Luận văn Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre

thứ nhất, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như sở nội vụ) chịu trách nhiệm tổ chức điều tra, đánh giá một cách khá đầy đủ, toàn diện về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, ít nhất 2 năm một lần. trên cơ sở đó, tham mưu cho tỉnh lập kế hoạch sử dụng, đào tạo và đào tạo lại, nhằm khai thác tiềm năng nguồn nhân lực hiện có này một cách có hiệu quả. đồng thời có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm “bảo toàn” nguồn nhân lực quý giá này của tỉnh, ngăn chặn tình trạng “chảy chất xám” có nguy cơ gia tăng do tác động của thị trường lao động và do điều kiện làm việc ở tỉnh chưa được cải thiện. thứ hai, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như sở lao động- thương binh và xã hội kết hợp với sở gd-đt) chịu trách nhiệm điều tra rõ thực trạng nlcn của tỉnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả hơn tiềm năng to lớn nguồn lao động dồi dào của tỉnh. thứ ba, xây dựng chương trình trên sóng phát thanh, truyền hình của tỉnh về chủ trương, chính sách phát triển nlcn, nhất là chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như những chính sách thu hút ưu đãi, trọng dụng nhân tài mà tỉnh đang thực hiện. qua đó, tuyên truyền và khuyến khích người lao động tích cực học tập nâng cao trình độ và ra sức lao động cống hiến vì sự nghiệp cnh, hđh và phát triển bền vững của tỉnh bến tre.

doc116 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2586 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hó thu hút đầu tư bên ngoài không chỉ do điều kiện địa lý cách trở mà còn vì kết cấu hạ tầng yếu kém, đặc biệt là hệ thống giao thông. thực tế cho thấy, những địa phương có cơ sở hạ tầng yếu kém rất khó thu hút nhà đầu tư, mà đã không thu hút được đầu tư thì khả năng cải tạo kết cấu hạ tầng cũng hạn chế. chính cái vòng luẩn quẩn này tạo nên thực trạng vùng kinh tế đã phát triển thì càng phát triển thêm và những vùng kinh tế kém phát triển như bến tre lại càng tụt hậu. chính vì vậy, phát triển kết cấu hạ tầng được tỉnh bến tre xác định là một trong những khâu đột phá quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng, đòi hỏi phải huy động tối đa các nguồn đầu tư, trong đó chủ yếu là nhờ vào vốn đầu tư của nhà nước. bên cạnh đó, tỉnh cần huy động tối đa các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế, khuyến khích, kêu gọi các thành phần kinh tế đầu tư phát triển mạnh kết cấu hạ tầng; tiếp tục thực hiện tốt phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm", từng bước nhựa hóa, bê tông hóa hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh. nhằm tạo sức hấp dẫn và thu hút các nhà đầu tư, bên cạnh xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn chỉnh, tỉnh cần chú trọng ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp nhằm khắc phục những bất lợi về vị trí địa lý, để có thể làm hài lòng các nhà đầu tư khi đến bến tre. đối với bến tre, công trình cầu rạch miễu (khởi công xây dựng ngày 30-04-2002) khi hoàn thành sẽ có ý nghĩa to lớn, góp phần phá thế cù lao, biệt lập giữa bến tre với các tỉnh bạn, đồng thời bảo đảm giao thông thuận lợi giữa các tỉnh tiền giang, bến tre, vĩnh long, trà vinh, sóc trăng và giữa các tỉnh này với thành phố hồ chí minh. đây là điều kiện quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tỉnh bến tre và cả khu vực đbscl. vì vậy, tỉnh cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với bộ giao thông vận tải đẩy nhanh tiến độ thi công cầu rạch miễu hoàn thành và đưa công trình vào sử dụng đúng kế hoạch (dự kiến cuối năm 2006). đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ của các bộ, ngành trung ương đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các hạng mục cải tạo, mở rộng nâng cấp quốc lộ 57, 60 và phà cổ chiên, hình thành tuyến giao thông huyết mạch, liên hoàn với các tỉnh ven biển miền tây nam bộ. dự án xây dựng cầu hàm luông nối liền các cù lao của bến tre đã được phê duyệt, vì vậy, tỉnh cần tích cực xin trung ương nhanh chóng cho khởi công xây dựng nhằm phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh cnh, hđh. về phía tỉnh, cần đầu tư đẩy mạnh tiến độ xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ và tiếp tục triển khai phát triển mạnh mẽ hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh. trong tương lai không xa, khi cầu rạch miễu hoàn thành, hệ thống giao thông hoàn chỉnh, bến tre sẽ không còn là ốc đảo, khép kín ngăn cách với các tỉnh trong khu vực và cả nước. đó không chỉ là ước mơ ngàn đời của hàng triệu người dân trên đất cù lao xứ dừa, mà còn mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ cho bến tre và cả khu vực giàu tiềm năng - đbscl, trong những năm tới đây. đối với bến tre, việc mở rộng giao lưu, hội nhập với các tỉnh, thành trong cả nước không chỉ là điều kiện thu hút mạnh đầu tư, phát triển nhanh kinh tế-xã hội, mà còn giúp người dân bến tre từng bước mở rộng tầm nhìn ra "thế giới bên ngoài", "phá vỡ" nếp sống, lối suy nghĩ khép kín hàng bao đời nay. việc mở rộng hội nhập kinh tế với các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước sẽ tạo ra cơ hội cho người lao động bến tre được tiếp cận, giao lưu, nắm bắt những thông tin thị trường, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, ứng dụng những mô hình mới vào sản xuất, kinh doanh, từ đó, năng lực và trình độ người lao động từng bước được nâng lên, chất lượng nlcn bến tre được đổi mới. có thể nói, phát triển kết cấu hạ tầng, phá thế cù lao, biệt lập là một trong những giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm đưa nền kinh tế bến tre vượt qua nguy cơ tụt hậu và tạo bước phát triển nhanh và bền vững trong tương lai. kinh tế phát triển chính là tạo ra điều kiện vật chất quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đầu tư có hiệu quả cho phát triển mạnh nlcn của tỉnh. 3.2.2. nhóm giải pháp chính trị một là, tiếp tục khơi dậy truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự cường, quyết tâm vượt lên đói nghèo, tạo ra động lực mới thúc đẩy người dân bến tre nỗ lực vươn lên thực hiện thắng lợi sự nghiệp cnh, hđh nhân dân cả nước biết đến bến tre như một vùng đất cách mạng anh hùng trong quá khứ. nếu trong đấu tranh chống ngoại xâm, chính khát vọng độc lập tự do tạo nên sức mạnh kỳ diệu để người dân bến tre làm nên những chiến công oanh liệt, thì ngày nay cần làm cho mỗi người dân ý thức được rằng nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng đáng sợ như nguy cơ mất nước. ý chí quyết tâm vươn lên không cam phận nghèo của người bến tre hôm nay xuất phát từ truyền thống đó. phát huy sức mạnh truyền thống quê hương, bến tre đang khơi dậy một phong trào mới “đồng khởi kinh tế”, đây sẽ là động lực mới thúc đẩy người dân bến tre nỗ lực vượt lên mọi khó khăn, thách thức đưa nền kinh tế tỉnh nhà phát triển, tiến kịp và hội nhập với các tỉnh trong vùng và cả nước. thực tế những năm qua ở bến tre cho thấy, sức mạnh của nlcn trong quá trình cnh, hđh không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng nguồn lao động, mà còn ở chỗ biết phát huy truyền thống cách mạng, khơi dậy tinh thần tự lực tự cường, huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân tham gia phong trào “đồng khởi mới”. hơn 4 năm qua, phong trào “đồng khởi mới” đã thực sự khơi dậy được những tiềm năng và sức mạnh nội tại của một tỉnh ven biển này. năm 2004 là năm thể hiện rõ nét nhất những thành quả gặt hái được từ phong trào đồng khởi mới: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vượt 2 con số là 10,08%, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%. năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế có khả năng đạt 12%, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 500 usd [55]. những con số này đã chứng minh cho sức mạnh của khát vọng, ý chí quyết tâm vươn lên của người dân quê hương đồng khởi trong công cuộc xây dựng kinh tế, cnh, hđh tỉnh nhà. có thể nói, một khi khơi dậy được nguồn sức mạnh tinh thần, tập hợp được ý chí của toàn xã hội vào mục tiêu phát triển sẽ tạo ra nhân tố quan trọng cho sự thành công của sự nghiệp cnh, hđh. hai là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn, giải quyết tốt các “điểm nóng” về tranh chấp đất đai thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới mà đảng ta khẳng định là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. trong những năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh bến tre được giữ vững. thực tế cho thấy, môi trường chính trị - xã hội ổn định là điều kiện quan trọng cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra thuận lợi, đời sống vật chất và tinh thần người lao động được ổn định và ngày càng được nâng cao. trong môi trường đó, con người thật sự yên tâm chăm lo phát triển kinh tế, ra sức học tập, lao động sáng tạo, cống hiến tài năng vì sự phát triển phồn vinh của xã hội và hạnh phúc của mỗi cá nhân. vì vậy, giữ vững ổn định chính trị - xã hội là điều kiện quan trọng hàng đầu bảo đảm môi trường cho con người phát triển toàn diện. con người được phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức, yên ổn về tinh thần sẽ đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển kinh tế-xã hội, tạo ra nguồn sức mạnh to lớn thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. chính vì vậy, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn là điều kiện và cũng là giải pháp thúc đẩy nlcn bến tre phát triển. tuy nhiên, trong những năm qua, ở bến tre tình hình tranh chấp đất đai do hậu quả cải tạo nông nghiệp để lại còn phức tạp, số vụ khiếu kiện tranh chấp, khiếu nại về đất đai còn nhiều. từ năm 1999 đến năm 2004, có 11.372 vụ việc khiếu kiện tranh chấp và khiếu nại về đất đai, chủ yếu là đòi lại đất (6.222 vụ). số lượt người tập hợp lại thành đoàn đông người đến các cơ quan của huyện, tỉnh, trung ương để khiếu nại khá nhiều, năm 2001 có 4 đoàn, mỗi đoàn từ 60-80 người [51, tr.1-2]. đây là một trong những nguyên nhân gây bất ổn trong đời sống chính trị, xã hội của địa phương, cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội, làm suy giảm chất lượng và sức mạnh nlcn của tỉnh trong thời gian qua. đến nay, toàn tỉnh đã giải quyết được 97,17% đơn khiếu nại về đất đai (6.046/6.222 đơn), với các hình thức hỗ trợ vốn chuyển đổi ngành nghề, cho vay vốn phát triển sản xuất và đi vùng kinh tế mới đã góp phần ổn định đời sống nhân dân và hạn chế việc khiếu kiện đông người, vượt cấp [55]. do đó, tiếp tục giải quyết tốt các vụ việc tranh chấp, khiếu nại về đất đai là vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, ngăn chặn nguy cơ kẻ địch lợi dụng vấn đề này gây rối làm mất ổn định chính trị, đồng thời còn tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định - điều kiện cơ bản thúc đẩy nlcn phát triển. 3.2.3. nhóm giải pháp xã hội phát triển nlcn không chỉ làm gia tăng số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, mà còn thể hiện ở việc bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đó cho phát triển. bến tre có nguồn lao động dồi dào, do đó, việc tìm ra giải pháp “đột phá” để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này cho đẩy mạnh cnh, hđh đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo tỉnh bến tre. một là, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm sử dụng có hiệu quả nlcn của tỉnh trong điều kiện ở bến tre, giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lực lượng lao động nông thôn - bộ phận hiện chiếm số đông trong dân cư, đang là nhiệm vụ bức xúc và là nội dung quan trọng trong mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. cần thống nhất nhận thức của người lao động về “việc làm”, đó là tất cả các hoạt động kinh tế-xã hội tạo ra thu nhập mà không vi phạm pháp luật. với cách hiểu như vậy, tích cực tạo ra nhiều việc làm cho người lao động bằng cách phát triển sản xuất, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển dịch vụ và du lịch, khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế tự tìm việc làm, tự đầu tư tạo việc làm. trong đó chú ý một số giải pháp cụ thể sau: - khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. đây không chỉ là chính sách giải phóng mọi năng lực sản xuất, mà còn là giải pháp quan trọng để tạo nhiều việc làm cho người lao động. hiện nay ở bến tre, trên 93% lao động đang làm việc trong các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể. có thể nói, khu vực kinh tế tư nhân đang đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. vì vậy, nhà nước cần tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, nhất là thực hiện “chính sách ưu đãi cụ thể và tạo mọi điều kiện dễ dàng để thành phần kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh trên mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực được pháp luật bảo hộ” [23, tr.66]. đặc biệt kinh tế hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản tổ chức sản xuất, kinh doanh và thu hút nhiều lao động, do đó cần có chính sách hỗ trợ phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình. theo kết quả điều tra về kinh tế trang trại, đến tháng 7-2005 toàn tỉnh có trên 3.800 hộ sản xuất đạt tiêu chí trang trại. loại hình chủ yếu là trồng cây lâu năm, chăn nuôi và nuôi thủy sản, đang mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, nhưng phát triển chưa ổn định, nhất là nuôi thủy sản [3, tr.7]. vì vậy, tỉnh cần khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất quy mô lớn theo kiểu trang trại và tạo lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp luật thuận lợi cho mô hình kinh tế này phát triển. đây là mô hình sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội lớn như tạo khả năng huy động vốn, khai thác tiềm năng sản xuất, tạo nhiều việc làm và tăng thêm nông sản hàng hóa cho xã hội và xuất khẩu. tạo ra nhiều việc làm không chỉ giúp ổn định đời sống người lao động, mà có việc làm ổn định, phù hợp, còn là điều kiện khơi dậy tính tích cực, năng động sáng tạo, nâng cao kỹ năng tay nghề cho người lao động trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt của thị trường lao động. - đẩy mạnh khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, du nhập và phát triển thêm nghề mới trong nông thôn là cơ sở để giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp. theo báo cáo của sở công nghiệp, những năm qua ở bến tre nhiều làng nghề được sắp xếp, củng cố và được trợ giúp vốn từ chương trình khuyến công, chương trình vốn mục tiêu, nên không ngừng phát triển. nhiều làng nghề điển hình phát triển mạnh như: sản xuất than gáo dừa, chỉ xơ dừa an thạnh - khánh thạnh tân (mỏ cày); sản xuất kẹo dừa phường vii (thị xã bến tre); sản xuất chiếu thảm, lưới xơ dừa, hàng thủ công mỹ nghệ an hiệp (châu thành)... [2, tr.72]. việc phát triển nghề và làng nghề ở nông thôn bến tre đã đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn, tạo động lực thúc đẩy nlcn phát triển. trước hết, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng cnh, hđh, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng di chuyển “tại chỗ”. một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp chuyển sang lĩnh vực phi nông nghiệp, do đó đây là con đường nhanh chóng đến với mục tiêu cnh, hđh nông nghiệp, nông thôn. thứ hai, giải quyết được việc làm tại chỗ cho người lao động, nhất là lao động dư dôi, lao động thời vụ ở nông thôn, tăng thu nhập, góp phần thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo, tạo cơ hội vươn lên làm giàu tại địa phương. thứ ba, nhiều lao động ở nông thôn có việc làm thu nhập ổn định, không chỉ là điều kiện giữ gìn trật tự địa bàn nông thôn, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm bớt sức ép cho các đô thị và thành phố lớn do dòng di cư từ nông thôn ra đô thị tìm việc làm, mà còn tạo ra môi trường rèn luyện tác phong lao động công nghiệp, khơi dậy tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh nhạy với cơ chế thị trường, qua đó từng bước thay đổi tâm lý, thói quen sản xuất nhỏ của một bộ phận người lao động. với những hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn đó, phát triển nghề mới và khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn bến tre cần được quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn nữa từ phía nhà nước. bởi vì, trên thực tế, phần lớn các làng nghề ở bến tre phát triển manh mún, mang tính tự phát và phân tán trong các hộ gia đình, công nghệ lạc hậu, chủ yếu là thủ công truyền thống, thị trường tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bấp bênh. nhiều làng nghề gây ô nhiễm môi trường rất nặng, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân trong khu vực các làng nghề. vì vậy, tỉnh cần sớm “triển khai đề án phát triển ngành nghề nông thôn, củng cố và phát triển làng nghề truyền thống. xây dựng các tiêu chí làng nghề, hỗ trợ các làng nghề phát triển đạt các tiêu chí theo quy định và được công nhận” [54, tr.4]. nếu được tỉnh triển khai thực hiện phương án này sẽ tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các cụm làng nghề ở bến tre hình thành và phát triển nhanh chóng. tuy nhiên, việc đầu tư công nghệ mới, hiện đại hóa công nghệ truyền thống để xây dựng các làng nghề sản xuất chuyên môn hóa tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm tốt, tăng sức cạnh tranh trên thị trường phải được sự giúp đỡ về vốn, về cơ chế chính sách từ phía nhà nước và chính quyền các cấp ở địa phương. đồng thời với quá trình này là sự giúp đỡ, hướng dẫn, kỹ thuật chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất của các nhà chuyên môn, cán bộ khoa học cho người lao động trong các làng nghề. việc dạy nghề cho người lao động tại các làng nghề cần được tổ chức tập trung và khoa học, trong đó chú trọng kết hợp các hình thức truyền nghề, dạy nghề tại cơ sở với sự hướng dẫn, kèm cặp trực tiếp của các nghệ nhân. việc phát triển làng nghề ở bến tre đã thu hút nhiều lao động ở các lứa tuổi, trong đó có cả trẻ em trong độ tuổi đi học. vì muốn tăng thu nhập, không ít gia đình cho phép hoặc ép buộc con em mình phải nghỉ học để tham gia lao động. điều này không chỉ vi phạm pháp luật lao động mà về lâu dài sẽ làm suy giảm chất lượng nguồn nhân lực của địa phương và hạn chế cơ hội phát triển bản thân của người lao động. do đó, chính quyền các cấp cần tuyên truyền vận động các gia đình và chủ sử dụng lao động ở các làng nghề coi trọng và tạo điều kiện cho các em có điều kiện học tập, hạn chế tham gia lao động để có thời gian tập trung học tập tốt. như vậy, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống cũng như du nhập thêm nghề mới ở nông thôn bến tre được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. ngoài hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn như phát triển sản xuất, ổn định xã hội, phát triển làng nghề còn tác động trực tiếp đến phát triển cá nhân người lao động, khai thác và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động to lớn trong nông thôn bến tre. - xuất khẩu lao động cần được xem là hướng giải quyết việc làm có hiệu quả ở bến tre hiện nay. theo báo cáo của sở lao động- thương binh và xã hội tỉnh, từ năm 2001 đến 2005, bến tre có hơn 3.000 người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. tính riêng năm 2004 đã có 971 người, năm 2005 ước đạt 1000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, thị trường chủ yếu là malaysia, nhật bản, đài loan và hàn quốc. công tác xuất khẩu lao động không những giải quyết được việc làm, tăng thu nhập, người lao động còn tiết kiệm gửi về cho người thân một khoảng tiền khá lớn để ổn định đời sống gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. quy mô xuất khẩu lao động của tỉnh có tăng so với các năm trước, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. nguyên nhân chủ yếu là hiện nay các trung tâm dịch vụ việc làm của tỉnh không có chức năng xuất khẩu lao động, phải qua trung gian là thành phố hồ chí minh. mặt khác, phần đông lao động có nhu cầu xuất khẩu là người nghèo không có tài sản thế chấp hoặc trình độ thấp. vì vậy, trong những năm tới tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xuất khẩu lao động, xem đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động của tỉnh trong bối cảnh người lao động bến tre di cư nhiều. để công tác này có hiệu quả, tỉnh cần quy hoạch từ chỗ xuất khẩu lao động giản đơn phải hướng đến xuất khẩu lao động kỹ thuật. xuất khẩu lao động giản đơn (chủ yếu là làm việc nhà, bốc xếp…)sẽ giảm nhẹ được gánh nặng đào tạo và giảm bớt sức ép nhu cầu việc làm trong thời hạn ngắn; giúp người lao động có thu nhập cao hơn so với nếu làm việc tại tỉnh. tuy nhiên, họ sẽ dễ bị bóc lột và không có điều kiện thăng tiến, cải thiện nghề nghiệp. tình trạng lao động việt nam bỏ trốn ở malaysia và một số nước cho thấy rõ điều đó. vì vậy, tỉnh cần có những liên kết chặt chẽ về mặt pháp lý với các đối tác ngoài tỉnh và nước ngoài nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động. mặt khác, cần có kế hoạch chủ động hướng nghiệp, đào tạo cho người lao động tham gia xuất khẩu lao động có trình độ nhất định trước khi ra nước ngoài làm việc. điều này giúp người lao động có một số kiến thức nhất định về công việc, ngôn ngữ, văn hóa của nước sẽ đến lao động và nhất là hiểu biết và có ý thức chấp hành pháp luật, hợp đồng lao động. đồng thời tỉnh cũng cần hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho người lao động nghèo và tín dụng cho người tham gia xuất khẩu lao động. xuất khẩu lao động kỹ thuật trong điều kiện tỉnh đang thiếu lực lượng lao động này cũng làm hạn chế sự phát triển kinh tế của tỉnh. tuy nhiên, cũng không thể ngăn cản nguồn lao động có trình độ kỹ thuật này đi nơi khác khi cơ hội việc làm và thu nhập tại tỉnh chưa được cải thiện. số lao động này sẽ là nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh sau khi hợp đồng làm việc với nước ngoài được ký kết, vì ngoài thu nhập được cải thiện, họ có điều kiện tiếp cận với thiết bị tiên tiến, tiếp nhận tri thức khoa học mới, rèn luyện tác phong công nghiệp, ngoài ra còn chuyển một khoản thu nhập về cho gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương. như vậy, tạo nhiều việc làm cho người lao động bằng phát triển sản xuất, khôi phục và mở mang ngành nghề, xuất khẩu lao động,... đó là những giải pháp nếu thực hiện tốt sẽ đem lại hiệu quả cho công tác giải quyết việc làm ở bến tre hiện nay, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nlcn, chuyển thành nguồn nội lực thúc đẩy nhanh quá trình cnh, hđh. hai là, có chính sách hữu hiệu để thu hút và trọng dụng nhân tài, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp cnh, hđh của tỉnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng kh-cn, mà sự phát triển kh-cn đòi hỏi sự tích tụ “chất xám”. nlcn bến tre hiện tại trên nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu cnh, hđh, đặc biệt, đội ngũ hoạt động kh-cn của tỉnh còn quá nhỏ bé, vì vậy, nếu chỉ dựa vào nlcn hiện có, bến tre chưa đủ sức đẩy nhanh sự nghiệp cnh, hđh. thấy được vấn đề này, trong vài năm gần đây, bến tre đã và đang thực hiện các chính sách thu hút và đãi ngộ nhân tài nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. tuy nhiên, trên thực tế các chính sách này chưa hướng tới lực lượng lao động có trình độ và chuyên gia ngoài tỉnh, chưa thu hút được nhiều người tài giỏi và chuyên gia trẻ tham gia vào các vị trí quan trọng trong nền kinh tế địa phương. đây cũng là một trong những yếu tố làm hạn chế khả năng cạnh tranh của tỉnh trong việc mời gọi các nhà đầu tư. vì vậy, trong thời gian tới, ngoài việc tạo ra sự khác biệt về chế độ đãi ngộ vật chất và tinh thần, cần tạo điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi cùng với sự tôn vinh đúng mức nhân tài, sẽ có thể tạo ra “lực hút" mạnh hơn trong thực hiện chính sách “cầu hiền” của tỉnh hiện nay. về lâu dài, tỉnh cần có kế hoạch đầu tư đúng mức, tập trung và có trọng điểm trong việc đào tạo những chuyên gia giỏi, chuyên gia “đầu đàn” trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên mà tỉnh đang thu hút. có thể nói, sự thành công của phát triển kinh tế trước hết do thành công của sự phát triển kh-cn, mà sự thành công của kh-cn lại phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả của chính sách thu hút, khai thác và trọng dụng nhân tài. hơn lúc nào hết, “tôn trọng trí thức, quý trọng nhân tài” cần được thể hiện một cách rõ nét trên thực tế ở bến tre. 3.2.4. nhóm giải pháp giáo dục - đào tạo mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cnh, hđh đất nước chỉ có thể thành hiện thực khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta được trang bị một nền tảng văn hóa vững chắc, một trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao. điều này đã được v.i.lênin chỉ rõ: “không thể xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa trong một nước có những người mù chữ” [38, tr.374]. ngày nay, để phát triển nlcn, hầu hết các quốc gia đều xem gd-đt là giải pháp hữu hiệu, là con đường cơ bản và trực tiếp nhất. bởi vì, phát triển nlcn chủ yếu là làm cho con người ngày càng phát triển về trí tuệ, nâng cao năng lực và phẩm chất, tức là con người đã qua gd-đt. chính vì vậy, đảng ta luôn coi gd-đt, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. rõ ràng, gd-đt là công cụ quan trọng nhất và trực tiếp nâng cao tri thức, trang bị chuyên môn kỹ thuật và hình thành kỹ năng lao động, năng lực tư duy sáng tạo cho người lao động. nhằm đào tạo nguồn nhân lực có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu cnh, hđh, trong điều kiện hiện nay, gd-đt tỉnh bến tre cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau: thứ nhất, tiếp tục đổi mới và phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, đặc biệt hệ thống đào tạo nghề của tỉnh bến tre trong những năm qua, gd-đt tỉnh bến tre có vai trò to lớn trong việc nâng cao chất lượng nlcn, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và cnh, hđh của tỉnh. điều đó được khẳng định qua thành tựu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục và nâng dần tỷ lệ lao động qua đào tạo hàng năm. tuy nhiên, để thật sự là công cụ đắc lực trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho giai đoạn đẩy mạnh cnh, hđh, hệ thống gd-đt bến tre cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển “với tốc độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn” [18, tr.9 ], hướng tới các nội dung cụ thể sau: - đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo ra nguồn lao động có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cnh, hđh ở tỉnh bến tre nâng cao chất lượng gd-đt đang là vấn đề bức xúc, được nhà nước và toàn xã hội quan tâm và là nhiệm vụ trọng tâm của ngành gd-đt hiện nay. để sản phẩm gd-đt có chất lượng, cần đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục. về nội dung, cần giáo dục cho thế hệ trẻ bến tre không chỉ có tri thức khoa học cơ bản hiện đại, có kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn, mà còn có lòng tự hào dân tộc, yêu quê hương, biết kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, đạo đức tốt đẹp, có ý chí vươn lên không cam chịu đói nghèo. nội dung giáo dục phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng phải được xem là yếu tố quyết định trong việc tạo ra những con người có nhân cách đạo đức phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới. dạy người phải được xem là mục tiêu quan trọng, cần hướng tới trong quá trình gd-đt. lối giáo dục kiểu nhồi nhét kiến thức, nặng về dạy chữ, ít chú ý rèn luyện phương pháp tư duy đang là phương pháp phổ biến trong nhiều nhà trường đã làm ảnh hưởng đến chất lượng gd -đt. trong các cơ sở đào tạo ở tỉnh hiện vẫn còn sự mất cân đối giữa dạy chữ và dạy nghề. vì vậy, cần đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và khơi dậy khả năng sáng tạo ở người học, giúp họ hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học, đồng thời chú trọng đúng mức thực hành, rèn luyện kỹ năng, tay nghề cho người học. đặc biệt, cần hình thành năng lực phát hiện cái mới, bản lĩnh dám nghĩ, dám làm trong nền kinh tế thị trường. ngày nay, hiệu quả của giáo dục, đào tạo không chỉ tính bằng lượng kiến thức tiếp thu, mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học, khả năng thích nghi và năng lực biến tri thức thành kỹ năng của người lao động. mặt khác, yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi người lao động cần phải có kiến thức liên ngành, nhạy bén về thông tin, có tính cơ động về nghề nghiệp. giáo viên có vai trò quyết định trong đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, do đó, điều quan trọng trước tiên là đổi mới nhận thức và nâng cao năng lực vận dụng phương pháp giáo dục của người thầy trong quá trình giáo dục. - mở rộng quy mô giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục- đào tạo nghề cho người lao động để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cnh, hđh trong những năm tới, gd-đt tỉnh bến tre cần có sự phát triển vượt bậc. sự phát triển này phải là kết quả của quá trình kết hợp đồng thời giữa mở rộng quy mô gd-đt với nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo. xuất phát từ nhu cầu nguồn nhân lực và với hiện trạng cơ cấu trình độ lao động của tỉnh như hiện nay, cần tập trung phát triển mạnh giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, giáo dục đại học, cao đẳng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả, để một mặt, phổ cập nghề nghiệp cho người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người lao động được học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp. mặt khác, cần gấp rút đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, thợ bậc cao, kỹ thuật viên cao cấp nhằm cung cấp cho các thành phần kinh tế đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đủ năng lực tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, yêu cầu mở rộng phát triển sản xuất theo hướng cnh, hđh. hệ thống giáo dục và đào tạo nghề của tỉnh tiếp tục củng cố và phát triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề và loại hình đào tạo. tuy nhiên, tỉnh cần xác định rõ một số trường trọng điểm đào tạo những ngành nghề hoặc nhóm nghề phục vụ lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh và đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. để nâng chất lượng dạy nghề, trước mắt cần tập trung xây dựng một số trường và trung tâm dạy nghề chất lượng cao như trường cao đẳng bến tre, trường kỹ nghệ bến tre, trung tâm dạy nghề trọng điểm ở các huyện mỏ cày, ba tri. ngoài ra, hệ thống dạy nghề phổ thông như các trung tâm dịch vụ việc làm, các trung tâm dạy nghề thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề… cũng cần sắp xếp đi vào nề nếp và nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên đạt chuẩn đào tạo, chú ý nâng cấp trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt công tác đào tạo. hệ thống đào tạo này phải thực hiện phương châm đào tạo nghề theo quy luật cung - cầu của thị trường lao động trong và ngoài tỉnh. ngoài ra, nhằm đạt mục tiêu 25% lao động qua đào tạo vào năm 2005 và 40% vào năm 2010, trong những năm tới cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo và bồi dưỡng nghề, chú ý phát triển hình thức đào tạo nghề trực tiếp tại cơ sở sản xuất hay trong các làng nghề truyền thống. đây là hình thức khá phổ biến và phù hợp với đối tượng người lao động có trình độ văn hóa thấp và thời gian học nghề ngắn. tuy không có giáo trình hay kiểm tra cụ thể, nhưng “người thầy” trong các làng nghề chính là những nghệ nhân, những kỹ thuật viên nên có tay nghề thành thạo, nhiều kinh nghiệm, người học nghề dễ tiếp thu, thời gian học nghề cũng là thời gian thực hành nên người lao động thuần thục sau khi ra nghề. ngoài ra, cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các trung tâm gd-đt nghề với các cơ sở sản xuất, với từng xí nghiệp. khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề. đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề trên cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo cũng được xem là một trong những giải pháp nhằm nâng cao năng lực đào tạo nghề cho người lao động ở bến tre. đi đôi với đào tạo lực lượng lao động mới, cần chú ý đào tạo lại, cập nhật hóa kiến thức khoa học- kỹ thuật và công nghệ, nâng cao tay nghề cho đội ngũ lao động hiện có, đáp ứng yêu cầu cnh, hđh nền kinh tế. để công tác đào tạo nghề cho người lao động thật sự có hiệu quả và chất lượng cao, cần nhanh chóng nâng cao trình độ và năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên dạy nghề. bởi vì “giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục”, “giáo viên phải có đủ đức, tài” [18, tr.38]. ngoài ra, cần cải tiến nội dung đào tạo trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. nâng cao hiệu quả đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng, điều này vừa tránh được lãng phí vừa khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị trường lao động. muốn vậy, tỉnh cần định kỳ khảo sát nhu cầu lao động và ngành nghề cần đào tạo, trên cơ sở đó lập kế hoạch và quy hoạch đào tạo hợp lý theo lĩnh vực và theo bậc đào tạo. cùng với mở rộng quy mô đào tạo nghề, cần coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học, chuẩn bị cho thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh và nhằm khắc phục tình trạng bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề hiện nay. tóm lại, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề để ngày càng có nhiều người lao động có nghề và giỏi nghề sẽ tăng nhanh lực lượng lao động có trình độ, đó là nguồn gốc làm tăng năng suất lao động xã hội, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. mặt khác, việc phát triển đào tạo nghề và dạy nghề cho người lao động còn có khả năng thu hút và đào tạo nghề cho gần 80% học sinh trong toàn tỉnh không đỗ đại học mỗi năm có nghề nghiệp và tham gia lao động xã hội, đóng góp to lớn sức lao động sáng tạo cho công cuộc xây dựng kinh tế tỉnh nhà. thứ hai, phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng tài năng nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chuyên gia kh-cn, nhà doanh nghiệp giỏi - những nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp cnh, hđh của tỉnh trong thời đại ngày nay, nhân tài thực sự là tài sản quý hiếm của mỗi quốc gia. tài sản đó có được phải bằng một chiến lược lâu dài, đồng bộ từ khâu phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, đến sử dụng, đãi ngộ nhằm tạo ra điều kiện và môi trường thuận lợi nhất cho tài năng phát triển. cùng với cả nước, bến tre tiến hành cnh, hđh với rất nhiều yêu cầu mới, ngày càng cao và phức tạp nên đang rất cần nhiều chuyên gia giỏi trên tất cả các lĩnh vực. trong vài năm trở lại đây, bến tre bắt đầu coi trọng và có chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài, nhưng vẫn đang thiếu nghiêm trọng cán bộ có thực tài. chính sự chậm chạp trong chiến lược nhân tài, bỏ rơi, quên lãng làm mất mát nhân tài, đồng nghĩa với việc làm mất đi nguồn tài sản quý giá nhất mà tỉnh đang thiếu hụt. vì vậy, hơn lúc nào hết, “chiến lược nhân tài” trở thành vấn đề cấp bách đối với bến tre trên đường phát triển. đội ngũ nhân tài phải được xây dựng một cách đồng bộ. trước hết, quyết định nhất là cần đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi. đó phải là những người có tư duy chiến lược, trí tuệ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, giỏi nắm bắt thực tiễn, đủ sức hoạch định và dự báo xu hướng phát triển cũng như nhạy bén giải quyết thành công những rủi ro, biến động có thể xảy ra. đặc biệt, họ còn biết tập hợp và sử dụng có hiệu quả một tập thể chuyên gia giỏi làm tham mưu đắc lực và kịp thời thay thế những người không đáp ứng yêu cầu. v.i.lênin đã chỉ ra rằng: "người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều, những người phụ tá... biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ" [39, tr.407]. có thể nói, có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi là nhân tố quyết định thực hiện thành công chiến lược nhân tài. xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có trình độ cao, đủ sức tiếp cận và làm chủ những thành tựu kh-cn cũng như có thể ứng dụng nó vào sản xuất, quản lý. bến tre hiện đang thiếu nghiêm trọng đội ngũ cán bộ này. vì vậy, ngoài chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ này, tỉnh cần chú trọng phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi để đào tạo thành nhân tài phục vụ cho tỉnh. việc này cần phải có cơ chế, chính sách ràng buộc, bởi vì, cũng đã có không ít học sinh giỏi của tỉnh được đưa đi đào tạo tại những trường danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng sau khi thành đạt trở thành những nhân tài, chuyên gia giỏi lại từ chối không trở về phục vụ quê hương. bên cạnh đó, tỉnh cần tiến hành rà soát ngay đội ngũ lao động có tay nghề, chuyên môn giỏi đang làm việc tốt trong các cơ quan, đơn vị sản xuất, ban ngành của tỉnh để có chính sách khuyến khích phát huy năng lực của họ và tạo điều kiện để họ được đào tạo lại theo những yêu cầu mới của cnh, hđh đặt ra. xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi. đây là lực lượng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh tỉnh đang thực hiện chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư. nếu đầu tư nhiều vốn và công nghệ hiện đại mà chúng ta không có những chuyên gia kh-cn giỏi, nhà doanh nghiệp tài năng thì mọi đầu tư đều kém hiệu quả và nền kinh tế cũng không mạnh, khả năng cạnh tranh cũng hạn chế. trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn, các nhà doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng. bởi họ là "cầu nối" giữa quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của người lao động thông qua hoạt động dịch vụ đầu vào và đầu ra cho quá trình sản xuất. trong tình hình khó khăn về "đầu ra" của những vùng chuyên canh nông sản của bến tre, việc đào tạo, xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi là hết sức cần thiết. chính họ sẽ cung cấp những thông tin về thị trường như giá cả, mẫu mã, chủng loại, chất lượng để từ đó người sản xuất điều chỉnh, cải tiến trong quá trình sản xuất, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu người tiêu dùng. sự liên hệ, hợp tác giữa nhà doanh nghiệp với người sản xuất (chủ yếu là nhà nông) là một biểu hiện thực tế sinh động của tăng cường liên minh công - nông - trí thức ở nước ta hiện nay. tóm lại, để vượt ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, bến tre cần nhanh chóng phát triển mạnh nlcn, trong đó thật sự coi trọng chiến lược đào tạo và sử dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ nhân tài đồng bộ, có tâm huyết, đủ sức phục vụ cho sự nghiệp cnh, hđh của tỉnh bến tre. kết luận chương 3 phát triển nlcn ở bến tre đang là vấn đề cấp bách trước yêu cầu khách quan của thời kỳ đẩy mạnh cnh, hđh. tuy nhiên, nlcn bến tre phát triển theo hướng nào, nhanh hay chậm và đến mức độ nào phần lớn tuỳ thuộc vào hệ thống chính sách và giải pháp mà tỉnh bến tre đề ra có nhằm khơi dậy tiềm năng, bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả nlcn cho cnh, hđh hay không. trên cơ sở đánh giá thực trạng nlcn và phân tích quá trình phát triển nlcn của tỉnh bến tre trong những năm qua, xuất phát từ tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính cấp bách nhằm thúc đẩy nlcn bến tre phát triển mạnh hơn. quá trình phát triển nlcn ở bến tre phải là kết quả của việc thực hiện đồng bộ những giải pháp trên. trong những năm tới, ngoài việc chú trọng thực hiện nhóm giải pháp gd-đt, luận văn nhấn mạnh đến các giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động. bởi đây là những vấn đề bức xúc nếu được quan tâm đầu tư và giải quyết tốt sẽ mở ra cho bến tre triển vọng phát triển nhanh trong tương lai. kết luận qua 3 chương, luận văn đã phân tích và giải quyết những vấn đề cơ bản sau: 1. việc phân tích cấu trúc của nlcn và mối quan hệ của nó với các nguồn lực khác cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về nlcn và vai trò của nó trong phát triển xã hội, nhất là trong thời kỳ cnh, hđh, qua đó càng làm rõ tính tất yếu phát triển nlcn trong thời kỳ đẩy mạnh cnh, hđh ở nước ta nói chung, ở bến tre nói riêng. 2. sự nghiệp cnh, hđh mà bến tre đang tiến hành ngoài những đặc điểm chung, còn mang đậm những nét đặc trưng riêng của một tỉnh “cù lao” chậm phát triển. những đặc điểm riêng đó đã đặt ra cho bến tre yêu cầu phải phát triển nhanh và mạnh hơn nữa nlcn, nhằm tạo ra nguồn nội lực mạnh mẽ nhanh chóng đưa tỉnh vượt qua khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phát triển nhanh và bền vững hơn, hòa nhập với các tỉnh trong vùng và cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp cnh, hđh đất nước vào năm 2020. 3. luận văn phân tích làm rõ những đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế- xã hội, cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa, con người bến tre. tất cả những yếu tố đó đều có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng nlcn, ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ phát triển nlcn của tỉnh trong nhiều năm qua. từ đó, luận văn đặt ra yêu cầu phải tìm kiếm giải pháp nhằm phát triển nlcn phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh cnh, hđh của tỉnh trong những năm tới. 4. phân tích thực trạng về số lượng, cơ cấu và chất lượng nlcn cũng như thực trạng phát triển nlcn của tỉnh trong những năm qua, luận văn đã đưa ra những đánh giá khái quát về chất lượng nlcn của tỉnh. có thể khẳng định: nlcn của tỉnh hiện tại còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu ngành nghề và cấp bậc đào tạo, nhất là việc sử dụng chưa thật sự có hiệu quả. từ thực trạng đó, luận văn chỉ ra một số nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quá trình phát triển nlcn của tỉnh và dự báo những xu hướng vận động cơ bản của nlcn của bến tre trong những năm tới. 5. xuất phát từ những quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển nlcn, luận văn xây dựng một hệ thống giải pháp để tỉnh bến tre có thể nghiên cứu, tham khảo trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển nlcn, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với thực tiễn công cuộc cnh, hđh của tỉnh. phát triển nlcn ở nước ta nói chung, ở bến tre nói riêng đang là yều cầu cấp bách, được đảng, nhà nước, các cấp, các ngành và các địa phương rất quan tâm thực hiện, xem đó là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. mục tiêu cnh, hđh và công cuộc đổi mới đất nước chỉ trở thành hiện thực khi chúng ta có được nlcn đủ mạnh, thật sự là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững. đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với nước ta, nhất là đối với một tỉnh như bến tre hiện nay. vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn vấn đề này là rất cần thiết. luận văn sẽ còn tiếp tục mở rộng phạm vi nghiên cứu đề tài này. một số kiến nghị với tỉnh bến tre: thứ nhất, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như sở nội vụ) chịu trách nhiệm tổ chức điều tra, đánh giá một cách khá đầy đủ, toàn diện về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, ít nhất 2 năm một lần. trên cơ sở đó, tham mưu cho tỉnh lập kế hoạch sử dụng, đào tạo và đào tạo lại, nhằm khai thác tiềm năng nguồn nhân lực hiện có này một cách có hiệu quả. đồng thời có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm “bảo toàn” nguồn nhân lực quý giá này của tỉnh, ngăn chặn tình trạng “chảy chất xám” có nguy cơ gia tăng do tác động của thị trường lao động và do điều kiện làm việc ở tỉnh chưa được cải thiện. thứ hai, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như sở lao động- thương binh và xã hội kết hợp với sở gd-đt) chịu trách nhiệm điều tra rõ thực trạng nlcn của tỉnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả hơn tiềm năng to lớn nguồn lao động dồi dào của tỉnh. thứ ba, xây dựng chương trình trên sóng phát thanh, truyền hình của tỉnh về chủ trương, chính sách phát triển nlcn, nhất là chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như những chính sách thu hút ưu đãi, trọng dụng nhân tài mà tỉnh đang thực hiện. qua đó, tuyên truyền và khuyến khích người lao động tích cực học tập nâng cao trình độ và ra sức lao động cống hiến vì sự nghiệp cnh, hđh và phát triển bền vững của tỉnh bến tre. danh mục tài liệu tham khảo ban khoa giáo trung ương (2001), triển khai nghị quyết đại hội ix trong lĩnh vực khoa giáo, nxb chính trị quốc gia, hà nội. báo đồng khởi (2005), số đặc biệt kỷ niệm 30 năm ngày miền nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975 – 30/4/2005). báo đồng khởi ngày 19-8-2005. hoàng chí bảo (1993), “ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con người”, tạp chí triết học (1), tr.13-17. đặng quốc bảo-nguyễn đắc hưng (2004), giáo dục việt nam hướng tới tương lai - vấn đề và giải pháp, nxb chính trị quốc gia, hà nội. huỳnh văn be (2005), "phát huy tinh thần đồng khởi, bến tre đổi mới công tác xây dựng đảng để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển", tạp chí cộng sản, (7), tr.7-10. bộ giáo dục và đào tạo, vụ đại học và sau đại học (2005), báo cáo tổng kết công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2004 và báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện đề án cải tiến tuyển sinh đại học, cao đẳng, hà nội. bộ lao động - thương binh và xã hội (2004), thực trạng lao động - việc làm ở việt nam 2003, nxb thống kê. mai quốc chánh (chủ biên) (1999), nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nxb chính trị quốc gia, hà nội. nguyễn trọng chuẩn, nguyễn thế nghĩa, đặng hữu toàn (đồng chủ biên) (2002), công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam - lý luận và thực tiễn, nxb chính trị quốc gia, hà nội. cục thống kê bến tre (2004), niên giám thống kê 2003, bến tre. cục thống kê bến tre (2004), báo cáo khoa học: tăng trưởng kinh tế và chỉ số mức sống dân cư tỉnh bến tre giai đoạn 2000-2004, bến tre. cục thống kê bến tre (2005), niên giám thống kê 2004, bến tre. nguyễn hữu dũng (2003), sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở việt nam, nxb lao động - xã hội, hà nội. đảng cộng sản việt nam (1993), văn kiện hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương khóa vii, nxb chính trị quốc gia, hà nội. đảng cộng sản việt nam (1994), văn kiện hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành trung ương khóa vii (lưu hành nội bộ), hà nội. đảng cộng sản việt nam (1996), văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ viii, nxb chính trị quốc gia, hà nội. đảng cộng sản việt nam (1997), văn kiện hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khóa viii, nxb chính trị quốc gia, hà nội. đảng cộng sản việt nam (2001), văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ix, nxb chính trị quốc gia, hà nội. đảng cộng sản việt nam (2002), văn kiện hội nghị lần thứ năm ban chấp hành trung ương khóa ix, nxb chính trị quốc gia, hà nội. đảng cộng sản việt nam (2002), văn kiện hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương khóa ix (lưu hành nội bộ), nxb chính trị quốc gia, hà nội đảng cộng sản việt nam, đảng bộ tỉnh bến tre (1996), văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh bến tre lần thứ vi. đảng cộng sản việt nam, tỉnh ủy bến tre (2000), văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh bến tre lần thứ vii. nguyễn thị như hà (2005), "đầu tư nước ngoài với việc phát triển và khai thác nguồn nhân lực việt nam", tạp chí lý luận chính trị, (4), tr.80-84. phạm minh hạc (chủ biên) (1996), vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nxb chính trị quốc gia, hà nội. phạm minh hạc, hồ sĩ quý (chủ biên) (2002), nghiên cứu con người - đối tượng và những hướng chủ yếu, niên giám số 1, nxb khoa học xã hội, hà nội. thẩm vinh hoa - ngô quốc diệu (chủ biên)(1996), tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài - kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước (sách tham khảo), nxb chính trị quốc gia, hà nội. nguyễn đình hoà (2004), “mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tạp chí triết học, (1), tr.14-19. hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa việt nam (1995), từ điển bách khoa việt nam, quyển số 3, trung tâm biên soạn từ điển bách khoa việt nam, hà nội. hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học mác - lênin, tư tưởng hồ chí minh (2002), giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, nxb chính trị quốc gia, hà nội. đoàn văn khái (1995), “nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, tạp chí triết học, (4), tr.20-23. phan văn khải (1998), "tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học-công nghệ và các cơ quan chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế", báo nhân dân, (15538), tr.1-2. bùi thị ngọc lan (2002), nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở việt nam, nxb chính trị quốc gia, hà nội. bùi thị ngọc lan (2004), tư tưởng của v.i.lênin về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam, kỷ yếu đề tài khoa học “tư tưởng của v.i. lênin về kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước nga và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam”, viện chủ nghĩa xã hội khoa học. bùi thị ngọc lan (2004), “vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông hồng”, tạp chí lý luận chính trị, (6), tr.84-88. bùi thị ngọc lan (2005), “phát triển làng nghề với giải quyết việc làm cho nông dân vùng đồng bằng sông hồng”, thông tin chủ nghĩa xã hội – lý luận và thực tiễn, (5), tr.32-35. v.i. lênin (1977), toàn tập, tập 38, nxb tiến bộ, mátxcơva. v.i. lênin (1977), toàn tập, tập 41, nxb tiến bộ, mátxcơva. v.i. lênin (1977), toàn tập, tập 42, nxb tiến bộ, mátxcơva. v.i. lênin (1977), toàn tập,tập 44, nxb tiến bộ, mátxcơva. vũ thị phương mai (2004), phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh quảng ninh hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, học viện chính trị quốc gia hồ chí minh, hà nội. đỗ mười (1995), trí thức việt nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, nxb chính trị quốc gia, hà nội. thạch phương - đoàn tứ (chủ biên) (2001), địa chí bến tre, nxb khoa học xã hội, hà nội. sở giáo dục- đào tạo bến tre (2004) báo cáo khoa học: nghiên cứu thực trạng giáo dục - tính chỉ số giáo dục tỉnh bến tre giai đoạn 2000- 2003, bến tre. sở giáo dục- đào tạo bến tre (2005) báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết đại hội vii tỉnh đảng bộ về giáo dục - đào tạo. sở khoa học và công nghệ bến tre (2005), báo cáo tình hình hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2001-2004 và kế hoạch hoạt động giai đoạn 2006-2010, bến tre. sở lao động - thương binh và xã hội (2004), báo cáo tổng kết: đề án quy hoạch mạng lưới đào tạo nghề tỉnh bến tre đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, bến tre. sở lao động - thương binh và xã hội (2004), báo cáo công tác lao động- thương binh và xã hội năm 2004 và định hướng công việc 2005. sở nội vụ (2005), báo cáo việc thực hiện chính sách trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt từ tháng 09/2001 đến 2004 (thực hiện quyết định số 4051/ 2001/ qđ-ub). sở y tế bến tre (2004), báo cáo khoa học: tuổi thọ trung bình và chỉ số tuổi thọ của người dân bến tre giai đoạn 2001-2003, bến tre thanh tra tỉnh bến tre (2005), báo cáo tình hình tiếp dân, nhận đơn, thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (từ 1999 đến ngày 30-12-2004). song thành (2004), “chiến lược nhân tài - một vấn đề cấp bách của việt nam trên đường phát triển và hội nhập”, tạp chí lý luận chính trị, (8), tr.67-71. tỉnh ủy bến tre (2002), chương trình hành động thực hiện nghị quyết số 15-nq/tw (hội nghị trung ương 5 khóa ix) “về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”. tỉnh ủy bến tre (2004), kết luận hội nghị tỉnh ủy lần thứ 18 (khóa vii) về tiếp tục thực hiện nghị quyết 03 của tỉnh uỷ (khóa vi) “phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh bến tre 1996- 2000- 2010”. tỉnh ủy bến tre (2005), báo cáo chính trị tại đại hội tỉnh lần thứ viii (nhiệm kỳ 2006-2010) (dự thảo 3). trần văn tùng, lê ai lâm (1996), phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, nxb chính trị quốc gia, hà nội. ủy ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh bến tre (2005), báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học: điều tra, đánh giá thực trạng chất lượng dân số bến tre - đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dân số, bến tre. ủy ban nhân dân tỉnh bến tre - ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm (2002), thực trạng lao động - việc làm ở bến tre. ủy ban nhân dân tỉnh bến tre - ban tổ chức hội chợ việc làm - xuất khẩu lao động (2003), báo cáo kết quả hội chợ việc làm - xuất khẩu lao động năm 2003 tỉnh bến tre. ủy ban nhân dân tỉnh bến tre (2004), báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế-xã hội năm 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005. ủy ban nhân dân tỉnh bến tre (2005), báo cáo tổng kết chương trình nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo, dạy nghề - giải quyết việc làm và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2005. viện nghiên cứu phát triển giáo dục - trung tâm nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, nxb giáo dục. viện ngôn ngữ học (2004), từ điển tiếng việt, nxb đà nẵng. huỳnh thị nguyệt yến (2004), "những kinh nghiệm trong lãnh chỉ đạo công tác xây dựng hội và phong trào thi đua năm 2004", bản tin nông dân bến tre, (4), tr.4-5.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van1.doc
Tài liệu liên quan