Có thể tin tưởng khẳng định rằng, pháp luật hình sự Việt Nam đã hội đủ các đặc
tính trên và ngày càng được hoàn thiện, theo hướng dân chủ tiến bộ và bảo đảm ngày càng
tốt hơn quyền, lợi ích của người phạm tội.
Tuy nhiên, theo quy luật khách quan và do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất
nước, việc bảo đảm quyền con người của bị cáo bằng pháp luật ở nước ta còn có những
hạn chế nhất định như đã tìm hiểu, phân tích trên. Vì phạm vi của đề tài cũng như trình độ
nhận thức, tác giả đề tài mạnh dạn đưa ra một số phương hướng, nội dung cơ bản nhằm
khắc phục những hạn chế đó đồng thời góp phần hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con
người trong xét xử án hình sự ở nước ta hiện nay.
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2042 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm.
Pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo của mình.
Trước khi bắt đầu hoặc cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo có quyền bổ
sung, thay đổi, rút kháng cáo. Việc sửa đổi, bổ sung đó không được làm xấu hơn tình trạng
của bị cáo.
Khi xét xử phúc thẩm, Toà án xem xét lại phần của bản án bị kháng cáo và khi cần
thiết có thể xem xét lại cả phần không bị kháng cáo. Song, Toà án cấp phúc thẩm không có
nhiệm vụ xem xét lại phần của bản án không bị kháng cáo để tăng nặng trách nhiệm hình
sự đối với bị cáo.
Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo có quyền thu
thập, bổ sung chứng cứ mới. Toà án có nghĩa vụ xem xét, đánh giá các chứng cứ mới này
cùng với các chứng cứ trước đây.
Song song với việc bị cáo thực hiện quyền kháng cáo của mình, Toà án có nghĩa vụ
xét xử lại vụ án nhưng không có quyền làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, tức là không
được tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đây là một bảo đảm pháp lý vô cùng
quan trọng cho bị cáo thực hiện quyền bảo vệ quyền, lợi ích của mình, tạo cho tâm lý của
bị cáo được ổn định, tin tưởng vào pháp luật và cơ quan bảo vệ pháp luật.
Và với kháng cáo của bị cáo, trong quá trình xét xử phúc thẩm, thấy có những căn
cứ cho rằng bị cáo không phạm tội thì Toà án tuyên bố bị cáo không phạm tội, lưu bản án
sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Chương 3
Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong
xét xử hình sự ở nước ta hiện nay
3.1. Quan điểm chung về phương hướng hoàn thiện
3.1.1. Bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta.
Quyền con người với các quy định cụ thể ở quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
đã được khẳng định một cách trân trọng trong Hiến pháp 1992, thể hiện bản chất dân chủ -
nhân đạo - tiến bộ của Đảng, Nhà nước ta cần được quán triệt để điều chỉnh và bảo vệ
bằng các quy phạm của pháp luật hình sự, làm cơ sở để Toà án giải quyết các vụ án.
Trong thư gửi Hội thảo quốc gia nhân kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn nhân quyền Thế
giới do Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban tư tưởng văn hoá
Trung ương, Bộ ngoại giao, trung tâm Khoa học và nhân văn Quốc gia tổ chức tháng
12/1998, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định lại quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta là:"Bảo vệ và phát triển quyền con người không chỉ là một nhiệm vụ lớn hiện nay
mà chính là lý tưởng phấn đấu của những người Cộng sản; là bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa; là cốt lõi của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [36,67]. Do
đó, trong quá trình xây dựng pháp luật cần "ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các
quyền công dân" [18,130].
Giá trị cao quý của quyền con người được thừa nhận, được bảo vệ, do đó việc hoàn
thiện pháp luật phải: "thể hiện sâu sắc quan điểm, đường lối và chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tội phạm với phương châm
giáo dục phòng ngừa là chính, kết hợp với răn đe, giữ nghiêm kỷ cương, cải hoá con
người, đề cao bản chất ưu việt và tính nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức
mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức đoàn thể xã hội và mọi công dân trong
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm" [49,4].
3.1.2. Bảo đảm quyền con người đối với các bị cáo (bị can) trong các Công ước
Quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết.
Là thành viên của Liên hiệp quốc, Việt Nam đã tham gia phê chuẩn và cam kết thực
hiện 8 Công ước Quốc tế về quyền con người; "tham gia các Công ước này, Nhà nước Việt
Nam thừa nhận các giá trị cao quý về các quyền và tự do cơ bản của con người" [37,7]
Do đó, "để nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế và để cho thế giới thấy
rằng "sự thừa nhận" này không phải là hình thức - chỉ nằm trên giấy tờ, mà là có thật -
được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và được thực thi trong cuộc sống, thì hệ thống
pháp luật Việt Nam (trong đó có pháp luật hình sự) cần được hoàn thiện cho phù hợp với
các nguyên tắc và các quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế" [11,29].
Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xét xử án
hình sự cần phải tính đến các yếu tố, đặc điểm phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, truyền thống
pháp lý của dân tộc Việt Nam ta. Có như vậy pháp luật mới có tính khả thi và tồn tại được trong
điều kiện Việt Nam.
3.1.3. Bảo đảm cho Toà án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Việc hoàn thiện pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc: pháp chế, dân chủ, nhân
đạo, công bằng, cá thể hoá trách nhiệm hình sự. Bảo đảm quyền con người bao gồm nhiều
mặt nên việc hoàn thiện pháp luật phải hoàn chỉnh, đồng bộ, mang tính ổn định cao và phải
cụ thể, rõ ràng, tránh tình trạng giải thích, áp dụng pháp luật không thống nhất. Như vậy,
các quy định về định tội, định khung, xác định chế tài, quyền, nghĩa vụ của các bên tham
gia tố tụng, người tiến hành tố tụng ... phải chặt chẽ, khắc phục kẽ hở, tránh được tuỳ tiện.
Chẳng hạn, các quy định về tội danh không được quá chung chung, trừu tượng; các tình
tiết định khung trong cấu thành tội phạm phải thực sự đánh dấu sự thay đổi mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm một cách đáng kể... tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
thống nhất pháp luật.
Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải bảo đảm được tính ổn định đồng thời phải
theo kịp bước tiến trong đời sống xã hội. Hơn nữa, các luật mới (sửa đổi, bổ sung) phải có
tính khả thi, hạn chế việc cần thiết phải có nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được.
Đồng thời từ Hiến pháp đến các văn bản dưới luật phải tạo thành một thể thống nhất, trong
đó Hiến pháp, luật giữ vị trí tối cao. Điều đó tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của Toà án
mà đặc biệt là trong việc áp dụng pháp luật.
Việc hoàn thiện pháp luật một mặt phải nhằm phòng ngừa các hành vi vi phạm
quyền con người, mặt khác phải tạo điều kiện cho việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn,
nghiêm minh các hành vi phạm tội, có nghĩa là không bỏ lọt tội phạm và không làm oan
người vô tội.
Để tạo cho Toà án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì trong việc hoàn
thiện pháp luật đòi hỏi các chế tài được quy định phải cụ thể, chặt chẽ, thống nhất, phải
xây dựng chế tài lựa chọn tương đối dứt khoát, không nên quy định trong một khung hình
phạt lại có nhiều loại hình phạt khác nhau về tính chất, mức độ nghiêm khắc cũng như điều
kiện áp dụng.
3.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự.
Theo tiến trình phát triển của xã hội loài người, quyền con người về mặt pháp lý
ngày càng được củng cố, mở rộng. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
con người nói chung và quyền con người trong xét xử hình sự nói riêng cũng là công việc
thường xuyên, liên tục. Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường - trưởng
đoàn đại biểu nước ta tham dự khoá họp hàng năm lần thứ 56 của Uỷ ban Nhân quyền
Liên hiệp quốc họp tại Giơ ne vơ, ngày 28/3/2000 đã phát biểu: "Phấn đấu để đảm bảo
ngày càng tốt hơn các quyền con người là trách nhiệm thường xuyên của mọi quốc gia.
Trên thực tế, tất cả các quốc gia trên thế giới cần phấn đấu để vượt qua thách thức này.
Điều quan trọng là các Chính phủ luôn coi trọng mục tiêu phấn đấu vì các quyền con
người và có chính sách nhất quán để thực hiện mục tiêu đó" [14,8]. Quyền con người của
bị cáo, trước tiên phụ thuộc vào các quy định của luật và tính khả thi của nó. Do đó, pháp
luật phải có quy định cụ thể, mang nội dung xác định, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ giữa
một bên là cơ quan tiến hành tố tụng, một bên là bị cáo và đại diện của họ.
Hiện nay, thực tiễn cuộc sống đang đặt ra vấn đề cần hoàn thiện pháp luật bảo đảm
quyền con người đối với bị cáo với những nội dung cơ bản như sau:
Về các qui định của pháp luật về tội phạm, trách nhiệm hình sự, về lỗi
Như đã phân tích, Điều 8 BLHS hiện nay liệt kê một cách khá dài các khách thể
được luật sự sự bảo vệ. Nhưng chưa hết, sau đó còn phải quy định thêm: xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Như vậy, những khách thể được nêu
ra là rất cụ thể nhưng vừa dài lại vừa thiếu. Do đó, cần đưa ra quy định ngắn gọn nhưng
vẫn bảo đảm bao quát hết được các khách thể mà luật hình sự cần bảo vệ. Qui định đó có
thể như sau:
Điều 8. Khái niệm tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho cá nhân, xã hội, quốc gia hay hoà bình, ổn định
và phát triển của quốc tế được qui định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các khách thể được luật hình
sự bảo vệ.
Qui định như trên là phù hợp ở chỗ, nó bảo đảm tính thống nhất về lô gíc pháp lý,
đầy đủ và ngắn gọn về kỹ thuật lập pháp đồng thời mang tính tổng hợp và khái quát cao.
Qui định trên cũng đã phân biệt rạch ròi bốn nhóm đối tượng được luật hình sự bảo vệ
thuộc cá nhân, xã hội, quốc gia và quốc tế mà không cần thiết phải liệt kê dài các khách
thể cụ thể.
Điều 8 BLHS cũng chỉ nên dừng lịa ở việc qui định "khái niệm tội phạm". Tuy
nhiên, có quan điểm cho rằng, trong "khái niệm tội phạm" có thể nêu như thế nào là tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng là khó thuyết phục. Bởi lẽ, rõ ràng đó là qui định phân loại tội phạm cho
nên cần được tách riêng khỏi "khái niệm tội phạm" để bảo đảm tính rành mạch, cụ thể,
không chồng chéo của pháp luật.
Điều 8 BLHS có tên gọi là "khái niệm tội phạm" cho nên, thiết nghĩ, ở đó chỉ cần
quy định thế nào là tội phạm là đủ và phù hợp. Còn khoản 4 điều này cũng nên được tách
riêng thành một điều độc lập. Có nghĩa là, tiếp theo điều qui định về khái niệm tội phạm sẽ
là điều qui định không phải là tội phạm sẽ hợp lý hơn.
Chế định trách nhiệm hình sự được coi là chế định quan trọng trong pháp luật hình
sự, nên cần được chính thức quy định trong Bộ luật hình sự theo hướng sau:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mang tính
cưỡng chế Nhà nước do Toà án áp dụng đối với người phạm tội và được thực hiện bằng
hình phạt cụ thể do Bộ luật hình sự qui định.
Trước hết, qui định này khắc phục được "lỗ hổng" trong Bộ luật hình sự. Hay nói
cách khác, nó góp phần hoàn chỉnh kỹ thuật lập pháp (hình sự) ở nước ta hiện nay. Qui
định này cũng thể chế hoá được qui định tại Điều 72 Hiến pháp, thể hiện rõ tinh thần nhân
đạo "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật". Nó thể hiện được lô gíc: không có tội phạm sẽ không có trách
nhiệm hình sự và thể hiện được nguyên tắc: trách nhiệm hình sự do Toà án áp dụng. Đồng
thời nó cũng nêu lên được căn cứ duy nhất của trách nhiệm hình sự là việc thực hiện tội
phạm.
Thể hiện tinh thần nhân đạo Bộ luật hình sự nước ta quy định chủ thể của luật hình
sự chỉ có thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hay nói cách khác, tội phạm chỉ có
thể do người người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Và hình phạt cũng chỉ có
thể được áp dụng đối với người có năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, năng lực trách
nhiệm hình sự là gì, cần phải được khảng định trong Bộ luật hình sự.
Năng lực trách nhiệm hình sự có thể được hiểu là trạng thái của người trong thời gian
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ có
khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi do bị thực hiện và có khả năng điều
khiển được hành vi đó theo ý định của mình.
Ngoài việc quy định năng lực trách nhiệm hình sự với những nội dung nêu trên,
pháp luật hình sự của một số nước (Nga, Pháp, Đức) còn có qui định về năng lực trách
nhiệm hình sự hạn chế. Bởi vì, trong thực tiễn cuộc sống, bên cạnh các trường hợp có (đầy
đủ) năng lực trách nhiệm hình sự và không có năng lực trách nhiệm hình sự, cũng có cả
các trường hợp năng lực trách nhiệm hình sự bị hạn chế. Có nghĩa là người trong khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải hoàn toàn mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình mà khả năng nhận thức hoặc khả năng điểu khiển hành
vi bị hạn chế. Từ thực tiễn đó, Bộ luật hình sự cần qui định năng lực trách nhiệm hình sự
hạn chế để bảo đảm tính chặt chẽ của pháp luật đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để Toà án
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và xem xét giảm nhẹ mức độ trách nhiệm hình sự.
Nội dung của qui định về năng lực trách nhiệm hình sự bị hạn chế, có thể là:
Năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế là trạng thái bệnh lý của người trong khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm khách thể được luật hình sự bảo vệ không có
khả năng hoàn toàn nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi do mình thực hiện và
không có khả năng hoàn toàn điều khiển được hành vi đó.
Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của tội phạm. Việc xác định lỗi của chủ thể trong
tội phạm giúp cho sự phân biệt giữa hành vi có tính chất tội phạm và hành vi không có tính chất
tội phạm, đồng thời góp phần phân biệt được mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và của
người phạm tội. Chính vì vậy, cần quy định lỗi là gì trong Bộ luật hình sự. Nên chăng, qui định
lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội được thể hiện với hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Qui định này khảng định rằng, chỉ khi nào người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội xâm phạm khách thể được luật hình sự bảo vệ có lỗi thì mới bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Hay nói cách khác, chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm khách thể được luật hình sự bảo vệ một cách cố ý hoặc vô ý mới bị coi là có lỗi.
Điều này chỉ ra được như thế nào là người có lối trong tội phạm - là vấn đề bắt buộc phải
chứng minh rõ trong quá trình tố tụng nói chung và trong xét xử nói riêng. Chứng minh lỗi
trong quá trình tố tụng tạo tiền đề quan trọng và cần thiết cho việc xác định trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội.
- Về mục đích của hình phạt
Điều 20 BLHS nước ta quy định rõ mục đích của hình phạt là không chỉ "trừng trị"
mà còn mang nội dung giáo dục. Có thể coi đây là 2 đặc tính không thể tách rời của mục
đích hình phạt được đặt ra trong luật hình sự nước ta. Tuy nhiên, nghiên cứu các biện pháp
hình phạt được Bộ luật hình sự cũng như thực tế việc áp dụng các biện pháp này thấy
rằng, không phải tất cả mọi biện pháp hình phạt điều toát lên nội dung trừng trị. Song
không ai có thể phủ nhận được thuộc tính trừng trị của hình phạt. Hay nói đúng hơn trừng
trị là thuộc tính của hình phạt chứ không phải là mục đích của hình phạt trong khoa học
luật hình sự hiện tại. Do vậy, Bộ luật hình sự Liên Bang Nga (có hiệu lực từ 01/03/1996)
tại Điều 44 quy định: "Hình phạn có mục đích lập lại sự công bằng xã hội cũng như cải tạo
người bị kết án và phòng ngừa tội phạm mới [30,15]. Nên chăng, Bộ luật hình sự của nước
ta cần qui định theo hướng này, nó sẽ hợp lý hơn theo sự phân tích trên. Đồng thời qui
định theo hướng đó sẽ phù hợp với nguyên tắc nhân đạo vốn có của pháp luật Việt Nam,
phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin: "sự tàn nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt"
[22,179], và "điều quan trọng không phải là ở chỗ tội phạm phải trừng phạt nặng mà ở chỗ
không một tội phạm nào không bị phát hiện ra" [66,120].
Về thẩm quyền xét xử của Toà án
Hoạt động xét xử của Toà án có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của bị cáo.
Cho dù chất lượng của luật có tốt đến đâu nhưng hoạt động xét xử kém hiệu quả đều ảnh
hưởng đến quyền con người của bị cáo. Do đó, cải cách hoạt động xét xử của Toà án một
cách khoa học, hợp lý sẽ là điều kiện thuận lợi bảo đảm quyền con người của bị cáo.
Trước hết, cần tổ chức lại hệ thống Toà án theo cấp xét xử và chuyên môn hoá các
toà. Theo đó, việc xét xử sơ thẩm chủ yếu do Toà án cấp huyện thực hiện. Phải là "chủ
yếu" bởi vì, còn một số ít vụ án mang tính đặc biệt, phức tạp sẽ do Toà án cấp tỉnh xét xử.
Như vậy, thẩm quyền của Toà án cấp huyện sẽ tăng lên so với quy định hiện nay. Toà án
cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm. Toà án tối cao chủ yếu thực hiện xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Trước mắt, do tình hình thực tiễn về trình độ, số lượng Thẩm phán, cơ sở vật chất
kỹ thuật, chưa thể "dồn" số lượng các vụ án sơ thẩm cho Toà án cấp huyện được thì cũng
phải nên quy định quyền của Toà án đó được xét xử các tội phạm mà Bộ luật hình sự quy
định đến 10 năm tù (thay vì 7 năm hiện nay), trừ những tội xâm phạm an ninh quốc gia,
những tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam và một số tội phạm
như quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành.
Ngoài các toà hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động cần có thêm các toà
chuyên trách khác nhằm chuyên môn hoá, nâng cao chất lượng xét xử, cũng là bảo đảm tốt
hơn quyền, lợi ích của bị cáo và các bên đương sự.
Về thẩm quyền của Toà án, giới hạn của việc xét xử, Điều 170 BLTTHS quy định:
"Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy
tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử". Quy định như vậy, là không bảo đảm nguyên
tắc độc lập xét xử của Toà án. Vì rằng, Toà án phải xét xử theo đúng tội danh đã nêu. Trên
thực tế, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định xử theo tội danh nhẹ
hơn, tuyên bố bị cáo không phạm tội. Do đó, luật quy định như vậy là chưa chặt chẽ vì Toà
án vẫn có quyền làm khác qui định trên mà vẫn đúng pháp luật. Từ đó, có thể sửa đổi lại
Điều 170 như sau: " Toà án chỉ xét xử bị cáo và những hành vi phạm tội của bị cáo mà Viện
Kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử". Quy định như vậy là phù hợp với
nguyên tắc độc lập xét xử, toàn quyền quyết định của Toà án đồng thời nó còn bảo đảm
quyền, lợi ích của bị cáo.
Với phong tục, tập quán, truyền thống, đạo đức của dân tộc hiện nay, tâm lý mặc
cảm về việc phải "ra hầu toà" vẫn tồn tại trong nhân dân. Hơn nữa, tính chất phức tạp của
các vụ án không giống nhau, có vụ đơn giản, rõ ràng nhưng theo quy định hiện hành thì
cũng phải tiến hành, thực hiện đầy đủ các bước theo trình tự thủ tục chung vừa kéo dài thời
gian giải quyết vụ án, vừa hạn chế quyền tự do, dân chủ của công dân. Do đó, việc "nghiên
cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng" theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương III (khoá 8) là cần thiết.
Như vậy, đối với các vụ án mà: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang,
hoặc tự thú, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm thực hiện là tội phạm ít
nghiêm trọng, người phạm tội có lai lịch rõ ràng thì có thể giải quyết (xét xử) theo thủ tục
rút gọn, tức là giải quyết trong một thời gian ngắn hơn theo thời hạn quy định chung.
Việc giải quyết theo trình tự rút gọn có thể không cần triệu tập bị cáo và một số đối
tượng tham gia tố tụng khác đến phiên toà, trừ trường hợp Toà án thấy cần thiết. Để khắc
phục những sai lầm có thể xảy ra, bảo đảm quyền, lợi ích của bị cáo, đối với các vụ án
này vẫn áp dụng trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và quyền được bào chữa của
bị cáo.
Để bảo đảm quyền con người của bị cáo thì điều quan trọng là tạo môi trường, điều
kiện thuận tiện, công bằng cho các bên tham gia vào quá trình xét xử. "Nghiên cứu các chế
định pháp luật về hoạt động truy tố và xét xử các vụ án hình sự trong các điều kiện của
một xã hội dân chủ, ta thấy rằng bản chất dân chủ và nhân đạo của các chế định này không
phải ở các thủ tục, truy tố, buộc tội, tức là hướng tới việc buộc tội bị can, bị cáo vào một
tội danh nào đó mà là ở chỗ tạo ra một thủ tục để làm sáng tỏ các khía cạnh của vụ án để
làm rõ tính chất của các hành vi, xác định phạm tội hay không phạm tội, mức độ phạm tội"
[59,10].
Do đó, việc tổ chức xét xử phải được tiến hành như một diễn đàn tranh tụng công
khai giữa một bên là người giữ quyền công tố và bên kia là bị cáo và người bào chữa hoặc
đại diện của họ, và ở đó Hội đồng xét xử là trung tâm, độc lập phán quyết. Muốn vậy thì
chế độ duyệt án hay quan niệm "án tại hồ sơ" không thể tiếp tục tồn tại như hiện nay mà
thay vào đó là tất cả các tình tiết của vụ án chỉ được làm sáng tỏ tại phiên toà. Phải khắc
phục ngay được việc Hội đồng xét xử nghiêng về phía người giữ quyền công tố buộc tội bị
cáo. Toà án có nghĩa vụ phải tạo ra và duy trì cho được quá trình tranh tụng công khai,
bình đẳng, dân chủ tại phiên toà để các bên có điều kiện thuận lợi đưa ra các chứng cứ,
biện hộ cho quan điểm của minh. Phải loại bỏ được tình trạng kết tội oan, kết tội nhầm
người vô tội. Để thực hiện điều này, Hội đồng xét xử phải luôn luôn thực sự là người cầm
cân nảy mực, phải nêu cao ý thức trách nhiệm của mình. Có như vậy tính khách quan của
phiên toà cũng như quyền, lợi ích của bị cáo mới được bảo đảm.
Trước đây, trong hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài, Nhà nước cách mạng còn trong
trứng nước, "giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó" nên để giữ vững thành
quả cách mạng, kịp thời trấn áp bọn phản cách mạng, chúng ta đã bắt đầu áp dụng thủ tục
xét xử sơ chung thẩm. Gần đây, ở nước ta thủ tục này đã được thu gọn, chỉ giao cho Toà
án tối cao thực hiện trong những trường hợp rất hãn hữu. Nhưng dù sao chăng nữa thì thủ
tục này cũng hạn chế quyền của bị cáo. Do vậy, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 7 đã thông
qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự, loại bỏ thủ tục xét xử sơ
đồng thời là chung thẩm là hoàn toàn phù hợp.
Về quyền, nghĩa vụ của bị cáo, người bào chữa:
Phải khẳng định rằng, một hệ thống pháp luật dân chủ tiến bộ phải là hệ thống pháp
luật vì con người, cho con người, bảo đảm sự an toàn cho con người trong đó có cả những
người có một thời lầm lỗi. Điều này cũng đúng với bản chất của Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Ngày nay, các quốc gia không ngừng phấn đấu trên mọi lĩnh vực mà quan
trọng hơn cả là lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con
người .
ở Việt Nam, quyền con người đã được Hiến pháp 1992 khẳng định và cụ thể hoá
bằng hệ thống pháp luật. Trong đó luật hình sự, tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm quyền con người, quyền, lợi ích của người phạm tội như đã phân tích, đánh
giá qua các phần trên. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật vẫn là thường xuyên nhằm
mục đích bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người.
Thực hiện mục đích này, trước hết các quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân
nói chung, bị cáo nói riêng phải cụ thể, rõ ràng, xác thực, dễ hiểu, dễ thực hiện.
"Để làm được điều đó, chương V của Hiến pháp 1992 cần bao quát toàn bộ tinh
thần của quyền con người" [59,4] để từ đó các luật về quyền con người được củng cố,
hoàn thiện.
"Nhà nước pháp quyền coi các quyền và tự do của con người là những giá trị xã hội cao
quý nhất" [11,10] cho nên, theo như Hiến pháp 1946, chương "quyền và nghĩa vụ của công dân"
nên được đặt ở vị trí chương thứ II trong Hiến pháp.
Một bảo đảm vô cùng quan trọng cần được khẳng định trong Hiến pháp là: Mọi
công dân có quyền được khởi kiện yêu cầu Toà án có thẩm quyền trong nước bảo vệ quyền
cơ bản của mình khi bị xâm hại trái pháp luật.
Với quy định này, quyền con người được bảo đảm chắc chắn hơn, người dân yên
tâm hơn với các quyền của mình và sử dụng có hiệu quả hơn các quyền của họ. Đồng thời
quy định này cũng phù hợp với Điều 8 Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bị cáo, bị can thực hiện quyền bào chữa của
mình, nên chăng pháp luật cần quy định các văn bản trong quá trình tố tụng phải được dịch
ra thứ tiếng mà họ thông thạo. Quy định này không trái với các Điều 5, 132, 133 Hiến
pháp 1992 và cũng nói rõ hơn vai trò bảo vệ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Xét xử là khâu trung tâm của quá trình tố tụng. ở đây mọi tình tiết của vụ án phải
được làm sáng tỏ và khẳng định. Để việc bào chữa cho bị cáo có hiệu quả thì rõ ràng rằng,
không phải người bào chữa chỉ tham gia bào chữa tại phiên toà là đủ mà họ cần được cho
phép tham gia vào quá trình tố tụng bằng pháp luật từ khi khởi tố vụ án đối với các trường
hợp người bị tình nghi bị bắt giữ, trừ trường hợp cần giữ bí mật đối với tội xâm phạm an
ninh quốc gia. Việc người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng sớm là bảo đảm quan
trọng cho việc bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo.
Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo thông qua hoạt động của người bào
chữa thì cần có quy định để người bào chữa thực hiện việc kiến nghị của mình. Vì trên
thực tế, có những trường hợp việc tham gia bào chữa của người bào chữa không được tạo
điều kiện đúng mức, do đó việc tham gia tranh tụng của họ còn có những hạn chế, không
đạt hiệu quả như mong muốn. Người bào chữa cần được tham gia vào quá trình tố tụng có
tính bình đẳng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hơn nữa, việc quy định các đối tượng có quyền bào chữa như hiện nay còn bị bó
hẹp, chưa tạo được mọi điều kiện thuận lợi để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình
như đã phân tích tại phần 3.1, chương II. Do đó, cần có những quy định mở rộng hơn các
đối tượng được tham gia bào chữa.
Về quyền, nghĩa vụ của các cơ quan và người (gọi tắt là người) tiến hành tố tụng:
Quyền con người của bị cáo chỉ có thể được bảo đảm khi người tiến hành tố tụng
thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của họ tức là không được lộng quyền, lạm quyền, không
được thờ ơ bỏ qua trách nhiệm của mình.
Quyền, nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng đã được cụ thể hoá trong pháp luật
hình sự. Tuy nhiên, để bảo đảm cho họ thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình, thiết
nghĩ cần có một số quy định chi tiết hơn. Chẳng hạn:
- Để người bào chữa tham gia bình đẳng vào quá trình tố tụng cần có những quy
định tạo ra cơ chế để họ thực hiện việc kiến nghị của mình. Theo đó, nên quy định cụ thể
nghĩa vụ của người tiến hành phải bảo đảm cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của
họ. Một khi, người bào chữa không được tạo điều kiện thuận lợi từ nguyên nhân chủ quan
của người tiến hành tố tụng thì người đó có quyền được kiến nghị với người (cấp) có thẩm
quyền giải quyết. Và nên chăng coi đây là vi phạm luật hình thức bởi việc tiến hành thủ tục
tố tụng không bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 20 BLTTHS), không bảo đảm
sự vô tư của những người tiến hành và tham gia tố tụng (Điều 14 BLTTHS), không bảo đảm
quyền được bào chữa của bị can, bị cáo (Điều 132 Hiến pháp 1992 và Điều 12 BLTTHS) ...
- Tương tự như vậy, việc mớm cung, ép cung đã là điều cấm của pháp luật. Song,
trong thực tế, điều đó vẫn còn diễn ra. Theo quy định tại khoản 2, Điều 183 BLTTHS thì,
sau khi nghe bị cáo trình bày ý kiến của mình, Hội đồng xét xử chỉ "hỏi thêm về những
điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn". Nhưng trong quá trình xét xử,
có lúc, có nơi, các câu hỏi theo hướng buộc tội hoặc giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của
tội phạm vẫn được đặt ra từ phía Hội đồng xét xử. Việc đưa ra các câu hỏi hướng về kết
quả án đã duyệt hay án tại hồ sơ không loại trừ khả năng mớm cung hoặc ép cung.
Thiết nghĩ, để hạn chế và loại bỏ trường hợp mớm, ép cung, cần tăng cường các
biện pháp trách nhiệm khác, ngoài biện pháp trách nhiệm hình sự vốn đã được áp dụng rất
ít trong thực tiễn cuộc sống.
- Để bảo đảm cho Toà án xét xử độc lập, cần xây dựng cơ chế chống can thiệp từ
bên ngoài, từ phía người không có trách nhiệm giải quyết vụ án mà đặc biệt là trong nội bộ
các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì suy cho cùng thì việc can thiệp tới quá trình giải quyết án
từ phía bên ngoài không nguy hại bằng việc can thiệp trong nội bộ các cơ quan này. ở đây
hoàn toàn không thể đồng nhất việc "can thiệp" với việc họp bàn giải quyết án được.
Để thực hiện vấn đề này, cần bổ sung các tiêu chuẩn về Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân; tăng cường các biện pháp đãi ngộ đối với người tiến hành tố tụng. Đồng thời nên cải
cách thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng lâu dài, thay vì 5 năm một nhiệm kỳ như
hiện nay để họ yên tâm công tác, phục vụ.
Một vấn đề rất nhạy cảm đối với quyền con người của bị can, bị cáo là việc tạm
giam. Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất ảnh hưởng đến quyền, tự do của
người được coi là chưa có tội. Việc nhận thức và áp dụng biện pháp này trong các giai
đoạn tố tụng còn có nhiều trường hợp vi phạm pháp luật. Do đó, ngay sau khi thụ lý vụ án,
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Toà án cần xem xét việc bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của bị can, bị cáo, trong trường hợp không đủ các căn cứ quy định của
pháp luật thì phải có quyết định trả tự do cho họ. "Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai
hoặc nuôi con nhỏ, người già yếu, bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì nói chung Toà án
không áp dụng biện pháp tạm giam, trừ trường hợp đặc biệt" [28,11].
Về thời hạn tạm giam đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm)
pháp luật hiện hành quy định không cụ thể, do đó dễ dẫn đến khả năng tạm giam người
không cần thiết phải tạm giam hoặc tạm giam quá thời hạn. Do đó, cần quy định cụ thể
hơn, theo hướng: khi có các căn cứ tại Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong mỗi giai
đoạn xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Toà án có quyền ra lệnh tạm giam một lần và gia hạn
tạm giam một lần. Nhưng tổng số thời hạn tạm giam không được vượt quá mức án sẽ tuyên.
Quy định này sẽ ngăn ngừa được các trường hợp tạm giam tràn lan, tội nhẹ nhưng phải bị tạm
giam lâu. Ngoài ra, để khắc phục tình trạng tạm giam quá hạn, sai pháp luật, cần có quy định bồi
thường thiệt hại thoả đáng cho bên bị tạm giam đó.
Về một số quy định cụ thể khác:
- Hoạt động xét xử của Toà án được quy định trên hết tại Hiến pháp. Việc xét xử bất
luận trong trường hợp nào cũng không được trái với các quy định đó. Riêng chương X
Hiến pháp 1992 có 11/15 điều quy định về hoạt động của Toà án. Ngoài tính tối cao, cụ
thể, rõ ràng, các quy định này phải chặt chẽ, lô gíc, dễ hiểu. Với ý tưởng này, xét thấy,
Điều 129 Hiến pháp 1992 quy định việc xét xử của Toà án có Hội thẩm tham gia và để làm
rõ thêm vấn đề này, nên chăng cần chuyển đoạn 2 Điều 131 Hiến pháp 1992 lên thành
đoạn 2 Điều 129 mà hoàn toàn không làm thay đổi nội dung các quy định của Hiến pháp.
Theo đó, Điều 129 sẽ là:
"Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có
Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán.
Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số"
- Trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự, chúng ta đã tuân thủ
những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc đó là những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt toàn
bộ nội dung pháp luật hình sự nước ta. Song đến nay, các nguyên tắc đó chưa được khẳng
định một cách có hệ thống và độc lập trong Bộ luật hình sự mới ban hành. Việc ghi nhận các
nguyên tắc đó thể hiện rõ sự phù hợp của pháp luật nước ta với tư tưởng pháp lý tiến bộ của
nhân loại, đồng thời "đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn áp dụng hình sự - chính xác,
thống nhất và đồng bộ, bằng cách đó, sẽ góp phần rất quan trọng vào việc đấu tranh chống tội
phạm, bảo vệ hữu hiệu các quyền và tự do của công dân..." [11,53].
Các nguyên tắc cần được khẳng định có thể là: pháp chế, dân chủ, nhân đạo, công
bằng, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân.
- Thể hiện tinh thần nhân đạo, luật hình sự của nước ta hiện nay đã quy định một số
trường hợp mà việc gây thiệt hại cho các lợi ích được luật hình sự bảo vệ không bị coi là
tội phạm, và tất nhiên, trách nhiệm hình sự được loại trừ. Chính vì vậy, người gây thiệt hại
đó không phải chịu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp đó là khi mà hành vi tuy về mặt
hình thức có những dấu hiệu của hành vi như một tội phạm được quy định trong Bộ luật
hình sự nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội của nó không đáng kể (khoản 4, Điều 8
BLHS), là sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS), do người không có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện (khoản 1, Điều 13 BLHS), là phòng vệ chính đáng (khoản 1, Điều 15 BLHS),
là tình thế cấp thiết (khoản 1, Điều 16 BLHS), do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thực hiện (Điều 12 BLHS), xảy ra trước khi Bộ luật hình sự có hiệu lực thi hành
(khoản 2, Điều 7 BLHS).
Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống và pháp lý đang đặt ra những vấn đề mà các nhà lập
pháp cần nghiên cứu giải quyết. Đó là các trường hợp tuy có gây thiệt hại cho các lợi ích
được luật hình sự bảo vệ song tính chất tội phạm của hành vi gây thiệt hại đó cần được loại
trừ. Cụ thể như các trường hợp:
+ Bắt người phạm tội quả tang hoặc bị truy nã. Theo Điều 60 Bộ luật tố tụng hình
sự thì, bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải người phạm tội quả tang hoặc đang bi
truy nã đến cơ quan có thẩm quyền. Song trên thực tế thì điều đó chưa được khuyến khích
thực hiện nên ít gặp trong cuộc sống. Bởi lẽ, có người muốn bắt nhưng một mặt họ sợ bị
chống trả hoặc mặt khác, quan trọng hơn là sợ trái pháp luật hoặc vượt quá giới hạn cho
phép của pháp luật.
Việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với hành vi bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã, trước hết bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho việc bắt người này là không
trái pháp luật. Tức là việc bắt người đó không phải là hành vi phạm tội. Tuy nhiên trong
trường hợp bắt người này, việc gây thiệt hại cho người bị bắt đến mức nào thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, bị coi là có tội là vấn đề phức tạp, không thuộc phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
+ Thi hành chỉ thị, quyết định, mệnh lệnh (gọi tắt là chỉ thị) cấp trên. Thi hành chỉ
thị là việc biến các chỉ thị thành hiện thực. Các chỉ thị đó là ý chí của người ban hành (cấp
trên) nên do tính chất phục tùng mà người chấp hành thường tin tưởng vào chúng và rắp
tâm thực hiện. Cho nên: a) Nếu chỉ thị là đúng pháp luật mà người thi hành có gây thiệt hại
cho các lợi ích được luật hình sự bảo vệ thì hành vi gây thiệt hại đó là hành vi hợp pháp; b)
Nếu chỉ thị là trái pháp luật nhưng người thi hành không thấy trước hoặc không buộc phải
thấy trước chỉ thị đó là trái pháp luật, buộc họ phải chấp hành, gây thiệt hại cho lợi ích
được luật hình sự bảo vệ thì hành vi thi hành chỉ thị đó không bị coi là tội phạm mà chính
người ra chỉ thị đó phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại mà người thi hành gây ra.
Trong trường hợp này, người thi hành chỉ là công cụ của người ra chỉ thị. Người ban hành
chỉ thị thấy trước (và buộc phải thấy trước) hậu quả của việc thực hiện chỉ thị đó nhưng
vẫn ban hành để buộc người thi hành phải thực hiện và đã sử dụng người thi hành như là
công cụ để thực hiện tội phạm; c) Nếu chỉ thị là trái pháp luật mà người thi hành biết rõ chỉ
thị là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của việc chấp hành chỉ thị nhưng vẫn chấp
hành chỉ thị thì họ cùng với người ban hành chỉ thị chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại
do họ gây ra.
+ Rủi ro chính đáng: Lịch sử của xã hội loài người đã chứng minh xác đáng rằng,
nhờ có những tiến bộ về khoa học công nghệ mà xã hội ngày càng phát triển. Nhưng, để có
được những tiến bộ đó, con người đã phải trải qua không ít thất bại mà chính họ cũng
không thể lường trước được. Trong những thất bại đó, có cả những thất bại gây thiệt hại
đến lợi ích được luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, trong trường hợp gây thiệt hại (rủi ro) này,
cần được coi là không có lỗi và người gây ra thiệt hại đó không phải chịu trách nhiệm hình
sự khi có các điều kiện sau:
* Rủi ro xảy ra liên quan đến hoạt động sản xuất hoặc nghề nghiệp của người đã
gây ra thiệt hại.
* Rủi ro do người thực hiện hành vi nhằm mục đích duy nhất là đem lại lợi ích cho
xã hội.
* Để đạt được mục đích đem lại lợi ích cho xã hội không thể không cần có hành vi
mạo hiểm. Và hành vi mạo hiểm đó phù hợp với kiến thức và thực tiễn chung. Song hành
vi mạo hiểm đó lại gặp phải rủi ro.
* Sự rủi ro đó đã được người có hành vi mạo hiểm áp dụng tất cả các biện pháp cần
thiết để hạn chế thiệt hại gây ra.
Như vậy, trong trường hợp rủi ro chính đáng (có đủ những điều kiện trên) thì trách
nhiệm hình sự phải được loại trừ.
- Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2, Điều 25 BLHS, thì:
Trong trường hợp trước khi tội phạm bị phát giác, người phạm tội đã tự thú ... thì cũng có thể
được miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài trường hợp này ra, trong thực tiễn cuộc sống, pháp lý cũng
còn có trường hợp cần được miễn trách nhiệm hình sự. Đó là trường hợp hoà hoãn với bị hại. Ví
dụ: Vì làm ăn thua lỗ, nợ nhiều và do quen thân với B có xe máy Dream trị giá 25 triệu đồng
nên A quyết định lừa B mượn xe máy để bán lấy tiền trả nợ và làm ăn. Trước khi xét xử, A
vắng mặt. Sau đó ít ngày, A trở về, gặp lại B, xin lỗi, hứa hẹn một thời gian ngắn sau sẽ bồi
thường toàn bộ thiệt hại; B chấp thuận. Rõ ràng hành vi của A là phạm tội, tuy không thuộc
trường hợp "trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú" nhưng cần được
coi là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự.
Kết luận
Với mục đích đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu để đề xuất phương hướng, nội dung hoàn
thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người của bị cáo trong các vụ án hình sự, đề tài
đã cố gắng xem xét làm sáng tỏ một số vấn đề về quyền con người và thực trạng các quy
định của pháp luật hiện nay ở nước ta về bảo đảm quyền con người trong xét xử án hình
sự.
Quyền con người có lịch sử lâu đời và luôn là giá trị xã hội cao quý nhất cho dù lúc
nào đó và ở đâu đó nó có bị chà đạp nhưng ý nghĩa của nó thì chẳng bao giờ bị mất đi.
Theo tiến trình phát triển của xã hội loại người, quyền con người ngày càng được bảo đảm
trên bình diện quốc tế và ở mỗi quốc gia. Một trong những bảo đảm đó, cái mà được coi là
quan trọng hàng đầu là nỗ lực thường xuyên của các quốc gia trong việc xây dựng, củng cố
và hoàn thiện hệ thống pháp luật để ghi nhận và thực hiện quyền con người . Hay nói cách
khác, cái bảo đảm quan trọng đối với quyền con người có thể được coi là bảo vệ bằng
pháp luật. Mà trong pháp luật, bảo vệ chắc chắn hơn cả là bảo vệ bằng Hiến pháp và các
luật, trong đó có luật hình sự.
Hoạt động lập pháp hình sự có nhiệm vụ là phản ánh khách quan các nhu cầu và lợi
ích cần được luật hình sự bảo vệ. ở đó, việc bảo đảm quyền con người cho mọi công dân
nói chung và bị cáo nói riêng là một trong những nhu cầu quan trọng nhất, bức thiết nhất,
nó đòi hỏi phải được thể hiện rõ trên các mặt cơ bản như: quy định rõ ràng, cụ thể cơ sở
của trách nhiệm hình sự; xác định chính xác tội phạm, phân loại tội phạm và ranh giới giữa
tội phạm và không phải là tội phạm; quy định hình phạt và hệ thống hình phạt phải
tương xứng với tội phạm và các loại tội phạm; quy định quyền và nghĩa vụ của các bên
tiến hành và tham gia tố tụng; và, quy định các nguyên tắc áp dụng hình phạt.
Để bảo đảm quyền con người của bị cáo thì tất cả các vấn đề trên có thể coi là xây
dựng và áp dụng pháp luật phải được thực hiện một cách đồng bộ, không thể coi nặng mặt
này mà bỏ qua mặt khác. Bởi vì, hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật có
mối quan hệ gắn bó với nhau. Việc xây dựng pháp luật tốt tạo cơ sở an toàn cho các lợi ích
cần phải được bảo vệ đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được đúng
đắn. Việc xét xử của Toà án phải dựa vào pháp luật và phải tuân theo pháp luật. Do đó, để
có được một phán quyết của Toà án đúng đắn thì đòi hỏi pháp luật phải mang tính công
bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế.
Có thể tin tưởng khẳng định rằng, pháp luật hình sự Việt Nam đã hội đủ các đặc
tính trên và ngày càng được hoàn thiện, theo hướng dân chủ tiến bộ và bảo đảm ngày càng
tốt hơn quyền, lợi ích của người phạm tội.
Tuy nhiên, theo quy luật khách quan và do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất
nước, việc bảo đảm quyền con người của bị cáo bằng pháp luật ở nước ta còn có những
hạn chế nhất định như đã tìm hiểu, phân tích trên. Vì phạm vi của đề tài cũng như trình độ
nhận thức, tác giả đề tài mạnh dạn đưa ra một số phương hướng, nội dung cơ bản nhằm
khắc phục những hạn chế đó đồng thời góp phần hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con
người trong xét xử án hình sự ở nước ta hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ Ba (khoá VIII). Lưu hành nội bộ, tháng 6 năm
1992.
2. Nguyễn Thị Bình. Bàn về quyền con người. Tạp chí Cộng sản, tháng 5 năm 1993.
3. Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Niên. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
Nxb chính trị quốc gia, H, 1999.
4. Trần Văn Bính (chủ biên). Toàn cầu hoá và quyền công dân ở Việt Nam (nhìn từ
khía cạnh văn hoá). Nxb Chính trị quốc gia. H, 1999
5. Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.
Nxb Khoa học và xã hội. H, 1994.
6. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985. Nxb
Chính trị quốc gia.H, 1993.
7. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999. Nxb
Chính trị quốc gia. H, 2000.
8. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb
Chính trị quốc gia. H, 1993.
9. Lê Cảm. Về một số quy định của phần chung dự án Bộ luật hình sự sửa đổi. Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, tháng 4 năm 1999.
10. Lê Cảm. Những điểm mới cơ bản của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Tạp
chí dân chủ và pháp luật, tháng 3/2000
11. Lê Cảm. Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Nxb Công an nhân dân. H, 1999
12. Nguyễn Ngọc Chí. Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự. Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 4 năm 1999.
13. N.N Cốp tun. Về vai trò của Toà án trong việc chứng minh trong các vụ án hình
sự dưới ánh sáng các nguyên tắc hiến định. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
(Liên Bang Nga), tháng 6-1998, tiếng Nga.
14. Hà Hùng Cường. Việt Nam nỗ lực xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ các
quyền con người. Báo nhân dân ngày 31/3/2000
15. Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
Nxb Chính trị quốc gia. H, 1996.
16. I.U.Đmitriép, G. G. Treremnức. Cơ quan tư pháp trong hệ thống phân chia
quyền lực và việc bảo vệ quyền và tự do của con người. Tạp chí Nhà nước và
pháp luật (Nga), số 8 năm 1998 tiếng Nga.
17. Trần Văn Độ. Vấn đề phân loại tội phạm. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4
năm 1999.
18. Trần Văn Độ. Lỗi và các hình thức của nó trong luật hình sự Việt Nam. Khoa
luật trường đại học tổng hợp quốc gia Matxcơva mang tên Lô mô nô xốp. M,
1986, tiếng Nga.
19. Trần Ngọc Đường (chủ biên). Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Nxb
Chính trị Quốc gia, H, 1998.
20. Trần Ngọc Đường (chủ biên). Các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1999
21. Trần Ngọc Đường. Hành vi hợp pháp- nhân tố bảo đảm quyền con người, quyền
và nghĩa vụ công dân. Chuyên khảo quyền con người, quyền công dân. Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
22. A.M Gia kốp lép. Nguyên tắc công bằng và những cơ sở của trách nhiệm hình
sự. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Xô Viết, số 3 năm 1982, tiếng Nga.
23. A.X.Gorelic. Bảo vệ các quyền cơ bản của con người bằng pháp luật hình sự.
Trong sách "Xu hướng phát triển của pháp luật hình sự và chính sách hình sự
hiện nay. Viện Nhà nước và pháp luật (Liên bang Nga). M, 1994, tiếng Nga.
24. Phạm Hồng Hải. Mấy ý kiến về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự ở
nước ta. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 3/1998.
25. Phạm Hồng Hải. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Nxb Công an
nhân dân. H, 1999
26. Hoàng Văn Hảo, Chu Thành. Quyền con người và quyền công dân. Tạp chí
Cộng sản, tháng 5 năm 1993.
27. Hoàng Văn Hảo, Vũ Công Giao. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền - một văn
kiện có tính chất bước ngoặt trong lịch sử nhân quyền quốc tế. Tạp chí Cộng
sản, tháng 2 năm 1999.
28. Nguyễn Văn Hiện. Toà án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ
chức. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 8 năm 1999.
29. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Nxb Chính trị
quốc gia, H, 1993.
30. Hiến pháp Liên bang Nga, Nxb Sách pháp lý. M, 1996, tiếng Nga.
31. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bàn về quyền con người (tổng luận
phân tích - lý luận và thực tiễn). Trung tâm thông tin tư liệu. H, 1994
32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Quyền con người - quyền công dân
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Thông tin chuyên đề. Trung tâm thông tin
tư liệu, tháng 5/1995.
33. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu quyền con
người. Quyền con người, quyền công dân. Chuyên khảo, tập 1, 1992.
34. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu quyền con
người. Quyền con người, quyền công dân. Chuyên khảo, tập 2, 1992.
35. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu quyền con
người. Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị. Nxb Chính trị quốc gia. H,
1997.
36. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.Tạp chí nghiên cứu lý luận, tháng
3/2000.
37. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các văn kiện quốc tế về quyền con
người. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1998.
38. V. H. Kuđriavcev. Đạo luật, hành vi, trách nhiệm. Nxb Khoa học. M, 1986, Tiếng
Nga.
39. V. I. Lê Nin Toàn tập, tập 4. Nxb tiến bộ Matxcơva, 1997, bản tiếng Việt.
40. Nguyễn Đình Lộc. Bộ luật hình sự mới (năm 1999) và một số vấn đề cần quan
tâm. Tạp chí dân chủ và pháp luật. Số chuyên đề về Bộ luật hình sự của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tháng 3/2000
41. Uông Chu Lưu. Những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần chung của Bộ
luật hình sự. Tạp chí Dân chủ và pháp luật, tháng 3/2000.
42. C.Mác và Ph. Ăng ghen. Toàn tập, tập 1. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1995
43. C.Mác và Ph.Ăng ghen. Toàn tập tập 1, tiếng Nga.
44. C. Mác và Ph. Ăng ghen. Toàn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1995
45. C.Mác và Ph.Ăng ghen. Toàn tập, tập 13, tiếng Nga.
46. H. S. Malein. Vi phạm pháp luật: Khái niệm, nguyên nhân, trách nhiệm. Nxb
pháp lý. M, 1985. tiếng Nga.
47. Nguyễn Văn Mạnh. Quyền chính trị của phụ nữ trong công ước về xoá bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trong pháp luật Việt Nam. Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, tháng 3/2000.
48. Nguyễn Văn Mạnh. Xây dựng và hoàn thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền
con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay. Luận án PTS
49. Nông Đức Mạnh. Lời bế mạc kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá X. Báo nhân dân,
ngày 22/12/1999
50. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 8. Nxb chính trị quốc gia H, 1996.
51. Lê Văn Minh. Nên chăng thay đổi Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự.Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, tháng 5 năm 1999.
52. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993. Nxb chính trị quốc gia.
H, 1994.
53. Đinh Văn Quế. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam. Nxb chính trị quốc gia H, 1998.
54. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết số
32/1999/QH10 về việc Thi hành Bộ luật hình sự. Công báo, 01/2000.
55. Nguyễn Duy Quý. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - điều kiện cơ bản bảo
đảm quyền con người ở nước ta. Tạp chí Cộng sản, tháng 2 năm 1999.
56. C. A. Sây pher. Về khái niệm và mục đích của chứng minh trong tố tụng hình sự.
Tạp chí Nhà nước và pháp luật thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga, số
9 năm 1996, tiếng Nga.
57. G. T. Tkeseliadde. Thực tiễn xét xử và đạo luật hình sự. Nxb "Mecniereba".
Tbilisi, 1975.
58. Hữu Thọ. Huy động toàn xã hội phòng, chống tệ nạn xã hội. Báo nhân dân ngày
29/3/2000.
59. Lê Minh Thông. Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát
huy dân chủ ở nước ta ta hiện nay. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng
12/1998.
60. Lê Minh Thông. 50 năm - tuyên ngôn thế giới về quyền con người. Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, tháng 4/1998.
61. Phan Hữu Thức. Một số vấn đề về hình sự hoá, dân sự hoá, hành chính hoá,
nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng
4/1999.
62. Toà án nhân dân tối cao - Giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao
động, hành chính và tố tụng. Tạp chí Toà án nhân dân, tháng 3 - 2000
63. Toà án nhân dân tối cao - Công văn số 34/2000/KHXX ngày 30/3/2000 của Toà
án nhân dân tối cao trả lời Toà án dân dân tỉnh Hà Nam về việc áp dụng điểm C
mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội "Về việc thi hành Bộ luật hình sự". Tạp
chí Toà án nhân dân, tháng 4- 2000
64. Toà án nhân dân tối cao. Công văn số 10/2000/KHXX, ngày 10/1/2000 hướng
dẫn thi hành mục 3 Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự.
Tạp chí Toà án nhân dân, tháng 2/2000.
65. Toà án nhân dân tối cao. Các văn bản về hình sự, nhân sự và tố tụng. H, 1990.
66. Phùng Văn Tửu. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, pháp luật của dân, do dân,
vì dân ở Việt Nam. Nxb chính trị quốc gia H, 1999.
67. Đào Trí úc. Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc và trách nhiệm cá
nhân và về lỗi. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 9 năm 1999.
68. U.O. UMOZURIRE. Quyền con người và phát triển. Đỗ Sáng lược thuật. Tạp
chí thông tin khoa học xã hội, tháng 8 năm 1999.
69. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý. Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp
luật hình sự trong giai đoạn hiện nay. Nxb Công an nhân dân. H, 1994.
70. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý. Chuyên đề về một số vấn đề lý luận, thực
tiễn phục vụ cho việc xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi). Thông tin khoa học
pháp lý, tháng 06/2000.
71. Viện Nhà nước và pháp luật. Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự
Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1994.
72. Quách Thành Vinh. Một số vấn đề liên quan tới việc làm xấu hơn tình trạng của
bị cáo xét xử phúc thẩm. Tạp chí Cộng sản, tháng 12 năm 1999.
73. Võ Khánh Vinh. Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam. Nxb Công
an nhân dân. H, 1994.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 141183.pdf