MS: LVTLH004
SỐ TRANG: 89
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
NĂM: 2007
MỞ ĐẦU
1- Lí do chọn đề tài
Nguyễn Khải là nhà văn sáng tác rất thành công ở nhiều thể loại: truyện, tiểu thuyết, kịch,
kí, tạp văn và dường như ở thể loại nào cũng được đông đảo bạn đọc đón nhận. Trong các tác
phẩm của ông thường thể hiện những mảng hiện thực rộng lớn có ý nghĩa tiêu biểu cho hiện thực
đời sống cách mạng của đất nước. Đánh giá lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, trong sự vận động
và phát triển, thành tựu của văn xuôi Việt Nam thời chống Mĩ, thời kì đổi mới, giới nghiên cứu
phê bình luôn đặt Nguyễn Khải ở vị trí hàng đầu của lớp nhà văn cách mạng. Ông là một trong
những người khơi nguồn cho văn xuôi tự sự Việt Nam thời kì đổi mới với cảm hứng “tinh thần
dân chủ và nhân bản”. Tác phẩm của ông phản ánh được những tìm tòi thể nghiệm, những trăn
trở của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Nguyễn Khải tự nhận mình là “giọt nắng nhạt” nhưng trang viết của ông luôn đậm nồng hơi
thở cuộc sống, kịp thời đem đến cho người đọc nhiều lí giải đúng đắn và khêu gợi suy nghĩ về
những vấn đề xã hội đang đặt ra trong cuộc sống. Vương Trí Nhàn viết: “Ông là một trong những
nhà văn dẫn đầu của thời đại ( ). Muốn tìm hiểu con người thời đại trong tất cả cái hay cái dở
của họ, nhất là muốn hiểu cch nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải.”
[91, tr.121].
Nguyễn Khải sớm định hình một dòng viết “đón bắt những vấn đề đang đặt ra trong cuộc
sống hôm nay, của cái ngày mai rất gần”. Ông không ngừng tự vượt lên chính mình “tự làm mới
mình” trong hành trình lao động nghệ thuật. Một nhà văn có quan niệm “nghệ thuật là khoa học
thể hiện lòng người”, nên các sáng tác của ông đều có những đóng góp đáng kể trong tiến trình
phát triển văn xuôi hiện đại.
Để truyền tải quan điểm nghệ thuật của mình, Nguyễn Khải đã thay đổi sâu sắc từ diện mạo
đến tâm lí nhân vật, nhất là người kể chuyện. Nhân vật người kể chuyện dưới ngòi bút của
Nguyễn Khải mang dáng dấp hình tượng con người nhà văn, nhà báo say sưa khám phá những bí
ẩn cuộc đời. Theo ông đây là “cuộc tìm kiếm mãi mãi” không ngừng nghỉ và hấp dẫn của sáng
tạo văn học. Có lẽ vì thế mà nhà văn Nguyễn Khải là người được trao rất nhiều giải thưởng văn
học. Ngay từ tác phẩm vào nghề, truyện vừa Xây dựng (1952) được giải khuyến khích về truyện
ngắn và kí 1951 – 1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam. Truyện ngắn Một cặp vợ chồng (1960) giải
nhất cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn học 1959 - 1960. Tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm (1982)
giải A, giải thưởng về văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam 1985. Truyện ngắn Đất mỏ (1996)
đoạt giải thưởng của Báo Văn nghệ 1997. Truyện ngắn Đàn bà (1997) là truyện nhận giải nhất
cuộc thi truyện ngắn và kí, giải Cây bút vàng do Bộ nội vụ và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ
chức năm 1998. Tập Truyện ngắn và tạp văn, giải B Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1999.
Đặc biệt ngày 01 tháng 09 năm 2000, nhà văn Nguyễn Khải được Chủ tịch nước kí quyết định phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt II) với chùm tác phẩm Gặp gỡ cuối năm, Xung đột,
Cha và Con và Ngày 21 tháng 09, tại Băng Cóc (Thái Lan) Nguyễn Khải nhận giải thưởng
Văn học ASEAN năm 2000. Hơn nữa, Nguyễn Khải là nhà văn có quá trình sáng tác lâu dài, có
uy tín và được khẳng định trong dư luận. Chọn một tác giả có vị trí hàng đầu của đội ngũ nhà văn
cách mạng cùng với những tác phẩm nổi tiếng của ông để nghiên cứu đã nói lên được tính thiết
thực của đề tài. Nghiên cứu Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải, xét về
mặt ý nghĩa lí luận là góp phần tìm hiểu thi pháp Nghệ thuật trần thuật - một hiện tượng đang
được các nhà nghiên cứu lí luận, phê bình văn học hiện nay quan tâm. Ý nghĩa lí luận thiết thực
nhất là góp phần khắc phục sự nhầm lẫn phổ biến về tác giả và người kể chuyện hay nhân vật
người kể chuyện xưng “tôi” Tính cấp thiết của đề tài được xác định là “Vấn đề người kể
chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại. Mặc dù trong suốt
thế kỉ qua các nhà lí luận, phê bình từ nhiều khuynh hướng tiếp cận khác nhau đã vật lộn với vấn
đề này, nhưng cho đến nay nó vẫn còn là một vấn đề đòi hỏi tiếp tục xem xét, nghiên cứu.” [100,
tr. 116]; về ý nghĩa thực tiễn: đề tài góp phần tìm hiểu toàn diện hơn về sáng tác của Nguyễn Khải
– một nhà văn xuất sắc của thời kì đổi mới; về ý nghĩa sư phạm: đề tài sẽ làm tài liệu tham khảo
cho giáo viên, sinh viên trong việc tìm hiểu tác giả Nguyễn Khải.
Đây là những lí do để tôi chọn đề tài này.
2- Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về Nguyễn Khải và các sáng tác của Nguyễn Khải từ trước cho đến nay đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu. Chúng ta có thể kể một số nhà nghiên cứu và phê bình quen
thuộc gắn liền với các sáng tác của Nguyễn Khải như Lại Nguyên Ân, Hà Minh Đức, Phan Cự
Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Thị Huệ, Đoàn Trọng Huy, Chu Nga, Vương Trí Nhàn, Đào
Thuỷ Nguyên, Huỳnh Như Phương, Trần Đình Sử, Bích Thu, Đinh Quang Tốn . Tuy nhiên, các
tác giả trên mới chủ yếu đi sâu vấn đề Nguyễn Khải với những chặng đường văn học gắn với dân
tộc và thời đại; sức chinh phục của các sáng tác của Nguyễn Khải đối với độc giả cũng như và
chuyện văn chuyện đời của ông.
Hầu như cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về “Người kể chuyện”
trong sáng tác của Nguyễn Khải. Nếu có thì cũng chỉ là một vài ý kiến lẻ tẻ về phương thức trần
thuật, về giọng điệu, về ngôn ngữ kể chuyện, về ngôi kể của chủ thể kể chuyện.
Chúng ta có thể điểm qua một số nhận định về phương diện này trong nghệ thuật trần thuật
của nhà văn Nguyễn Khải trong sáng tác qua các thời kì như sau:
Về phương thức trần thuật: Đây là vấn đề được bàn tới nhiều nhất trong giới nghiên
cứu phê bình khi nói về nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Khải. Ngay từ những năm đầu của
thâp niên 60 của thế kỉ trước, khi Nguyễn Khải mới bắt đầu cho ra mắt những tác phẩm
đầu tay, bắt đầu xác định vị trí của mình trên văn đàn, GS. Nguyễn Văn Hạnh (1964) trong bài “Vài ý kiến về tác phẩm của Nguyễn Khải”, Tạp chí Văn học, số 9. GS.viết: “tác giả
có nhiều lúc bỏ lối tả mà chạy theo lối kể” [57, tr. 61]. Cũng bàn về vấn đề này, nhà nghiên
cứu Vương Trí Nhàn (1996) trong bài “Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách
mạng từ sau 1945”, đã phát hiện: “Vẫn thích lối kể hơn tả. Vẫn không để ý nhiều tới cốt
truyện, cái hình dáng của câu chuyện, mà tập trung vào việc làm nổi bật nhân vật, một kiểu
người, một cách sống. Vẫn có một giọng văn vừa tự nhiên, vừa duyên dáng, cái duyên
dáng dân dã, chứ không phải do làm điệu làm dáng mà có. Dẫu sao, cho đến hôm nay,
tương ứng với các nội dung nhân bản kia, giọng văn ấy mới trở nên hiền hoà thuần thục
như chưa bao giờ nó từng có” [57, tr. 119]. Các nhà nghiên cứu và phê bình đều nhận thấy
Nguyễn Khải sử dụng lối kể hơn lối tả và đây là nét phong cách “vừa dân dã vừa hiện đại”,
được coi như tự làm mới mình.
Về giọng điệu kể chuyện: Nguyễn Khải - nhà văn hàng đầu của văn xuôi tự sự Việt
Nam lại tự làm mới mình ở giọng điệu tường thuật. Trong bài “Tôi thích cái hôm nay, cái
hôm nay ngổn ngang, bề bộn .”, GS. Trần Đình Sử phát hiện: “Để ý trong mạch văn của
tác giả sẽ thấy ở giọng người kể chuyện . có khá nhiều giọng nói khác xen vào” [57, tr.
81]. Lại Nguyên Ân cũng khẳng định “có cái do người kể chuyện nói, có cái do những
giọng khác nói” [57, tr. 82]. Nhận xét “Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn
Khải”, Đoàn Trọng Huy viết: “Nhà văn thường đứng ở nhiều góc độ, nhiều bình diện để tả
và kể. Không chỉ kể bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn chuyện, tác giả còn biết
biến hóa thành nhiều giọng điệu, phong phú khác nhau” [57, tr. 93]. Nhà nghiên cứu GS.
Lê Ngọc Trà (1994) trong bài viết: “Văn học Việt Nam những năm mở cửa: Vai trò và
thách thức”, đã nhận xét: “giọng người kể chuyện vẫn thông minh, lôi cuốn như trước đây,
nhưng mỗi ngày một mềm mại, uyển chuyển hơn. Trong cái nói đi đã có cái nói lại, bên
cạnh sự tự tin đã có cái tự chế giễu mình, cuộc sống đã được nhìn từ nhiều phía khác nhau
( .). Bản thân lời kể chuyện cũng giàu chất suy tư hơn, cái nghĩ đã thấm đượm nỗi buồn
của người nhận ra ý nghiã của thời gian và quy luật của đời sống” [139, tr. 22]. Bích Thu
(1997) ở bài viết “Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải những năm
tám mươi đến nay”, có phát hiện: “nhân vật người kể chuyện xưng “tôi” xuất hiện khá
nhiều. Ở đó người kể chuyện và nhân vật tỏ ra bình đẳng “bằng vai phải lứa”, cùng tham
dự vào cuộc đối thoại, cùng triết lí, tranh biện về một vấn đề, một hiện tượng nào đó trong
cuộc sống xã hội gắn với bước chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử, của thời đại” [57, tr.
123]. Chúng ta có thể nói, Nguyễn Khải là một nhà văn có giọng điệu riêng không ai sánh
được mà cũng không ai học được.
Về ngôn ngữ kể chuyện: Nguyễn Khải là người đặt nền móng về sự cách tân văn
xuôi tự sự Việt Nam “đa thanh”, “đa giọng điệu”. Lê Thành Nghị (1985) với bài viết “Gặp gỡ cuối năm”, một tiếng nói nghệ thuật khẳng định cuộc sống” đã khẳng định “Một
trong những biểu hiện tài năng của Nguyễn Khải là nghệ thuật kể chuyện, là cách sử dụng
ngôn ngữ đối thoại đầy thuyết phục ( .), trong đó tiếng nói của người dẫn truyện – người
“vắng mặt” trong cuộc gặp gỡ, như tiếng nói của một thầy phù thuỷ cao tay đang điều
khiển âm binh trước mặt” [57, tr. 335].
Về ngôi kể của chủ thể ke chuyện: Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định nhân vật “tôi” là
một sáng tạo riêng, đặc sắc của Nguyễn Khải về kiểu con người tự ý thức trong văn học
những năm đổi mới. Đinh Quang Tốn (1998) trong bài “Nguyễn Khải với Hà Nội”, có
nhận xét: “Tác giả lại dùng phương pháp kể chuyện ngôi thứ nhất (tôi) làm cho người đọc
cuốn hút, hấp dẫn như tất cả những chuyện đó là có thực, từ những chuyện trong cuộc đời
tác giả, xung quanh tác giả mà tác giả đều chứng kiến, chỉ kể lại mà thôi” [57, tr. 376].
Nguyễn Thị Bình (1998) trong bài “Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết”, đã phát hiện:
“Có một người kể chuyện đóng vai tác giả là nhà văn, nhà báo, là “Chú Khải”, “Ông
Khải” . cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về
mình, muốn coi mình là đối tượng của văn chương. Người ấy biết lắng nghe, biết thán
phục, đồng thời cũng biết “bợp tai” thiên hạ. Người ấy biết tự thú, biết khiêm nhường, đặc
biệt là biết rõ chỗ non kém của mình” [141]. Gần đây, Lê Thị Hồ Quang (1999) có bài viết
“Nhân vật “tôi”trong truyên ngắn Nguyễn Khải từ sau 1980” đã đưa ra nhận xét: “Đó là
mot cái “tôi” đầy ý thức, luôn tự phân tích, xét nét và không ngần ngại “chường mặt” trên
trang viết”, “Cho nên, trong tác phẩm, nhân vật “tôi” hiện lên như một con người già dặn,
từng trải tuổi đời, tuổi nghề, nhưng lại rất “trẻ” trong cách nhìn đời, nhìn người” [109, tr.
117]. Vương Trí Nhàn khẳng định: “trong những trường hợp thành công nhất của mình,
Nguyễn Khải hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi
người mọi buồn vui khi quan sát việc đời. Đó là một phong cách vừa dân dã vừa hiện đại” [57,
tr. 120].
Nhìn chung, những ý kiến nhân xét trên về các phương diện khác nhau của nghệ
thuật trần thuật chỉ mới dừng lại ở mức độ đánh giá khái quát, chưa có lí giải một cách
triệt để và hệ thống. Đặc biệt chưa có công trình nghiên cứu nào về người kể chuyện dưới
góc độ thi pháp học. Tuy nhiên, những ý kiến đánh giá trên là những gợi ý qúi báu cho
chúng tôi trong việc xác định một khuynh hướng tiếp cận mới đối với đề tài “Người kể
chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải”. Đó là hướng tiếp cận theo đặc trưng
thể loại. Với hướng tiếp cận này, chúng tôi muốn góp một tiếng nói vào sự khẳng định tài
năng nghệ thuật của Nguyễn Khải trong nền văn xuôi hiện đại nước nhà.
3- Mục đích nghiên cứu
Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại. GS. L Ngọc Tr viết: “ Chủ thể tường thuật là một mặt của vấn đề tác giả trong văn học. Nghiên cứu
vấn đề người kể chuyện vừa tạo điều kiện để nhận thức quá trình cá thể hoá và cá nhân hoá trong
sáng tạo văn học, vừa mơ ra cách tiếp cận với sự thể hiện của ý thức nghệ thuật, với cái nhìn của
nhà văn trong tác phẩm” [135, tr. 155]. Nghiên cứu người kể chuyện trong tác phẩm Nguyễn Khải
nhằm tìm hiểu các hình thức chủ thể kể chuyện, hình tượng người kể chuyện và mối quan hệ giữa
người kể chuyện và tác giả. Nghiên cứu “Người kể chuyện” cả về phương diện lí luận, vừa ứng
dụng phân tích tác phẩm và qua đó, một lần nữa khẳng định tài năng Nguyễn Khải trong việc kế
thừa và cách tân hình thức người kể chuyện trong văn xuôi tự sự.
4- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tiến hành khảo sát 88 truyện ngắn và 13 tiểu thuyết, và xem đây là đối tượng khảo
sát chính. Ngoài ra, chúng tôi chọn tìm những tác phẩm kí, tạp văn tiêu biểu của ông để làm rõ
vấn đề nghiên cứu.
5- Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ nghiên cứu Người kể chuyện chứ không nghiên
cứu toàn bộ nghệ thuật trần thuật trong sáng tác Nguyễn Khải.
6- Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài, người viết hướng tới việc giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
- Tìm hiểu khi niệm người kể chuyện, lm r nội hm khái niệm này và xem đó là chìa khĩa để
mở đối tượng nghin cứu, nhận diện nĩ trong tác phẩm Nguyễn Khải.
- Khảo st thống k, miu tả hình tượng người kể chuyện từng truyện và tiểu thuyết của
Nguyễn Khải, trên cơ sở đó đưa ra ý kiến bình luận, đánh giá phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Khải.
7- Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, người viết sử dụng phối hợp các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Phương pháp hệ thống
Khối lượng tác phẩm của Nguyễn Khải rất nhiều, chúng tôi sử dụng phương pháp hệ
thống. Phương pháp này là một trong những phương pháp bao trùm trong thi pháp học. Đây
là một trong những phương pháp cơ bản trong nghiên cứu thi pháp học. Sử dụng phương
pháp này, chúng tôi tiến hành tìm hiểu truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải như là những
chỉnh thể nghệ thuật thống nhất giữa yếu tố nội dung và nghệ thuật. Hơn nữa, khi sử dụng
phương pháp này, chúng tôi muốn khái quát các hình thức chủ thể người kể chuyện thành
một mô hình, trong đó có sự thống nhất hữu cơ các yếu tố, từ đó, giúp người đọc nhận thức
vấn đề người kể chuyện đầy đủ, toàn diện và khoa học hơn.
7.2. Phương pháp thống kê, phân loại:
Đề tài bao quát toàn bộ văn xuôi tự sự của Nguyễn Khải, do đó chúng tôi vận dụng phương
pháp thống kê kết hợp với phương pháp phân loại, nhằm chỉ ra các loại hình người kể chuyện và
đặc điểm hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm, theo đó, chỉ ra những thành công và hạn
chế của nhà văn về người kể chuyện trong các giai đoạn sáng tác. Vận dụng phương pháp này,
chúng tôi sẽ đưa ra được những cứ liệu chính xác, cụ thể làm tăng thêm sức thuyết phục cho vấn
đề nghiên cứu đặt ra trong đề tài. Việc tập hợp cc tc phẩm theo năm xuất bản, ngôi kể. v.v nhằm
đáp ứng mục đích yêu cầu của từng chương, từng mục trong luận văn, giúp cho sự nhận xt, đánh
giá vấn đề có cơ sở khoa học hơn.
7.3. Phương pháp so sánh, phân tích
Để khẳng định được nét đổi mới, riêng biệt và đặc sắc của hình tượng người kể chuyện
trong sáng tác của Nguyễn Khải, luận văn tiến hành so sánh giữa các sáng tác của nhà văn
Nguyễn Khải trong từng giai đoạn, so sánh sáng tác của Nguyễn Khải với các sáng tác của môt số
nhà văn tên tuổi Việt Nam cùng thời. Kết hợp với phương pháp phân tích, luận văn phát hiện ra
những nét độc đáo của người kể chuyện trong sáng tác của Nguyễn Khải. Trong quá trình thực
hiện, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp này và có kết hợp với một số phương pháp
khác để làm rõ cac luận điểm đặt ra trong luận văn.
8- Đóng góp của luận văn
Nghin cứu người kể chuyện trong truyện v tiểu thuyết Nguyễn Khải dưới góc độ thi php
học v tự sự học theo hướng tiếp cận xuất pht từ đặc trưng thể loại, sẽ gip cho việc pht hiện và
khẳng định phong cch tc giả một cách có cơ sở khoa học. Đồng thời từ góc độ nghin cứu ny,
người nghin cứu sẽ có điều kiện cắt nghĩa, lí giải thấu đáo cch xy dựng người kể chuyện trong thể
loại tự sự, cụ thể l chỉ ra cc hình thức chủ thể kể chuyện, hình tượng người kể chuyện v mối quan
hệ giữa tc giả và người kể chuyện trong tc phẩm Nguyễn Khải. Luận văn sẽ gip cho bạn đọc hiểu
thêm về ci nhìn, lập trường, tâm lí, quan điểm xã hội của nhà văn đối với đời sống. Lí thuyết tự sự
là một bộ phận không thể thiếu trong nghiên cứu văn học, ngày càng được quan tm, thì luận văn
này sẽ góp phần nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự, là cơ sở để những
cơng trình nghin cứu sau làm tư liệu tham khảo.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn sẽ được triển khai trong ba
chương:
Chương 1 : Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết
Nguyễn Khải.
Chương 2: Hình tượng người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải.
Chương 3: Tác giả và người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải.
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3142 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(ví dụ: tác giả hàm ẩn của Đất nước đứng lên, Rừng Xà nu, Đất
Quảng đều là của nhà văn Nguyên Ngọc, tên thật là Nguyễn Văn Bau cùng với các bút danh
khác: Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim).
Thông thường từ thế giới hình tượng nghệ thuật có thể lần ra diện mạo tinh thần tác giả.
Chính cách khai thác này, giúp ta nhận biết được Nguyễn Khải là nha văn chiến sĩ, một đảng
viên, một phong cách hiện thực tỉnh táo đã gắn bó với sự nghiệp cách mạng, không ngừng tham
gia vào đấu tranh xã hội, đem lại cho văn học một cái nhìn rộng mở, đổi mới. Tác phẩm của ông
cho thấy hiện thực ngày hôm nay luôn chứa đựng sự những vấn đề mới mẻ. Những quá trình
đang hình thành hết sức phức tạp tiềm ẩn trong lĩnh vực đời sống tinh thần xã hội, đồng thời giúp
người đọc hiểu thấu đáo quan niệm rất sau sắc về con người. Đến đây có thể liên hệ tới nhà văn
Nam Cao chẳng hạn. Với cách nhìn như vậy, khi thâm nhập vào tác phẩm của ông, người đọc
nhận ra Nam Cao với khuôn mặt “nhàu nát đau khổ”, sự trăn trở day dứt về lẽ sống và quyền làm
người. Sự hình dung như thế về Nam Cao là dựa vào những gì mà nhà văn đã sáng tạo ra, trong
đó nổi bật nhất là những nhân vật tri thức tiểu tư sản thường xuyên vật vã, đau đớn vì sự băng
hoại giá trị nhân sinh; là những nhân vật nông dân quê mùa méo mó cả nhân tính lẫn nhân hình vì
miếng cơm manh áo, vì sự ức hiếp của cường quyền. Trang viết của Thạch Lam mang dáng dấp
của con người dịu dàng, nhỏ nhẹ, tinh tế, biết lắng nghe và đồng cảm với những ước vọng bình dị
của bao kiếp người nhỏ bé trong cái nhịp sống u buồn lặng lẽ… Chỉ qua một số trường hợp nhà
văn trên, người ta nhân thấy tác giả hiện lên như thế nào qua thế giới nghệ thuật mà nhà văn tạo
ra.
Ý tưởng của nhà văn độc đáo kết hợp với người kể chuyện có duyên làm nên cái hay của
tác phẩm và ngược lại. Điểm lại hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khải hơn 50 năm, con người
cầm bút vơi một quan niệm nhất quán về nghệ thuật là “Khoa học thể hiện lòng người” đều thể
hiện cái “tôi” của chính mình và một cái “tôi” ngoài mình. Tác phẩm của Nguyễn Khải luôn phản
ánh kịp thời, đầy đủ, chân thực và khách quan con người và thời đại. Các tác phẩm ấy dù dài hay
ngắn, tình tiết ít hay nhiều, người đọc vẫn luôn có cảm giác như chuyện kể về môt ai đó có thật
ngoài đời hấp dẫn và phong phú lạ thường. Như vậy, chúng ta thừa nhận hiển nhiên trong nhiều
tác phẩm người kể chuyện không song trùng với với tác giả. Bởi “Chủ thể tường thuật là một mặt
của vấn đề tác giả trong văn học” [135, tr. 155].
3.3. Tính chất tự truyện
Chúng tôi quan niệm tự truyện là thể loại tự sự có đặc điểm cơ bản là tác giả tự viết về
mình. Chất liệu chính của tự truyện là vùng kí ức đầy kỉ niệm, được nhà văn tái hiện lại theo một
chủ ý rõ ràng dưới dạng sở thích của riêng mình.
Tự truyện có nhiều dạng, có nhiều mức độ thể hiện khác nhau: viết theo lối kể hoặc viết
theo dạng tiểu thuyết hóa. Dạng viết theo lối kể là dựa vào những ấn tượng, những hồi tưởng rồi
sắp xếp lại nhằm mục đích tự truyện. Dạng được tiểu thuyết hóa, thường nghiêng về sáng tạo
nghệ thuật. Tức là có hư cấu trên nền tảng của những ấn tượng, những hồi tưởng của quá khứ.
Không gian, thời gian, thế giới nhân vật luôn được mở rộng. Tiểu sử, lai lịch của tác giả vẫn giữ
vai trò quyết định để làm nên cốt truyện. Khi tự truyện được tiểu thuyết hóa, người kể chuyện
không nhất thiết phải xuất hiện ở ngôi thứ nhất, mà có thể xuất hiện ở ngôi thứ ba.
Theo Đỗ Đức Hiểu: “Tự truyện là một thể loại văn học trong đó tác giả tự kể chuyện về
cuộc đời mình. Nhân vật chính của truyện chính là tác giả (…) kể lại dĩ vãng của chính tác giả, có
thể gần trọn cuộc đời, có thể thời thơ ấu, có thể thời phiêu lưu (…). Tự truyện kể các chuyện về
cái “tôi” tác giả. Tự truyện không phải là sự tập hợp những kỉ niệm tản mạn, mà được bố trí như
một truyện, một tiểu thuyết” [33, tr. – 1905].
Người viết tự truyện thường tuân theo nguyên tắc tái hiện chứ không phải là tái tạo lại cuộc
đời đã qua trong tính toàn vẹn cụ thể – cảm tính, phù hợp với một lí tưởng xã hội thẩm mĩ nhất
định. Viết tự truyện khác viết hồi kí. Vì hồi kí chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kì lịch sử, mà
tác giả không phải là nhân vật chính. Ví dụ: hồi kí “Sống như anh” của Trần Đình Vân. Viết tự
truyện cũng khác với viết tự thuật. Nếu tự thuật trình bày mot cách mạch lạc súc tích những sự
kiện đã xẩy ra trong cuộc đời tác giả, thông báo quá khứ, tôn trọng tính xác thực của các sự kiện
thì tự truyện các sự kiện, tiểu sử nhà văn chỉ đóng vai trò cơ sở của sáng tạo nghe thuật. Chẳng
hạn, “Những trường đại học của tôi” (tự thuật), “Thời thơ ấu” (tự truyện) của nhà văn Nga M.
Gorki. “Tự truyện có thể bao quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự và sử thi”
[123, tr. 389]. Người kể chuyện trong tự truyện thường xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít, đóng vai
là môt nhân vật. “Nhân vật kể chuyện có tham vọng ghi lại lịch sử tâm hồn con người từ “cái
nhìn bên trong” [2, tr. 163]. Rất nhiều nhà văn viết tự truyện. Thí dụ: Sống để kể lại của Gabriel
Garcia Marquez, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Cỏ dại của
Tô Hoài, Quê nội của Võ Quảng, Từ giã tuổi thơ của Nguyễn Minh Châu, Tuổi thơ im lặng của
Duy Khán, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Dòng sông tuổi thơ của Nguyễn Quang Sáng .v.v.
Tự truyện của Nguyễn Khải viết theo lối kể, dựa vào ấn tượng, dựa vào hồi tưởng. Cái “tôi”
- tự truyện của Nguyễn Khải bộc lộ trong các truyện Một giọt nắng nhat, Một người Hà Nội, Đã
từng có những ngày vui, Mẹ và bà ngoại, Má hồng, Ngôi chùa các chị, Hai ông già ở Đồng Tháp
Mười, Nếp nhà, Nắng chiều, Đời khổ, Nhìn lai những trang viết của mình, Nếu trái tim tôi chưa
nguội lạnh, Cuộc tìm kiếm mãi mãi. Đó là những trang tự truyện, kể về cuộc đời thăng trầm chìm
nổi của đời mình rất cảm động. Dạng tự truyện đã được tiểu thuyết hóa có tác phẩm Thượng đế
thì cười. Trong tiểu thuyết này, Nguyễn Khải tự viết về mình, có khát vọng kể lại con người mình
theo diễn trình của thời đại. Từng phần tự truyện gần như là những giai thoại, người đọc biết được
nhiều chuyện, nhiều kỉ niệm về cuộc sống không mấy suôn sẻ trong đời sống rất thật của nhà văn.
Nó giúp người đọc hiểu sâu thêm, đầy đủ hơn về con người nhà văn. Các tác phẩm có tính chất tự
truyện được nêu trên, nó đóng vai trò quan trọng trên bước đường sáng tạo của ông. Đặc điểm nổi
bật trong truyện, tiểu thuyết tự truyện Nguyễn Khải, nhân vật xưng “tôi” tự kể chuyện mình là lối
kể một giọng. Lời kể thường bộc trực chân thành xuất phát từ cái tâm tình của tác giả. Xưng “tôi”
kể chuyện mình là để sống hết mình với cái tôi, dám trình bày mình ra trước công chúng. Người
kể chính là người dẫn dắt mạch kể, tự bình luận, phân tích những biến cố liên quan trực tiếp đến
bản thân mình.
Viết tự truyện là lúc nhà văn biến mình thành đối tượng thẩm mĩ, xen vào đó là những nhận
xét, triết lí một cách hồn nhiên. Trong hồi ức, Nguyễn Khải nhớ lại cả quãng đời tuổi thơ đến khi
trở thành một nhà văn cách mạng, nhiều năm tháng không thể nao quên, nhất là thân phận của
mình. Trang tuổi thơ của ông là những năm tháng buồn. Ông đi tìm thời gian đã mất và cắt nghĩa
nó: “Những năm còn nhỏ tôi sống rất buồn. Những người thân nhất của tôi đều có một số phận
rất buồn. Họ gánh vác mọi nỗi buồn một cách nhẫn nhục, cam chịu vì đã xem đó là một định
mệnh. Cuộc đời của những con người bé nhỏ với những buồn vui, lo lắng vặt vãnh ám ảnh tôi
suốt một đời”. Đoạn hồi ức này, thời gian lịch sử không đồng nhất với thời gian hiện tại. Đây là
thời gian của sự chiêm nghiệm đang ở thì hiện tại soi chiếu vào thời gian dĩ vãng. Lồng vào cái
nhìn về quá khứ là nỗi niềm của Nguyễn Khải suy gẫm chiêm nghiệm về thời thế, gia đình dòng
họ mình.
Viết tự truyện là được sống với riêng mình. Khi ý thức về cái “tôi” cá nhân trỗi dậy, trong
đó cảm hứng chính là tìm lại mình. Trong truyện Môt giọt nắng nhạt (1987) tác giả nhìn lại một
phần trong cả cuộc đời. Phần tuổi thơ Nguyễn Khải không phải là quãng đời đẹp nhất, vui nhất
mà là một tuổi thơ buồn: “Cái tuổi 15 của tôi nửa vui lại co nửa buồn. Việc nước thì vui, việc nhà
thì buồn” [55, tr. 245]. Ông hay buồn, vì mặc cảm thân phận con thêm con thừa của một ông
quan. Buồn vì thương mẹ: “một người đàn bà đem thân đi lấy lẽ là tội nghiệp hết sức, đau đớn hết
sức” [55, tr. 246]. Buồn vì bị khinh, bị làm nhục: “Thời niên thiếu của tôi cũng vất vả, không chỉ
vì miếng ăn mà còn vì không có chỗ đứng đàng hoàng trong một gia đình lớn. Nên hay bị làm
nhục. Một đời tôi vẫn sợ người khác làm nhục (…). Nên một đời không dám làm nhục bất cứ ai,
không dám nói nặng quá lời với một ai” [57, tr. 427]. Ý thức rất rõ cái thân phận mình. Thay vì
được hưởng tình thương ấm áp của người bố thì bố lại hững hơ. Có lần bố tiếp chuyện với khách,
bố đã tiết lộ điều “tôi” lo nghĩ: “Quan lớn được mấy người con? – Bố tôi thưa: “Bẩm cụ lớn,
chúng con được bảy cháu, hai trai và năm gái. Tức là không có hai anh em tôi trong bảy người
được kể” [55, tr. 253]. Những câu hỏi: “Bố có thương anh em tôi không? Ông có ân hận vì đã đẻ
ra chúng tôi không?”, nó không những không có được sự hồn nhiên của tuổi thơ mà thay vào đó
là sự đau đớn của một tâm hồn trẻ tan nát. Cảm giác đớn đau, tủi hổ và cả lo sợ nữa trùm lên
quãng đời niên thiếu của ông. Sau này lớn lên, mỗi lần nhớ lại, ông thấy chua chát cho thân phận:
“Sống gì mà nhục thế, mà khổ thế, mà kì cục thế. Con chẳng ra con, đầy tớ chẳng ra đầy tớ. Bỏ đi
không được, cứ nhẫn nhục mà sống, trơ tráo mà sống, là người thừa của gia đình, nói cũng thừa,
cười cũng thừa, ra ra vào vào lại càng thừa” [57, tr. 251]. Bởi thế, ngay từ thời niên thiếu, người
kể chuyện – cậu bé Khải đã thấm thía nỗi nhục nhã, đau đời mỗi khi thân phận bị xúc phạm: “Bị
khinh ghét còn kha, bị khinh rẽ mới là nhục”. Thế mới biết Nguyễn Khải khổ đau đến nhường
nào. Nó là nỗi ám ảnh không dứt, hằn sâu vĩnh viễn trong cuộc đời ông. Đây có lẽ là những ấn
tượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng hình thành nhân cách của ông.
Ông rất dễ xúc động trước những người cùng cảnh ngộ: “những số phận bất hạnh, những
cuộc đời ngang trái, những trớ trêu trong nhiều cảnh ngộ luôn quyến rũ tôi. Bởi ở đó tôi đã gặp lại
chính tôi, gặp lại những người thân nhất của tôi, để có dịp nhìn lai, ngẫm lại những cuộc vật lộn
thầm lặng, đau đớn để tự khẳng định những giá trị chả thua kém ai của mỗi người trong bọn họ”
[57, tr. 422]. Nguyễn Khải đã bắt gặp chính mình trong lần tiếp xúc với nhân vật ông Hai thư kí
trong Hai ông già ở Đồng Tháp Mười. Cuộc đời truân chuyên, khổ đau của ông Hai thư kí có một
phần tuổi thơ của cậu bé Khải trong đó. Dáng vẻ “rón rén”, “e ngại” đến tội nghiệp của ông Hai
trong bữa ăn, đã khiến ông Khải chạnh lòng, tủi phận “ăn nhờ ở nhờ” của mình thuở nhỏ. Hình
tượng ông Hai thư kí là hành trình trở về tuổi thơ chìm trong sâu thẳm có dịp trở về đầy xúc động
của Nguyễn Khải. Nhìn lại những trang viết của mình, Nguyễn Khải tâm sự: “Truyện ngắn Đứa
con nuoi và mấy chục năm sau trong truyện ngắn Hai ông già ở Đòng Tháp Mười đã trộn lẫn
nhiều kỉ niệm không vui của tôi hồi còn nhỏ” [57, tr. 423].
Chính cuộc sống cơ cực ấy đã nhen nhóm, rèn đúc cho ông có được một nghị lực mạnh mẽ,
làm cháy lên khát vọng được khẳng định bản thân: “Sống bằng nhẫn nhục, chịu thương chịu khó,
không giây phút nào tự buông lơi, không giây phút nào được tự huyễn hoặc. Sống cho hết cái có
thể có của mình, rồi đơi sẽ giúp mình sau” [57, tr. 291]. Là kỉ niệm thường được lưu giữ cẩn
thận. Chính tuổi thơ buồn tủi ấy có phần làm nên tính cách con người Nguyễn Khải. Những cảnh
đời trớ trêu thường được ông đồng cảm sẻ chia, cảm thông với thái đô chân thành: “Những người
đàn bà xấu xí bị chế giễu, bị bỏ quên lại có một tâm hồn trong sáng, vị tha trong các truyện ngắn
Mùa lạc, Chuyện một người tổ trưởng máy kéo, Gia đình lớn, Nắng chiều đều có ít nhieu bóng
dáng của mẹ tôi, của các dì và cũng còn của chính tôi nữa” [57, tr. 423]. Đây cũng là cơ sở để lí
giải, Nguyễn Khải thường hay hóa thân vào nhân vật có số phận hẩm hiu, hoặc nhân vật có ý chí
nghị lực vươn lên hoàn thiện nhân cách: “Cuộc đời của những con người bé nhỏ với những nỗi
buồn, lo lắng vặt vãnh ám ảnh tôi suốt một đời. Cho đến tận bây giờ, những số phận bất hạnh,
những cuộc đời ngang trái, những trớ trêu của nhiều cảnh ngộ luôn quyến rũ tôi. Bởi ở đó, tôi đã
gặp lại chính tôi, gặp lại những người thân thiết nhất của tôi” [57, tr. 422].
Nguyễn Khải kể: ông có tính cách nhút nhát, đôi lúc lại nhân nhượng đến mức nhu nhược,
nhưng được gặp thời, gặp thầy, gặp bạn mà nên sự nghiệp. Ông tự hào: “Cái đời mình, ngẫm lại,
kể cũng được là một giọt nắng, nhưng nhạt và buồn, dẫu sao cũng là của một ngày trời đã có
nắng” [55, tr. 245]. Kỷ niệm về người thân trong gia đình, dòng tộc thường gắn với buồn tủi
nhiều hơn niềm vui, ngọt ngào ít đắng cay nhiều. Nhà văn không có ý giấu nỗi buồn của tuổi thơ
trong cái nhìn tổng kết hôm nay: “Việc nước đối với lứa tuổi tôi là rất may mắn. Việc nhà đối với
riêng tôi, cũng là may mắn, ấy là sau này khi tuổi đã lớn mới nghĩ được như thế, vì đã có một thời
kỳ được thử thách đến tận cùng. Tưởng là con ông cháu cha hoá ra không phải, chỉ la con thêm
con thừa. Bao nhiêu mơ mộng của tuổi thơ ngây phút chốc mất sạch. Cái sự thật về thân phận qua
mỗi năm tháng lại tuột ra một lớp vỏ, rút lại cái lõi của nó không đáng một xu. Chẳng là cái gì ở
cõi đời này. Là một thằng ăn cắp! Lại ghẻ lở, lại bẩn thỉu, bị căm ghét còn khá, bị khinh rẻ mới
thật nhục. Có thể chết được chăng? Không thể chết được. Vậy thì phải sống.” [55, tr. 291].
Người đọc cảm nhận rõ thêm những chặng đường chuyển đổi tình cảm, ý thức sống, lí tưởng
sống và ảnh hưởng của nó đối với cuộc đời ông sau này.
Tác giả dành tình cảm sâu sắc cho mẹ trong truyện Mẹ và bà ngoại (1996): “Một người mẹ
hiền lành, nhu nhược, thích song ỉ lại, phụ thuộc. Bà quá tin vào sự bất biến của tình yêu, tình
thương của người chồng, đã từng hụt một lần suýt chết vì sự cả tin ấy” [54, tr. 86]. Tác phẩm này
cũng là tấm lòng của nhà văn mang ơn mẹ, đề cao mẹ đa vượt lên số phận: “Một bà mẹ không
biết có tình yêu, không biết đến vợ chồng. Một đời chỉ biết nhăm nhắm có miếng ăn, cho con và
cho mình”. Một ông bố thì “thi thoảng mới được giáp mặt, nửa thân, nửa lạ như khách”. Một bà
ngoại: “Cụ chỉ tin vào chính mình, tháo vát và quyết đoán. Ông ngoại mất sớm, một mình bà
ngoại, bà không nhờ vả một ai, dắt một bầy con nhỏ lên Hà Nội kiếm sống” [54, tr. 87]. Sau ba
mươi năm, bà ngoại tạo dựng được đại gia đình bề thế ở đất kinh kì. Bà ngoại là người phụ nữ
cứng cỏi, quen sống bằng ý chí. Nhờ ý chí mà cụ chống chọi được mọi khó khăn ở đời. Đức tính
tốt của bà như được ngấm mặn vào nhà văn, nâng đỡ Nguyễn Khải vượt qua những thử thách bão
tố cuộc đời.
Trong truyện Má hồng (1997) là dòng hồi ức về cô Dịu, một người bên ngoại. Cô và mẹ có
cùng một cảnh ngộ “cô Dịu tiếng thế mà cũng khổ như tao”. Cô không chỉ có sắc mà còn có tài:
“Cô Dịu đẹp quá, tài hoa quá, lại sắc sảo nữa”. Cô Dịu là mẫu mực trong ứng xử với chồng con,
theo cô: “Không nên đòi hỏi gì ở người đàn ông cả, mình cứ làm cho hết bổn phận. Nếu là người
biết nghĩ thì họ sẽ sửa đổi, do họ muốn đổi chứ không do người đàn bà buộc họ phải sửa đổi. Đàn
ông họ sợ nhất là bắt buộc (…) tốt nhất là đừng trói buộc gì cả, cho họ tự do hoàn toàn, còn mình
phải tạo ra một gia đình thật ấm áp, là nơi trú ngụ tin cậy nhất của những ông chồng sau mọi thất
bại” [54, tr. 204].
Trong truyện Một người Hà Nội (1990) nhiều kỉ niệm thân thương đầy ắp tình người,
tình đời. Cô Hiền, chị Đại là người dạy cho tôi “biết tôn trọng, biết xấu hổ”, “Đi đứng nói
năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Cô Hiền đã ngoài bảy mươi
tuổi mà cô “vẫn là người của hôm nay, một người Hà Nội hiện nay, thuần tuý Hà Nội,
không pha trộn”. Người Hà Nội thời nào cũng đẹp “Một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”,
nét nổi bật trong phong cách của họ là thanh lịch, tinh tế, sang trọng, thức thời và thực tế.
“Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi chìm sâu vào
lớp đất cổ” [56, tr. 118].
Nhìn lại quá khứ buồn so sánh với hiện tại, Nguyễn Khải biết ơn thời thế, biết ơn cách
mạng. Ông tâm sự: “Trước cách mạng, tôi không có lai lịch, một khoang trống mù mờ vơi những
kỉ niệm vụn vặt (…) Sau cách mạng, tôi mới có ước mơ, có tham vọng, có nghề nghiệp, có vợ
con để chăm lo và tính toán đến tương lai”. Câu chuyện đời ông, người đọc thấy được ông đã
hàm ơn cách mạng sâu nặng đến nhường nào. Trong truyện Đã từng có những ngày vui
(1992) “tôi” - tự truyện kể về ngày tháng sống nhờ vào bà bác ở phố Đỗ Hữu Vị năm
1945. Cuối 1946, gia đình rời Hà Nội về thị xã Hưng Yên quê ngoại. Năm 1955 trở về Hà
Nội. Tác giả nhắc lại nhiều chuyện cũ. Nếu ở truyện Một giọt nắng nhạt, cái “tôi” - tự
truyện luôn cảm thấy buồn, tủi cực, giọng kể chùng lại thì truyện Đã có những ngày vui,
cái “tôi” - tự truyen có cái vui thật lòng. Vui từ bản thân đến cái vui của cả đại gia đình.
Đấy là bà bác đầy quyền uy, luôn được cháu con và mọi người kính trọng; chị Linh, chị
Nga ngấm ngầm hoạt động cách mạng. “Tôi” - tự truyện quay về quá khứ vừa kể vừa tỏ
thái độ về sự đổi thay của hôm nay: “mới hay cái phép thiêng của niềm tin, tình yêu có thể
cải tử hoàn sinh là chuyện có thật” [53, tr. 338]. Nghĩ về thời gian và đời người, tác giả
ngắm nghía lại bản thân, gia đình thoáng chút bâng khuâng nhưng luôn là kỷ niệm vui
nhất, đẹp nhất khó phai nhạt.
Tác giả lấy tiểu sử, đời tư làm chất liệu của sáng tạo nghệ thuật. Nhìn lại hơn năm
mươi năm với nghề cầm bút, tác giả tâm sự ở truyện Nghề văn cũng lắm công phu (1992):
“được làm văn làm báo một thời ồn ào, chói lọi” [61, tr. 15] lại càng may mắn lắm.“Tôi chỉ là
một người có tài nhỏ nhưng đã gặp may nên mới có cơ hội để mài dũa cái công cụ không ra gì
của mình dần dần trở nên dùng được”. Có khi ông tự trách: “đọc lại những trang viết của tôi mà
tiếc cho những năm tháng đã sống vật vã, sống nguy hiểm, sống hào hùng mà rút lại chỉ còn là
những bài báo nhạt nhẽo (…) nhưng ngày ấy có ai chỉ bảo cho tôi biết cái điều quan trọng đó
đâu!” [61, tr. 20]. Nguyễn Khải hay xét đoán, cắt nghĩa đến tận cùng “cái số tôi tuy hay gặp may
nhưng là cái may của một kẻ gặp nhiều sự không may khi bước vào nghề (...). Bao nhiêu năm cứ
loay hoay tìm kiếm nền văn học mới (...) lúc nhận ra cái đúng cái sai, cái hay cái dở thì đã già mất
rồi” [61, tr. 24]. Cái “tôi” chất vấn: “Vậy mình có tài hay không co tài, có tài thì nen cố (...) còn
đã không có tài thì nên bỏ. Làm nghề sáng tạo mà bất tài thì tủi cực trăm đường, sẽ luôn luôn là
người thừa” [61, tr. 26]. “Tôi” thú thực một cách chân thành “gần bốn mươi năm trời theo đuổi
một đề tài cũng coi như mất một đời người mà cái hiểu và cái viết của mình vẫn chưa ra đâu vào
đâu, cái nghề gì mà vất cả, mà rắc rối quá chừng” [61, tr. 30]. Nói cho cùng “đến tuổi năm mươi
mới thực sự bước chân vào làng văn (...). Nghề bạc đãi tôi, hành hạ tôi, làm nhục tôi, dẫu là thế,
tôi vẫn tự nhủ quyết không bỏ. Được yêu nó, được thờ phụng nó cũng đã rất bằng lòng rồi mà”
[60, tr. 46]. Qua lời tâm sự, người đọc nhận ra Nguyễn Khải là một người lao đông nghiêm túc,
chịu khó khổ luyện, có ý thức trách nhiệm với nghề. Nguyễn Khải luôn có thái độ thẳng thắn, tinh
thần dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm với đứa con tinh thần của mình. Nguyễn Khải ý thức đề cao
trách nhiệm, sứ mệnh xã hội của nhà văn. Trong bài tạp văn Nếu như trái tim tôi chưa nguội
lạnh (1995) ông ý thức: “trách nhiệm xã hội vô cùng to lớn của họ không chỉ trong ngày hôm
nay mà còn cả mai sau” [61, tr. 56].
Một nhà văn sẵn sàng phơi bày tất cả những thói xấu kín mật của chính bản thân để đạt đến
sự chân thật. Một nhà văn hay tự vấn mình về nghe viết, ông “vô cùng xấu hổ và rất buồn về
những trang viết chủ quan và kiêu ngạo, chỉ khẳng định một niềm tin, một cách sống, rồi dạy dỗ,
rồi lên án, rồi chế giễu tất cả những gì khác biệt với mình”. Nhà văn viết truyện Cái thời lãng
mạn để tạ lỗi với nhân vật Tuy Kiền trong Tầm nhìn xa. Vơi nhu cầu tự nhìn lại, ông viết tiểu
thuyết Cha và con và… để nhận thức lại điều đã viết trong Xung đột. Nhà văn trăn trở với
điều nhận thức lại chưa đủ, ông viết thêm tiểu thuyết Thời gian của người.
Truyện Người ngu (1997) kể về việc nhận tiền nhuận bút của nhà văn gặp chuyện không
may, phải đền chai rượu cho một người lương thiện. Nhân vật truyện có thể là chuyện của một
nhà văn nào đó chưa hẳn là tác giả, được nhà văn đưa vào trong tác phẩm và được kể bằng sự
chiêm nghiệm của mình. Nhân vật “tôi”, từng ngu nhiều lần, bị lừa nhiều lần. Lần này bị lừa do
sự cả tin, tự thú nhận là người ngu lâu, bị vợ chê quá ngu. “Tôi” “quyết định chơi ran và không
được phép tin một ai cả, phải giữ nguyên tắc sống, thà để kẻ khác chịu thiệt chứ dứt khoát không
để mình chịu thiệt, là danh cũng thế, là lợi cũng thế, phải tự vệ tới cùng, có trường hợp mình phải,
có trường hợp mình trái, trái thì trái nhưng cứ to tiếng, cứ lấn tới thì cái trái sẽ thành phải. Thiếu
gì người đã từng làm thế để tồn tại, để ngoi lên, để phủ bóng đen lên người khác mà rồi vẫn được
xã hội trọng dụng”. Cái “tôi” nghề nghiệp đã tỉnh táo lên tiếng: “có điều dám sống như thế thì
phải bỏ nghề viết”.
Nguyễn Khải khéo léo khai thác sức mạnh nghệ thuật kể chuyện. Từ dựng chuyện, sử dụng
lời kể đều rất tự nhiên, khách quan với giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm. Người đọc vô cùng thán
phục cách bình luận, giải thích của ông, điều mà nhiều người khó làm được. Qua giọng kể, người
đọc khám phá ra nhiều điều thú vị của thế giới tâm hồn nhà van. Nhân vật “tôi” - tự truyện còn
được thể hiện rải rác ở một số truyện khác, nhưng bất cứ ở đâu, kỉ niệm về quãng đời của nhà văn
đều là những kỉ niệm đẹp, trầm buồn, lối tự truyện chân tình dẫn dắt đôc giả về với một thế giới
của những vùng kí ức dòng tộc, gia đình, bầu bạn của Nguyễn Khải.
Nhìn lại mạch tự truyện của nhà văn, thế giới tinh thần của cái “tôi” tự kể là một hành trình
đi từ quá khứ buồn tủi đến niềm vui, là niềm kiêu hãnh được đổi đời, được đến với cách mạng và
kháng chiến. Sự từng trải, khả năng nắm bắt nhanh nhạy hiện thực đời sống và biệt tài phân tích
mổ xẻ đời sống tinh thần, đã tạo nên những bước nhảy trong nghệ thuật từ khám phá bản thân
mình sang khai thác thế giới con người.
Sáu truyện, người kể chuyện xưng “tôi”, cái “tôi - tác giả” trực tiếp xuất hiện và 12 truyện
lồng ghép cái “tôi”- tự truyện đã tái hiện lại sinh động cuộc sống đầy ắp những kỉ niệm, tạo nên
ấn tượng khó quên về Nguyễn Khải. Lối kể chuyện này thiên về một giọng, bởi tự mình độc diễn
vừa dẫn dắt vừa thể hiện, vừa đánh giá, bình xét. Với loại truyện này nếu khong khéo léo dễ bị rơi
vào vùng nhật ký. Đặc điểm của tự truyện là nhân vật “tôi” thể hiện tình cảm bộc trực chân thành.
Không gian, thời gian quá khứ lại được kể ở thời hiện tại, vì thế sự kiện, biến cố của nhân vat
được kiểm soát bằng sự chiêm nghiệm. Nội dung tự truyện là sự thật đời tư của cái “tôi” nhà văn.
Tình cảm riêng tư có thể vui tột đỉnh mà cũng có thể buồn vô hạn, khó quên của nhân vật. Người
đọc nhận biết tuổi thơ của ông rất buồn. Lớn lên nhờ cách mạng, hòa mình với kháng chiến là
những năm tháng đẹp đẽ nhất của đời ông. Về già, một người trải qua bao nhiêu thăng trầm của
thế sự, dày dặn kinh nghiệm, lại có lúc ngây thơ con trẻ trước thời đất nước hội nhập. Vì tính chất
tự truyện nên lời kể luôn làm cho người đọc vui buồn lây, chia sẻ cùng nhân vật, nhưng cũng dễ
xẩy ra sự chán trong cảm hứng tiếp nhận.
Những kiến giải trên có lẽ chưa đủ khái quát cuộc đời ông. Người đọc cảm thấy ông là một
nhà văn bên cạnh một nhà tâm lí sắc sảo mà ông có dịp thể hiện mình qua hình tượng người kể
chuyện.
TIỂU KẾT CHƯƠNG BA
Song trùng giữa tác giả và người kể chuyện là một kiểu dạng mới tồn tại xuyên suốt trong
một số tác phẩm của Nguyễn Khải. Phải thừa nhận rằng, kiểu dạng song trùng này là một thủ
pháp táo bạo của Nguyễn Khải trong sáng tác của mình. Dạng người kể xưng “toi” tự truyện,
xưng “tôi” nói thẳng là tác giả trong một loạt tác phẩm đã thể hiện ý thức về “cái tôi” nghệ sĩ rất
sâu sắc. Đó là môt tín hiệu đổi mới của tư duy nghê thuật, là cách thể hiện về cách nghĩ và cách
viết, về công việc văn chương. Có thể nói, hình thức người kể chuyện xưng “tôi” nói thẳng là tác
giả đã góp phần làm mới văn xuôi tự sự hiện đại Việt Nam.
Không song trùng giữa tác giả và người kể chuyện do đac thù của thể loại tự sự. Thật ra sự
không trùng hợp giữa tác giả và người kể chuyện là sự khẳng định con người nhiều chiều trong
tính phức tạp của nó. Sự không song trùng này đã làm cho tác phẩm tự sự có tính đa thanh, đa
giọng điệu, làm cho người đọc hình dung được hiện thực khách quan dường như mới được viết
cho con người hôm nay. Đây cũng là một dạng phổ biến của tự sự truyền thống để tác giả rộng
đường bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình trong việc sáng tạo người kể chuyện mà không làm
giảm sức truyền cảm, giá trị thẩm mĩ của lời kể chuyện. Phương thức trần thuật không song trùng
giữa tác giả và người kể chuyện thường làm cho tác phẩm tự sự đạt được mục tiêu nhận thức và
khám phá hiện thực có tính khái quát hoá rộng lớn. Nó là phương thức tự sự đã được khẳng định
từ lâu trong lịch sử sáng tạo văn học nghệ thuật.
Tự truyện cũng là một dạng tự sự có sở trường riêng. Nhận thức lại chính mình luôn là một
nhu cầu của con người trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Trong số ít nhà văn viết tự truyện như
M.Gorki với “Thời thơ ấu”, Gabriel Garcia Marque với “Tự truyện”, Nguyên Hồng với “Những
ngày thơ ấu” .v.v thì Nguyễn Khải chưa viết thành một tác phẩm tự truyện khái quát đời mình.
Nhưng những truyện và tiểu thuyết xuất hiện người kể chuyện xưng “tôi” – tự truyện đã phần nào
thể hiện chân dung tự hoạ về mình trong văn chương. Tự truyện làm cho người ta ý thức được về
sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện lại sâu sắc hơn mối quan hệ giữa con người
cá nhân với con người xã hội, thúc đẩy nhu cầu đối thoại với chính mình để phát triển.
KẾT LUẬN
Giáo sư Lê Ngọc Trà viết: “Chủ thể tường thuật là một mặt của vấn đề tác giả trong văn
học. Nghiên cứu vấn đề người kể chuyện vừa tạo điều kiện để nhận thức quá trình cá thể hóa và
cá nhân hóa trong sáng tạo văn học, vừa mở ra cách tiếp cận với sự thể hiện của ý thức nghệ
thuật, với cái nhìn của nhà văn trong tác phẩm” [135, tr. 155]. Thực hiện đề tài “Người kể chuyện
trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải” chúng tôi tiếp thu, kế thừa những thành tựu nghiên cứu
quí giá của những người đi trước, vận dụng lí thuyết thi pháp học và phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành như phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phân loại, so sánh và phân tích
để làm sáng tỏ các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện, hình tượng người kể chuyện cùng
mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả, từ đó xác định nghệ thuat sáng tạo người kể chuyện
trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải.
1. Nguyễn Khải là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại,
một nhà văn có nhiều thành tựu nổi bật trong lao động nghệ thuật từ trước 1980, nhất là sau công
cuộc đổi mới văn học từ 1986 lại nay. Sáng tác của Nguyễn Khải đa dạng về thể loại. Ở thể loại
nào, ông cũng có những tác phẩm đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các tác phẩm đó trở thành một
hiện tượng văn học thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và tạo được uy tín trong đông
đảo bạn đọc. Nguyễn Khải đã nhìn đời rất mới với tất cả những quan hệ xã hội. Thân phận và
cuộc đời con người đi vào trong tác phẩm của nhà văn hết sức mới lạ, sinh động. Đời sống tinh
thần được nhà văn nhìn nhận trong cảm hứng nghiên cứu, cảm hứng phân tích, chiêm nghiệm với
sự táo bạo đổi mới nghệ thuật trần thuật thực sự, đem đến cho người đọc những trang viết sắc sảo
thấm đẫm chất suy tư, triết lí… Đó là một trong những yếu tố cơ bản làm nên cái độc đáo của
Nguyễn Khải so với các nhà văn cùng thời, góp phần làm phong phú diện mạo văn học.
2. Trong những sáng tác trước 1980, Nguyễn Khải quan tâm chủ yếu đến những vấn đề
chính trị – xã hội. Thường thì nhà văn lấy quan điểm cộng đồng để miêu tả, kể chuyện và đánh
giá hiện thực. Phương thức phản ánh hiện thực này làm cho một số tác phẩm có tính đơn thanh,
lời kể, lời độc thoại một chiều. Điểm nhìn nghệ thuật hầu hết hướng ra bên ngoài do tính chất
hướng ngoại của nhân vật. Người kể thường xuất hiện ở ngôi thứ ba. Lời kể, lời miêu tả đối tượng
là của người quan sát, chứng kiến. Chủ thể kể chuyện chủ động phân tích, bình luận. Lời chủ thể
lấn át lời nhân vật, không mấy khi nhân vật có cơ hội phát biểu được dòng ý thức của mình.
Người kể chuyện có mặt khắp mọi nơi trong tác phẩm. Từ lời dẫn truyện đến cách tả cách kể, đến
lời trữ tình ngoại đề … đều mang tư tưởng của tác giả. Nhà văn luôn chủ động sai khiến nhân vật,
đôi lúc biến nhân vật thành người phát ngôn cho quan điểm tư tưởng của mình, như trong Xung
đột, Mùa lạc, Tầm nhìn xa, Thượng đế thì cười… nhất là trong các tác phẩm viết về tôn giáo: Một
chặng đường, Điều tra về một cái chết, Cha và Con và … v.v.
3. Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống văn học, nghệ thuật kể chuyện trong tác
phẩm tự sự của Nguyễn Khải có sự đổi mới táo bạo. Không riêng gì Nguyễn Khải mà các nhà
văn khác như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường
v.v. cũng đã đưa vào trong tác phẩm của mình những chiêm nghiệm và dự cảm về sự biến đổi của
xã hội, về thời cuộc, về thân phận con người. Sau những năm 1980, Nguyễn Khải có cái độc đao
hơn trong những nhà văn tiêu biểu cùng thời là tạo được cho mình một lối đi riêng. Nhà văn tập
trung khai vỡ về đời sống nhân thế, quan tâm đến hạnh phúc con người, số phận hẩm hiu, lựa
chọn và lạc thời, tuổi trẻ và tuổi già, thời gian đời người, đối thoại và hội nhập. Hầu hết các sáng
tác của Nguyễn Khải đều là sự kết tinh những tìm tòi, thể nghiệm, những suy tư trăn trở của ông
nói riêng và của văn xuôi Việt Nam nói chung mong muốn khao khát giải bày, đối thoại với bạn
đọc từ những chiêm nghiệm của chính mình. Vì vậy, hình thức người kể chuyện “xưng tôi” trong
những tác phẩm Nguyễn Khải sau này chiếm ưu thế so với thời kì sáng tác trước 1980. No có y
nghĩa như một dấu mốc đánh dấu sự đổi mới tư duy, cách tân nghệ thuật trần thuật - “Người kể
chuyện” trong tiến trình sáng tạo của Nguyễn Khải và quá trình vận động đổi mới của văn học
Việt Nam hiện đại. Tuy nhien, quá trình nghiên cứu người kể chuyện trong tác phẩm của Nguyễn
Khải nó cho thấy những ưu điểm và chỗ hạn chế của nghệ thuật trần thuật trong văn học. Chúng
tôi nhấn mạnh rằng: những hình thức chủ thể kể chuyện xưng “tôi” trong tác phẩm Nguyễn Khải
là sự sáng tạo có ý nghĩa đổi mới nghệ thuật trần thuật, một cách nhìn hiện thực rất mới.
4. Nguyễn Khải là người sử dụng rất linh hoạt điểm nhìn nghệ thuật trần thuật không chỉ
trong phương thức trần thuật khách quan: dạng không bình luận trữ tình ngoại đề và có bình luận
trữ tình ngoại đề, mà còn rất thành công trong cả phương thức trần thuật chủ quan dạng người kể
chuyện “xưng tôi” – chứng kiến, quan sat, không tham gia biến cố và có tham gia nói chuyện với
nhân vật; “xưng tôi” nói thẳng là tác giả và “xưng tôi” không nói rõ mình là tác giả; đồng thời vận
dụng khéo léo phương thức trần thuật hỗn hợp dạng vừa kể như vô nhân xưng, dạng có đoạn
nhân vật “tôi” kể, lại vừa có dạng một nhân vật trong truyện đứng ra kể. Mỗi phương thức trần
thuật đều được nhà văn khai thác mạnh mẽ tính ưu trội của nó để đạt được mục đích nghệ thuật.
Thành công trong phương thức trần thuật khách quan ở điểm nhìn, việc kể, hành vi lời kể diễn ra
liền một mạch logic, khách quan; trong phương thức trần thuật chủ quan ở chỗ thay đổi điểm
nhìn, cách nhìn, suy nghĩ hành động, nói năng giọng điệu, việc kể, hành vi lời kể đem lại một thế
giới nội tâm đầy tâm trạng, suy tưởng, giàu tính cá thể hóa, sinh động, đa thanh đa giọng điệu, dễ
tạo ra được môi trường đồng sáng tạo của người đọc. Với phương diện này, xét về mặt thi pháp
các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện trong tác phẩm Nguyễn Khải đã góp phần làm mới
nghệ thuật trần thuật cho văn xuôi Việt Nam hiện đại.
5. Phương thức trần thuật từ nhiều điểm nhìn làm nổi bật lên hình tượng người kể chuyện
mang chất cán bộ, hình tượng người kể chuyện suy tư, triết lí và hình tượng người kể tự giễu
mình, tạo nên sức hấp dẫn đối với mọi thế hệ bạn đọc. Hình tượng người kể chuyện đã thể hiện rõ
ý tưởng của nhà văn là xây dựng “loại hình nhân vật tư tưởng” hơn hẳn “nhân vật điển hình hóa”.
Đây là một bằng chứng đặc sắc về đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Khải, là một điều mới
mẻ có ý nghĩa thẩm mĩ bổ sung cho nghệ thuật xây dựng hình tượng người kể chuyện trong văn
xuôi tự sự thời đại mới.
6. Nguyễn Khải là một trong những nhà văn luôn tìm tòi thể nghiệm, mạnh dạn đổi mới
nghệ thuật trần thuật. Nhà văn nhìn hiện thực trong tình huống có vấn đề. Do đó, truyện và tiểu
thuyết của ông luôn phục vụ cho tính vấn đề đã được thẩm định. Những trường hợp người kể
chuyện song trùng hoặc không song trùng với tác giả đã tạo nên cấu trúc tác phẩm từ nội dung
đến hình thức luôn mang hướng “mở”, dẫn đến tác phẩm của Nguyễn Khải luôn co xu hướng đối
thoại từ bên trong. Ngôn ngữ tự sự từ màu sắc chính trị chuyển dần sang ngôn ngữ đời thường,
sắc sảo, trí tuệ, hàm chứa nhiều thông tin. Đặc biệt là giọng điệu trần thuật từ tỉnh táo khách quan
có thêm sac điệu mỉa mai giễu cợt, ngậm ngùi thương cảm, tác động sâu sắc đến người đọc.
Những chiêm nghiệm, triết lí của nhà văn trong tác phẩm theo quan điểm: “nghệ thuật là khoa
học thể hiện lòng người” mãi mãi là “túi khôn”, giúp người đời vận dụng trong cuộc sống bộn bề
hôm nay.
7. Tính chất tự truyện thể hiện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải là một tư liệu quý
giúp bạn đọc hiểu rõ thêm ít nhiều về con người ông. “Sống không chỉ la quãng thời gian ta đã
sống, đã tồn tại, mà là những gì ta để lại dấu ấn của mình trong cuộc đời này. Trên chặng đường
đó, ta được ước mơ, được thể hiện và sống thật với chính mình, cùng với những nỗi buồn, hạnh
phúc, sai lầm và nỗi đau. Để cuối cuộc đời chúng ta có quyền nhớ lại, hồi tưởng và kể lại những
kí ức không quên đó…” (Gabriel Garcia Marquez).
Luận văn “Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải” là một cố gắng phần
nào đúc kết lại và mở ra những khía cạnh mới trong quá trình đi sâu nghiên cứu nghệ thuật trần
thuật tác phẩm tự sự của Nguyễn Khải. Chúng tôi coi: “Chủ thể tường thuật là một mặt của vấn
đề tác giả trong văn học” và đã tiến hành nghiên cứu với tinh thần khoa học nghiêm túc. Tuy
nhiên dù đã cố gắng nhưng không tránh khỏi thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý chân
thành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2004), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 2, Nxb
Giáo dục.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, H. Nội.
3. M.BakhTin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyen chọn,
dịch và giới thiệu, Bộ Văn hóa TT và TT, Trường viết văn Nguyễn Du, HN.
4. M.BakhTin (1998), Những vấn đề thi pháp Đoxtôiepxki Nxb Giáo dục.
5. Lê Huy Bắc (2002), Giải phẩu văn chương trong nhà trường, Nxb ĐHQG, HN.
6. Nguyễn Thị Bình (1996), Mấy nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau 1975,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
7. Nhị Ca (5/1996), Các chiến sĩ Cồn Cỏ qua ngòi bút của Nguyễn Khải, Tạp chí
Văn học, in lại trong Nguyễn Khải về tác gia…
8. Phạm Quốc Ca (1996), Về một đặc điểm có tính qui luật trong quá trình đổi mới
Văn học Việt nam, Văn nghệ Quân đội (3).
9. Lê Nguyên Cẩn ( ), Về tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất trong văn học phương tây
thế kỷ XVIII, in lại trong sách Tự sự học, Nxb ĐHSP.
10. Phạm Khánh Cao (2/19985), Nguyễn Khải từ kịch”Cách mạng” đến tiểu thuyết
“Gặp gỡ cuối năm”, in lại trong Nguyễn Khải về tác …
11. Vũ Cao (3/1964), Những bước đi khoẻ khoan (Đọc”hãy đi xa hơn nữa”, của
Nguyễn Khải), Tạp chí Văn nghệ Quân đội, in lại trong Nguyễn Khải về tác
gia và tác phẩm.
12. Nguyễn Huệ Chi (2/1962), Thử đánh giá “Xung đột” (phần II), Tạp chí Văn nghệ
(57), in lại trong Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
13. Văn Chinh (11/1985), Thời gian của người, sự liên tục không ngừng, Báo Quân
đội nhân dân, in lại trong Văn h ọc 1975 - 1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội, 1997.
14. Trương Đăng Dung (1985), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb KHXH.
15. Trần Cương (12/1995), Đánh giá văn chương viết về nông thôn trước thời kỳ đổi
mới (1986), Tạp chí Văn học.
16. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu Văn học, Nxb KHXH.
17. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận Văn học, Phần Tác phẩm văn học, Nxb
Đại học Quốc gia TP.HCM.
18. Triêu Dương (6/1963), “Một chặng đường” của Nguyễn Khải, Tạp chí nghiên
cứu văn học, in lại trong Nguyễn Khai về tác gia...
19. Thành Duy (6/1961), “Mùa lạc” một thành công mới của Nguyễn khải, Tạp chí
nghiên cứu khoa học, in lại trong Nguyễn Khải về...
20. Đặng Anh Đào ( ), Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam - một vài hiện
tượng đáng lưu ý, in lại trong Tự sự học, Nxb ĐHSP.
21. Nguyễn Đăng (2/1988), Thời gian của người triết lí về cách sống, Tạp chí Văn
học, in lại trong Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
22. Trần Thanh Đam (2003), Nhìn lại Văn học Việt Nam 1975, ba giai đoạn, ba xu
hướng, Báo Văn nghệ (34).
23. Phan Cư Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục
24. Nguyễn Đặng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb V. học.
25. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc Văn học, Nxb Văn học.
26. Hà Minh Đức (1999), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục
27. Phan Văn Giang (12/1972), Một vài nhận xét về phong cách Nguyễn Khải qua
tập “Chủ tịch huyện”, Tạp chí Tác phẩm mới (22).
28. Văn Giá (2005), Đời sống và đời viết, tiểu luận phê bình, chân dung, Nxb Hội
nhà văn, Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.
29. Nguyễn Hà (2000), Cảm hứng bi kịch nhà văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa
sau thập niên 80, Tạp chí Văn học (03).
30. Nguyễn Văn Hạnh (9/1964) Vài ý kiến về tác giả và tác phẩm của Nguyễn
Khải, Tạp chí Văn học, in lại trong Nguyễn Khải về …
31. Nguyễn Văn Hạnh (10/1972), “Chủ tịch huyện” và nghệ thuật viết truyện của
Nguyễn Khải, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, in lại trong Nguyễn Khải về tác
gia và tác phẩm.
32. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương, (1998), Đặc trưng của văn học, Trích
lí luận Văn học van đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục.
33. Nguyễn Văn Hạnh, (2004), Chuyện văn Chuyện đời, Nxb Giáo dục.
34. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Thập niên Văn học và phân tích thể loại, Nxb ĐN.
35. Phùng Minh Hiển (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật, Nxb
Hội Nhà văn.
36. Bùi Hiển (1996), “Hướng về đâu” Văn học? Nxb Hội Nhà văn, H.Nội.
37. Đỗ Đức Hiểu (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.
38. Nguyễn Kim Hoa (2002), 25 năm một vùng tiểu thuyết, Nxb KHXH.
39. Nguyễn Thái Hoà (1998), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục.
40. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết, L.Tônxtôi, Nxb Giáo dục.
41. Nguyễn Thị Huệ (10/1999), Cảm nhận về con người trong sáng tác của Nguyễn
Khải những năm gần đây, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, in lại trong
Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
42. Đoàn Trọng Huy (1990), Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải, in
lại trong Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
43. Phùng Ngọc Kiếm ( ), Trần thuật trong truyện rất ngắn, in lại trong Tự sự học,
Nxb ĐHSP.
44. Nguyễn Khải (1983), Văn xuôi một chặng đường (1963 - 1983), sách Văn học trong
giai đoạn mới, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam.
45. Nguyễn Khải (1995), Cái thuở ban đầu, bài rút trong Cách mạng kháng chiến và
đời sống văn học 1945 - 1954 (Hồi ức kỉ niệm), Nxb KHXH
46. Nguyễn Khải (1995), Nhìn lại những trang viết của mình, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
47. Nguyễn Khải (1999), Chút phấn của đời, Truyện ngắn và kịch Nxb Trẻ
48. Nguyễn Khải (2001), Tuyển tập tiểu thuyết Nguyễn Khải, Tập I, Nxb Thanh
niên.
49. Nguyễn Khải (2001), Tuyển tập tiểu thuyết Nguyễn Khải, Tập II, Nxb Thanh
niên.
50. Nguyễn Khải (2002), Mẹ và các con, Tập truyện ngắn thiếu nhi Nxb Trẻ.
51. Nguyễn Khải (2002), Hãy đi xa hơn nữa, Tập truyện ngắn thiếu nhi, Nxb Trẻ.
52. Nguyễn Khải (2002), Sống ở đời, Tập truyện, Nxb Trẻ.
53. Nguyễn Khải (2003), Truyện ngắn 1, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội .
54. Nguyễn Khải (2003), Truyện ngắn 2, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội.
55. Nguyễn Khải (2003), Truyện vừa, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội.
56. Nguyễn Khải (2003), Hà Nội trong mắt tôi, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ
57. Nguyễn Khải (2003), Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb G.dục.
58. Nguyễn Khải (2005), Nguyễn Khải - Tiểu thuyết 3, Nxb Hội Nhà văn.
59. Nguyễn Khải (2005), Nguyễn Khải - Tiểu thuyết 4, Nxb Hội Nhà văn.
60. Nguyễn Khải (1970), Nguyễn Khải – Tiểu thuyết Đường trong mây, Nxb Văn
học.
61. Nguyễn Khải (2005), Nghề văn cũng lắm công phu - Truyện - Tạp văn, Nxb Trẻ.
62. Nguyễn Khai (2006), Truyện ngắn Nguyễn Khải, Nxb Văn học.
63. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên.
64. M.B Khrapchenko,(1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của nhà
văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
65. Lê Định Kỵ (2000 ), Phê bình nghiên cứu Văn học, Nxb Giáo dục.
66. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục.
67. Tôn Phương Lan (4/2001), Nguyễn Khải, Những nhà văn nhận giải thưởng HCM
năm 2000, Tạp chí diễn đàn văn nghệ Việt Nam.
68. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
69. Mai Liên (4/1964) “Hãy đi xa hơn nữa“ của Nguyễn Khải, Báo Văn nghệ (49), in
lại trong Nguyễn Khải…
70. Nguyễn Văn Long, (2001) Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục.
71. Nguyễn Văn Lưu, (1987), Thời gian của người, một triết lý về cách sống, Văn
nghệ Quân đội, in lại trong Văn học 1975 -1985…
72. Phương Lựu (2004), Lý luận văn học, (nhiều tác giả), Nxb Giáo dục.
73. (2004), Lý luận phê bình Văn học, Nxb Đà Nẵng.
74. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nha văn, Nxb
Giáo dục.
75. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb ĐHQG Hà
Nội.
76. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại,chân dung và phong cách,
Nxb Giáo dục.
77. Hoàng Như Mai (2001), Chân dung và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
78. Nguyễn Thị Thanh Minh ( ), Một phong cách tự sự của Nguyễn Tuân, in lại
trong Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm.
79. Vũ Tú Nam (6/1959), Đọc “Xung đột”của Nguyễn Khải, Báo VN (46).
80. Chu Nga (1974), Đặc điểm ngòi bút hiện thực của Nguyễn Khải, Tạp chí VH, in
lại trong Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
81. Nguyễn Tuyết Nga (1999), Nguyễn Khải với bút ký và tập văn, Tạp chí VH, in lại
trong Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
82. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, chuyên luận, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
83. Lê Thành Nghị (4/1985), Gặp gỡ cuối năm, một tiếng nói khẳng định cuộc sống,
Văn nghệ quân đội, in lại trong Văn học 1975 – 1985…
84. Thanh Nguyên (5/1971), Từ “Họ sống và chiến đấu” đến “Ra đảo” của Nguyễn Khải,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, in lại trong Nguyễn Khải …
85. Đào Thuỷ Nguyên, (11/2000), Thế giới nhân vật của Nguyễn Khải theo thời gian,
Tạp chí Văn học, in lại trong Tự sự học…
86. Nguyễn Phan Ngọc (4/1964), Tính hiện thực, tính chiến đấu trong “Người trở về”
và “Tầm nhìn xa”, Tạp chí Văn học, in lại trong Tự sự học…
87. Vương Trí Nhàn (6/1977), Một cách bình luận lịch sử, Tạp chí VNQĐ.
88. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt
Nam.
89. Vương Trí Nhàn (10/1985), Âm hưởng chính: Khẳng định quá khứ (đọc “Thời gian của
người” của Nguyễn Khải, Báo Văn nghệ (41), Nxb Hội Nhà van.
90. Vương Trí Nhàn (1996), Nguyễn Khải văn học, in chung Một thời đại mới trong
văn học, Nhiều tác giả, Nxb Văn học.
91. Vương Trí Nhàn (2/1996), Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách
mạng từ sau 1945, Tạp chí Văn học, in lại trong Nguyễn Khải về tác gia và
tác phẩm.
92. Vương Trí Nhàn (1999), Cánh bướm và đóa hướng dương, Nxb Hải Phòng.
93. Vương Trí Nhàn (2003), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Nxb Hội Nhà văn.
94. Vương Trí Nhàn (2005), Cây bút đời người, Nxb Hội Nhà văn.
95. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ TP. HCM.
96. Phùng Quý Nhâm (1994), Tiếp cận văn học … ĐHSP TP. HCM.
97. Phùng Quý Nhâm (2002), Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Nxb VH, TTNC
Quốc học.
98. Như Phong (1977), Phương hướng tìm tòi của Nguyễn Khải qua tập “Mùa lạc”,
cách bình luận văn học, Nxb Hà Nội, in lại trong Nguyễn Khải về tác gia và tác
phẩm.
99. Nguyễn Kim Phong (2003), (nhiều tác giả), Tuyển tập 10 năm Tạp chí Văn học
và Tuổi trẻ, Nxb Giáo dục.
100. Đỗ Hải Phong ( ), Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại, in lại
trong Tự sự hoc, Nxb Đại học Sư phạm.
101. Ngô Văn Phú (8/1985), Thời gian của người, một thành tựu mới của tiểu thuyết,
Báo Nhân dân, in lại trong Văn học 1975 – 1985…
102. Phan Diễm Phương (2000), Lối văn kể chuyện của Nam Cao, lời giải bày của
văn chương, Nxb KHXH Hà Nội
103. Hồ Phương (12/1961), đọc “Xung đột” của Nguyễn Khải, Tạp chí VNQĐ, in lại
trong Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
104. Huỳnh Như Phương (01/1983), Gặp gỡ cuối năm, đối thoại giữa những người tri
thức, Báo Văn nghệ (3), in lại trong Văn học 1975 – 1985.
105. Huỳnh Như Phương (1986), Thời gian của người, cuốn tiểu thuyết có âm
hưởng, Báo Văn nghệ (14), in lại trong Văn học 1975 – 1985.
106. Vũ Quần Phương (7/1985), Nguyễn Khải và thời gian của người, Báo Thể thao
(30).
107. Trần Thanh Phương (6/1998), Nguyễn Khải với “Hà Nội trong mắt tôi”, phụ
san VNQĐ, in lại trong Nguyễn Khải về tác gia...
108. Poxpelov (chủ biên), (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, người dịch: Trần
Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Nxb Giáo dục.
109. Lê Thị Hồ Quang (8/2001), Nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Nguyễn Khải, Tạp chí
Nhà văn, in chung trong Những vấn đề lý thuyết lịch sử văn học…
110. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Đọc truyện ngắn và tạp văn của Nguyễn Khải, sách Điểm
tựa phê bình văn học, Nxb Lao động, in lại trong Nguyễn Khải về tác gia và tác
phẩm.
111. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Giáo trình ĐHSP TP. HCM.
112. Trần Đình Sử (1996), Con người trong văn học Việt Nam sau 1945, in lại trong
Văn học và thời gian, Nxb Văn học, 2001.
113. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
114. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb ĐHSP.
115. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb ĐHQG, Hà
Nội.
116. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, Tập II, Nxb Giáo dục.
117. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb
Văn học.
118. Trần Huyền Sâm ( ), Hình tượng người trần thuật trong tác phẩm người tình của
MarGurrite - DuRas, in lại trong Tự sự học, Nxb ĐHSP.
119. Trần Hữu Tá, Phạm Khánh Cao (1985), Tiểu thuyết Việt Nam (I), ĐHSP TP.
HCM.
120. Hà Công Tài (2004), Những chặng đường văn Nguyễn Khải, in lại trong
Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
121. Nhiều tác giả (1980), Cơ sở lý luận văn học, Nxb ĐH và THCN, H.N.
122. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H.Nội
123. Nhiều tác giả (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Nxb Giáo dục.
124. Song Thành (7/1979), Đọc “Đường trong mây”, Báo Văn nghệ (351), in lại
trong Nguyễn Khải…
125. Nguyễn Hoài Thanh ( ), Sự độc đáo trong lối thuật kể của “ông vua phóng sự”
Vũ Trọng Phụng, in lại trong Tự sự học, Nxb ĐHSP.
126. Ngô Thảo (33/1974), Người chiến sĩ trong “chiến sĩ”, Tạp chí Tác phẩm Mới.
127. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể
loại, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
128. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Giáo dục.
129. Đoàn Trọng Thiều (1997), Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường ĐHSP TP. HCM.
130. Xuân Thiều ( ), Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách mạng, VH- TT.
131. Nguyễn Thị Thu Thuỷ ( ), Về khái niệm “truyện kể ở ngôi thứ ba” và “người kể
chuyện ở ngôi thứ ba”, in lại trong Tự sự học…
132. Trần Mạnh Tiến (2001), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
133. Bích Thu, (10/1997), Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải
những năm 80 đến nay, Tạp chí Văn học, in trong Nguyễn Khải về tác gia và
tác phẩm.
134. Đinh Quang Tốn (5/1997), Nguyễn Khải với Hà Nội, Báo Văn nghệ (19), in lại
trong Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm.
135. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
136. Lê Ngọc Trà (1994), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa Thông tin.
137. Lê Ngọc Trà (1997), Lý luận van học (nhiều tác giả), Nxb Giáo dục.
138. Lê Ngọc Trà (2000), Về khái niệm hiện đại hóa trong văn học, Tạp chí Văn học
(6), Bài rút trong sách Để tìm hiểu thêm một số tác giả và tác phẩm VHVN
hiện đại (Phan Ngọc Thu), Nxb Giáo dục, 2004.
139. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, Thách thức của văn hóa, Nxb Thanh
niên.
140. Lê Ngọc Trà (2005), Một bức tranh đẹp nhiều màu sắc, Bài rút trong sách
Truyện hay Tuổi trẻ chủ nhật, Báo Tuổi trẻ, Nxb Trẻ.
141. Hoàng Trinh (1997), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Nxb Đà Nẵng.
142. Lê Quang Trang (1995), Đứt quãng và nối tiếp giữa hai tập “Xung đột” của Nguyễn
Khải, Thai nghén tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
143. Nguyễn nghĩa Trọng ( ), Các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX nói về văn
tự sự, in trong Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm.
144. Huỳnh Vân, (1990), Nhà văn, bạn đọc và hàng hóa sách hay văn học và sự dự
trữ, Bài rút từ “Văn học và hiện thực”, Nxb KHXH.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHLLVH004.pdf