Luận văn Trang phục cổ truyền của người phụ nữ dân tộc Thái huyện Thường Xuân (Thanh Hóa)

1. Lý do chọn đề tài 1.1. Dân tộc Thái có dân số khá đông trong bản danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam. Theo số liệu thống kê ngày 1 - 4 - 1999, dân số tộc người Thái trong cả nước là 1.200.000 người, trong đó người Thái Thanh Hoá chiếm 209.806 người, bằng 21% dân số người Thái trong cả nước [64; tr60]. Người Thái ở Thanh Hoá sinh sống tập trung ở khu vực miền núi phía tây nam gồm các huyện Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hoá, Thường Xuân, Bá Thước, Lang Chánh, Như Xuân và một số huyện đồng bằng, ven biển như Triệu Sơn, Tĩnh Gia .Tộc người Thái gồm hai ngành là Thái đen và Thái trắng cư trú phân tán ở nhiều địa phương tạo nên những sắc thái văn hoá phong phú và đa dạng. Văn hoá Tày - Thái là một trong nền văn hoá có lịch sử lâu đời ở khu vực Đông Nam Á. Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu dân tộc Thái không chỉ là vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia, mà nó còn trở thành đề tài được nhiều hội nghị khoa học về Thái được thế giới quan tâm. Một trong những giá trị văn hoá mang đặc trưng tộc người của cộng đồng Thái được nghiên cứu quan tâm đó là trang phục. Do phân bố trên địa bàn rộng, định cư ở các sườn núi và bồn địa giữa núi, văn hoá Thái chịu ảnh hưởng của nhiều luồng văn hoá từ nhiều hướng khác nhau trong quá trình cộng cư với các dân tộc lân cận. Điều đó dẫn đến sự khác biệt giữa các nhóm địa phương vốn có chung một nguồn gốc. Vì vậy, muốn nghiên cứu toàn diện và có hệ thống văn hoá Thái không chỉ nghiên cứu riêng nhóm Thái ở một nơi mà phải chú ý nghiên cứu ở một số nơi khác. Nhóm Thái ở Thường Xuân - Thanh Hoá đang còn bảo lưu được nhiều yếu tố văn hoá truyền thống của tộc người. Nếu như các ngành Thái ở Tây Bắc nước ta được giới nghiên cứu quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu thì nhóm Thái ở huyện Thường Xuân chưa được nghiên cứu đúng mức. Vì vậy, việc nghiên cứu trang phục Thái ở Thường Xuân là một việc làm có tính cấp thiết. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của tộc người Thái ở Thanh Hoá. 1.2. Tìm hiểu về trang phục nhóm Thái Thường Xuân Thanh Hoá là giải mã những dung lượng thông tin của văn hoá Thái “ẩn chứa bên trong nó”- đó là cuộc sống gần cuộc sống gần gũi của đồng bào Thái với thiên nhiên (điều này được thể hiện trên các hoa văn của trang phục phụ nữ Thái, nó thể hiện sự quan sát tinh tế của người phụ nữ Thái trong cuộc sống), là một trong những con đường giúp chúng ta dựng lại cuộc sống cổ truyền của người Thái. Vì vậy, qua nghiên cứu trang phục của người Thái Thường Xuân Thanh Hoá, chúng ta sẽ có cơ sở để hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn sắc thái văn hoá mang tính địa phương của cộng đồng người Thái Việt Nam nơi đây. 1.3. Việc nghiên cứu trang phục của nhóm Thái Thường Xuân còn giúp cho chúng ta có thể dựng nên bức tranh về trang phục của phụ nữ Thái thường sử dụng trong đời sống xã hội, tạo cơ sở cho các bảo tàng có thêm nguồn tư liệu tham khảo khi lập bảo tàng trưng bày về trang phục. 1.4. Với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, những sản phẩm của nền kinh tế thị trường như quần áo may sẵn, vải vóc các loại .đang hàng ngày hàng giờ len lỏi vào từng hang cùng ngõ hẻm của núi rừng và đang có nguy cơ cuốn đi những giá trị văn hoá truyền thống của nhiều tộc người, trong đó có người Thái Thường Xuân. Chính vì thế, việc nghiên cứu về trang phục cổ truyền của người phụ nữ Thái Thường Xuân còn nhằm góp phần sưu tầm, gìn giữ và giới thiệu trang phục của người Thái trong bộ sưu tập trang phục truyền thống của 54 tộc người Việt Nam. Đây là một việc làm cần thiết. 1.5. Trang phục của người Thái ở Thanh Hoá là một khoảng trống trong nghiên cứu cơ bản và trong hoạt động phục vụ nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử địa phương hay tộc người. Vì vậy, việc sưu tầm, trưng bày để giới thiệu với công chúng về những giá trị độc đáo của trang phục người Thái Thường Xuân là một yêu cầu cấp thiết cần được triển khai để nhằm giúp cho mọi người có thêm hiểu biết về tính đa dạng trong văn hoá Thái của nước ta. Năm 1998, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá VIII đã họp và thông qua nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Tại hội nghị này, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ ra những yếu kém và sự tụt hậu trong sự phát triển văn hoá dân tộc ở nước ta trong thời gian qua, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ, quan điểm phát triển văn hoá trong thời gian tới. Nghị quyết cũng chỉ rõ “ .Hết sức coi trọng bảo tồn, thừa kế, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân gian), văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể .”. Xuất phát từ những nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài: “Trang phục cổ truyền của người phụ nữ dân tộc Thái huyện Thường Xuân (Thanh Hoá)” làm đề tài luận văn Thạc sĩ. MỤC LỤC Mở Đầu 1 1. Lý do chọn đề tài . 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề . 3 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài . 4 3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4 3.2. Nhiệm vụ đề tài 5 4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu . 5 4.1. Nguồn tư liệu 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu 5 5. Đóng góp của luận văn 6 6. Bố cục của luận văn 6 Chương 1: Khái quát về huyện Thường Xuân (Thanh Hoá) . 7 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên - xã hội . 7 1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 7 1.1.2. Điều kiện xã hội 9 1.2. Dân số, tên gọi, ngôn ngữ và chữ viết của người Thái Thường Xuân (Thanh Hoá) 10 1.2.1. Dân số 10 1.2.2. Tên gọi . 11 1.2.3. Ngôn ngữ và chữ viết 12 1.3. Một số nét văn hoá tiêu biểu của người Thái Thường Xuân (Thanh Hoá . 13 1.3.1. Khặp Thái 13 1.3.2. Các lễ hội . 13 Chương 2: Trang phục cổ truyền của người phụ nữ dân tộc Thái huyện Thường Xuân (Thanh Hoá) trong đời sống xã hội . 15 2.1. Quan niệm về trang phục 15 2.1.1. Quan niệm . 15 2.1.2. Các thành tố trang phục của người phụ nữ. . 18 2.2. Quá trình sản xuất trang phục 27 2.2.1. Chọn đất trồng bông. 29 2.2.2. Chế biến bông 30 2.2.3. Công cụ - kỹ thuật cắt, may, thêu 35 2.2.4. Vai trò của người phụ nữ trong sản xuất trang phục . 38 2.3. Trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Thường Xuân trong đời sống xã hội . 39 2.3.1. Trang phục trong sinh hoạt thường ngày 39 2.3.2. Trang phục trong hội hè, lễ tết . 42 2.3.3. Trang phục trong hôn nhân 43 2.3.4. Trang phục trong tang lễ . 47 2.4. Những biến đổi trong trang phục của người Thường Xuân (Thanh Hoá) 52 2.4.1.Thời kỳ trước năm 1945 . 52 2.4.2. Thời kỳ sau năm 1945 . 53 2.4.3. Thời kỳ từ năm 1975 đến nay 53 Chương 3 : Đặc trưng nghệ thuật trong trang phục cổ truyền của người phụ nữ Thái Thường Xuân . 60 3.1. Nghệ thuật tạo hình và trình bày hoa văn, mầu sắc trên trang phục . 60 3.1.1. Truyền thuyết về nghề thêu dệt của dân tộc Thái . 60 3.1.2. Khăn piêu . 60 3.1.3. Nghệ thuật trang trí trên váy 64 3.1.4. Mô típ hoa văn tả thực và hoa văn cách điệu trên váy Thái 71 3.2. Trang phục của dân tộc Thái trong dân ca và văn học dân gian . 72 3.2.1. Trang phục trong dân ca 72 3.1.2. Trang phục trong văn học dân gian 73 3.3. Hoa văn trên trang sức 75 3.3.1. Vòng tay 75 3.3.2. Vòng cổ . 76 3.3.3. Hoa tai . 76 3.4. Trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Thanh Hoá trong cái nhìn so sánh với trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Tây Bắc. . 76 Kết luận . 82 Tài liệu tham khảo . 86 Phụ lục 1. Bản đồ (01 trang) 2. Hình vẽ tư liệu (10 trang)

pdf110 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trang phục cổ truyền của người phụ nữ dân tộc Thái huyện Thường Xuân (Thanh Hóa), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và sử dụng nó khi cha, mẹ chồng khuất núi. 3.1.3. Nghệ thuật trang trí trên váy Nếu như người Mường lấy phần cạp váy để trang trí hoa văn thì người Thái lại tập trung phần thêu hoa văn xuống dưới chân váy. Chân váy chiếm một vị trí quan trọng trong nghệ thuật tạo hình cổ truyền của người Thái Thường Xuân. Có thể nói để bù lại cho chiếc khăn đội đầu, chân váy của người Thái Thường Xuân được thêu thùa khá công phu có vẻ đẹp rực rỡ, với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 rất nhiều mô típ hoa văn cách bố cục và sử lý mầu. Bằng mảng hoa văn trên chân váy, người phụ nữ Thái Thường Xuân đã nói lên rằng mình đã tiến xa trong kỹ thuật thêu cũng như đạt đến điểm khá cao trong nghệ thuật tạo hình, xử lý bố cục và mầu sắc. Họ có thể tự hào mà nói rằng váy của người Thái Thường Xuân không thua kém bất cứ một vùng Thái nào trong nước. Nhưng có cái đẹp phong phú đa dạng như vậy trước hết phải nói đến váy của phụ nữ Thái trắng. 3.1.3.1. Váy của người Thái trắng - Hoa văn trên chân váy: Chân váy là phần dành thực hiện đồ án hoa văn của người Thái trắng. Phần này cao khoảng 1/4 so với chiều dài của váy (khoảng trên 20cm). Phần chân váy được giới hạn bởi phần sọc đỏ trắng, vàng…đứng xen kẽ nhau chạy quanh thân váy phía trên. Phía dưới sát gấu váy cũng được viền những hàng sọc như thế. Phần chân váy với những hàng sọc trên và dưới là những dường dệt riêng, chân váy được thêu riêng rồi mới gắn vào thân váy. Trong cái khuôn chân váy này được chia làm hai phần: Phần một là phần giáp với hàng sọc phía trên dành để thêu hoa văn chiếm hơn 2/3 diện tích chân váy. Phần thứ hai là phần còn lại nằm sát dưới gấu váy, không thêu hoa văn mà để mầu đen. Hai phần này được ngăn cách với nhau bằng một đường viền hoa văn hình học, hình sóng nước, hình răng cưa nhỏ bé tinh vi, thường dùng mầu trắng hoặc trắng xanh lơ để thể hiện. Trong phạm vi diện tích chân váy dùng để thêu hoa văn bao giờ cũng được chia thành mảng chính và mảng phụ. Mảng chính nằm ở giữa dành thêu các con vật hoặc hoa lá, còn phần phụ nằm ở xung quanh phần chính, thường chỉ chiếm 1/2 đôi khi 1/4. Đây là kiểu bố cục chân váy phổ biến nhất của người Thái trắng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 Muốn tạo nên mảng hoa văn trung tâm, người phụ nữ Thái trắng có hai cách làm: cách thứ nhất là dùng một mảng mầu đậm đặc (thường là mầu trắng) tạo nên hình con rồng hoặc con voi, hổ, mặt trời… nổi bật lên nền chàm xanh. Mầu trắng liền nhau tạo thành một mảng lớn như toàn bộ thân con rồng, con voi… mầu trắng chỉ điểm một ít, mầu đen tạo vẩy rồng hoặc tạo vằn lông con hổ. Do cách tạo mảng trung tâm bằng mầu lớn đậm đặc nên khi nhìn vào chân váy, cái mà khiến người ta chú ý ngay, cái đập vào mắt người ta trước tiên là mảng chính (thành phần trung tâm trong đồ án hoa văn). Mảng trung tâm đại diện, chỉ đạo phần hoa văn phụ, tạo nên cái khung trong toàn bộ đồ án hoa văn và chiếm một diện tích lớn hơn so với phần hoa văn phụ. Bởi vậy nó còn là phần đại diện tạo nên tên gọi cái váy. Khi gọi váy con rồng thì không cần nhìn chúng ta cũng hiểu ngay là trong phần chân váy, con rồng đóng vai trò trung tâm trong đồ án hoa văn . Khi chọn con rồng, con hổ để thêu thì các con vật này được xuất hiện nhiều lần, nối đuôi nhau chạy theo chiều ngang chân váy cho đến hết diện tích. Những “nhịp đồ án” nó giống hệt nhau về hình dáng, kích thước lẫn mầu sắc. Mảng trung tâm đồ án hoa văn bao giờ cũng được thêu trước vì nó sẽ quy định việc xử lý phần phụ. Cách tạo mảng hoa văn lớn bằng mầu nhạt (mầu trắng hay trắng phớt xanh) đã tránh được cảm giác chói chang khi nhìn vào đồ án hoa văn. Kiểu tạo mảng trung tâm thứ hai là lối phối hợp nhiều mầu sắc đan xen bên nhau tạo nên mảng trung tâm. Đầu tiên người ta giới hạn mảng trung tâm bằng những đường viền, tạo nên một cái khung hình bông hoa, con nhện cách điệu. Sau đó dùng nhiều mầu sắc xen kẽ bên nhau để thêu một cánh hoa, nhiều cánh hoa có nhiều mầu tạo nên một bông hoa. Nhưng khi thêu phải đảm bảo cho sự đối xứng mầu giữa các cánh hoa. Kiểu phối hợp mầu này rất khéo léo tài tình và rất đẹp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 Tuy dùng đủ mầu sắc sặc sỡ nhưng nó không làm cho ta chói mắt vì mỗi mầu chỉ chiếm một ít, đứng xen kẽ hoà lẫn với nhau tạo nên mảng trung tâm. Để thêu được kiểu hoa văn này cũng khá phức tạp vì trong khuôn khổ một chân váy nhỏ bé phải sử dụng một lúc nhiều mầu sắc đứng xen kẽ, lại đảm bảo cho sự đối xứng về mầu sắc và làm sao tránh được sự rối mắt. Tránh cả tình trạng phần trung tâm bị vụn quá, chìm đi không được nổi bật lên để thể hiện rõ vai trò của mình. Nhưng phần lớn cách xử lý đồ án này là phần chính chiếm gần hết diện tích, chỉ trừ lại một phần nhỏ bé thêu mảng phụ. Trên đây là hai kiểu tạo mảng hoa văn chính, tiếp theo là mảng hoa văn phụ. Phần phụ trong bố cục hoa văn thường được thêu hoa lá, cỏ cây cách điệu với đủ loại mầu sắc. Khác với phần chính, phần phụ này không được lặp đi lặp lại nhiều lần một hình nào đó mà các mầu sắc các loại hoa luôn luôn được biến hoá chuyển đổi cho nhau, rải mầu ra khắp phần phụ. Phần phụ này có giá trị như là một cái nền thứ hai (nền thứ nhất là nền mầu chàm đen có sẵn của váy) tôn thêm vẻ đẹp của phần chính. Đồng thời mảng hoa văn phụ này cũng như nghệ thuật chạy mầu trong hội hoạ là kéo phần mầu đậm đặc ở phần trung tâm rải ra khắp chân váy. Do đó tuy phân biệt mảng chính hay mảng phụ nhưng hai cái lại không rời rạc nhau mà hoà vào nhau cùng tôn mầu sắc vẻ đẹp của nhau trong đồ án. Vì vậy mảng phụ đóng vai trò rất quan trọng trong tổng thể đồ án hoa văn. Nhìn vào phần bố cục và trang trí chân váy Thái Thường Xuân, chúng tôi cho rằng tư duy hình tượng của người Thái ở đây là khá cao. Hầu hết các chân váy của người Thái trắng đều để lại một khoảng nền chàm nằm sát phía dưới (tức là phần hai kể từ trên xuống). Khoảng mầu chàm đen có lẽ là tượng trưng cho mặt đất. Mầu chàm, mầu đen là mầu của đất tạo nền, một nền tảng vững chắc đặt phía dưới cùng chân váy, để bên trên nó (phần một giành thêu hoa văn) là một khoảng sáng, thoáng đãng của không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 gian, bầu trời nơi có cỏ cây hoa lá, có muông thú… với đầy đủ các mầu sắc phong phú của thiên nhiên. Ở khoảng giữa bầu trời và mặt đất là phần sọc hình răng cưa, hình các sóng nước có mầu sáng trắng hoặc trắng xanh lơ tượng trưng cho mặt nước suối, sông. - Mầu sắc hoa văn trên chân váy: Trên khăn cũng như trên chân váy mầu làm nền, mầu chủ đạo nhất là mầu chàm. Sau đó là các mầu đỏ (đanh), mầu xanh (lé), mầu vàng (lương), mầu tím (tím) và mầu trắng (đon). Đó là những mầu sắc quen thuộc gần gũi có thể nhìn thấy hàng ngày ở vùng rừng núi hùng vĩ trùng điệp của Thường Xuân. Đồng bào Thái ở đây đã lấy nguyên liệu trong thiên nhiên để chế ra các mầu sắc tươi đẹp diễn tả và ghi lại chính những mầu sắc muôn mầu, muôn vẻ và sinh động của thiên nhiên trên những đồ án hoa văn của mình. Mầu chàm là một mầu được làm nền của trang phục, sắc mầu mộc mạc của đất đá này được các cư dân miền núi nước ta rất ưa dùng. Mầu xanh là mầu của cỏ cây, mầu của núi rừng xanh bát ngát và bầu trời cao xanh. Những rừng cọ đồi cây trãi ra bạt ngàn, phủ xanh cả một vùng mênh mông thực sự làm rung động lòng người khi đặt chân đến vùng đất tươi tốt này. Nổi bật lên trên mầu chàm, mầu xanh đó là mầu đỏ, một mầu được sử dụng khá phổ biến. Nó cũng nói lên đặc điểm của một cư dân miền nhiệt đới. Mầu đỏ là mầu của mặt trời rực nắng sớm chiều toả sáng trên đầu. Người dân ở đây nhìn mặt trời để biết thời gian, mong mặt trời lên xua tan bóng tối, giá lạnh để thu hoạch bông chàm, phơi lúa phơi ngô… Mầu đỏ của mặt trời và hình ảnh của mặt trời toả sáng những đồ án hoa văn biểu hiện khát vọng ánh sáng thiêng liêng, sự tôn thờ mặt trời của cư dân nông nghiệp vùng nhiệt đới. Mầu đỏ còn là mầu ấm áp của bếp lửa nhà sàn cháy rực ngày đêm. Bước lên nhà sàn Thái vào những ngày giá rét của mùa đông lòng người ấm lại biết bao khi nhìn bếp lửa đỏ cháy rừng rực. Có phải sống những ngày đêm giá rét của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 mùa đông ở miền núi, lúc ấy mới thấy cái khao khát, thèm muốn được ngồi gần bên bếp lửa và ngắm nhìn các sắc mầu đỏ rực ấm áp của lửa than. Vào những đêm đông giá lạnh cả gia đình người Thái quây quần bên bếp lửa đỏ, những câu chuyện cổ tích, chuyện ruộng nương được đem ra kể, bàn bạc xung quanh bếp lửa. Cái mầu đỏ ấy đã đem lại sự ấm áp, niềm tin yêu hy vọng cho cuộc sống. Đứa trẻ con Thái thường được sinh ra bên cạnh bếp lửa đỏ ấm áp và khi trở về già chính trên giàn lửa thiêu thiêng liêng rực cháy ấy lại giúp con người trở về với đất (họ Cầm Bá ở đây xưa kia chết có tục hoả thiêu). Mầu đỏ cũng là mầu của muôn cánh hoa rừng. Cứ vào mùa xuân - hạ, lại cháy rực từng mảng trên những sườn đồi, nổi bật lên mầu xanh của cây lá. Có lẽ chính vì những điều đó mà mầu đỏ luôn luôn có mặt và nổi bật lên trong mọi đồ án hoa văn, trở thành mầu sắc chủ đạo nhất sau mầu chàm. Chiều trên bản Thái, nếu chúng ta đứng nhìn những dãy núi trùng điệp cứ dần dần tím lại khi ánh mặt trời dần tắt thì chúng ta mới thấy hết được vẻ đẹp được điểm mầu tim tím trên những đồ án hoa văn. Ở đây mùa thu vàng, mùa của lá úa nhưng lòng người không khỏi không rung động trước những vẻ đẹp của nó. Những vạt rừng lá đổ vàng, vàng rực dưới ánh nắng chiều nhuộm trên cành lá. Tỉ lệ mầu vàng và mầu tím tuy không nhiều nhưng nó luôn luôn có mặt trong mọi đồ án hoa văn và đã thể hiện được vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên. Mầu trắng cũng là mầu chiếm tỉ lệ khá lớn. Đó là mầu của cánh hoa ban mai rừng, mầu hoa đã in sâu vào mỗi tiềm thức của cư dân Thái. Mầu trắng còn là mầu tượng trưng cho nước, cho những con sông con suối chằng chịt, chảy róc rách ngày đêm. Nếu mầu đỏ tạo nên sự ấm áp thiêng liêng thì mầu trắng lại gợi nên một sự mát mẻ, tinh khiết. Các sắc mầu gần gũi thân thuộc tồn tại trong tự nhiên ấy đã được cô đọng, khái quát trên những mảng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 hoa văn rực rỡ, mầu nọ tôn mầu kia, bổ xung cho nhau làm nên một tổng thể hoàn chỉnh, một vùng thiên nhiên thu nhỏ. 3.1.3.2. Váy của người Thái đen Hoa văn trên váy: Chúng tôi không nói rằng hoa văn trên chân váy Thái đen, bởi khác với Thái trắng, hoa văn Thái đen không chỉ có ở phần chân váy mà được rải khắp thân váy. Mặc dù hoa văn trang trí khắp thân váy nhưng vẫn có sự phân biệt phần thân váy và chân váy, tuy sự phân biệt đó không rõ ràng, rành mạch như kiểu chân váy Thái trắng. Phía dưới chân váy hoa văn được thêu dày đậm đặc hơn với một mô típ nào đó khác với mô típ hoa văn trên thân váy. Phần chân váy thường cao khoảng 1/4 so với chiều dài thân váy, đôi khi chỉ thấp khoảng 10cm giống như một đường viền lớn dưới gấu váy. Cách trang trí phổ biến nhất là mảng hoa văn chân váy được lặp đi lặp lại một mô típ hoa văn nào đó chạy ngang vòng quanh chân váy. Phổ biến là các mô típ hình răng cưa, hình xoắn thừng, gạch dọc ngắn… Chân váy không được chia thành mảng chính, mảng phụ, không có mảng mầu lớn đậm đặc tạo nên phần trung tâm. Phía trên chân váy hoa văn thưa hơn thường được trang trí hình quả trám, hình gạch ngắn, các hình này xếp thẳng theo hàng ngang và đứng so le trong hàng dọc. Trên các đồ án hoa văn của Thái đen hoàn toàn vắng bóng các loại hoa văn động thực vật, mặt trời, mặt trăng. Mầu sắc trang trí chủ yếu là mầu nâu, mầu đỏ nhạt, mầu trắng, mầu vàng. Rất ít khi người Thái đen sử dụng mầu xanh và mầu tím. Các mầu sắc này được đập vụn ra đứng xen kẽ bên nhau, tạo thành hoa văn hình học. Do phần chân váy nhỏ, hoa văn lại rãi khắp thân váy nên chiếc váy của người Thái đen có vẻ đẹp nhẹ nhàng thanh thoát. Chúng tôi cho rằng đây là loại váy ảnh hưởng của phong cách trang trí của váy Lào. Có thể tổ tiên của người Thái đen xưa kia di cư từ vùng Lào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 sang. Chúng tôi thấy một số loại váy có thêu thân kim tuyến, giống hệt kiểu bố cục trang trí, sử dụng mầu sắc của người Thái đen ở đây, đồng bào cho biết những chiếc váy đó được mua từ bên Lào. Như vậy, tuy diện tích để thực hiện đồ án hoa văn của người Thái đen rất lớn so với Thái trắng, nhưng mô típ hoa văn lại nghèo hơn. Tuy vậy, váy của người Thái đen vẫn có được vẻ đẹp độc đáo, mộc mạc mà thanh thoát, giữ được nét đẹp riêng của mình. 3.1.4. Mô típ hoa văn tả thực và hoa văn cách điệu trên váy Thái Hoa văn tả thực nghĩa là “các hoa văn không bị cách điệu, hình học hoá hay bị kỹ thuật thêu dệt chi phối mạnh mẽ…mà các đường nét của động thực vật được uốn lượn như thật dễ nhận biết” [57; tr119-120]. Có thể nói người ta bê nguyên xi dáng hình của động thực vật vào, miêu tả nó một cách khá tỉ mỉ, đầy đủ. Hoa văn cách điệu lại đối lập hay ngược lại với hoa văn tả thực. Loại này động thực vật được cách điệu hay hình học hoá, bị chi phối bởi kỹ thuật dệt đan ở mức độ cao thấp khác nhau. Nhưng có điểm chung là người ta lược bỏ bớt những chi tiết nhỏ, bộ phận phụ của động thực vật, chỉ giữ lại những bộ phận cơ bản đặc trưng nhất và thể hiện dưới dạng mô hình tượng trưng, khái quát hoá cao. Động thực vật được tạo nên bởi các đường gấp khúc, các hình học xếp lại. Hoa văn được cách điệu chứng tỏ tư duy trìu tượng và sự khái quát hoá các hình dạng động thực vật của người Thái Thường Xuân khá cao. Trong hai loại hình cách điệu và tả thực, chúng ta thường bắt gặp những mô típ hoa văn chủ yếu là: Mô típ hoa văn thực vật: phổ biến là các loại hoa đào (boók đao), hoa rau sam (boók phắc lam), cây đa (co bá) và vô số các loại hoa lá cách điệu khác. Loại mô típ này hay được dùng trang trí phần phụ trong đồ án. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 Mô típ hoa văn động vật: có các loại hình rồng (luông), voi (chang), hươu (quảng), mèo (meo), gà (cay), vịt (pết), cá (pà), nhện (pu). Loại mô típ này khá quan trọng hay được dùng để thể hiện mảng trung tâm trong đồ án hoa văn. Mô típ hoa văn hình học : thường bắt gặp các hình tam giác, hình chữ S, hình chữ T, hình dấu X, hình dấu gạch, hình răng cưa. Hoa văn này thường được dùng để trang trí các đường viền trên chân váy Thái trắng và trong đồ án hoa văn Thái đen. Mô típ hoa văn hình mặt trời, mặt trăng: loại này chủ yếu được thêu, tạo mảng trung tâm của đồ án hoa văn. Trong các loại mô típ hoa văn, hình tượng rồng, mặt trời xuất hiện nhiều lần nhất và rộng rãi nhất. Nhận xét về hình tượng rồng, T.S Lê ngọc Thắng cho rằng: “tần số rồng xuất hiện nhiều lần trên đồ án như thế thể hiện khát vọng cầu mưa, khát vọng cuộc sống của một cư dân nông nghiệp” [57; tr120]. Phải chăng hình ảnh mặt trời (tả bên) toả ra những tia sáng mạnh mẽ mà ta bắt gặp rất nhiều trên trung tâm đồ án hoa văn chân váy cũng là khát vọng ánh sáng, sự cầu mong những ngày nắng ráo, mưa nắng thuận hoà bao giờ cũng là sự khao khát thường xuyên của một cư dân nông nghiệp ước mơ ruộng rẫy có được một mùa màng bội thu. 3.2. Trang phục của dân tộc Thái trong dân ca và văn học dân gian 3.2.1. Trang phục trong dân ca Trong dân ca (khặp) của dân tộc Thái thì trang phục, đặc biệt là chiếc khăn piêu và chiếc váy được xem như những hình ảnh nghệ thuật đặc sắc, được xuất hiện trong các câu ca. Khăn piêu xuất hiện như những biểu tượng đẹp về tâm hồn và phẩm chất của người thiếu nữ Thái trong các câu hát giao duyên (khặp báo xáo). Qua chiếc khăn các cô gái muốn bày tỏ tấm lòng của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 mình trước các chàng trai những người họ được yêu thương ngày mong đêm nhớ. ại ơ ại ơ ! Noọng sớ pớ xáo bán hau Noọng lau nặm kín khảu bán hau Noọng kệp bóc khín phái Noọng mện pín xỉn bóc, xỉn ngước Noọng ở tâng ại, noọng số cân kỳ hươn ạ (Anh ơi anh! Em là con gái của bản ta Em uống nước, em ăn cơm bản ta Em hái bông dệt vải Em thêu thành váy hoa váy rồng Em nhớ anh lắm, em trở thành người của nhà anh rồi. Sự táo bạo của cô gái trong câu hát trên như tạo thêm niềm tin cho chàng trai - người đang rất yêu thương nàng có thêm quyết tâm để tìm thấy hạnh phúc thực sự ở tương lai. 3.1.2. Trang phục trong văn học dân gian Là sản phẩm được tạo nên từ những con người lao động cần cù, chịu thương chịu khó, từ những bàn tay khéo léo: úp bàn tay thành hoa, ngửa bàn tay thành lá (khoẳn mư pín lai - hái mư pín boóc) của các chị, các mẹ. Trang phục của người Thái Thường Xuân là tác phẩm nghệ thuật dân gian và được xem như một bộ phận của hệ thống folklore Thái. Chính vì vậy có thể xem các bộ trang phục của người Thái như những sản phẩm của dân gian và có tính dị bản như các tác phẩm truyện thơ, ca dao, tục ngữ… dân gian Thái. Khi nghiên cứu khảo sát các câu ca dao, tục ngữ, phương ngôn, đồng dao của người Thái Thường Xuân, chúng tôi nhận thấy rất nhiều cầu bài ca dao tục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 ngữ sử dụng nhiều hình ảnh liên quan đến trang phục (khăn piêu, váy) như những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, như trong bài đồng dao "Tạ Đáo" cô gái giấu miếng cau trong khăn và lá trầu trong hộp để thách đố người yêu và để đoán biết mức độ tình yêu của chàng dành cho nàng. Nếu chọn miếng cau trong khăn chàng trai đã "phải lòng" nàng còn nếu chọn lá trầu trong hộp nàng và chàng đã yêu nhau: "Đáo lé nị đáo lơ? Đáo lé nị đáo phí Phớ mẻn chụ kín pu cuống hốp Phớ mẻn phúa mẻn mia cú Phớ mẻn chụ kín mác cuống khắn Hở cú phắn hín cắm nơ, cân nự (Sao xanh này sao gì Sao xanh lè sao ma Ai nên duyên ăn trầu trong hộp Ai nên chồng nên vợ Phải lòng nhau ăn cau trong khăn Hãy cho tôi đêm nay nằm mơ thấy người ấy. Trong các câu ca dao, tục ngữ phương ngôn, trang phục cũng như cách mặc trang phục được sử dụng để khuyên răn người đời nhất là các cô gái mới lớn về cách cư xử trong sinh hoạt thường ngày cũng như trong lao động. Từ cách mặc váy trong lúc lao động, người Thái phân ra hai loại là người lười biếng và người chăm chỉ: "Xỉn tỉn mú pi Xỉn hí mú phan" (Váy ngắn lợn béo Váy dài lợn gầy) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 Đối với người Thái là con gái thì phải ý tứ trong giao tiếp với mọi người, đặc biệt là khi mặc váy tiếp khách: "Nhổ nước bọt phải nhìn chỗ trống Lúc ngồi xuống phải nhìn váy dưới bàn chân" Làm việc gì cũng phải cẩn thận, nhìn trước nhìn sau sao cho đẹp mắt: "Đừng phơi áo dưới đất Đừng phơi váy trước cửa ra vào" Bên cạnh các câu ca dao, tục ngữ, phương ngôn, đồng dao còn nhiều bài thơ hiện đại sử dụng chất liệu nghệ thuật từ chiếc khăn piêu, hoa văn trên chân váy… trong đề tài này chúng tôi chưa có điều kiện nghiên cứu sâu hơn. Ngay cả việc sưu tầm, phân loại số lượng các câu ca dao, tục ngữ có hình ảnh trang phục cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy chúng tôi mới chỉ nghiên cứu được một số vấn đề, sau này có điều kiện và thời gian chúng tôi nghiên cứu sâu và rộng hơn. 3.3. Hoa văn trên trang sức Với chất liệu bạc vàng, nhôm, đồng, xương, hoa văn trên trang sức Thái Thường Xuân chủ yếu là chạm trổ, khắc vạch. Theo các cụ ở đây thì các đồ trang sức và hoa văn trên trang sức phần lớn do thợ kim hoàn của người Thái làm hoặc được mua đổi từ bên Lào về. 3.3.1. Vòng tay Có loại vòng làm theo kiểu vòng tròn khép kín, thân tròn nhẵn như chiếc đũa uốn, lại thường không được trang trí hoa văn. Loại vòng to bản thân dẹt được trang trí hoa văn hình học đơn giản với các mô típ hình thoi, hình tam giác, hình răng cưa, những chấm vạch nối tiếp nhau, tạo hoa văn chạy dọc thân vòng. Đường làm diềm cho thân vòng là các hình gấp khúc kép hay vạch thẳng chạy song song. Có loại vòng có hai sợi kim loại thân tròn (thường bằng đồng) vặn xoắn lại với nhau rất săn, chắc như vặn thừng gọi là “pa khen vằn” (vòng tay vặn). Loại này không trang trí hoa văn mà những đường trang trí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 hoa văn là những đường xoắn tạo thành hoa văn uốn lượn nhịp nhàng, mềm mại. Loại này chúng tôi thấy xuất hiện cả người Thái Yên Châu - Sơn La. Một số vòng thân dẹt hoa văn được đúc nổi với hình những hạt lúa châu đầu vào nhau. 3.3.2. Vòng cổ Bộ phận được trang trí hoa văn thường là hai đầu vòng được đánh bẹp ra, chạm khắc hoa văn hoặc uốn lượn hình đầu rắn. Có khi hai đầu vòng uốn lượn theo kiểu mô típ hình chữ S để móc vào nhau. 3.3.3. Hoa tai Loại hoa tai truyền thống của phụ nữ Thái Thường Xuân là hình lõi chỉ, chất liệu bạc. Mặt hoa tai to như đồng xu, được trang trí hình hoa đào cánh kép với những đường vạch kép chạy song song bên nhau tạo thành cánh hoa. 3.4. Trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Thanh Hoá trong cái nhìn so sánh với trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Tây Bắc. Bảng biểu so sánh trang phục phụ nữ Thái Thanh Hoá và Thái Tây Bắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 Các thành tố trang phục Thái Thanh Hoá Thái Tây Bắc Y phục thường ngày Khăn piêu - khăn dài khoảng 1.5m. Khăn nhuộm mầu chàm. Hoa văn đa dạng phong phú, có loại hoa văn “ta leo” sáu cánh, hoa văn hình cây hay hoa văn hình ông trăng, hình học, hình tam giác, hình quả trám hay hình sóng nước - Khăn dùng để đội hàng ngày và cả trong ngày cưới - Cách đội khăn đơn giản - Khăn dài màu chàm đen, hai đầu thêu hoa văn cầu kỳ, màu sắc sặc sỡ - Khăn có các tai piêu và “khà cút piêu” ở bốn góc khăn - Khăn dùng để đội hàng ngày, ngày cưới dùng để quàng trên vai - Đội khăn rất cầu kỳ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 áo (xửa cỏm) - Áo bằng vải thô màu xanh lam, viền cổ áo màu đỏ, cánh tay áo dài, may kiểu mở bụng, có 2 túi áo nhỏ ở hai tà áo. Áo có đính cúc không hoa văn. - Áo xẻ vai chui đầu, thân áo ngắn 25cm, tay áo dài, không có túi ở vạt áo. Áo được nhuộm màu đen, màu xanh hoặc màu trắng. Cổ áo được trang trí bằng viền màu đỏ hoặc đính hoa mắt rếch bằng bạc - Bằng vải thô nhuộm đen, may kiểu tứ thân, xẻ ngực, cổ tròn, nẹp cao, khi mặc áo cổ áo ôm sát. Nẹp áo đính cúc, trang trí hình mai rùa, hình bướm. váy (xỉn) - Váy có nhiều loại như: váy rồng, váy hươu, váy con voi, váy mặt trời. Váy gồm 3 phần (cạp váy, thân váy và chân váy). Ngoài ra còn có loại váy “xỉn đán”, “xỉn mục”, “xỉn cỏ”. Váy chia làm hai phần chính là cạp váy và thân váy. Cạp váy màu trắng, thân váy nhuộm màu chàm và được trang trí bằng các hoa văn sọc ngang khắp thân váy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 - Bằng vải thổ cẩm, hình trụ cạp váy và gấu váy không bằng nhau. Váy gồm 3 phần: đầu váy (cạp váy) thân váy và chân váy. Đầu váy có màu trắng thân váy màu đen, chân váy chiếm 1/3 diện tích và thêu hoa văn cầu kỳ với mầu sắc rực rỡ. - - Bằng vải thô nhuộm đen, loại váy hình trụ, cạp váy và gấu váy bằng nhau - Váy gồm 2 phần: cạp váy và thân váy. Cạp bằng vải thô trắng, thân váy do bốn khổ vải chàm đen tạo thành, váy không trang trí hoa văn. Khi mặc váy phần cạp váy được kéo dài đến tận ngực trên dùng dây thắt lưng thắt dưới bụng. Khi mặc kéo hai điểm cạp váy bó sát người ở cạnh sườn bên phải phần váy thừa gập về trước bụng và dùng thắt lưng thắt chặt phía ngoài, kéo mép “xửa cỏm” phủ lên trên. Thắt lưng (xài éo) - Thắt lưng của người bằng vải thổ cẩm dài, nhuộm xanh lá cây hoặc mầu trắng, không có trang trí ở hai đầu. Còn thắt lưng của phụ nữ Thái đen về cơ bản giống Thái trắng, chỉ có khác là thắt lưng của Thái đen chỉ có một màu trắng. - Bằng vải tơ tằm nhuộm chàm màu xanh lá cây (đối với thiếu nữ), màu tím (phụ nữ trung niên và người già) sự quy định này là bất di bất dịch. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 Trang phục Lễ hội, cưới xin - Trong ngày lễ hội, phụ nữ Thái trắng và Thái đen không qui định trang phục mặc riêng. Nhưng trong những ngày này những bộ váy, áo, khăn, thắt lưng được đem ra sử dụng phải là những bộ mới nhất, đẹp nhất. - Ngày cưới cô dâu mặc chiếc áo “xửa cỏm” (Thái trắng chọn “xửa cỏm” mầu trắng còn Thái đen có thể mặc cả mầu trắng và mầu đen). Còn khăn piêu, váy đều phải mới và chưa mặc lần nào. - Mặc xửa cỏm mới tinh, đen nhánh, thắt lưng xanh, váy mới mặc lần đầu (Thái đen) hoặc khoác thêm chiếc áo dài xửa luồm (Thái trắng) - Ngày cưới cô dâu không đội khăn piêu mà dùng để quàng lên vai và búi tóc (tằng cẩu). Ngoài bộ khăn piêu, cô dâu Thái còn khoác ngoài chiếc áo “xửa chai” (vải chàm đen, kiểu 5 thân) hay "xửa luồm” (bằng vải sa tanh đen, kiểu chui đầu hình ống, áo thụng cổ áo hình trái tim) Tang phục - Cô dâu trưởng trong đám ma mẹ chồng hay bố chồng đội khăn piêu âm dương. Áo trắng xẻ ngực. Váy đen không thêu hoa văn, ở ngoài mặc áo “xửa luồm”. Các cô dâu thứ và con gái đầu đội khăn tang trắng, mặc váy màu đen không thêu hoa văn và áo mặc màu trắng - Cô dâu trưởng mặc xửa chai - áo dài đen và đội khăn piêu như ngày thường, các cô dâu thứ mặc xửa cỏm trắng không có khuy bạc mà dùng dây buộc áo may sơ sài không khâu gấu, không dựng cổ áo. Đầu đội khăn trắng mặc váy đen bình thường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 Tiểu kết chƣơng 3: với trình độ, bàn tay và con mắt thẩm mỹ của mình, người phụ nữ Thái nơi đây đã tạo ra những bộ trang phục đẹp, độc đáo cho riêng mình. Trang phục của người Thái Thường Xuân còn là sự kết hợp giữa cái đẹp của phong cảnh, mầu sắc của thiên nhiên với sự khéo của đôi tay và óc sáng tạo của người phụ nữ nơi đây. Với bàn tay tạo hình nghệ thuật khéo léo của mình, người phụ nữ Thái Thường Xuân đã đưa mầu sắc của thiên nhiên lên trên trang phục của mình, đó là các mô típ hoa văn tả thực và cách điệu. Vẻ đẹp trang phục của phụ nữ Thái còn được thể hiện trong cả những câu dân ca hay trong văn hoá dân gian hay cả trên những đồ trang sức. Vì thế trang phục của chị em vừa có vẻ đẹp của tự nhiên, vẻ đẹp của tâm hồn đồng thời còn ẩn chứa cả vẻ đẹp của tâm linh - Điều này đã tạo nên một nét riêng, độc đáo của trang phục phụ nữ Thái Thường Xuân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 KẾT LUẬN 1. Ở Thường Xuân, nhóm người Thái có hai ngành là Thái trắng và Thái đen. Trong huyện, người Thái trắng phân bố chủ yếu ở phía tây nam của huyện, chủ yếu ở các xã Xuân Chinh, Xuân Lẹ, Luận Khê, Luận Thành. Còn Thái đen phân bố chủ yếu ở các xã Bát Mọt, Yên Nhân, Xuân Lộc, Xuân Chinh... Tộc người Thái trong huyện chiếm số lượng lớn nhất (82%), sau đến người kinh (13%) và tộc Mường (5%). Mặc dù cư trú theo làng, đôi nơi xen kẽ với các dân tộc anh em trong vùng. Nhưng các yếu tố văn hoá cổ truyền của người Thái Thường Xuân xứ Thanh, trong đó có trang phục cổ truyền vẫn được giữ gìn từ thế hệ này sang thế hệ khác. 2. Là cư dân nông nghiệp trồng trọt. Người Thái ở Việt Nam nói chung và người Thái Thường Xuân nói riêng vẫn tồn tại một loại hình kinh tế tự túc, tự cấp kéo dài nhiều thế kỷ trong xã hội cổ truyền. Trong bối cảnh đó, trang phục là một giá trị văn hoá vật chất quan trọng được ra đời, định hình và phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu mặc của con người và thể hiện các giá trị văn hoá khác của cộng đồng. 3. Do nhu cầu cuộc sống, người Thái Thường Xuân đã tự sáng tạo ra y phục và trang sức với một ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Đó là quá trình trồng bông, dệt vải, nhuộm chàm. Quá trình cắt may y phục, thêu thùa, trang trí trang phục với nhiều kỹ thuật khác nhau. Các họa tiết trang trí trên trang phục thực sự phong phú đa dạng. Từ những hình học đơn giản tới những mảng hoa văn hình sóng nước hay những hình hoa lá, hình động vật… Người ta đã biết phối hợp các yếu tố lại thành những hoa văn phong phú, phức tạp được thể hiện đặc sắc trên bộ y phục nữ. Bên cạnh các họa tiết hoa văn trang trí trên trang phục thì đồ trang sức của người Thái cũng khẳng định một lần nữa về tính dân tộc độc đáo trong hoa văn truyền thống của họ. Đó là những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 đôi hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích… Tất cả không chỉ thoã mãn nhu cầu sử dụng mà còn thoã mãn nhu cầu làm đẹp từ việc tạo dáng đến chạm khắc hoa văn. Qua đó chứng tỏ rằng người Thái Thường Xuân có một nền mỹ thuật bình dị chững chạc, hài hoà, chân thực, tập trung óc thẩm mỹ tâm hồn phong phú của con người. Vẻ đẹp trên trang phục của họ đều bắt nguồn từ lao động và do chính bàn tay, khối óc họ tạo nên. 4. Do cư trú xen kẽ với nhau nên hai ngành Thái trắng và Thái đen chịu ảnh hưởng lẫn nhau về trang phục khá lớn, sự phân biệt “đen - trắng” qua trang phục không thể hiện rõ như người Thái ở vùng khác. Tuy vậy, đi sâu vào tìm hiểu chúng ta còn nhận biết những nét riêng khá đặc trưng vốn có của từng ngành Thái đen và Thái trắng Thường Xuân. Nhìn chung trang phục của Thái trắng hoa văn sặc sỡ, thêu thùa công phu và thiên về sử dụng mầu sáng, mầu trắng. Còn trang phục của người Thái đen đơn giản với kiểu trang trí đơn giản, mầu sắc thường sẫm hơn. Trang phục Thái còn phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên, lòng yêu thiên nhiên đất nước, con người của người Thái Thường Xuân. Qua các đồ án hoa văn chúng ta có thể thấy tư duy tưởng tượng, sự khái quát hoá của người Thái ở đây khá cao. Họ đã đưa vào đồ án hoa văn của mình thế giới động vật, thực vật phong phú, quen thuộc và gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt, lao động hàng ngày, thể hiện một cảm xúc ước mơ, tình cảm sâu lắng của mình vào trang phục. 5. Việc làm ra y phục và trang sức của người Thái cũng như những giá trị thẩm mỹ của nó không phải là thứ hàng hoá trao đi bán lại, mà trái lại người Thái xem trang phục là kỷ vật vừa mang giá trị vật chất, vừa mang giá trị tinh thần, là thước đo về phẩm hạnh của người phụ nữ, là một trong những yếu tố văn hoá riêng biệt để nhận biết về người phụ nữ Thái. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 6. Qua khảo sát về trang phục cổ truyền của người phụ nữ Thái Thường Xuân, chúng tôi nhận thấy những trang phục cổ truyền của phụ nữ đang có nguy cơ mất dần và biến đổi giao thoa với các tộc người khác. Giờ đây nhiều cô gái Thái khó có thể làm ra được những bộ trang phục đẹp và khéo léo như trước, mà nhiều cô còn e ngại, xấu hổ khi mặc trang phục cổ truyền dân tộc mình. Tình trạng này là do ảnh hưởng của những trang phục mới, mốt của những tộc người khác. Trước thực trạng như vậy, trong những năm gần đây, trang phục của người Thái nói chung được giới khoa học và bảo tàng quan tâm nghiên cứu để sưu tầm, kiểm kê, bảo quản nhằm phát huy giá trị của nó trong hệ thống các giá trị văn hoá truyền thống của quốc gia trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 7. Việc nghiên cứu, sưu tầm trang phục cổ truyền của phụ nữ Thái Thường Xuân là một việc làm quan trọng, vì vậy công việc này cần được quan tâm nghiên cứu hơn nữa để có thêm nguồn tư liệu nhằm góp phần bổ sung vào bộ sưu tập trang phục cổ truyền, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ phát triển đổi mới đất nước theo đúng tinh thần của nghị quyết 5 Trung ương Đảng khoá VIII mà Đảng và Nhà Nước đã đề ra: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 Danh sách những ngƣời cung cấp nguồn tƣ liệu Điền dã ở huyện Thƣờng Xuân (Thanh Hoá) TT Họ và tên Giới tính Tuổi Dân tộc Nghề nghiệp Địa chỉ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 Vi Văn Lau Lò Thị Cảng Cầm Thị Hồng Vi Hồng Oanh Hoàng Văn Am Lục Văn Quang Lò Quang Sự Vi Hữu Phương Hà Văn Muối Hà Thị Khau Lò Thị Tiến Vi Hồng Thanh Cầm Thị Mai Cầm Thị Hoa Hoàng Thị Khuyến Vi Văn Lú Cầm Bá Mến Lò Thị Mền Vi Hồng Thoát Hoàng Văn Sơn Cầm Bá Thức Lường Văn Trai Hoàng Thị Tiến Cầm Bá Thiên Cầm Bá Phượng Nam Nữ Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nam Nữ Nữ Nam Nam Nam Nam Nữ nam Nam 70 74 74 73 69 69 68 67 64 64 60 32 30 30 26 76 74 50 49 44 39 37 24 61 22 Thái trắng Thái đen Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái đen Thái đen Thái trắng Thái đen Thái đen Thái đen Thái đen Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái đen Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái trắng Thái trắng Nông dân Cán bộ huyện Nông dân Nông dân Cán bộ về hưu Nông dân Nông dân Cán bộ về hưu Nông dân Nông dân Nông dân Cán bộ xã Nông dân Nông dân Nông dân Nông dân Cán bộ về hưu Nông dân Giáo viên Nông dân Giáo viên Nông dân Sinh viên Chủ tịch MTTQ Sinh viên Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Lộc Xuân Cẩm Xuân Chinh Xuân Chinh Xuân Chinh Xuân Khao Xuân Cẩm Ngọc Phụng Ngọc Phụng TT Thường Xuân Luận Thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vương Anh (2001), Tiếp cận văn hoá bản Thái xứ Thanh, Nxb VHTT Thanh Hoá. 2. Hoàng Thị Ánh (2001), Tìm hiểu các tục lệ cưới xin của người Thái ở xã Xuân Lẹ - huyện Thường Xuân - Tỉnh Thanh Hoá, khoá luận tốt nghiệp khoa lịch sử trường ĐHKHXH và NV. 3. Vi Văn An (1993), Trang phục của người phụ nữ Thái ở miền Tây Nghệ An, Văn hoá dân gian, H, số 4. 4. Lê Thị Ngọc Ái (1994), Trang phục của phụ nữ Thái ở miền tây Thanh Hoá, VHGD - H, số 10. 5. Ban nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2001), Tên làng xã Thanh Hoá T2, Nxb Thanh Hoá. 6. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thường Xuân (1991), lịch sử đảng bộ huyện Thường Xuân, t1, Xí nghiệp in Ba Đình Thanh Hoá. 7. Hà Thị Hấm - Lục Thị Khuyên - Bùi Tiến - Hà Nam Ninh - Cao Ngọc Bích - Hà Văn Ban - Vũ Ngọc Khánh (1983), Khặp Thái Thanh Hoá, Nxb Thanh Hóa. 8. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2005), Văn hoá phi vật thể Thanh Hoá, Nxb Thanh Hoá. 9. Hà văn Năm - Cầm Thương - Lò Văn Sĩ - Tông Kim Ấn - Kim Cương - Hương Huyền (1978), Tục Ngữ Thái, Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội. 10. Trương Chính - Đặng Đức Siêu (1978), sổ tay văn hoá Việt Nam, Nxb văn hoá, HN. 11. Phùng Sĩ Hoà - Nguyễn Hữu Chúc (1999), Truyện cổ các dân tộc Thanh Hoá, Nxb Thanh Hoá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 12. Nguyễn Đăng Duy (2004), Nhận diện văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội. 13. Lê Huy Duy (2000), Tín ngưỡng dân gian của người Thái ở huyện Thường Xuân - Thanh Hoá, khoá luận tốt nghiệp khoa lịch sử trường ĐHKHXH & NV. 14. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H. 15. Phạm Văn Đấu (1995), Văn hoá truyền thống Thường Xuân, Tập I, Nxb VHTT Thanh Hoá. 16. Trần Thị Liên - Phạm Văn Đấu - Phạm Minh Trị (1989), Văn hoá truyền thống huyện Thường Xuân. Truyện kể dân gian , t1, Sở văn hoá - Thông tin Thanh Hoá. 17. ĐHQG Hà Nội. Trung tâm nghiên cứu Việt Nam về giao lưu văn hoá chương trình Thái học Việt Nam (1998), Văn hoá và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội. 18. Lã Văn Lô - Nguyễn Hữu Thấu - Mai Văn Trí - Mạc Như Đường (1959), Các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hoá, H. 19. Mạc Đường (1964), Các dân tộc miền núi bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, H. 20. Bế Viết Đẳng (1988), Một số vấn đề lịch sử tộc người và những đặc điểm chủ yếu của văn hoá các dân tộc Tày - Thái, Dân tộc học, H, số 1. 21. Bế Viết Đẳng (1990), Một số vấn đề đời sống các dân tộc và chính sách dân tộc, Dân tộc học, H, số 3. 22. Lê Doãn Tá và Phan Hữu Dật chủ biên (1995), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta, Nxb chính trị quốc gia, H. 23. Lê Sỹ Giáo (1991), Đặc điểm phân bố các tộc người ở miền núi Thanh Hoá, Tạp chí dân tộc học, số 2. 24. Lê Sỹ Giáo (1979), Tổ chức xã hội của người Thái Mường Ca Gia (Thanh Hoá), Tạp chí dân tộc học, số 2. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 25. Lê Sỹ Giáo (1990), Khảo sát sơ bộ về hôn nhân của người Thái ở Thanh hoá, Phòng tư liệu khoa lịch sử trường ĐHXH & NV. 26. Vũ Trường Giang (1997), Hệ thống cổ truyền của người Thái ở miền Tây Thanh Hoá, khoá luận tốt nghiệp khoa lịch sử trường ĐHXH & NV. 27. ThS. Đỗ Thị Hoà (2003), Trang phục các dân tộc người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày - Thái, Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội. 28. Nguyễn Xuân Hồng (1977), Những chuyển biến mới của người Thái xã Bát Mọt, Thường xuân, Thanh Hoá từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến nay, khoá luận tốt nghiệp tại trường ĐHXH & NV. 29. Tô Sỹ Hoà (1977), Đôi nét về nông nghiệp ruộng nước của người Thái ở xã Vạn xuân - Huyện Thường Xuân tỉnh Thanh Hoá, khoá luận tốt nghiệp của khoa lịch sử trường ĐHKHXH và NV. 30. Nguyễn Thị Thanh Hiền (2001), Đề cương trưng bày “Đặc trưng văn hoá Thái ở Thanh hoá”, Bảo tàng Thanh Hoá. 31. Nguyễn Văn Huy (chủ biên) (1998), Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam, Nxb giáo dục. 32. Vũ Ngọc Khánh (2005), Truyền thống văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam, t2, Nxb Thanh niên. 33. Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ liệu giới thiệu các nhóm dân tộc Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H. 34. Hoàng Lương (2001), Về người Thái đen ở Việt Nam, Tạp chí dân tộc học. 35. Hoàng Lương (2003), Hoa văn Thái, Lao động, Hà Nội. 36. Hoàng lương (2000). Người Thái quả, người Thái đỏ, Thái Mường ở Việt Nam. 37. Đỗ Tất Lợi (1978), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb y học, Hn. 38. Hoàng Trần Nghịch (1997), Thái kơm kẻm câu đố Thái, Nxb văn hoá dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 39. Lê Nai - Mai Xuân Đáng (1991), Người Thái Tây Bắc Thanh Hoá và mối quan hệ văn hoá dân tộc trong kỷ yếu hội thảo Thái học lần thứ nhất, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 40. Mạc Phi (1979), Dân ca Thái, Nxb văn hoá Hà Nội. 41. Cầm Bá Phượng (2006), Tìm hiểu văn hoá ẩm thực và trang phục của dân tộc Thái ở Thanh Hoá, Khoa văn trường Đại học Hồng Đức Thanh Hoá. 42. Hoàng Văn Quang (1984), Y phục và trang sức của người Thái đen ở huyện Điện Biên, khoá luận tốt nghiệp của khoa lịch sử trường ĐHKHXH và NV. 43. Phạm Văn Sinh (2001), Bước đầu tìm hiểu văn hoá người Thái - Bá Thước Thanh Hoá, khoá luận tốt nghiệp trường DHXH & NV. 44. Chu Thái Sơn (1992), Lễ phục các dân tộc Việt Nam, Dân tộc học, H, số 3. 45. Chu Thái Sơn (1993), Phụ nữ - người bảo lưu văn hoá truyền thống (qua nghiên cứu y phục các dân tộc ), Tạp chí khoa học về phụ nữ, H, số 2. 46. Phạm Côn Sơn (2002), Văn hoá phong tục Việt Nam ABC, Nxb văn hoá dân tộc. 47. Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Khoa học xã hội và nhân văn. 48. Cầm Trọng (1978), Tư liệu nghiên cứu về lịch sử và xã hội người Thái, Nxb Khoa học xã hội, H. 49. Cầm Trọng - Hoàng Lương - Lê Sỹ Giáo - Vương Toàn (1998), Văn hoá và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 50. Ngô Đức Thịnh (1986), Tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục của dân tộc ta, H, số 3. 51. Ngô Đức Thịnh (1985), Nữ phục Thái Tây Bắc, Văn hoá dân gian, H, số 2. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 52. Ngô Đức Thịnh (2003), KHXH và nhân văn Quốc Gia : Viện nghiên cứu văn hoá dân gian, Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 53. Ngô Đức Thịnh (1986), Trang trí trên trang phục nhìn từ góc độ văn hoá dân gian, Văn hoá dân tộc, H, số 1. 54. Ngô Đức Thịnh (1990), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội. 55. Ngô Đức Thịnh - Cầm Trọng (2003), Viện nghiên cứu văn hoá dân gian, Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội. 56. Lê Ngọc Thắng (1990), Bản sắc văn hoá các dân tộc Việt Nam, Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 57. TS. Lê Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục Thái, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 58. TS Lê Ngọc Thắng (1990), Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, ĐHKHXH & NV. 59. Lê Thị Thanh (2000), Sơ bộ khảo sát ma chay cổ truyền của dân tộc Thái ở Thanh Hoá, khoá luận tốt nghiệp trường ĐHKHXH & NV. 60. Đoàn Thị Tình (1987), Tìm hiểu trang phục Việt Nam dân tộc Việt - Nxb Văn Hoá, Hà Nội. 61. Ty văn hoá và thông tin Thanh Hoá (1978), Xường về Mường khặp về bản lời hát dân ca Mường và Thái, Nxb Thanh Hoá. 62. Thông tấn xã Việt Nam (2000), Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc, Nxb văn hoá dân tộc. 63. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2000), Địa chí Thanh Hoá t1 Địa lý và lịch sử, Nxb văn hoá thông tin. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 64. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2004), Địa chí Thanh Hoá t2 văn hoá xã hội, Nxb khoa học xã hội. 65. Trung tâm hợp tác nghiên cứu Việt Nam (1992), Hội thảo Thái học lần thứ nhất, Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội. 66. Tài liệu lưu trữ ở phòng thống kê UBND huyện Thường Xuân. 67. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện dân tộc (1983), Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 68. Viện dân tộc học (1977), Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Nxb khoa học xã hội, H. 69. Đặng Nghiêm Vạn (1977), Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Nxb khoa học xã hội. 70. Đinh Xuân Vịnh (2002), Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 PHỤ LỤC Hình 1a. Các kiểu hoa văn trên khăn Piêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Hình 1b. Kiểu hoa văn trên khăn đội đầu của người chết Màu đen Màu trắng xen vàng 1,2 m Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 20 cm 31 cm 50 cm 9 cm 25 - 30 cm 10 cm 43 cm Hình 2a. Áo che vú (xửa hổm nôm) 20 cm 31 cm Hình 2b. Áo ngắn (xửa cỏm) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Hình 2c: Áo dài (xửa luồm) 1m 20 cm 60 cm Mặt trước 45 cm 9 cm Mặt sau Phần vạt trước dài và rộng hơn vạt sau (dài hơn 10 cm, rộng hơn 3 cm) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Hình 3a. Hoa văn trên váy rồng (xỉn luông) Hình 3b. Hoa văn trên váy mặt trời (xỉn na phà) Hình 3c. Hoa văn trên váy hươu (xỉn quảng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 3,3 cm Hình 4a. Hoa tai hình lõi ống chỉ 6 cánh Hình 4b. Hoa tai ống chỉ 7 vòng (co hú) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Hình 4 c. Hoa văn chấm vạch của vòng tay thân dẹt (Đooc khen) 8 cm 1,2 cm 9 cm 1,4 cm Hình 4 d. Hoa văn đúc nổi hình hạt lúa của vòng tay thân dẹt (Đooc khen) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Hình 5. Kiểu hoa văn trên khăn Piêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 30 cm 30 cm 45 cm 9 cm 20 cm Hình 6: Áo ngắn (xửa cỏm) Hình 7: Kiểu hoa văn trên váy "xỉn cỏ" Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Hình 8a. Vòng tay xoắn thừng Hình 8b. Vòng cổ (póc co) kiểu 2 đầu uốn hình chữ S 8 cm 17 cm Đường kính 0,6 cm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 L À O Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 MỤC LỤC Mở Đầu ............................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................... 3 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài ........................... 4 3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4 3.2. Nhiệm vụ đề tài .................................................................................. 5 4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu ............................................... 5 4.1. Nguồn tư liệu ...................................................................................... 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 5 5. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 6 6. Bố cục của luận văn .............................................................................. 6 Chƣơng 1: Khái quát về huyện Thƣờng Xuân (Thanh Hoá) ..................... 7 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên - xã hội ......................................... 7 1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .................................................... 7 1.1.2. Điều kiện xã hội .............................................................................. 9 1.2. Dân số, tên gọi, ngôn ngữ và chữ viết của người Thái Thường Xuân (Thanh Hoá) ................................................................................................ 10 1.2.1. Dân số ............................................................................................ 10 1.2.2. Tên gọi ........................................................................................... 11 1.2.3. Ngôn ngữ và chữ viết .................................................................... 12 1.3. Một số nét văn hoá tiêu biểu của người Thái Thường Xuân (Thanh Hoá ....................................................................................... 13 1.3.1. Khặp Thái ...................................................................................... 13 1.3.2. Các lễ hội ....................................................................................... 13 Chƣơng 2: Trang phục cổ truyền của ngƣời phụ nữ dân tộc Thái huyện Thƣờng Xuân (Thanh Hoá) trong đời sống xã hội ..................... 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 2.1. Quan niệm về trang phục.................................................................. 15 2.1.1. Quan niệm ..................................................................................... 15 2.1.2. Các thành tố trang phục của người phụ nữ. ................................. 18 2.2. Quá trình sản xuất trang phục .......................................................... 27 2.2.1. Chọn đất trồng bông. .................................................................... 29 2.2.2. Chế biến bông ................................................................................ 30 2.2.3. Công cụ - kỹ thuật cắt, may, thêu .................................................. 35 2.2.4. Vai trò của người phụ nữ trong sản xuất trang phục ..................... 38 2.3. Trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Thường Xuân trong đời sống xã hội ............................................................................................... 39 2.3.1. Trang phục trong sinh hoạt thường ngày ...................................... 39 2.3.2. Trang phục trong hội hè, lễ tết ................................................... 42 2.3.3. Trang phục trong hôn nhân .......................................................... 43 2.3.4. Trang phục trong tang lễ ............................................................... 47 2.4. Những biến đổi trong trang phục của người Thường Xuân (Thanh Hoá) ........................................................................................................ 52 2.4.1.Thời kỳ trước năm 1945 ................................................................. 52 2.4.2. Thời kỳ sau năm 1945 ................................................................... 53 2.4.3. Thời kỳ từ năm 1975 đến nay........................................................ 53 Chƣơng 3 : Đặc trƣng nghệ thuật trong trang phục cổ truyền của ngƣời phụ nữ Thái Thƣờng Xuân ..................................................... 60 3.1. Nghệ thuật tạo hình và trình bày hoa văn, mầu sắc trên trang phục....... 60 3.1.1. Truyền thuyết về nghề thêu dệt của dân tộc Thái ......................... 60 3.1.2. Khăn piêu ....................................................................................... 60 3.1.3. Nghệ thuật trang trí trên váy.......................................................... 64 3.1.4. Mô típ hoa văn tả thực và hoa văn cách điệu trên váy Thái.......... 71 3.2. Trang phục của dân tộc Thái trong dân ca và văn học dân gian ............. 72 3.2.1. Trang phục trong dân ca ................................................................ 72 3.1.2. Trang phục trong văn học dân gian .............................................. 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 3.3. Hoa văn trên trang sức ...................................................................... 75 3.3.1. Vòng tay ........................................................................................ 75 3.3.2. Vòng cổ ......................................................................................... 76 3.3.3. Hoa tai ........................................................................................... 76 3.4. Trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Thanh Hoá trong cái nhìn so sánh với trang phục của phụ nữ dân tộc Thái Tây Bắc. ............... 76 Kết luận ......................................................................................................... 82 Tài liệu tham khảo ....................................................................................... 86 Phụ lục 1. Bản đồ (01 trang) 2. Hình vẽ tư liệu (10 trang)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_07_SP_LS_NDD.pdf
Tài liệu liên quan