác nhau nhưng chủ yếu là những lời ca ca ngợi quê hương, đất nước, tình cảm xóm làng. Các đội tham gia chủ yếu làm cho không khí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 thêm đa dạng, đều nhận được sự tán thưởng của nhân dân khi cất lên những lời ca, tiếng hát mang đậm tâm hồn dân tộc. * Hội thả đèn trời. Thời gian: Vào 19h30’ tối ngày 7 tháng 5 âm lịch ở cả hai di tích. Là cuộc thi thả đèn trời của các đoàn đăng ký tham dự, mỗi đoàn số lượng đèn trời không hạn chế. Đèn của những đoàn đăng ký dự thi phải có những đặc trưng riêng. Đèn của đoàn nào bay cao nhất và sáng nhất sẽ đạt giải của Ban tổ chức. Đây là một trò chơi lý thú và mang tính tâm linh (có ý nghĩa đưa Đức Thánh về trời). * Hội chơi cờ người. Thời gian: Chiều ngày 9 tháng 5 âm lịch. Địa điểm: Khuôn viên đền Hoá. Bàn cờ tướng được vẽ trên một khuôn viên rộng khoảng 100m2 mỗi người cầm một quân cờ được làm có cán để cầm. Những người cầm thững quân cờ này mặc những trang phục tương đương với con cờ mà mình đảm nhận: Quân Tướng thì mặc áo đỏ (đen), chân đi hài, đầu đội mũ và được ngồi trên ngai, quân Sĩ ở bên cạnh Tướng mặc áo the đỏ (đen), đội khăn xếp, trên tay cầm sách thánh hiền, quân Tốt đầu đội nón dấu, áo nẹp, thắt lưng bó que, chân quấn xà cạp, ở bên đội đỏ thì mặc trang phục đỏ, bên đội đen mặc trang phục đen… Mỗi trận đấu diễn ra trong ba ván theo hình thức loại trực tiếp. Đến với hội cờ người thường là những người cao tuổi, có khả năng đưa ra những nước cờ gây sự thán phục của người xem. Hội cờ người diễn ra đến chiều ngày 10 tháng 5 âm lịch thì kết thúc bằng trận chung kết. Nhà vô địch hội cờ người sẽ nhận được kỷ vật của Ban tổ chức, phần thưởng chỉ mang tính chất động viên, nhưng không vì thế mà những trận đấu trí của trò chơi này mất đi sự gay cấn và hấp dẫn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 * Hội kéo co. Thời gian: Bắt đầu từ 15h ngày 8 tháng 5 âm lịch. Địa điểm: Khu đất trống phía trước đền Sinh. Đây là trò chơi thu hút được số đông người tham gia nhất, những người chơi chủ yếu là những thanh niên trai tráng, khoẻ mạnh của các làng trong xã Lê Lợi. Mỗi một làng có một đội tham gia, gồm 10 người một đội. Khi tham gia trò chơi các thanh niên của mỗi làng phải mặc những trang phục của những quân lính thời nhà Trần. Mỗi trận đấu diễn ra trong ba hiệp, đội nào thắng hai sẽ lọt tiếp vào vòng sau. Khi có hiệu lệnh của trọng tài mỗi đội kéo sợi dây về phía mình để sợi dây đỏ ở giữa chạm vào vạch quy định sẽ chiến thắng. Trong lúc hai đội đang gia sức để giành chiến thắng thì có tiếng trống cổ động và được sự cổ vũ của người xem tạo nên một không khí náo nhiệt như những buổi luyện quân trong quá khứ. Cứ như vậy các đội loại nhau chỉ còn hai đội vào chung kết tranh chức vô địch. * Hội đấu vật. Đây là một trò chơi thượng võ, cũng là một cách luyện quân của Trần Hưng Đạo. Xới vật được tổ chức trên một bãi đất rộng phía trước đền Sinh. Bên cạnh có trọng tài là người đánh trống. Trọng tài mặc áo mầu đỏ, đầu chít khăn đỏ, ngang lưng thắt khăn đỏ. Người vật cởi trần, đóng khố, một bên thắt đai đỏ, một bên thắt đai xanh. Bắt đầu vào vật, trọng tài nổi một hồi trống lệnh, các đô vật làm động tác xe đài và chào trọng tài, nhân dân. Trọng tài đánh tiếp ba hồi trống, đó là hiệu lệnh cho đô vật vào giao đấu. Các đô vật xông vào quần thảo. Người thua cuộc bị ngã trên xới vật “lấm lưng, trắng bụng”. Tuỳ vào số người tham gia ít hay nhiều mà Ban tổ chức đưa ra quy chế thi đấu. Người vô địch được Ban tổ chức trao giải thưởng, có thể chỉ là gói chè, khăn mặt, phích nước song không khí lúc nào cũng tưng bừng của ngày hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 * Hội thi đọc thơ. Hội thi đọc thơ do Câu lạc bộ thơ Côn Sơn tổ chức, đọc những bài thơ về Đức Thánh Phi Bồng, Đức Thánh Mẫu, người anh hùng Chu Phúc Uy. Với ngôn ngữ và âm nhạc trong thế giới kỳ diệu, ca ngợi công đức của của những bậc tiền bối tạo không khí thiêng liêng, thấm đượm tình người. Bên cạnh những trò chơi dân gian diễn ra vào ban ngày, ban đêm ở cả hai ngôi đền đều có hầu bóng. Người hầu bóng thường mặc quần áo nhiều mầu sắc. Xin trích một bài hầu bóng tại đền Sinh vào tối ngày 7 tháng 5 âm lịch: Nay bái thỉnh hiệu thiên thiên đế Đức quốc sư trần thế ngự đền Hiển linh đệ nhất nam thiên Tam ban Ngũ Nhạc có đền Hoá Sinh! Huyện Chí Linh có Yên Mô xã Ở Thạch Bàn tiên đế ứng kỳ Tháng 5 mồng 8 giờ Dần Định sinh thiên thánh dị kỳ khôi ngô Đoàn mục thụ Yên Mô nghinh rước Về gần làng nào có bao xa Ầm ầm nổi trận phong ba Thiên thần biến hoá lại là hư không Cảnh đền Sinh cường phong là thế Cùng đền hoá thuộc địa Yên Mô Nhìn lên Ngũ Nhạc Linh Từ Một giờ sinh hoá thật là anh linh Trải Đinh, Lê, Lý, Trần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 Yên Mô phụng sự hiển linh uy hùng Hộ quốc thuật vũ điền phong Cứu dân giúp nước trừ hung bạo tàn Gần xa khắp hết mọi nơi Kẻ đến xin dấu người thời dâng nhang Đến đời Trần, giặc Nguyên cướp nước Giặc Phạm Nhan thế gắt ai đang Tướng Trần Hưng Đạo lo lường Tâm thành cầu khẩn mong ngài phù dân Đức thiên đế ra tòng hộ quốc Cứu vạn dân hoá phép uy hùng Đùng đùng nổi trận bắc phong Hắc vân vần vũ mịt mù tứ vi Bay tầu qua núi ra đi Âm tróc mã Đảng, cứu nguy cho Trần Thánh hiển chuyển Vũ Đằng Vân Thu binh triệu tướng ngự về đền Quan… Trong quá khứ, hầu bóng đã trở thành một hình thức mê tín dị đoan, do những con nhang, đệ tử không am hiểu lịch sử gắn kết với các huyền thoại khác như: Mẫu Thoải, Cậu Ba, Cậu Bảy… Nhưng từ năm 1992, đền Sinh, đền Hoá được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia thì việc thờ cúng, mê tín dị đoan, làm sai lệch ý nghĩa tốt đẹp của dân tộc nên đã bị loại bỏ. Lễ và hội là dịp để cho toàn thể cộng đồng “hoá thân, nhập cuộc”, mọi người được vui chơi, được dịp để sáng tạo, thể hiện tài năng trong các trò chơi, là dịp để thưởng thức văn hoá, nghệ thuật dân gian. Cũng là dịp để mọi người bày tỏ ước mơ, khát vọng của mình đối với các bậc Thánh Thần, với tinh thần cộng cảm, tự nguyện. Lễ và hội ở các di tích lịch sử nói chung và ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 đền Sinh, đền Hoá nói riêng là sự vận động trong cái đẹp, luôn vươn tới cái đẹp, đỉnh cao thẩm mĩ. 4. Những tục lệ và những điều cấm kỵ trong lễ hội đền Sinh, đền Hoá. Ở mỗi nơi thì tục lệ tổ chức lễ hội có sự khác nhau, tạo nên bản sắc của từng địa phương, từng lễ hội. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương có những tục lệ rất riêng: Hàng năm nhân dân tổ chức tưởng nhớ Đức Thánh Phi Bồng, ngày ngài xuất hiện vào mồng 8 tháng 5 âm lịch. Trong ngày này Ban quản lý di tích và nhân dân làng Yên Mô tổ chức lễ rước từ đền Hoá lên đền Sinh với ý nghĩa đưa Đức Thánh Phi Bồng lên vấn an Mẹ. Trong lễ rước này có rất nhiều những điều nghiêm ngặt: + 65 người tham gia rước kiệu phải là những thanh niên chưa lập gia đình, khoẻ mạnh. + Những người tham gia rước kiệu phải xuất thân trong những gia đình có khuôn phép, ông bà, cha mẹ không vi phạm pháp luật và đạo đức. Bản thân những người được chọn phải nết na, không có khuyết tật, gia đình không có tang. + Những cụ cao tuổi trong làng như thủ nhang, đọc văn đón bóng, những người làm công việc Mộc dục, trước khi làm công việc của mình thì họ phải ăn chay một tuần. Trong lễ rước chính thì bao giờ cũng có một mâm xôi trắng và một con lợn đen. Theo các cụ cao tuổi trong làng thì gạo nấu xôi phải được chọn lọc rất kỹ và phải là gạo của làng Yên Mô, con lợn đen đặt trên mâm xôi đã được nuôi trong một gia đình của làng, con lợn này được nuôi hoàn toàn bằng rau cám, không được có một chút thức ăn tạp. Bởi ĐứcThánh Phi Bồng là ThiênTử – vị thần có tâm hồn trong sáng, hết lòng vì dân, vì nước. Nên tất cả những đồ cúng tế phải được chuẩn bị từ rất lâu, được chăm sóc với một thái độ nghiêm ngặt và tôn kính. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Ngoài ra tương truyền trong lễ rước của ngài khi khởi kiệu luôn quay ba vòng trước khi rước (không do chủ ý của người rước). Khi rước đi như chạy (gắn với truyền thuyết ngài đi mây về gió) nên các du khách lần đầu tiên tham gia lễ rước sẽ rất ngạc nhiên. Tất cả những điều cấm kỵ, tục lệ trên đều xuất phát từ truyền thuyết, tâm linh và tín ngưỡng của người dân địa phương. Trong mỗi lễ hội cụ thể những người tham gia thông hiểu những điều cấm kỵ cũng chính là tỏ lòng thành kính và tôn trọng những bậc Thần, Thánh và anh hùng trong lịch sử. III. Ý NGHĨA CỦA LỄ HỘI ĐỀN SINH, ĐỀN HOÁ. Lễ hội là dịp kỷ niệm và tái hiện những nét tiêu biểu trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, gắn liền với với những ngôi đình, đền, chùa… Lễ hội là một hình thức văn hoá cộng cảm đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của các thế hệ, tầng lớp nhân dân. So với các lễ hội trên địa bàn như lễ hội đền Kiếp Bạc (20 tháng 8 âm lịch), lễ hội chùa Côn Sơn (18 tháng Giêng âm lịch), lễ hội đền Cao (23, 24, 25 tháng Giêng âm lịch) thì lễ hội đền Sinh, đền Hoá về quy mô không được bằng các lễ hội trên. Bởi những lễ hội Kiếp Bạc, Côn Sơn, đền Cao là những ngôi đền, ngôi chùa thờ những vị anh hùng kiệt xuất trong lịch sử dân tộc. Đền Sinh, đền Hoá là nơi thờ Thần nên cũng chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của du khách bốn phương. Nhưng những người đã một lần đi Côn Sơn, Kiếp Bạc, đền Cao thì họ đều không bỏ qua được đền Sinh, đền Hoá. Khi đã hiểu được ý nghĩa thiêng liêng và được nghe kể về thần tích của hai ngôi đền thì trong những lần viếng thăm sau thì ngôi đền họ đặt chân đến đầu tiên có lẽ là đền Sinh, đền Hoá. Bởi trong tâm thức của nhân dân thì Thần, Thánh chính là sự tích tụ của khí thiêng sông núi, là phúc đức của ngàn năm cha ông ta gây dựng. Để làm nên những chiến công oanh liệt trong lịch sử thì các anh hùng dân tộc cũng được sự trợ giúp đắc lực của những bậc tiền bối, là sự thừa hưởng “nền phúc đức” của cha ông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 Lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống văn hoá tâm linh của nhân dân trong huyện. Đền Sinh, đền Hoá là hai ngôi đền cổ nhất trên địa bàn huyện và là hai ngôi đền duy nhất thờ Thần. Đến với hai ngôi đền là đến với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, đến với cội nguồn văn hoá dân tộc, đến với tinh thần cộng cảm của nhân dân với thiên nhiên, sống hoà hợp vào thiên nhiên. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá ngoài yếu tố “cộng cảm” còn có cả yếu tố “cộng mệnh”. Chính lễ hội đã đem đến cho con người sức mạnh, niềm tin để con người sống thiện hơn, người hơn. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá thờ Nhiên thần Phi Bồng Nguyên soái cùng với tín ngưỡng mang tính phồn thực thì hai ngôi đền này còn có sự phối thờ người anh hùng Chu Phúc Uy. Vì vậy, lễ hội đền Sinh, đền Hoá là sự kết hợp nhiều tín ngưỡng: Nhiên thần, Nhân thần và truyền thuyết tâm linh dân gian. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá còn là sự kết hợp, đan cài, hỗ trợ chặt chẽ giữa truyền thuyết và lễ hội tạo nên những nét riêng biệt, đặc trưng (rước như chạy). Đó cũng là tín ngưỡng của vùng đất mà ngài đã sinh ra và hiển linh phù trợ cho những chiến công mãi khắc ghi vào trong sử sách dân tộc. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá là sự tái hiện những nét tiêu biểu về Đức Thánh Phi Bồng, để con cháu ôn lại truyền thống của cha ông trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Lễ hội là một minh chứng rõ nét củng cố cho truyền thuyết về Phi Bồng Nguyên soái, nó khẳng định thêm việc thờ cúng ngài ngoài yếu tố tâm linh còn là sự biết ơn sâu sắc của các thế hệ với cha ông. Lễ hội còn là sự khẳng định việc trợ giúp của ngài như một những dấu son chói lọi trong công cuộc giữ yên nền độc lập dân tộc, khẳng định chủ quyền của đất nước. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá diễn ra trong thời gian không dài, những dấu vết cung đình khá mờ nhạt. Bởi từ truyền thuyết đến lễ hội nơi đây đều do sự sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động. Trong lễ hội các sản vật, đồ cúng tế đều là sản phẩm do người nông dân làm ra. Đến cả hình thức đón bóng, rước bóng, các trò chơi đều mang đậm dấu ấn của những người nông dân, của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 văn hoá lúa nước. Lễ hội làm sống lại lòng yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất và tài năng xuất chúng của Đức Thánh Phi Bồng. Lễ hội cũng là dịp để nhân dân sau những ngày làm ăn vất vả được nghỉ ngơi, được vui chơi, giao cảm. Là dịp để mọi thế hệ ai cũng được tự do tham dự hội hè, gặp gỡ, giao lưu, thưởng thức những món ăn do mình tự chế biến. Cũng là dịp để mọi người bày tỏ ước vọng của mình đến Thần, Thánh mong cho cuộc sống của mình đầy đủ và sung túc hơn. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá còn mang lại sự tự do, bình đẳng, dân chủ. Ngày hội ai cũng bình đẳng như nhau, không phân biệt chức sắc trong làng, ai cũng tự do xem hội, hưởng lộc Thánh như nhau, không có sự cấm đoán, ngăn cách. Chính từ không khí này mà con người trở nên thân thiện, đoàn kết, gắn bó với quê hương. Đó cũng là ý nghĩa sâu xa của nhân dân sáng tạo ra truyền thuyết và lễ hội để hướng đến con người quá khứ, hiện tại và tương lai. Để khẳng định và nhắc nhở con cháu phải biết đoàn kết - đó là sức mạnh vô địch để hoà chung trong công cuộc đổi mới nhưng cũng vẫn giữ được bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá là lễ hội thống nhất, có mối quan hệ và tác động lẫn nhau. Lễ chiếm phần chính, quan trọng, còn hội chỉ có tính chất hỗ trợ, tạo không khí cho lễ hội thêm long trọng và đem lại niềm vui cho mọi người. Lễ có tính chất bắt buộc, quy định chặt chẽ, còn hội thì không có sự trói buộc như lễ. Hội chủ yếu hỗ trợ cho lễ, mang vẻ đẹp văn hoá, đậm đà bản sắc dân tộc, có ý nghĩa cổ động, tuyên truyền. Hội nhằm làm cho lễ không khô cứng, nó còn hỗ trợ đắc lực cho việc tái hiện những di sản văn hoá, những nét riêng của dân tộc, địa phương để cho thế hệ trẻ hiểu hơn về nguồn gốc của mình để gìn giữ nó. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá còn là nơi bảo lưu, nuôi dưỡng truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian, nó được đan xen hài hoà trong lễ và hội. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá cũng có những nét chung của các lễ hội Việt Nam, đồng thời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 cũng có những nét riêng biệt, độc đáo của địa phương như hình thức hầu bóng, thờ Mẫu… Nhìn chung, trong bất kỳ xã hội nào thì các lễ hội mang tính cộng đồng là rất cần thiết. Nó nhắc nhở thế hệ hiện tại và tương lai không chỉ sống cho bản thân, gia đình mà còn phải biết sống cho cộng đồng, biết hy sinh vì cộng đồng, vì một sự nghiệp chung của dân tộc và đất nước. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá với những lễ tục luôn nhắc nhở chúng ta biết ghi nhớ những công ơn của cha ông, những vị anh hùng dân tộc đã có công trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do cho đất nước. Họ mãi là niềm tự hào và là tấm gương cho đời đời các thế hệ noi theo.  TIỂU KẾT. Nhà nghiên cứu Nga M.Bakhtin cho rằng: Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức “tế lễ” và “trò diễn”, đó là cuộc sống lao động và cộng đồng cư dân. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội được nếu như chính nó không được “thăng hoa”, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của “tâm linh” tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là cuộc sống, là thế giới thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiệu, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả. Cùng với lịch sử, tín ngưỡng, tôn giáo, bản sắc văn hoá dân tộc, nhân dân ta đã tạo nên những lễ hội văn hoá chứa đựng trong nó bao thăng trầm cũng như oai hùng trong lịch sử dân tộc. Những lễ hội vừa là nếp nghĩ, lối sống, triết lý dân gian, hồn dân tộc, vừa mang tính giáo dục rất lớn với các thế hệ người Việt Nam ở hiện tại và tương lai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 KẾT LUẬN Luận văn chọn đề tài về Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái và lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương xuất phát từ mối quan tâm đối với thể loại truyền thuyết của địa phương và mối quan hệ của nó với lễ hội. Với các phương pháp quen thuộc của Văn học dân gian và các phương pháp điền dã, khảo sát, phân tích… chúng tôi đã cố gắng bám sát các tác phẩm Văn học dân gian vừa với tư cách một tác phẩm văn học vừa với tư cách một thực thể văn hoá. Từ đó có sự khái quát, phân tích từ cái chung đến cái riêng để thấy được sự đặc sắc của truyền thuyết và lễ hội nơi đây. 1. Đầu tiên phải khẳng định mảnh đất Chí Linh là mảnh đất địa linh nhân kiệt, mảnh đất của lịch sử văn hoá, mảnh đất của những chiến công chống giặc ngoại xâm, mảnh đất của những danh nhân văn hoá, mảnh đất của những di tích lịch sử. Là nơi sản sinh những cá nhân tài năng, trí tuệ, của những tín ngưỡng, truyền thuyết mang đậm dấu ấn của con người Chí Linh. Đây thực sự là vùng đất giàu đẹp, văn hiến, mãi mãi là niềm tự hào nhân dân địa phương, là điểm đến của du khách bốn phương. Xã Lê Lợi hiện nay là nơi đã chứng kiến rất nhiều những chứng tích trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc thế kỷ XIII. Trên mảnh đất này còn biết bao những truyền thuyết về Đức Thánh Phi Bồng tối linh, về người anh hùng Chu Phúc Uy – người con của quê hương. Nơi đây còn biết bao dấu tích của những đền, lăng, mộ… và những lễ hội ngàn năm. Những truyền thuyết trên mảnh đất này là tài sản quý giá không chỉ của người dân xã Lê Lợi mà còn là tài sản của dân tộc với 4.000 năm lịch sử. 2. Tìm hiểu Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái trên phương diện của chuyên ngành Văn học dân gian cùng các thao tác của người nghiên cứu khoa học, chúng tôi đã thấy được những nét chung và những đặc trưng riêng của thể loại truyền thuyết. Từ những nghiên cứu nghiêm túc nên việc xác định con đường hình thành, tồn tại và bổ sung những chi tiết mới càng làm cho quá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 trình ứng tác dân gian mang đậm dấu ấn của loại hình văn học địa phương hoà vào trong cái chung của thể loại truyền thuyết. Trong văn học nói chung và trong Văn học dân gian nói riêng thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng có những tác động nhất định để hình thành nên những tác phẩm văn học. Thể loại truyền thuyết vừa có những yếu tố của tín ngưỡng, tôn giáo, vừa có dấu ấn của lịch sử kết hợp với nghệ thuật ngôn từ trở thành món ăn tinh thần quý báu của các thế hệ. Nó không những gìn giữ văn hoá, ghi chép lịch sử mà còn là hơi thở từ quá khứ vọng lại cho mãi mãi về sau. Trong truyền thuyết, nhân dân ta không chỉ ca ngợi những người anh hùng đã vì dân vì nước mà họ còn đề cao những vị Thần, Thánh đã góp công sức của mình vào những chiến thắng. Những vị Thần, Thánh là niềm tin của nhân dân vào một thế lực siêu nhiên, như là một chỗ dựa vững chắc của con người, làm cho con người thay đổi, sống hoàn thiện hơn. Đó là niềm tin bất diệt của con người ngay từ thủa sơ khai, niềm tin đó sẽ còn được con người nâng niu, trân trọng để gắn kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc, tạo sức mạnh, niềm lạc quan cho mỗi cá nhân trong cuộc sống. Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái là sự kết hợp của nhiều thể loại truyền thuyết: Truyền thuyết tín ngưỡng, truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết địa danh… đã tạo nên những đặc trưng và được yêu thích của nhân dân địa phương qua nhiều thế hệ. Vượt qua nhiều biến đổi của lịch sử, Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái vẫn mãi được khắc sâu trong tâm thức của nhân dân. Nó chính là sự nối tiếp một dòng chảy trong mạch nguồn văn hoá, lịch sử của dân tộc, của quê hương Chí Linh. 3. Gắn với Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái là lễ hội dân gian. Từ truyền thuyết đến lễ hội là cách để nhân dân làm cho truyền thuyết sống mãi, bên cạnh đó nó còn giúp cho nhân dân bày tỏ lòng biết ơn, ngưỡng mộ đối với những người anh hùng, những vị Thần, Thánh. Truyền thuyết vẫn thu hút mọi thế hệ người nghe, dù họ ở tầng lớp nào, xã hội nào. Họ vẫn say mê kể, vẫn nghe một cách say sưa, vẫn sống trong các hình thức lễ hội dân gian. Chứng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 tỏ họ vẫn muốn tìm về với cội nguồn, lịch sử, với những điều thiện, với lẽ phải. Lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi còn là dịp để giữ gìn truyền thống văn hoá dân tộc, ôn lại quá khứ hào hùng, nhắc nhở con cháu “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội còn là nơi để con người hoà cá nhân của mình vào cái chung của cộng đồng. Đó là mạch ngầm văn hoá thấm dần vào trong mỗi cá nhân để họ biết sống vì tổ quốc, biết gìn giữ những truyền thống cao quý của dân tộc. Từ việc tìm hiểu truyền thuyết đến lễ hội đền Sinh, đền Hoá, người viết đã tìm hiểu thấy mối quan hệ khăng khít của chúng. Truyền thuyết Đức Thánh Phi Bồng là cơ sở tồn tại của lễ hội đền Sinh, đền Hoá, là chủ thể chi phối các hành động nghi lễ, cũng như các hoạt động văn hoá khác. Ngược lại, lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi giúp truyền thuyết có cơ hội thể hiện sống động, phong phú và cũng là nơi nuôi dưỡng truyền thuyết. 4. Di tích đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi – Chí Linh – Hải Dương là hai ngôi đền duy nhất trên địa bàn của huyện thờ Thần, có sự phối thờ người anh hùng Chu Phúc Uy. Trong tâm linh của người dân huyện Chí linh thì đây là hai ngôi đền cổ kính nhất, gắn liền với tín ngưỡng thờ Thần từ thời nguyên thuỷ của dân tộc ta, gắn với những chiến công trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Lễ hội ở hai ngôi đền này cũng được coi là sớm nhất nên hiện nay cứ đến ngày hội thì nhân dân địa phương, các ban ngành chức năng đã tổ chức long trọng, thu hút được sự quan tâm của du khách bốn phương. Nhưng qua quá trình tìm hiểu thực tế, người viết mạnh dạn đóng góp một số ý kiến sau: - Các ban ngành quản lý văn hoá của huyện và của tỉnh nên tìm hiểu, nghiên cứu và hệ thống hoá các truyền thuyết về Đức Thánh Phi Bồng Nguyên soái, truyền thuyết về người anh hùng Chu Phúc Uy. Để thấy được sự rành mạch trong hình thức thờ tự. - Cùng với những căn cứ trên các văn bia cổ được khắc tại hai ngôi đền, cùng với tâm thức của người dân địa phương về Nhiên thần Phi Bồng Nguyên soái, các cấp quản lý nên có sự chuyển đổi trên danh nghĩa của việc thờ tự: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Thay đổi bảng thần tích đặt trước đền Hoá từ thờ chính Nhân thần Chu Phúc Uy sang thờ chính Nhiên thần Phi Bồng Nguyên soái. Việc thờ người anh hùng Chu Phúc Uy tại đền Hoá chỉ là phối thờ. - Cùng với những truyền thuyết và lễ hội được coi là lâu đời nhất trên địa bàn của huyện nên cũng mong muốn các ban ngành quan tâm hơn tới hai ngôi đền này, đặc biệt là đền Hoá. Hiện tại tại đền Hoá một số những chi tiết đã xuống cấp nhưng chưa được tu sửa, trong khuôn viên của đền còn có nhiều không gian, nhà cửa chưa phù hợp với tổng thể kiến trúc của đền. Kính mong các ban ngành quản lý quan tâm để trả lại ngôi đền sự linh thiêng và cổ kính vốn có. Trong đề tài về Truyền thuyết Phi Bồng Nguyên soái và lễ hội đền Sinh, đền Hoá ở Lê Lợi - Chí Linh - Hải Dương là những bước kế tục của những người đi trước, nhằm đóng góp một phần vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Trong khả năng của chúng tôi còn có những hạn chế nhất định nên cũng không tránh khỏi khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của các nhà nghiên cứu, của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_SP_VH_BVH.pdf
Tài liệu liên quan