Luận văn Thực trạng cổ phần hóa ở tổng công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp

Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nghiên cứu về “Thực trạng CPH ở tổng công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp”, luận văn đã hoàn thành được mục tiêu đặt ra và có những đóng góp sau: 1. Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về CPH DNNN. Đó là khái niệm về CPH và sự hình thành CTCP. Đặc biệt, luận văn đã làm rõ sự cần thiết phải CPH DNNN ở nước ta và tác dụng của nó. Đồng thời, luận văn cũng làm rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN. Để làm rõ thêm những vấn đề lý luận về CPH DNNN, luận văn đã rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo với nước ta về thực tiễn CPH DNNN ở một số nước.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng cổ phần hóa ở tổng công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cổ phần tại doanh nghiệp với giá ưu đãi giảm 30% so với giá bán cổ phần cho các đối tượng khác và tuỳ theo thời gian làm việc tại doanh nghiệp, mỗi năm làm việc người lao động được mua 10 cổ phần ưu đãi. Đặc biệt, người lao động nghèo còn được mua chịu cổ phần ưu đãi từ 3 đến 10 năm, không phải trả lãi. Người lao động được bảo lưu việc làm 12 tháng kể từ khi doanh nghiệp chuyển thành CTCP, sau nếu mất việc do tổ chức sắp xếp lại lao động thì được công ty giải quyết theo chế độ hiện hành của Nhà nước như đảm bảo chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và nếu tiếp tục còn làm việc tại CTCP thì được hưởng các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp chuyển giao cho CTCP sử dụng. Tuy nhiên, ở tổng công ty Sông Đà, vấn đề lao động, việc làm và thu nhập vẫn còn không ít khó khăn với một số doanh nghiệp sau CPH như CTCP may xuất khẩu Sông Đà, CTCP công nghệ thông tin Sông Đà… 2.3.2- Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1- Những hạn chế của cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà Bên cạnh những thành tích đạt được, việc thực hiện CPH ở tổng công ty Sông Đà cũng bộc lộ một số hạn chế sau: - Hạn chế rõ nhất là việc thực hiện CPH tiến độ còn chậm, thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Theo dự kiến, trong ba năm (2001 – 2003) tiến hành CPH 36 doanh nghiệp thành viên, tuy nhiên đến tháng 12/2003, tổng công ty Sông Đà mới thực hiện CPH được 24 doanh nghiệp đạt 89% so với dự kiến. - Xét về cơ cấu các doanh nghiệp thành viên được CPH chưa được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất của tổng công ty. Cụ thể là các doanh nghiệp được CPH chủ yếu thuộc ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và thương mại; số lượng doanh nghiệp được CPH trong lĩnh vực xây lắp rất ít so với tổng số các doanh nghiệp xây lắp hiện có. Do số lượng doanh nghiệp được CPH chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, Nhà nước vẫn còn giữ một tỷ lệ đáng kể cổ phần trong các CTCP nên việc CPH nhìn chung chưa có tác động lớn đến việc cơ cấu lại nguồn vốn của các doanh nghiệp. - Một số doanh nghiệp sau CPH mới chỉ tập trung vào tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá thành để tăng lợi nhuận và phân chia lợi tức mà chưa chú trọng đến những vấn đề có ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của doanh nghiệp là thực hiện đổi mới công nghệ, mở rộng thu hút vốn xã hội đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Trong các doanh nghiệp được CPH, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vẫn còn có những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Ví dụ CTCP bao bì Sông Đà 12, CTCP công nghệ thông tin Sông Đà, CTCP vật liệu và xây dựng. Các công ty này hoạt động hầu như không có hoặc lợi nhuận không đáng kể, thậm chí CTCP công nghệ thông tin Sông Đà còn bị thua lỗ trong kinh doanh. - Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập. Thực tế, một số doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chế độ cho người lao động và việc giải quyết việc làm vẫn còn nhiều khó khăn. Ngược lại, ở một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Vì vậy, tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi DNNN chuyển sang CTCP vẫn còn thấp hơn so với số lượng cần phải giải quyết. - Trong một số doanh nghiệp đã được CPH, đặc biệt là những doanh nghiệp có những lợi thế về kinh doanh đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phần mà những người lao động trong các doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi. Người lao động do chưa ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân những người lao động mà còn ảnh hưởng đến một trong những nội dung quan trọng của CPH là tạo sự dân chủ hoá trong quản lý doanh nghiệp khi người lao động thực sự có ý thức làm chủ. - Cơ cấu tổ chức và cơ chế tổ chức sản xuất kinh doanh phần nào vẫn còn nhiều hạn chế. Trong thực tế, lực lượng cán bộ chủ chốt của các doanh nghiệp thành viên khi chuyển sang CTCP, chủ yếu vẫn là những cán bộ lãnh đạo và quản lý DNNN trước kia. Hầu hết ở các CTCP, các chức danh chính như: chủ tịch Hội đồng quản trị, tổng giám đốc hoặc giám đốc, kế toán trưởng và trưởng Ban kiểm soát vẫn do những cán bộ chủ chốt trước đây đảm nhiệm. Vì vậy, bộ máy quản lý điều hành của một số doanh nghiệp chưa thực sự phát huy hết tính năng động do tư tưởng bao cấp vẫn còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của tổng công ty chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của mình. Thực tế, cần phải có sự thay đổi hơn nữa không chỉ về hình thức mà còn phải có một sự thay đổi cơ bản trong nội dung hoạt động của tổng công ty, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với những cơ hội và thách thức mới đặt ra. 2.3.2.2- Nguyên nhân của những hạn chế Những hạn chế trong quá trình CPH của tổng công ty Sông Đà là do những nguyên nhân sau: - Về phía tổng công ty: Trước hết, trong nhận thức và hành động của một số cán bộ lãnh đạo ở tổng công ty và doanh nghiệp chưa thực sự quyết tâm thực hiện CPH. Không ít người sợ mất quyền quản lý đối với doanh nghiệp trực thuộc, hoặc có khi người lãnh đạo các doanh nghiệp và người lao động trong DNNN đều sợ mất đi sự bao cấp của Nhà nước, mất quyền lợi, mất việc làm. Đồng thời, phần lớn các doanh nghiệp được CPH của Tổng công ty Sông Đà nằm ở địa bàn xa. Ban đổi mới của các doanh nghiệp này chưa có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với Ban CPH của tổng công ty. - Về phía Nhà nước: + Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước về CPH đang trong giai đoạn hoàn thiện, thậm chí có những vấn đề còn chưa theo kịp với thực tế. Điển hình như thiếu sự hướng dẫn việc CPH doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư phát triển đô thị, cơ sở hạ tầng hay các doanh nghiệp hành chính sự nghiệp có thu v.v... Ví dụ, việc CPH Công ty đầu tư phát triển và khu công nghiệp Sông Đà đã mất hơn 4 tháng mới hoàn thành. Thực tế, các Bộ ngành chủ quản chưa có được cơ chế thực hiện đối với loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc thù này. Rõ ràng là tài sản hữu hình thuộc sở hữu của doanh nghiệp tuy rất nhỏ nhưng lợi nhuận tiềm năng từ xây dựng và bán chung cư và các công trình dân dụng khác là rất lớn. Vì vậy, cần xác định cơ sở tính toán hợp lý để vừa đảm bảo cho Nhà nước không bị thiệt hại mà doanh nghiệp vẫn có sức hấp dẫn các cổ đông đầu tư vốn. + Thủ tục tiến hành CPH còn trải qua nhiều bước thực hiện, nhiều khâu phê duyệt phức tạp liên quan tới nhiều cấp, nhiều nghành khiến cho công tác CPH còn bị chậm trễ. Để trở thành một CTCP, doanh nghiệp phải trải qua nhiều bước xác định giá trị doanh nghiệp, phê duyệt giá trị doanh nghiệp và phương án CPH… Công tác CPH vẫn còn mới nên kinh nghiệm trong thực hiện CPH của lãnh đạo tổng công ty Sông Đà chưa nhiều. Vì vậy, việc triển khai CPH cũng diễn ra chậm. + Trong quá trình thực hiện CPH, có tình trạng Nhà nước quy định về ngành nghề, hoặc giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt và không giao toàn quyền quyết định cho tổng công ty Sông Đà. Mặt khác, theo Chỉ thị số 03/2003/CT-BXD ngày 3/6/2003 về việc chấn chỉnh và đẩy mạnh công tác CPH DNNN thì tổng công ty Sông Đà phải nắm giữ cổ phần chi phối đối với tất cả các doanh nghiệp khi thực hiện CPH. Thực tế, ở xí nghiệp Sông Đà 12.6 thuộc công ty Sông Đà 12, vì tổng công ty Sông Đà không nắm giữ cổ phần chi phối nên khi trình Bộ Xây dựng phê duyệt duyệt phương án CPH phải mất một thời gian khá dài. + Thu nhập của CBCNV làm việc trong một số doanh nghiệp thành viên còn thấp, việc bán cổ phần cho những đối tượng nghèo rất khó khăn, mặc dù đó là quyền lợi chính đáng của họ. Tình trạng này có thể thấy rõ ở một số doanh nghiệp như: CTCP may xuất khẩu Sông Đà, CTCP bao bì Sông Đà. + Các doanh nghiệp khi chuyển sang hoạt động theo mô hình CTCP với quy mô nhỏ là phổ biến nên khó có thể tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán, dẫn đến hạn chế khả năng huy động nguồn vốn xã hội cho sản xuất để tăng năng lực hoạt động của mình. Đồng thời, một loạt vấn đề nảy sinh sau khi CPH làm cho một số doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm nên xử lý lúng túng những quan hệ kinh tế sau CPH như vấn đề chuyển nhượng cổ phiếu, xử lý lao động dôi dư, lao động nghỉ theo chế độ v.v... + Trên thực tế, với nhiều doanh nghiệp sau CPH, việc vay vốn gặp rất nhiều khó khăn do không được vay vốn tín chấp ở ngân hàng như khi còn là DNNN. + Một số quy định của Nhà nước chưa có hướng dẫn cụ thể và đầy đủ nên nhiều doanh nghiệp sau CPH đã gặp khó khăn trong việc điều chỉnh tăng, giảm vốn điều lệ. - Về mặt nhân sự trong CTCP: Sự thay đổi nhân sự trong các doanh nghiệp CPH không đáng kể, khi đa số giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng vẫn tiếp tục được giữ nguyên chức nên vẫn chưa thực sự tạo ra một phương thức quản lý phù hợp với cơ chế mới. Đồng thời, cũng có trường hợp cơ quan Nhà nước còn can thiệp sâu vào công tác nhân sự của CTCP như: Ra quyết định cử người tham gia vào Hội đồng quản trị hoặc thành viên Hội đồng quản trị là người được Nhà nước cử để thực hiện nhiệm vụ trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước hay cố tình trì hoãn, cản trở việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội cổ đông làm hạn chế vai trò của Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị công ty... - Một số vấn đề về chế độ tiền lương, tiền thưởng cũng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên dẫn đến những vướng mắc trong việc xác định thang, bậc lương cho đội ngũ cán bộ quản lý. Hiện nay, có tình trạng phần lớn các doanh nghiệp sau CPH đã vận dụng các quy định về chế độ tiền lương, nâng bậc, chế độ bảo hiểm xã hội như với DNNN trước đây. 2.4- Bài học kinh nghiệm từ thực trạng Cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà Tổng công ty Sông Đà đã thực hiện một bước đi quan trọng trong quá trình CPH doanh nghiệp thành viên. Từ những kết quả và hạn chế có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: 2.4.1- Phải xác định rõ mục tiêu của cổ phần hoá Thực hiện chương trình CPH của tổng công ty, nhất thiết phải xác định mục tiêu cần đạt được trong CPH. Đây là một đòi hỏi có tính nguyên tắc. Việc thực hiện CPH ở các doanh nghiệp thành viên có thể diễn ra với tốc độ khác nhau tuỳ thuộc điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp, nhưng đều phải hướng vào các mục tiêu thu hút vốn của mọi tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân vào đầu tư mở rộng hoạt động của doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và đa dạng hoá ngành nghề. Đồng thời, CPH phải thúc đẩy đa dạng hoá các hình thức sở hữu tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển phù hợp với kinh tế thị trường. Để thực hiện các mục tiêu đó, cần tăng cường vai trò, năng lực của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, chống tham nhũng và thói quen dựa vào sự bao cấp của Nhà nước. Giải quyết những vấn đề trên sẽ thúc đẩy sự phát triển của tổng công ty, khắc phục những hạn chế, nâng cao sức cạnh tranh của tổng công ty Sông Đà. 2.4.2- Phải lựa chọn hình thức và phương pháp thích hợp để cổ phần hoá. Để đạt được mục tiêu CPH, cần phải lựa chọn các phương pháp thích hợp. Thực tiễn CPH các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty trong thời gian qua cho thấy, các giải pháp cụ thể khi CPH không để gây ra xáo trộn hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo sự ổn định để phát triển. Cụ thể: + Về hình thức, chủ trương của tổng công ty trước đây thường áp dụng CPH doanh nghiệp thông qua phát hành cổ phiếu bán cho cán bộ công nhân viên và công chúng ngoài doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc bán cổ phần ưu đãi cho CBCNV chỉ được thực hiện trong phạm vi của chi nhánh, xí nghiệp trực thuộc doanh nghiệp thành viên đó nên xảy ra trường hợp CBCNV doanh nghiệp thành viên được CPH không mua hết cổ phần ưu đãi, nhưng cổ phần ưu đãi còn thừa cũng không bán được cho cổ đông là CBCNV ở doanh nghiệp khác trong cùng tổng công ty. Khắc phục tình trạng này, trong CPH nếu việc phát hành cổ phiếu rộng rãi ra các doanh nghiệp trong phạm vi tổng công ty và ngoài tổng công ty sẽ thúc đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN. + Về phương pháp, để chuyển các doanh nghiệp thành viên thành CTCP, tổng công ty nên áp dụng nhiều phương pháp như: đánh giá tài sản DNNN dựa trên giá cả thị trường; bán đấu giá công khai cổ phiếu. Như vậy mới tránh tình trạng cổ phần dồn vào những người có chức, có quyền trong phạm vi doanh nghiệp và tổng công ty. 2.4.3- Cổ phần hoá các doanh nghiệp từ qui mô nhỏ và vừa đến qui mô lớn gắn với hình thành tập đoàn công ty cổ phần. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có bộ máy quản lý gọn và qui mô sản xuất không lớn. Do vậy, các doanh nghiệp này khi CPH sẽ dễ xác định giá trị tài sản và phân định số lượng cổ phần. Đồng thời về vấn đề nhân sự, hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và bố trí giám đốc điều hành không phức tạp nên CPH cũng dễ dàng hơn. Thực tế, CPH DNNN là công việc mới mẻ, nếu thực hiện ở những doanh nghiệp có qui mô lớn sẽ gặp không ít khó khăn kể cả về kỹ thuật nghiệp vụ. Do vậy, CPH doanh nghiệpnhỏ còn có tác dụng dễ huy động vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật, công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời còn là những kinh nghiệm cần thiết cho việc CPH các doanh nghiệp có qui mô lớn. 2.4.4- Về giải quyết các quan hệ kinh tế - xã hội khi chuyển các doanh nghiệp thành công ty cổ phần Các vấn đề kinh tế - xã hội khi chuyển DNNN thành CTCP bao gồm: quan hệ sở hữu, việc làm, tiền lương và các chế độ chính sách đối với người lao động. Trong quá trình CPH, lãnh đạo tổng công ty tuy đã có quan tâm giải quyết vấn đề này, nhưng việc tiến hành CPH vẫn nảy sinh nhiều khó khăn: + Về quan hệ sở hữu trong CTCP: Tuy các CTCP đã bán rộng rãi, công khai cổ phần và cổ phần đặc biệt dành cho người lao động, nhưng do không có cơ chế đảm bảo sự công bằng trong thực tế nên đã dẫn đến kết quả quyền chi phối doanh nghiệp sau khi CPH lại tập trung vào một số người. Một số đông người lao động vì các lý do khác nhau, buộc phải bán cổ phần của mình. Do vậy, người lao động luôn mang tâm lý mặc cảm là người làm thuê. + Về vấn đề việc làm và giải quyết các chế độ, chính sách cho người lao động sau khi CPH: Theo ước tính qua gần 3 năm CPH ở tổng công ty Sông Đà làm cho khoảng gần 20 % lực lượng lao động ở các doanh nghiệp này dư thừa. Do đó cần phải có sự quan tâm nhất định của tổng công ty đối với lực lượng lao động này và cũng cần tạo ra tâm lý yên tâm cho người lao động khi về nghỉ theo chế độ sau khi doanh nghiệp được CPH Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hầu hết các chế độ, chính sách cho người lao động được thực hiện từ sự bao cấp của Nhà nước. Đây là một khoản thu nhập cần thiết đối với người lao động tại các doanh nghiệp nhưng khi thực hiện CPH, các chính sách và chế độ trên dần bị thu hẹp. Điều này dễ dẫn đến những tác động tiêu cực về mặt xã hội trong thực hiện CPH DNNN. Vì vậy, cần chú trọng giải quyết những vấn đề lợi ích của người lao động. Chương 3 Phương hướng và Một số giải pháp chủ đẩy mạnh thực hiện cổ phần hoá ở tổng công ty sông đà 3.1- Phương hướng đẩy mạnh Cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà 3.1.1- Mục tiêu phát triển của tổng công ty Sông Đà đến năm 2010 Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã nêu mục tiêu tổng quát chiến lược phát triển 10 năm 2001 - 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định huớng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao". Đồng thời, để thực hiện mục tiêu trên, với ngành xây dựng, Đảng ta cũng nhấn mạnh "Phát triển nghành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và có năng lực đấu thầu các công trình xây dựng ở nước ngoài. ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng và hiệu lực quy hoạch, năng lực thiết kế, xây dựng và thẩm mỹ kiến trúc. Phát triển các hoạt động tư vấn và các doanh nghiệp xây dựng, trong đó chú trọng những doanh nghiệp mạnh theo từng lĩnh vực thủy điện, thủy lợi, cảng, cầu đường…Tăng cường quản lý Nhà nước về quy hoạch kiến trúc và xây dựng". Nhận thức rõ được những thuận lợi, khó khăn và thách thức của đất nước, căn cứ vào mục tiêu chiến lược 10 năm (2001-2010) của Đảng, tổng công ty Sông Đà đã xác định mục tiêu phát triển đến năm 2010 là: - Đẩy nhanh quá trình sắp xếp và đổi mới lại tổng công ty, trong đó quan trọng nhất là công tác CPH các doanh nghiệp thành viên theo hướng phân cấp, các doanh nghiệp phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước tổng công ty và pháp luật Nhà nước để ổn định và phát triển, nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Tập trung xây dựng phát triển tổng công ty Sông Đà trở thành tập đoàn kinh tế mạnh, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo cho sự phát triển bền vững. - Chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực kinh doanh, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đồng thời, quan tâm đầu tư đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá sản xuất kinh doanh trên cơ sở giữ vững và phát huy ngành nghề truyền thống và sở trường là lĩnh vực xây dựng thủy điện, thủy lợi; giữ vững tổng công ty Sông Đà là doanh nghiệp hàng đầu về xây dựng thủy điện, có khả năng làm tổng thầu các công trình lớn ở trong và ngoài nước. - Tăng cường liên doanh, liên kết các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài để tạo sự phát tiển nhảy vọt về năng lực tư vấn xây dựng và chế tạo cơ khí nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của tổng công ty. - Nghiên cứu đầu tư phát triển nhanh một số lĩnh vực có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường để tạo sự tăng trưởng đột biến như hoạt động vụ tài chính, tiền tệ, điện tử tin học, cơ khí lắp ráp… - Xây dựng và phát triển nguồn lực con người của tổng công ty Sông Đà đủ về số lượng với trình độ học vấn và tay nghề cao, có tri thức và năng lực quản lý, có đời sống vật chất và văn hoá tinh thần phong phú, có năng lực sáng tạo trong ứng dụng công nghệ mới, lao động với năng suất và hiệu quả ngày càng cao. - Khẳng định và quảng bá thương hiệu Sông Đà trên thị trường. Phấn đấu vì sự nghiệp phát triển bền vững của tổng công ty Sông Đà để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Với phương hướng phát triển trên, tổng công ty Sông Đà đã đặt ra một số chỉ tiêu trong những năm tới là: + Tăng trưởng bình quân hàng năm : 15-20%. + Tổng giá trị sản xuất kinh doanh : 5.400 tỷ đồng. + Doanh thu : 4.900 tỷ đồng. + Vốn kinh doanh : 13.150 tỷ đồng. + Nộp ngân sách Nhà nước : 200 tỷ đồng. + Lợi nhuận : 150 tỷ đồng + Lao động bình quân hàng năm : 29.484 người. + Thu nhập bình quân 1 người/tháng : 2,5 triệu đồng. + Tổng giá trị vốn vay : 6.500 tỷ đồng. Để đạt được mục tiêu đó, tổng công ty Sông Đà cam kết với các chủ đầu tư quyết tâm đảm bảo thi công đúng tiến độ các công trình thuỷ điện trọng điểm của Nhà nước như Sê San 3, Tuyên Quang, Pleikrông, Bản Lả, Quảng Trị, Xê ca man 3… Đồng thời phấn đấu đưa các công trình thuỷ điện của tổng công ty tự đầu tư gồm: Cần Đơn, Sê San 3A, Nậm Mu, hầm đường bộ qua Đèo Ngang… được sớm hoàn thành để bàn giao đưa vào sử dụng đúng thời hạn. 3.1.2- Phương hướng đẩy mạnh cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà Tổng công ty Sông Đà chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác đổi mới tổng công ty, trong đó có việc đẩy nhanh tiến độ CPH. Phương hướng cụ thể về CPH của tổng công ty Sông Đà trong giai đoạn tới bao gồm các vấn đề sau: - Thị trường hoá tất cả giá trị tài sản của các doanh nghiệp thành viên khi thực hiện CPH, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất. - Sử dụng rộng rãi việc phát hành cổ phần ra công chúng để khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, cần phải niêm yết giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. - Bước đầu chuyển các doanh nghiệp thành viên sang hạch toán độc lập, và những doanh nghiệp có quy mô lớn sang hoạt động theo chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. - Xoá bỏ các hình thức bảo hộ bất hợp lý và tình trạng bao cấp của Nhà nước và tổng công ty đối với các doanh nghiệp thành viên như khoanh nợ, xoá nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng ưu đãi. - Từng bước chuyển dần hoạt động của tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - con làm cơ sở cho việc xây dựng tổng công ty Sông Đà trở thành tập đoàn kinh tế mạnh. Như vậy, trong việc đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp ở tổng công ty Sông Đà, công tác CPH cần được thực hiện theo lộ trình cụ thể. Tổng công ty Sông Đà đã xác định mục tiêu đến năm 2010 là cơ bản hoàn thành công tác CPH các doanh nghiệp trong tổng công ty . 3.2- Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thực hiện Cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà. 3.2.1- Hoàn thiện môi trường pháp lý Việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho công tác CPH ở nước ta hiện nay là hết sức cấp bách. Thực tế, một số chính sách và chế tài của các Luật như: Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp Nhà nước... cần phải được tiếp tục hoàn thiện. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành chức năng cần có các chính sách, văn bản hướng dẫn có hệ thống và chi tiết hơn cho cơ sở thực thi chương trình CPH. Môi trường pháp lý cần phải hoàn thiện, được thể hiện qua một số nội dung sau: - Cần thay đổi từ cơ chế doanh nghiệp trực tiếp bán cổ phiếu sang cơ chế đấu giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; chuyển việc xác định giá trị doanh nghiệp theo phương thức hành chính hiện nay sang phương thức đấu thầu giá trị doanh nghiệp. - Nhanh chóng xoá bỏ sự phân biệt giữa DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh, đồng thời còn giúp các doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật. - Sớm hình thành các công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Về tài chính, để đáp ứng kịp thời tốc độ CPH, cần nhanh chóng thành lập công ty đầu tư tài chính Nhà nước để đảm nhận chức năng quản lý phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi sang CTCP; Nhà nước nên quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan quản lý trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chính sách chế độ cho doanh nghiệp trong quá trình CPH. - Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết, huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nới lỏng hơn nữa điều kiện niêm yết chứng khoán của các CTCP. Đồng thời, cần xem xét lại việc quy định loại cổ phiếu ưu đãi chỉ được chuyển nhượng sau ba năm kể từ khi mua để nguồn vốn của người lao động có thể sử dụng linh hoạt hơn trong thời gian đó. - Về vấn đề mua cổ phần: Nhà nước nên có những chính sách thích hợp hơn đối với người lao động nghèo trong các doanh nghiệp khi thực hiện CPH, nên hoàn tất các thủ tục hành chính một cách nhanh gọn, tránh việc gây khó khăn trở ngại cho các cổ đông. Đồng thời, cho phép tổng công ty Sông Đà có thể bán cổ phần ưu đãi cho các cổ đông khác là người lao động trong doanh nghiệp CPH có đủ điều kiện mua tăng số cổ phần ưu đãi khi một số cổ đông không mua hết cổ phần ưu đãi của mình. Điều đó sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến độ CPH doanh nghiệp. 3.2.2- Tăng cường công tác tư tưởng trong thực hiện cổ phần hoá Thực hiện chủ trương lớn về sắp xếp, đổi mới DNNN của Đảng và Chính phủ, tổng công ty Sông Đà đã xác định công tác CPH các doanh nghiệp thành viên là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. CPH có tác động đến nhiều mặt của sự tồn tại và phát triển vững mạnh của tổng công ty. Do vậy, để triển khai tích cực và vững chắc công tác CPH, cần coi trọng các giải pháp về tư tưởng và tổ chức thực hiện CPH trong toàn thể CBCNV của tổng công ty. Công tác tư tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức, qua đó tạo nên sự thống nhất về ý chí đối với các CBCNV trong tổng công ty để thúc đẩy CPH. Thực tế CPH các doanh nghiệp thành viên liên quan đến những vấn đề rất cơ bản thuộc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước như sở hữu, vai trò tự chủ của doanh nghiệp, chính sách đối với người lao động trong các DNNN sau CPH… Trước thực tế ấy, đã có không ít cách nhìn và ý kiến khác nhau trong tổng công ty. Một số ý kiến cho rằng, các DNNN trong nền kinh tế thị trường là yếu tố đảm bảo định hướng XHCN giữ vai trò chủ đạo, là bộ phận đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước vẫn phải được tiếp tục phát triển trên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Việc coi nhẹ phát triển DNNN là xa rời định hướng XHCN. ý kiến khác lại cho rằng, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chỉ nên phát triển DNNN một cách có chọn lọc. Bởi vì, các DNNN đạt hiệu quả thấp, nên chỉ tập trung phát triển DNNN vào một số nghành, lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng. Do vậy, ở nước ta cũng nên sớm giải thể, tư nhân hoá các DNNN ở những ngành, lĩnh vực mà tư nhân có thể đảm nhận. Từ những ý kiến trên, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh công tác vận động trong tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên về mục tiêu, quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ để triển khai rộng rãi công tác CPH. Do vậy, về công tác tư tưởng: - Phải làm cho các cấp uỷ Đảng và lãnh đạo của tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên quán triệt đầy đủ và thông suốt chủ trương của Đảng, Nhà nước về CPH. - Phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng cho người lao động trong các doanh nghiệp hiểu và nhận thức đúng đắn chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tổng công ty về CPH. Trong công tác tư tưởng phải tạo được sự thông suốt tư tưởng cho CBCNV về mục đích, bản chất CPH DNNN không phải là tư nhân hoá, CPH DNNN là biện pháp hữu hiệu để cơ cấu lại hệ thống DNNN nhằm giải quyết những vướng mắc trong sản xuất, đời sống xã hội hiện nay. - Bên cạnh việc tuyên truyền, giải thích cho CBCNV về công tác CPH, cần phải phổ cập rộng rãi các kiến thức chủ yếu về kinh tế thị trường, về tính chất, đặc điểm hoạt động của CTCP, thị trường chứng khoán và sự cần thiết CPH DNNN nhằm huy động các nguồn vốn đầu tư trong dân cư. Từ đó, hình thành nhận thức mới của CBCNV. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì đối với các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển thì vấn đề này không cần đặt ra do dân cư đã có trình độ dân trí cao, các kiến thức về kinh tế thị trường đã được phổ cập rộng rãi. ở nước ta, do nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung kéo dài, những vấn đề trên còn là mới mẻ trong nhận thức của mọi người. - Tổng công ty cũng đã có những doanh nghiệp thành viên sản xuất kinh doanh có hiệu quả sau khi tiến hành CPH. Vì vậy, việc tuyên truyền phổ biến kinh nghiệm và thông tin một cách thường xuyên và kịp thời về những kết quả hoạt động của các doanh nghiệp này trong tổng công ty là cần thiết. Điều đó có tác dụng củng cố và tăng cường niềm tin của CBCNV đối với chủ trương CPH của Nhà nước và tổng công ty. Thực tế, giải pháp này vẫn ít được tổng công ty Sông Đà và các cấp Bộ, ngành quan tâm đúng mức. Vì vậy, thúc đẩy triển khai CPH ở tổng công ty, không nên xem nhẹ vai trò công tác tư tưởng trong CBCNV. 3.2.3- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tổng công ty đối với công tác cổ phần hoá Thực tế, tiến trình CPH của tổng công ty nhanh hay chậm và thành công đến mức nào đều gắn với trách nhiệm chỉ đạo của Đảng uỷ tổng công ty. Vì vậy, Đảng uỷ tổng công ty cần: - Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, Ban thường vụ Đảng uỷ các cấp cần phối hợp chỉ đạo chặt chẽ các bộ phận nghiệp vụ nhằm thực hiện nghiêm túc kế hoạch CPH của tổng công ty, khắc phục tình trạng giao động, thiếu kiên quyết trong triển khai. - Ban thường vụ và Ban chấp hành Đảng uỷ các cấp thuộc tổng công ty phải nắm vững chủ trương của Đảng, Nhà nước về CPH để làm tốt vai trò lãnh đạo của mình. Đặc biệt, trong chỉ đạo thực hiện CPH, việc đầu tư và hợp tác với bên ngoài cần xác định rõ tỷ lệ cổ phần giữa các thành viên trong doanh nghiệp và ngoài doanh nghiệp. Đồng thời, cần chỉ đạo giải quyết tốt các vấn đề về tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi xã hội, tích luỹ và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của tổng công ty. - Phải coi trọng việc chăm lo công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ và công tác vận động quần chúng trong tổng công ty để thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, tăng cường công tác kiểm tra để chủ trương CPH của tổng công ty được thực hiện đạt kết qủa tốt, ngăn ngừa và khắc phục những biểu hiện tiêu cực đối với công tác CPH. 3.2.4- Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá CPH DNNN là một bước ngoặt trong đời sống kinh tế của CBCNV, nên họ không thể không có những suy nghĩ và thái độ khác nhau. Người lao động lo lắng bị nghỉ việc theo điều 17 của luật lao động mà không có ai can thiệp được, lo phải có tiền để mua cổ phần... Bên cạnh đó, từ vấn đề quyền lợi nên đội ngũ cán bộ lãnh đạo nhiều khi không hưởng ứng nhiệt tình với CPH. Đây là một thực tế, cần được giải quyết về mặt tư tưởng ở tổng công ty Sông Đà. Vì vậy, các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ có vai trò quan trọng đối với việc tuyên truyền về tư tưởng. Thông qua các hình thức như hội nghị, trao đổi để thu thập ý kiến của CBCNV, đề xuất cấp trên giải quyết những nguyện vọng chính đáng của người lao động. Các tổ chức đoàn thể còn đóng vai trò tích cực giúp đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ khi tiến hành CPH và khi doanh nghiệp đã chuyển thành CTCP. Đồng thời, các tổ chức đoàn thể, nhất là công đoàn, cần tham gia tích cực vào việc chuẩn bị nhân sự cho Hội đồng quản trị, xây dựng điều lệ của CTCP, đại hội cổ đông... Vì vậy, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể phải được coi là một giải pháp không thể thiếu được trong thực hiện CPH ở tổng công ty. 3.2.5- Kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của tổng công ty trong công tác cổ phần hoá Bộ máy quản lý vững mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động của tổng công ty. Vì vậy, để kiện toàn bộ máy tổ chức của tổng công ty để làm tốt công tác CPH cần: - Trước hết, đổi mới phương thức hoạt động của các phòng chức năng, các ban chuyên trách CPH từ tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên. Chú trọng đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác CPH có đủ năng lực, phẩm chất và trách nhiệm trong chuyên môn. Bên cạnh đó, tổng công ty cần mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về CPH, chứng khoán và thị trường chứng khoán để nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý. - Tăng cường sự chỉ đạo của tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên trong công tác CPH; giải quyết kịp thời những vướng mắc ở các doanh nghiệp CPH; xử lý nghiêm khắc những giám đốc doanh nghiệp, cán bộ quản lý không thực hiện, hoặc chỉ thực hiện CPH mang tính chất đối phó. - Hình thành một bộ phận tư vấn gồm những chuyên gia giỏi về CPH trong tổng công ty để tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện tốt tiến trình CPH. Phát huy vai trò cốt cán của đội ngũ cán bộ kinh tế có kinh nghiệm thực tế lâu năm trong tổng công ty để tìm ra các giải pháp vận dụng linh hoạt chính sách, chế độ của Nhà nước nhằm thúc đẩy nhanh công tác CPH. Đồng thời, nâng cao năng lực của bộ phận chuyên môn của Ban đổi mới doanh nghiệp từ tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên trong vận dụng quy định của Nhà nước về CPH và hướng dẫn thực hiện cho các doanh nghiệp thành viên. Thực tế, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của tổng công ty Sông Đà là một giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các cấp quản lý trong tổng công ty khi tiến hành CPH. Đến nay, tổng công ty Sông Đà đã triển khai thực hiện CPH theo các Nghị định của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành nhưng sự phối hợp giữa các phòng ban chuyên môn và các doanh nghiệp thành viên vẫn chưa được chặt chẽ. Để đảm bảo bước đi vững chắc của công tác CPH, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện về quy chế hoạt động trong phạm vi tổng công ty. - Thường xuyên nghiên cứu và rà soát lại các văn bản Nhà nước đã ban hành, để tìm ra những vấn đề chưa phù hợp với thực tế triển khai tại tổng công ty nhằm kịp thời có kiến nghị lên các Bộ, Ngành sửa đổi cho phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN. Nghiên cứu và thực hiện các quy định của Nhà nước về việc quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các CTCP , chú ý theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. tổng công ty có thể thành lập công ty Đầu tư tài chính làm nhiệm vụ dùng vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp trong tổng công ty đã CPH. - Kiện toàn bộ máy chỉ đạo, điều hành CPH từ tổng công ty xuống các doanh nghiệp thành viên. Đó thực sự là cơ quan tham mưu với nhiệm vụ giúp lãnh đạo tổng công ty chỉ đạo tốt công tác CPH DNNN. Xây dựng và hoàn thiện quy chế quản lý của tổng công ty nhằm khuyến khích từng cá nhân nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều hiện thuận lợi và khuyến khích họ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phải sớm đánh giá, rút kinh nghiệm, khen thưởng những doanh nghiệp làm tốt và phê phán nghiêm khắc những doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, gây khó khăn, cản trở thực hiện CPH. - Theo dõi, kiểm tra và tổng kết thực hiện chương trình CPH: CPH là một vấn đề mới, phức tạp nên khâu theo dõi, kiểm tra, tổng kết thực hiện cần kịp thời để xử l‎ý, điều chỉnh đảm bảo mục tiêu và tiến độ thực hiện. 3.2.6- Chú trọng xây dựng kế hoạch cổ phần hoá của tổng công ty Việc CPH ở tổng công ty Sông Đà hiện nay vẫn còn là vấn đề mới mẻ. Do vậy, để thúc đẩy công tác CPH, tổng công ty Sông Đà phải chú trọng xây dựng kế hoạch CPH các doanh nghiệp thành viên. - Xây dựng chương trình tổng quát và cụ thể cho công tác CPH trong toàn tổng công ty. Đồng thời, vấn đề này cần tiến hành có trọng tâm, trọng điểm theo trình tự trên cơ sở xác định rõ số lượng doanh nghiệp thành viên cần CPH. Phải dựa vào tiêu thức chung và tình hình cụ thể của các doanh nghiệp trong tổng công ty để xác định danh sách các doanh nghiệp thực hiện CPH. Ví dụ, hai doanh nghiệp thành viên đều hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm bê tông, nhưng doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh và có khả năng phát triển hơn thì đưa vào danh sách CPH trước. Doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh yếu kém thì chưa thể đưa ngay vào CPH. Như vậy, việc CPH không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, mà còn đảm bảo hiệu quả xã hội. Đồng thời, chính CPH doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của tổng công ty để mở rộng hơn diện CPH Trên cơ sở danh sách các doanh nghiệp thuộc diện CPH đã xác định rõ, cần chia các doanh nghiệp đó thành các nhóm nhỏ hơn để xác lập lịch trình và bước đi cụ thể. Có thể chia các doanh nghiệp tiến hành CPH thành 3 nhóm: 1) Nhóm có khả năng CPH ngay: Đó là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quy mô vừa phải, có khả năng hấp dẫn người mua cổ phần; 2) Nhóm các doanh nghiệp có khả năng phục hồi, cần cơ cấu lại, cấp thêm vốn đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ sau đó tiến hành CPH; 3)Nhóm thứ ba là các doanh nghiệp không có khả năng phục hồi, làm ăn thua lỗ, công nghệ lạc hậu. Các doanh nghiệp này sẽ được xử l‎ý bằng cách giải thể hoặc sáp nhập. Như vậy, các doanh nghiệp thuộc nhóm đầu dễ tiến hành CPH nhất và thành công hơn. Sự thành công trong CPH ở các doanh nghiệp này sẽ kích thích doanh nghiệp khác, thúc đẩy tốc độ CPH của toàn tổng công ty. Với các doanh nghiệp thuộc nhóm hai, cần chuẩn bị kế hoạch hỗ trợ tài chính, thay đổi cán bộ… để doanh nghiệp vươn lên khẳng định uy tín để có đủ điều kiện CPH. Vì CPH DNNN là vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, có nhiều yếu tố ràng buộc nên trong xây dựng và thực hiện chương trình cần phải: Nắm vững các thông tin về hoạt động của các doanh nghiệp trong danh mục CPH; Phân tích sâu sắc khả năng chuyển doanh nghiệp thành CTCP để có biện pháp thích hợp; Nắm vững các phương thức thực hiện chương trình; Dự báo phương hướng và triển vọng sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp chuyển thành CTCP; Lập các ngân quỹ và kế hoạch phụ trợ để thực hiện chương trình. 3.2.7- Chú trọng bảo đảm tính hiệu quả của cổ phần hoá Việc triển khai CPH trong tổng công ty cần khẩn trương tích cực, song phải đảm bảo tính hiệu quả gắn với sự phát triển bền vững của tổng công ty. Dưới dây là một số vấn đề cần được tiếp tục giải quyết: - Xác định hợp lý giá trị doanh nghiệp để không xảy ra những tiêu cực, thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước. Theo thông tư 104-1998/TT/BTC ngày 18/7/1998 của Bộ tài chính, giá trị thực tế của doanh nghiệp là tổng giá trị thực tế của tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tính theo giá trị thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là phần còn lại sau khi lấy tổng giá trị thực tế của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ thực tế phải trả, số dư phúc lợi, khen thưởng (nếu có). Thực tế, tài sản của các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty Sông Đà hiện nay lại rất đa dang về nguồn gốc, cách tính giá trị tài sản cũng như khấu hao của tổng công ty đã phải thay đổi nhiều lần theo quy định của Nhà nước, nên giá trị tài sản doanh nghiệp trên sổ sách khác nhiều so với thực tế. Do vậy, phương pháp định giá doanh nghiệp cần được xác định khoa học hơn. Trong thực tế, việc xác định giá trị doanh nghiệp thường chấp nhận kết quả tính toán một chiều của chủ sở hữu là Nhà nước. Bộ tài chính đã có Thông tư 104-1998/TT/BTC về vấn đề này, nội dung chủ yếu là kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, xử lý tài sản và các khoản nợ trước khi CPH, xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp để CPH, xác định giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Do vậy, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp cần phải căn cứ vào các yếu tố: số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH; giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá trị thực tế tại thời điểm CPH; lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng (nếu có) và chỉ tính tối đa 30% giá trị lợi thế này vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy, giá trị thực tế của doanh nghiệp có thể bằng, cao hơn, hoặc thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán. Trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, muốn không để xảy ra những thất thoát, tiêu cực, hoặc lợi dụng CPH để chia chác, phân tán tài sản Nhà nước cần thực hiện công khai và dân chủ, đồng thời phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra, giám sát. - Các doanh nghiệp có khả năng tiếp nhận đầu tư phát triển cần được tạo điều kiện thuận lợi khi chuẩn bị CPH. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn các cổ đông mua cổ phiếu của DNNN khi CPH là khả năng thu lợi từ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau CPH. Đó là lợi tức của CTCP mà các cổ đông được hưởng cao hay thấp. Điều đó có nghĩa là một doanh nghiệp khi tiến hành CPH nếu có tình hình tài chính lành mạnh và khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển thì công việc CPH càng dễ dàng và thuận lợi hơn. Do vậy, chủ trương và quan điểm của tổng công ty Sông Đà là hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn để mở rộng diện CPH trong phạm vi tổng công ty. Vì vậy cần: + Tăng cường áp dụng khoa học – công nghệ tiên tiến, đầu tư thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm tăng năng suất lao động, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp thành viên. Trong sản xuất, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ mới sẽ có tác dụng nhiều mặt về kinh tế, xã hội. Về kinh tế, áp dụng thiết bị công nghệ hiện đại làm cho sản xuất được phát triển ở trình độ cao hơn, tính chất xã hội hoá sản xuất được tăng cường sẽ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp chuyển thành CTCP được thuận lợi. áp dụng công nghệ mới sẽ đưa đến nâng cao sản xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, tạo nguồn vốn tích luỹ để tái đầu tư, kể cả hình thức đầu tư bằng cổ phiếu tại các CTCP. Do vậy, có thể bằng con đường áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để trang bị lại kỹ thuật, công nghệ, tổ chức lại sản xuất sẽ thu hút được các nhà đầu tư cổ phiếu mạnh hơn, tiến trình CPH sẽ nhanh hơn. Đó còn là giải pháp có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách đối với yêu cầu triển khai tích cực và vững chắc công tác CPH ở tổng công ty Sông Đà giai đoạn tiếp. + Phải xem xét lại cơ cấu doanh nghiệp và dự án đầu tư cụ thể để có những điều chỉnh thích hợp theo hướng hiệu quả. Tìm cách phát huy tối đa các nguồn lực trong nội bộ tổng công ty, đồng thời tìm mọi nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài như Quỹ Đầu tư phát triển, ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Do vậy, phải có biện pháp tháo gỡ triệt để nhằm tăng khả năng huy động vốn trong nội bộ tổng công ty. Mặt khác, phải kiên quyết đình hoãn các công trình quy mô lớn, thiếu tính khả thi hoặc hiệu quả thấp; cắt giảm các dự án và lĩnh vực ít có khả năng cạnh tranh; các công trình và dự án đã đưa vào kế hoạch đầu tư phải quyết tâm đầu tư dứt điểm để sớm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Cùng với chiến lược đầu tư trên, tổng công ty cần có những biệp pháp khuyến khích tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng. Xử lý nghiêm khắc và kịp thời những hành động tiêu cực gây thất thoát tiền vốn và tài sản. Do đó để thực hiện đầu tư một dự án cụ thể, tổng công ty có thể giao cho một doanh nghiệp thành viên chịu trách nhiệm thu hút vốn đầu tư của công nhân viên chức tại doanh nghiệp và của người ngoài doanh nghiệp thông qua CPH DNNN. Đồng thời, vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được chuyển hoá thành vốn góp cổ phần trong CTCP. Đây cũng là một trong những cách thức thực hiện CPH mà tổng công ty Sông Đà cần áp dụng. + Phát triển và đa dạng hoá nghành nghề sản xuất kinh doanh. Tổng công ty cần phát huy ngành nghề truyền thống là xây dựng thuỷ điện để trở thành nhà thầu có tầm cỡ quốc tế, có thể thi công được những công trình đồi hỏi yêu cầu kỹ thuật chất lượng cao. Đồng thời, cần mở rộng các nghành nghề khác như kinh doanh hạ tầng và đô thị, xuất khẩu lao động, sản xuất kinh doanh những mặt hàng vật liệu xây dựng mà nhu cầu thị trường đang thiếu như xi măng, sắt thép... + Cần chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch mua bán những cổ phiếu có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, ngân phiếu, kỳ phiếu…được ra đời và phát triển trong quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cung - cầu về vốn đầu tư trên thị trường. Đối với quá trình CPH DNNN tại tổng công ty Sông Đà, thị trường chứng khoán sẽ là nơi cung cấp thông tin, mà tổng công ty Sông Đà có thể biết được những doanh nghiệp thành viên nào cần thiết phải CPH để có những quyết định đúng đắn trong quá trình CPH. Do vậy, tổng công ty Sông Đà cần lấy CPH làm điều kiện để tham gia tích cực vào thị trường chứng khoán và lấy việc tham gia tích cực vào thị trường chứng khoán để tác động trở lại làm cho tiến trình CPH ở tổng công ty nhanh hơn, vững chắc hơn. 3.2.8- Tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với người lao động Chính sách đối với người lao động có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mỗi CBCNV làm việc tại doanh nghiệp. Đây là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất khi CPH các doanh nghiệp thành viên. Điều này có tác động trực tiếp đến tiến độ thực hiện CPH. Giải quyết tốt vấn đề này không chỉ có tác dụng tích cực về mặt kinh tế mà còn tạo ra hiệu ứng tích cực về mặt xã hội. Nó phản ánh tính chất ưu việt của xã hội ta và làm cho CPH DNNN có ý nghĩa thiết thực trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Nhìn chung, các chính sách trên đã có tác dụng tích cực trong thực hiện mục tiêu CPH. Tuy nhiên từ thực tiễn cuộc sống, chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp CPH cần được tiếp tục bổ sung các vấn đề sau: - Cần có chính sách và biện pháp cụ thể để giải quyết số lao động dôi dư cả trong và sau khi CPH: Khi tiến hành CPH, doanh nghiệp phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án đổi mới, phát triển doanh nghiệp. Phải phân loại để xác định số lao động dôi dư, đưa ra hướng giải quyết cụ thể như cho nghỉ hưu trước tuổi đối với người gần đến tuổi nghỉ hưu, đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho những người còn trẻ để sử dụng hoặc chuyển sang ngành nghề mới. Tổng công ty cần có các biện pháp hỗ trợ tài chính như cho phép doanh nghiệp sử dụng vốn vay lãi suất thấp để tạo thêm việc làm, giải quyết lao động dôi dư. - Tạo điều kiện thuận lợi để người lao động được hưởng đúng và đủ chế độ ưu đãi mua cổ phần trong doanh nghiệp. Để tạo ra sự công bằng trong việc mua cổ phần ưu đãi giữa người lao động trong doanh nghiệp CPH, cần thành lập quỹ hỗ trợ CPH để có vốn bổ sung cho các doanh nghiệp khi người lao động ở đây có khả năng được mua đủ 10 cổ phần ưu đãi trong 1 năm làm việc. 3.2.9- Quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên sau cổ phần hoá Nhìn chung, các doanh nghiệp sau CPH thường gặp nhiều khó khăn về tài chính, về các quy chế hoạt động… Do vậy, tổng công ty cần có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp sau CPH giải quyết những khó khăn này. Đó là: - Phải có văn bản cụ thể hướng dẫn thực hiện các quy chế hoạt động cho doanh nghiệp sau khi đã CPH nhằm bảo đảm cho các doanh nghiệp thuộc mọi nghành nghề kinh doanh, thuộc mọi địa bàn được hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh trước pháp luật. - Lãnh đạo tổng công ty cần quan tâm chỉ đạo sâu sát để nắm chắc tình hình các doanh nghiệp thành viên, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp bằng các hình thức hỗ trợ cần thiết nhằm ngăn chặn việc gây phiền hà, sách nhiễu, phân biệt đối xử với các doanh nghiệp CPH. Đồng thời, thực hiện đầy đủ những ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động được quy định tại Nghị định 44/1998/NĐ-CP. - Phòng tài chính, phòng kế toán và các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ khác cần tham mưu cho lãnh đạo tổng công ty ra văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp thành viên về thủ tục, về sử dụng nguồn tài chính để chi trả các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp trước khi CPH và cho người lao động trong các CTCP khi nghỉ chế độ. + Tổng công ty cần có biện pháp cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi và giúp cho các doanh nghiệp kịp thời có số lượng cổ phiếu khi thực hiện CPH. Tránh tình trạng doanh nghiệp sau CPH phải nộp toàn bộ số vốn điều lệ vào kho bạc mới cấp cổ phiếu cho doanh nghiệp. + Tổng công ty phải có phương án giải quyết các khoản nợ, nhất là các khoản nợ khó đòi của các doanh nghiệp khi tiến hành định giá doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành viên sau CPH đi vào hoạt động thuận lợi. Tổng công ty giúp đỡ các doanh nghiệp thành viên trong việc hoãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp CPH trong 2 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo, chú ý trả lợi tức cổ phiếu một cách thoả đáng để vận động các cổ đông và thu hút thêm các nhà đầu tư mới. + Tổng công ty cũng cần có chính sách, chế độ đối với số cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp thành viên; bố trí sắp xếp hoặc ưu tiên giải quyết chế độ khi họ không còn tiếp tục làm việc trong CTCP. Tóm lại, thực tiễn công tác sắp xếp, đổi mới đổi mới doanh nghiệp ở tổng công ty Sông Đà chứng tỏ CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và cần được tiến hành mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển tổng công ty Sông Đà trở thành tập đoàn kinh tế mạnh. Kết luận Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nghiên cứu về “Thực trạng CPH ở tổng công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp”, luận văn đã hoàn thành được mục tiêu đặt ra và có những đóng góp sau: 1. Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về CPH DNNN. Đó là khái niệm về CPH và sự hình thành CTCP. Đặc biệt, luận văn đã làm rõ sự cần thiết phải CPH DNNN ở nước ta và tác dụng của nó. Đồng thời, luận văn cũng làm rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN. Để làm rõ thêm những vấn đề lý luận về CPH DNNN, luận văn đã rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo với nước ta về thực tiễn CPH DNNN ở một số nước. 2. Phân tích thực trạng quá trình thực hiện CPH ở tổng công ty Sông Đà trong thời gian qua. Từ kết quả và hạn chế, luận văn đã rút ra một số bài học kinh nghiệm về CPH ở tổng công ty Sông Đà. Đó cũng là cơ sở để đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CPH ở tổng công ty cho phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn tiếp. 3. Dựa vào mục tiêu, phương hướng phát triển và những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp thành viên của của tổng công ty Sông Đà, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH ở tổng công ty Sông Đà. Đó là: Hoàn thiện môi trường pháp lý; tăng cường công tác tư tưởng trong thực hiện CPH; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tổng công ty đối với công tác cổ phần hoá; phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH; kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của tổng công ty trong công tác CPH; chú trọng xây dựng kế hoạch cổ phần hoá của tổng công ty; chú trọng bảo đảm tính hiệu quả của cổ phần hoá; tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với người lao động; quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên sau CPH. Để tăng tính khả thi của các giải pháp trên, luận văn đề xuất với Nhà nước và tổng công ty Sông Đà một số kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH ở tổng công ty. Kiến nghị đối với Nhà nước: Khẩn trương hoàn thiện hệ thống đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp đã CPH; cần đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải quyết nhanh chóng thủ tục trong CPH; hướng dẫn kịp thời những văn bản mới liên quan tới công tác CPH. Đồng thời, nhanh chóng giải quyết những tồn tại, vướng mắc về chế độ, chính sách của các DNNN. Kiến nghị đối với tổng công ty Sông Đà: Kiên quyết xử lý những cán bộ làm chậm trễ tiến độ CPH, đồng thời tổng công ty Sông Đà cần phối hợp với các cơ quan chức năng trong thực hiện CPH; xây dựng kế hoạch triển khai quá trình CPH, trong đó cần xác định cụ thể các bước chuyển doanh nghiệp thành CTCP theo kế hoạch đặt ra; phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp trong thực hiện CPH. Đồng thời, chú trọng giải quyết thoả đáng quyền lợi, chế độ cho người lao động. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32750.doc
Tài liệu liên quan