Luận văn Truyền thuyết gắn với đình, chùa, đền, miếu ở Vĩnh Long

MS: LVVH-VHVN032 SỐ TRANG: 281 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2009 CẤU TRÚC LUẬN VĂN [B]MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4. Đối tượng nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Đóng góp của luận văn 7. Kết cấu luận văn CHƯƠNG 1: DIỆN MẠO VĂN HÓA VÙNG ĐẤT VĨNH LONG 1.1. Môi trường tự nhiên của vùng đất Vĩnh Long 1.2. Môi trường xã hội của vùng đất Vĩnh Long 1.2.1. Vài nét về văn hóa tộc người 1.2.2. Các hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH TƯ LIỆU VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI 2.1. Tình hình tư liệu 2.1.1. Những tư liệu được công bố 2.1.2. Những tư liệu do sưu tầm, điền dã 2.2. Phân loại 2.2.1. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ thần Hổ 2.2.2. Tư liệu về truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu 2.2.3. Tư liệu về truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Cá Ông 2.2.4. Tư liệu về truyền thuyết gắn với lễ Vào Năm Mới (Chol Chnăm Thmây) 2.2.5. Tư liệu về truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ NeakTà 2.2.6. Tư liệu về truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Thần Mặt Trăng CHƯƠNG 3: TRUYỀN THUYẾT TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG – LỄ HỘI 3.1. Mối quan hệ tín ngưỡng với truyền thuyết dân gian 3.2. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng Thờ Thần Hổ 3.2.1. Thực trạng tồn tại của những truyền thuyết được ghi chép 3.2.2. Các môtip 3.3. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Nhân thần 3.4. Sự vận động của những truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Nữ thần, Cá Ông, NeakTà: 3.4.1. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Nữ thần 3.4.2. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Cá Ông và lễ hội Nghinh Ông 3.4.3. Tục thờ NeakTà trong tín ngưỡng của cư dân Vĩnh Long 3.5. Truyền thuyết gắn với lễ hội Chôl Chhnam Thmây và lễ hội Oc – Om – Bok KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN HỔ 1.1. Truyền thuyết đã được sưu tầm và cố định trên sách vở: 1.2. Truyền thuyết sưu tầm điền dã: 2. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU: 2.1. Truyền thuyết đã được sưu tầm và cố định trên sách vở: 2.2. Truyền thuyết sưu tầm điền dã: 3. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ NHÂN THẦN: 3.1.Bản kể của Kiều Thu Hoạch: 3.2. Bản kể của Huỳnh Minh: 3.3. Bản kể Thạch Phương – Đoàn Tứ: 3.4. Bản kể của Huỳnh Ngọc Trảng: 3.5. Truyền thuyết sưu tầm điền dã: 4. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÁ ÔNG VÀ LỄ HỘI NGHINH ÔNG: 4.1. Truyền thuyết được sưu tầm và cố định trên sách vở 4.2. Truyền thuyết sưu tầm điền dã: 5. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI LỄ VÀO NĂM MỚI VÀ TỤC ĐẮP NÚI CÁT: 6. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ NEAKTA: 6.1. Truyền thuyết đã được sưu tầm và cố định trên sách vở: 6.2. Truyền thuyết sưu tầm điền dã: 7. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN MẶT TRĂNG VÀ LỄ HỘI ÓC – OM – BOK: 7.1. BẢN KỂ CỦA TRẦN VĂN BỔN 7.2. BẢN KỂ CỦA CHU XUÂN DIÊN 7.3. BẢN KỂ CỦA SƠN PHƯỚC HOAN 7.4. BẢN KỂ CỦA LÊ HƯƠNG 7.5. BẢN KỂ CỦA TRƯỜNG LƯU 7.6. BẢN KỂ CỦA NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP HẬU GIANG 7.7. BẢN KỂ CỦA SÔRYA 7.8. BẢN KỂ CỦA HUỲNH NGỌC TRẢNG

pdf281 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2406 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Truyền thuyết gắn với đình, chùa, đền, miếu ở Vĩnh Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
um đặt đầu cha lên một khay vàng, đem để tại hang Thủy Tinh (Thamamialy) trong dãy Himalaya, và hằng năm, mỗi người luân phiên bưng chiếc đầu lâu đi quanh ngọn núi Meru ba lần trong ngày. Thay vì phải rước đầu lâu đi quanh ngọn núi, vào ngày đầu năm, họ rước Maha Sangkram (quyển Đại lịch) đi vòng quanh chính điện trong khuôn viên chùa ba lần để nhớ về huyền thoại xa xưa. 5.1.10. BẢN KỂ CỦA SÔRYA:  Bân chol chnăm thmây: Từ xa xưa Bân chol chnăm thmây đã trở thành là ngày lễ hội truyền thống của dân tộc và gắn với tôn giáo đạo Phật. Có truyền thuyết như sau: Từ thuở ngọc đế Indra tạo nên trời đất, có một vị quốc vương sinh được một vị hoàng tử thông minh, đĩnh ngộ đặt tên là Thommabal. Vừa mới lên 5 hoàng tử Thommabal đã bắt đầu học. Học đâu nhớ đó, học một biết hai. Đến năm lên 7 thông thuộc cả bộ sách Thiên văn, bói toán, luật lệ, kinh điển của thần linh. Nhà vua rất hài lòng vì đứa con yêu quý, mới truyền bá quan xây cất một dinh thự giữa khu vườn rộng để hoàng tử tiếp xúc với mọi người. Ngày đầu tiên ở tư dinh, hoàng tử mời thần dân tới nghe ngài thuyết pháp về lời khuyên dạy của chữ thiện trong việc giữ gìn hạnh phúc ở đời. Hoàng tử được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt vì đây là lần đầu tiên thiên hạ nghe người ở trần gian giảng dạy đạo lý. Kế tiếp nhiều ngày sau, hoàng tử đem những điều đã học hỏi truyền bá khắp nhân gian. Người đời bấy giờ gọi hoàng tử là nhà hiền triết, tiếng bắc Phạn (Sănscrit) gọi Dharmapala là nhà giữ gìn luật pháp. Tiếng khen tài nhà hiền triết Thommabal, vị đông cung Thái tử mới 7 tuổi đã quan thông kim cổ bay đến tận thiên đình. Vị thần Kabinh Mahaprum là vị thần có bốn mặt, chuyên xuống trần thuyết pháp dạy đời, nghe qua liền nổi lòng ghen tức, Thần tìm kế hại Thommabal vì sợ Thommabal giành lấy địa vị của mình. Nghĩ xong thần bay xuống trần, gọi ông hoàng tử tí hon mà rằng: - Ta là Kabinh Mahaprum chắc Thái tử thường nghe tiếng. Ta không ngờ thái tử thông minh đến thế, đã thu phục được nhiều người hâm mộ. Nhưng ta chưa tin hẳn tài của thái tử có đúng hay không? Ta hỏi thái tử ba câu và hẹn thái tử trong bảy ngày ta sẽ trở xuống nghe thái tử trả lời. Nếu thái tử đáp trúng ta sẽ tự cắt đầu trước mặt thái tử, còn trái lại thái tử phải dâng đầu cho ta. Thommabal không thể từ chối, đành phải nhận lời. Hơn nữa Ngài cũng tự tin ở mình. Vị thần tỏ vẻ hài lòng và nói tiếp: - Ta hỏi thái tử: Câu thứ nhất: buổi sáng cái duyên con người ở đâu? Câu thứ hai: buổi trưa cái duyên con người ở đâu? Câu thứ ba: buổi tối cái duyên con người ở đâu? Hỏi xong thần cưỡi mây về trời. Các câu hỏi đó hoàng tử Thommabal suy nghĩ hoài nghĩ mãi mà không ra lời đáp. Ngài đi quanh quẩn trong dinh rồi đi khắp khu vườn từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều tối mà không biết trả lời thế nào cho đúng. Một ngày qua rồi hai ngày qua, ba ngày, tới ngày thứ năm hoàng tử Thommabal bắt đầu lo lắng hoảng sợ. Ngài nghĩ rằng nếu chờ đến ngày thứ bảy thần Kabinh Mahaprum xuống hỏi thì chắc chắn Ngài phải mất đầu. Sáng hôm thứ sáu, hoàng tử Thommabal trốn khỏi dinh, chạy vào trong rừng. Chạy suốt buối sáng bụng đói người mệt lả, chân mỏi không muốn bước, Ngài ngồi dựa lưng vào cây thốt nốt, mắt từ từ khép lại. Lúc ấy một cặp chim chuyên ăn thịt sống tên là Satongry đang nói chuyện với nhau. Chim cái hỏi chồng: - Ngày mai chúng ta sẽ ăn ở đâu? Chim trống đáp: - Ngày mai đúng là ngày thần Kabinh Mahaprum hẹn với hoàng tử Thommabal, chắc chắn hoàng tử sẽ bị thần cắt đầu, chúng ta sẽ ăn thịt hoàng tử. Chim mái hỏi: - Tại sao hoàng tử bị thần giết? - Vì thần hỏi ba câu, hoàng tử không trả lời thần được. Chim mái ngạc nhiên: - Ba câu ấy hỏi điều gì mà người thông minh như Thommabal lại không giải đáp nổi? Chim trống đáp: - Thần hỏi: buổi sáng, buổi trưa, buổi tối cái duyên con người ở đâu? Chim mái tò mò: - Vậy ông có biết không? Chim trống cười quàng quạc: - Có gì mà không biết. Này, buổi sáng cái duyên con người ở mặt, nên người ta rửa ráy sạch sẽ khi thức dậy, buổi trưa cái duyên con người ở ngực nên người ta tắm mát, buổi tối cái duyên con người ở chân nên người ta rửa chân trước khi đi ngủ. Hoàng tử Thommabal nghe chim nói, mừng rỡ không cùng, vội vã trở về dinh. Hôm sau, đúng hẹn. Thần Kabinh Mahaprum cầm gươm vàng bay xuống. Hoàng tử Thommabal quỳ lạy nghênh tiếp, đoạn trả lời ba câu hỏi của thần đúng y như Satongry nói. Vị thần thua cuộc, ngửa mặt lên trời gọi bảy đứa con gái của thần đến truyền rằng: - Cha thua trí thông minh của hoàng tử và đã lỡ thách hứa với hoàng tử, cha phải từ cắt đầu tức khắc. Các con hãy nghe cha dặn: đem đầu cha để trong một ngôi tháp, đừng để người trần chạm đến vì nếu họ bỏ đầu xuống biển thì biển cạn khô, quăng lên trời thì trời không mưa, để trên mặt đất thì đất sẽ khô cứng. Phán xong thần rút gươm vàng tự cắt đầu trao cho đứa con gái lớn tên Tung sa. Thân mình tức khắc hóa thành luồng khói xanh bay vút lên cao. Vị nữ thần để đầu cha trên cái ô vàng, cùng sáu cô em đưa vào ngôi tháp xây trong cái hang thủy tinh tên là DHAMMAKHATOLINADI trên đỉnh núi Kalass, trong khu rừng yên tĩnh nhất của dãy Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó về sau mỗi năm một lần, đúng ngày thần Kabinh Mahaprum tự sát, bảy cô gái xuống trần vào tháp bưng đầu lâu bốn mặt của cha đến núi Tudi, đi theo hướng mặt trời vòng quanh chân núi ba lần trong 60 phút. Mỗi năm một cô gái bưng một lần theo thứ tự ứng vào mỗi ngày trong tuần lễ. Ví như ngày vào năm mới tính vào chúa nhật thì đó là cô gái lớn tên Tungsa hướng dẫn, cưỡi trên lưng chim thần Garuda: Ảnh hưởng của bầy tiên nữ dẫn đầu này mang lại niềm hạnh phúc hay sự buồn rầu suốt năm tùy theo tâm tính của mỗi vị. Đi ba vòng chân núi xong, vị nữ thần đem đầu cha vào tháp. Sau đó tất cả chư thần xuống hồ ANOTTATAK tắm rửa. Hồ này là một trong bảy hồ của dãy Hy Mã Lạp Sơn có một mảnh đá kim cương phun nước mát dịu. Mảnh đá này chính là miệng con bò tót thần tên là USACHHRAJA. Trong lúc ấy vị thần điêu khắc của thượng giới tên là VISSAKARMA dựng một ngôi đền lấy tên là DHAMMA SUB HAGA SALA và mời chư thần vào hưởng mọi điều vui sướng an nhàn “trường sanh bất tử”. Ngày đó là ngày bắt đầu vào năm mới (Chôl chnăm thmây) của người Khơme. 5.1.11. BẢN KỂ CỦA TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT:  Lễ vào năm mới của người Khơme: Có một truyền thuyết dài gắn với ngày lễ này, xin được tóm lược như sau: Thuở thượng đế Indra tạo nên trời đất, có một vị quốc vương sinh được một hoàng tử thông minh định ngộ đặt tên là Thommabal. Lên năm, Hoàng tử đã biết đọc, lên bảy đã thông thiên văn, tường địa lý. Tiếp xúc với mọi người, Hoàng tử thuyết pháp về chữ thiện trong việc giữ gìn hạnh phúc ở đời, đem những điều học hỏi được truyền bá khắp nhân gian, được mọi người hoan nghênh và tôn là Nhà hiền triết. Tiếng đồn về nhà hiền triết Thommabal lan đến tận thiên đình. Vì thần bốn mặt Kabinh Mahaprum (chuyên xuống trần thuyết pháp) nổi cơn ghen tức, sợ Hoàng tử giành lấy địa vị, tìm cách hãm hại Thommabal. Xuống trần, vị thần bốn mặt thách đố với Hoàng tử bằng cách đưa ra ba câu hỏi, trong bảy ngày nếu Hoàng tử giải đáp được, thần bốn mặt sẽ tự cắt đầu nộp Hoàng tử; nếu không thì ngược lại. Hoàng tử nhận lời. Ba câu đó là: 1. Buổi sáng, cái duyên con người ở đâu? 2. Buổi trưa, cái duyên con người ở đâu? 3. Buổi tối, cái duyên con người ở đâu? Thoạt đầu, Hoàng tử nghĩ không ra. Năm ngày, vẫn không nghĩ ra. Hoàng tử, trong cơn bĩ cực, trốn vào rừng và may thay, nhờ có cuộc trò chuyện của cặp chim Satongry chuyên ăn thịt sống mà giải được những câu đố khó khăn. Đó là: 1. Buổi sáng, cái duyên con người ở mặt, nên người ta rửa ráy sạch sẽ mỗi khi thức dậy. 2. Buổi trưa, cái duyên con người ở ngực, nên người ta tắm mát. 3. Buổi tối, cái duyên con người ở đôi chân, nên người ta rửa chân trước khi đi ngủ. Nghe được đáp án này, vị thần bốn mặt chịu thua cuộc, ngửa mặt lên trời, gọi bảy người con gái đến truyền rằng: Vì đã thách đố với Hoàng tử, nên thần phải tự cắt đầu và dặn đem đầu thần để trong một ngôi tháp không để người trần chạm đến, bởi nếu đầu xuống biển thì biển cạn khô, lên trời thì trời không mưa, ở đất thì đất khô cứng. Truyền xong, thần cắt đầu, trao cho con gái, thân mình hóa luồng khói xanh bay vút lên cao. Đầu của thần được các con đưa vào ngôi tháp trong hang thủy tinh thuộc khu rừng yên tĩnh nhất dãy Hi mã lạp sơn. Từ đó, đúng ngày thần Kabinh Mahaprum tự sát, mỗi năm một con gái của thần bê đầu bốn mặt đi theo hướng mặt trời, vòng quanh chân núi ba lần. Sau đó, tất cả các chư thần cùng quây quần vui vẻ, hưởng ngày vui sướng an nhàn. Đó là ngày bắt đầu năm mới của người Khơme. 5.1.12. BẢN KỂ CỦA HUỲNH NGỌC TRẢNG:  Sự tích lễ Chôl Chxơ Năm Thơ Mây: Thuở nọ, có một cậu bé tên là Thâm mờ bal. Mới lên bảy tuổi mà tử chất thông minh khác thường. Ngày ngày, Thâm mờ bal đem những hiểu biết của mình ra truyền bá khắp trong dân chúng. Người khắp bốn phương đến nghe chàng thuyết giảng đều lấy làm thán phục tài uyên bác của chàng. Tiếng đồn Thâm mờ bal tài trí vang đến tận thượng giới, khiến các tiên nữ và chư thiên cũng xuống trần cầu xin được nghe Thâm mờ bal thuyết giảng. Do vậy, những buổi thuyết giảng của thần Kabinh Maha Pờrum trên thượng giới càng ngày càng vắng vẻ, thưa thớt. Từ thuở khai thiên lập địa đến giờ, thần Kabinh Maha Pờrum vẫn được coi là vị thần lớn nhất. Uy thế của thần bao trùm khắp vũ trụ. Nay nghe có kẻ ở dưới trần gian hơn mình, thần Kabinh Maha Pờrum giận lắm. Thần truyền gọi các tiên nữ và chư tiên trở về cấm họ không được xuống trần gian để nghe Thâm mờ bal thuyết giảng nữa và tìm cách hãm hại chàng. Một hôm, lúc Thâm mờ bal đang ngồi thuyết giảng trước dân chúng, thần Kabinh Maha Pờrum xuất hiện trước mặt Thâm mờ bal phán: - Ta là thần Kabinh Maha Pờrum chắc nhà ngươi đã nghe tên ta. Ta nghe đồn nhà ngươi thông minh xuất chúng, nhưng ta chưa tin điều ấy. Nay ta hỏi nhà ngươi ba câu đố. Nếu nhà ngươi giải đáp đúng ta sẽ tự cắt đầu ta trước mặt nhà ngươi; còn nếu không giải đáp được, nhà ngươi phải dâng mạng sống cho ta. Thâm mờ bal biết không thể từ chối được, đành nhận lời. Thần Kabinh Maha Pờrum liền đặt câu hỏi: - Nhà ngươi hãy nói cho ta biết: Buổi sáng, cái duyên con người ở đâu? Buổi trưa cái duyên con người ở đâu? Và buổi tối cái duyên con người ở đâu? Hỏi xong, thần Kabinh Maha Pờrum hẹn bảy ngày sẽ xuống nghe Thâm mờ bal giải đáp, rồi bay vút về trời. Thâm mờ bal suy nghĩ suốt ngày, suốt đêm quên cả ăn cả ngủ vẫn không sao tìm ra được lời giải đáp. Chàng hết đứng lại ngồi bứt rứt không sao yên tâm được. Đến ngày thứ sáu, Thâm mờ bal càng suy nghĩ càng quẩn trí, chàng bỏ nhà lang thang vào rừng từ sáng đến trưa. Quá mệt mỏi và thất vọng, chàng ngồi tựa gốc cây thốt nốt giữa rừng. Lúc ấy, trên ngọn thốt nốt hai con chim Inh tơ ry đang nói chuyện với nhau. Con chim mái hỏi chim trống: - Ngày mai chúng ta sẽ đi ăn ở đâu? Chim trống đáp: - Ngày mai Thâm mờ bal sẽ bị thần Kabinh Maha Pờrum cắt lấy đầu. Chúng ta sẽ được ăn thịt Thâm mờ bal. Chim mái ngạc nhiên hỏi: - Tại sao Thâm mờ bal bị thần Kabinh Maha Pờrum giết? Chim trống thuật lại chuyện thần Kabinh Maha Pờrum giao hẹn với Thâm mờ bal cho chim mái nghe. Chim mái tò mò hỏi: - Có ai giải đáp được ba câu đố ấy không? Chim trống tự đắc đáp: - Thế này: Cái duyên con người buổi sáng ở trên mặt nên ngủ dậy người ta thường rửa mặt cho tươi tắn; buổi trưa cái duyên con người ở trên ngực nên người ta thường tắm mát; và buổi tối cái duyên con người ở dưới đôi chân nên người ta thường rửa chân sạch trước khi đi ngủ. Thâm mờ bal ngồi dưới gốc cây nghe được lời trò chuyện của đôi chim, mừng rỡ khôn cùng. Chàng hớn hở trở về nhà, chờ sáng mai chim sẽ trả lời thần Kabinh Maha Pờrum. Hôm sau, y hẹn, thần Kabinh Maha Pờrum tay cầm gươm vàng, hạ xuống trần gặp Thâm mờ bal. Thâm mờ bal trả lời ba câu đố của thần Kabinh Maha Pờrum, như lời chim trống nói với chim mái ngày hôm qua. Thần Kabinh Maha Pờrum thua cuộc, ngửa mặt lên trời, gọi bảy người con gái của thần xuống trần bảo: - Cha đã thua trí Thâm mờ bal rồi. Theo lời hứa, cha phải chết. Các con hãy cất giữ đầu của cha trong tháp trên đỉnh núi Pờ rặc Sồ me đừng cho người trần chạm đến. Các con hãy cẩn thận nếu để đầu cha rơi xuống biển thì biển sẽ khô cạn, nếu tung đầu cha lên không thì không có mưa, và nếu để đầu cha trên mặt đất thì đất sẽ khô cằn, không một cây cỏ nào mọc được. Dặn các con xong, thần tự tay cầm gươm vàng cắt cổ, trao đầu mình cho con gái lớn tên là nàng Tung sác Tê vi. Và thân mình của thần biến thành một làn ánh sáng màu xanh biếc bay vút lên không. Nàng Tung sác Tê vi đặt đầu cha trên chiếc mâm vàng, cùng sáu người em đem về đặt trong ngôi tháp trên đỉnh núi Pờ rặc Sồ me. Từ đó, hàng năm, đúng ngày thần Kabinh Maha Pờrum tự sát, bảy cô gái đến núi Pờ rặc Sồ me luân phiên nhau vào tháp làm lễ rước đầu cha mình đi theo hướng mặt trời, quanh núi ba lần. Ngày đó, là ngày “vào năm mới” của đồng bào Khơ me Nam Bộ. Cũng do sự tích này nên có tục làm lễ rước đi quanh chánh điện ba vòng vào sáng ngày đầu năm mới. Theo lời kể của ông Châu Ôn (Thị xã Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang) 5.1.13. BẢN KỂ CỦA VIỆN VĂN HÓA:  Sự tích Chôlchnamthmây: Lễ đón năm mới, của người Khơ me bắt nguồn từ sự tích Chôlchnamthmây. Sự tích kể rằng ngày xưa có một cậu bé tên là: Thôm ma bal rất thông minh, lúc lên bảy tuổi đã biết đem sự hiểu biết của mình giảng giải cho mọi người, dân chúng hết sức thán phục đến nghe chàng thuyết giảng ngày càng đông, tiếng đồn về sự tài giỏi của Thôm ma bal lan đi khắp các vùng lên đến cả thượng giới đến nỗi các vị thần trên trời cũng phải xuống hạ giới nghe Thôm ma bal giảng. Vì vậy, những buổi thuyết giảng của thần Kabưl ha prum trên thượng giới ngày càng vắng vẻ. Kabưl ha prum là vị thần rất có uy thế, thấy ở trần gian có người tài giỏi hơn mình thì lấy làm tức giận, liền cho gọi tất cả các vị thần về, đồng thời tìm cách hãm hại Thôm ma bal. Một hôm, trong lúc Thôm ma bal đang giảng bài cho dân chúng nghe thì thần Kabưl ha prum xuất hiện và phán rằng: Nghe nói nhà người rất thông minh, nhưng ta chưa tin, ta có ba câu đố, nếu ngươi giải đáp được ta sẽ cắt đầu mình trước mọi người, nếu không giải đáp được, ngươi sẽ phải chết. Không thể từ chối, Thôm ma bal đành phải chấp nhận, thần Kabưl ha prum liền hỏi: Buổi sáng duyên của con người ở đâu? Buổi trưa duyên của con người ở đâu? Buổi tối duyên của con người ở đâu? Hỏi xong thần hẹn bảy ngày sau sẽ quay lại để nghe Thôm ma bal giải đáp. Thôm ma bal suy nghĩ mãi mà không sao giải đáp nổi, đến ngày thứ sáu chàng rời khỏi nhà đi lang thang. Quá mệt mỏi và thất vọng, chàng bèn ngồi nghỉ dưới gốc cây thốt nốt. Thật tình cờ, chàng nghe được câu chuyện của hai con chim đại bàng đậu trên ngọn cây hỏi chuyện nhau. Chim mái hỏi chim trống: Ngày mai ta đi ăn ở đâu? Chim trống nói: Ngày mai ta sẽ ăn thịt Thôm ma bal. Chim mái hỏi tiếp tại sao lại ăn thịt Thôm ma bal. Chim trống thuật lại truyện đã xảy ra, chim mái hỏi: vậy có ai giải đáp được không? Chim trống tự đắc đáp: - Duyên của con người buổi sáng ở trên mặt, nên người ta ngủ dậy phải rửa mặt cho tươi tỉnh. - Buổi trưa, duyên của con người ở trên ngực, nên người ta phải tắm cho mát. - Buổi tối duyên của con người ở dưới chân, nên người ta rửa chân cho sạch trước khi đi ngủ. Thôm ma bal ngồi ở dưới gốc cây nghe được câu chuyện của đôi chim, mừng rỡ, trở về nhà. Đúng ngày hẹn, thần Kabưl ha prum tay cầm gươm vàng xuống gặp Thôm ma bal, để nghe lời giải đáp, Thôm ma bal đã trả lời đúng như câu chuyện của chim. Thần Kabưl ha prum thua cuộc liền quay về trời gọi bảy người con gái yêu và nói, cha đã thua trí của Thôm ma bal, theo lời hứa cha phải chết, các con hãy cất giữ đầu của cha trên trong tháp trên đỉnh núi Pres Sôme. Các con hãy cẩn thận, nếu để đầu cha rơi xuống biển, biển sẽ cạn nước, nếu tung đầu cha lên sẽ không có mưa, nếu để đầu cha rơi xuống đất, mặt đất sẽ khô cằn, cỏ cây không mọc được. Dặn xong thần lấy kiếm tự cắt đầu trao cho người con gái cả, còn phần thân biến thành một luồng ánh sáng bay vút lên không. Người con gái đặt đầu cha lên chiếc mâm vàng rồi mang lên đặt trong tháp trên đỉnh núi Pres Sôme. Từ đó, vào ngày 13 tháng 4 dương lịch hàng năm, đúng ngày thần Kabưl ha prum tự sát, bảy cô gái đến đỉnh núi luân phiên nhau vào tháp, mang đầu của cha mình đi quanh núi ba lần. Ngày đó chính là ngày lễ vào năm mới Chôlchnamthmây. 6. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ NEAKTA: 6.1. Truyền thuyết đã được sưu tầm và cố định trên sách vở: 6.1.1. BẢN KỂ CỦA TRẦN VĂN BỔN:  Sự tích lễ xin nước mưa: Sự tích này có nguồn gốc từ Phật giáo. Kinh Sô phon tô có nói con cá lóc là tiền thân của Đức Phật, trong các kiếp luân hồi, sống trong một cái hồ thật lớn tên là Anot tas. Từ khi Ngài sinh ra không bao giờ sát sinh, chỉ biết ăn rong rêu và cỏ mục để sống. Qua thời gian hạn hán 12 năm, mọi nơi đều khô cạn kể cả hồ Anot tas, mọi sinh vật như tôm tép, cá lớn, cá bé đều chết, muôn vàn tai họa đưa đến rất khủng khiếp. Cá lóc bèn suy ngẫm: Ta đây, từ sinh ra đến giờ không làm hại ai, chỉ biết trầm tư mặc niệm, tại sao trời nỡ sát hại muôn loài và sát hại cả bản thân ta. Nghĩ vậy cá bèn kêu trời: “Thưa Ngọc hoàng, Ngọc hoàng có thấy thế gian đau khổ chăng? Ta đây 12 năm tu tâm tham thiền hầu kiếp sau đắc đạo cứu chúng sinh. Vậy giờ đây ta kêu gọi Ngài hãy cứu muôn loài dưới thế gian này bằng cách ban cho những giọt mưa lành”. Tiếng kêu ấy động đến trời, Ngọc hoàng nhìn xuống thấy cá lóc đúng là hiện thân của Đức Phật tương lai, nên ban mưa xuống cứu rỗi cho thế gian và muôn loài. 6.1.2. BẢN KỂ CỦA LÊ HƯƠNG:  Sự thờ cúng Ông Tà (Néak Ta): Ở Cao Miên, trong khắp các tỉnh, xã, ấp dân chúng đều thờ Ông Tà KHLANG MOEUN là một người có công giúp vua dẹp loạn. Nguyên trước kia, Quốc vương Cao Miên Chey Chetta có người em tên Chan Reacha du học ở Xiêm. Quốc vương bị tên Neay Tran hành thích. Chan Reacha hay tin bèn xin vua Xiêm giúp cho 100 lính dõng trở về báo thù. Ngài đi đến tỉnh Battambang hô hào dân chúng theo Ngài phục hận. Ngài tìm nhà hiền triết Moeun vấn kế. Ông Moeun khuyên Ngài chờ 3 ngày sẽ khởi binh. Trong khi ấy, ông đào một cái hố sâu, cắm nhiều nọc bén nhọn, chỉ cho Chan Reacha xem và nói: - Tôi sẽ nhảy xuống hố này tử tự. Linh hồn tôi theo giúp Ngài. Tôi xin ngài nhớ gọi tôi là Néak Ta Khlang Moeun khi ra trận thì sẽ thành công. Nói xong, ông cùng ba đứa con nhảy xuống hố. Ngày thứ ba, Chan Reacha chôn xác bốn cha con ông Moeun. Đến ngày thứ sáu, Ngài nằm mộng thấy ông Tà Moeun bảo tiến binh vào thành Long Vek (ngày xưa gọi là Kombong Ley) nơi đó, đạo âm binh của ông đang đợi để giúp Ngài. Chan Reacha vâng lời. Địch quân bị âm binh bỏ thuốc độc chết gần hết. Chan Reacha dẹp xong kẻ thoán nghịch, lên ngôi Vua, và truyền dân chúng thờ Néak Ta Khlang Moeun như một vị anh hùng cứu nước. 6.1.3. BẢN KỂ CỦA NGUYỄN HỮU HIẾU:  Thờ Ông Tà: Nơi thờ néak Tà của người Khmer Nam bộ, hai chữ quốc công là do người Việt thêm vào cho phù hợp với cách gọi tên thần của mình. Còn tên của các Tà đã được đọc theo âm Việt, nên không thể biết được là vị Tà nào của họ. Riêng Tà Môn có thể là Tà Moeun. Khlang Moeun là người có công giúp vua dẹp loạn. Nguyên lúc quốc vương Cao Miên là Chey Chetta có người em tên là Chan Reacha du học ở Xiêm, được tin vua anh bị tên Neavy Tran hành thích, Reacha liền xin vua Xiêm giúp cho 100 quân trở về báo thù. Reachan kéo quân về đến Battambang hô hào dân chúng theo giúp. Reachan tìm đến nhà hiền triết Moeun vấn kế. Ông Moeun khuyên nên chờ ba ngày nữa hãy khởi binh. Trong khi đó ông Moeun đào một cái hố sâu, cắm nhiều cọc nhọn, chỉ cho Chan Reachan xem và nói: “Tôi sẽ nhảy xuống hố tử tự. Linh hồn tôi theo giúp ngài. Xin ngài nhớ gọi tôi là néak Tà Moeun khi ra trận sẽ thành công”. Nói xong, ông Moeun cùng ba con nhảy xuống hố. Đến ngày thứ ba, Reachan đem xác cha con ông Moeun chôn cất. Đến ngày thứ sáu, Reachan nằm mộng thấy Tà Moeun bảo hãy tiến quân vào thành Long Vek, sẽ có đạo âm binh của ông trợ giúp. Reachan y lời, địch quân bị đầu độc chết gần hết. Chan Reachan diệt được kẻ thoán nghịch và lên ngôi vua. Vua truyền dân chúng phải thờ néak Tà Moeun như vị anh hùng cứu nước. 6.1.4. BẢN KỂ CỦA NXB TỔNG HỢP HẬU GIANG:  Lễ cúng Ông Tà: Sự tích này cũng có nguồn gốc từ Phật giáo. Kinh Sô phôntô có nói con cá lóc là tiền thân của Đức Phật Thích Ca, trong các kiếp luân hồi, sống trong một hồ thật lớn tên là Anôttah. Từ khi ngài sinh ra không bao giờ sát sanh, chỉ biết ăn rong rêu và cây cỏ mục để sống. Qua thời gian hạn hán 12 năm, mọi nơi đều khô cạn kể cả hồ Anôttah. Mọi người và mọi sinh vật như tôm tép, cá lớn bé đều chết, muôn vàn tai họa đưa đến rất khủng khiếp. Cá lóc bèn suy gẫm: “Ta đây, từ sinh ra đến giờ không làm hại ai, chỉ biết trầm tư mặc niệm làm lành lánh dữ, tại sao trời nỡ sát hại muôn loài và sát hại cả bản thân ta” – Nghĩ vậy, cá bèn chui đầu lên khỏi bùn và kêu trời: “Thưa Ngọc hoàng: Ngọc hoàng có thấy thế gian đau khổ chăng? Ta đây 12 năm tu tâm tham thiền hầu kiếp sau đắc đạo cứu chúng sanh. Vậy giờ đây, ta kêu gọi ngài hãy cứu muôn loài dưới thế gian này bằng cách ban cho những giọt mưa lành”. Tiếng kêu ấy động đến trời. Ngọc hoàng nhìn xuống thấy cá lóc đúng là hiện thân của Phật Thích Ca Mau Ni tương lai, nên ban mưa xuống cứu rỗi cho thế gian và muôn loài. 6.1.5. BẢN KỂ CỦA NGUYỄN TẠO:  Đại Nam Nhất Thống Chí, trong phần Lục tỉnh Nam Việt: Ngũ Công từ (miếu Ngũ Công): ở giang phận thôn Lộc An huyện Tân Ninh (tỉnh Biên Hòa), giữa sông nổi lên năm hòn đá lớn, cốt đá gồ ghề, dòng sông chảy mạnh, nước xô sóng dậy tiếng ồn ào, người xưa lập đền tại chỗ ấy phụng tự thần Ngũ Công: 1. Tà Mã quốc công 2. Tà Môn quốc công 3. Tà Nông quốc công 4. Tà Việt quốc công 5. Tà Khuông quốc công Ấy là tập tục theo Man ngữ xưng hô danh hiệu của Phong thần, chớ không hiểu thần ở thời đại nào. Tương truyền đá Ngũ Công này nguyên ở giang phận Đôn Thuận. Xưa có người Tàu (Thanh) đi ghe qua đây, ghe dính cứng vào thân đá không di động được, bèn dùng búa đụt để gỡ ghe ra, bỗng nhiên người chết, ghe chìm, từ ấy đá Ngũ Công kéo nhau từ hạ lưu lên đóng ở giang phận Lộc An. Nay mỗi khi ghe thuyền đi ngang qua phải kính cẩn, cho the đi tránh sát bờ, cật lực chèo chống chẳng dám đi gần đền, sợ có điều rủi ro lầm lỗi. Và có cầu đảo việc chi thì liền thấy linh ứng. 6.2. Truyền thuyết sưu tầm điền dã: 6.2.1. GÒ ÔNG TÀ (HIẾU TỬ, TIỂU CẦN): Trước đây, vùng đất Tân Trung, Giồng xã Hiếu Tử - Tiểu Cần là vùng đất có nhiều sông rạch. Có một chiếc tàu đi đến khúc sông gần Gò Ông Tà bây giờ thì không đi được. Chủ tàu dừng lại cúng kiếng và sau đó cho người lặn xuống sông thì phát hiện tàu không đi được vì mắc vào Ông Đá. Sau đó, nhiều người lặn xuống và đưa được Ông Đá cao khoảng bảy tấc, Ông Đá bận áo cà sa tử tế lắm như là Phật vậy. Dân chúng trong vùng lập miếu thờ và cử người trông nom hương khói. Một hôm, dân trong vùng nằm mộng và nói rằng dân làng cúng trâu hiến tế. Tháng tư, dân làng đem con trâu đến cúng tế. Và chỉ cần dẫn con trâu quanh miếu ba vòng là con trâu quỵ xuống chết liền. Ông Tà còn hiển linh, gia đình nào mà có đám tiệc gì thì mấy ngày trước chỉ cần đến khân cầu ở Miếu là ngày sau đã có chén dĩa xuất hiện. Tương truyền rằng Tà Hóc và Dây Chác là thần giữ kho của cải lớn ở Gò Ông Tà. Xưa ông chúa đất có một kho của cải lớn, ông Hóc và bà Chác bị giết để làm thần giữ kho. Ông Tà cho mượn và sau đám, người mượn đem đến trả ở miếu Ông Tà và khấn tạ ơn. Vào những năm Mậu Thân (1968), súng ở Thực dân Pháp thục vào Tiểu Cần hai mươi mấy trái mà đều lép, không nổ. Dân chúng trong vùng đều tin rằng do có Neak Tà bảo hộ. Những năm trời khô hạn, nhân dân trong vùng xúm quanh miếu Ông Tà và mời ông Lục đến tụng kinh để cầu xin mưa là đến chiều có mưa liền. Theo nhân dân trong vùng thì Ông Tà ở Hiếu Tử, Tiểu Cần có trách nhiệm bảo trợ toàn bộ vùng đất Trà Vinh. (Theo lời kể cụ Thạch Dinh, sinh năm 1927, xã Hiếu Trung huyện Tiểu Cần, Trà Vinh ) 6.2.2. MIỄU ÔNG TÀ (ẤP BA SE, CHÂU THÀNH, TRÀ VINH): Người Khmer xem Neak Tà là người bảo vệ phum, sóc, xua đuổi ma quỷ trừ bệnh dịch và sâu hại phá hoại mùa màng. Trong miếu, Neak Tà tượng trưng bằng những hòn đá hình bầu dục, kích cỡ khác nhau, nhẵn bóng. Theo những người dân trong vùng thì đây là “những hòn đá thiêng” có thể bay từ nơi này sang nơi khác. Những hòn đá này thường xuất hiện ở dưới các gốc cây cổ thụ vì thế đa số các Miếu thờ Ông Tà đều gần các gốc cây lớn. (Theo lời kể bà Kim Thị Rinh, 78 tuổi, khóm I, Phường 8, Thị xã Trà Vinh) 7. TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN MẶT TRĂNG VÀ LỄ HỘI ÓC – OM – BOK: 7.1. BẢN KỂ CỦA TRẦN VĂN BỔN: Truyện kể rằng: Ngày xưa, ở khu rừng nọ, có bốn con vật sống thành bè bạn thân thiết và đầy lòng bác ái vị tha, đó là con thỏ Sôm Banh-đêt, con khỉ, con rái và con chó sói. Nhiều năm trôi qua, một hôm, con thỏ bảo ba con vật kia rằng: - Ngày mai là ngày rẳm, mình không được làm điều gì bậy bạ và giết hại bất cứ con vật gì. Vì vậy, hôm nay các anh phải đi tìm thức ăn để dành ngày mai. Cả ba con vật đều vui vẻ nghe theo. Chẳng mấy chốc, con rái đem về một con cá to, con khỉ mang về năm trái xoài chín. Riêng con chó sói tìm được một gói cơm khô. Đến ngày rằm, Têvôđa (vị thần ở trên trời) bèn giả làm người ăn xin xuống trần để thử lòng bốn con vật. Trước tiên, Têvôđa đến chỗ con rái để xin ăn. Rái cá bố thí cho ông con cá to mà nó tìm được hôm qua. Người ăn xin nhận con cá, nhưng ông gửi lại cho con rái giữ giùm, nói rằng, lát nữa ông trở lại lấy về nấu ăn. Khi đến chỗ con khỉ và con chó sói, ông cũng giả vờ đói khát xin ăn, thì cũng được bố thí cả trái xoài chín và gói cơm khô. Ông cũng gửi lại cho hai con vật cất giữ. Cuối cùng, ông đến chỗ thỏ Sôm Banh-đêt và cũng giả vờ xin ăn. Thỏ ngẫm nghĩ một mình: “Mình là con vật không ăn thịt, chỉ ăn cỏ, thì làm sao có thịt để bố thí cho lão ăn mày này. Thôi thi còn có thịt của ta”. Nghĩ vậy, thỏ liền nói: - Xin người chờ tôi nhóm lửa, người sẽ có miếng thịt ngon. Nói xong, thỏ đốt lửa lên. Khi ngọn lửa bùng cháy to, thỏ vừa nhảy vào lửa vừa nói: - Mời người hãy lấy thịt của ta mà ăn! Nhưng Têvôđa đã kịp dùng phép màu không cho lửa chạm vào người thỏ, nên thỏ không hề hấn gì. Thỏ nhảy ra, đốt lửa cháy to hơn và định nhảy vào lần nữa… Thỏ làm như vậy đến lần thứ ba, người ăn xin mới hiện nguyên hình Têvôđa và nói: - Ta là Têvôđa, giả làm người ăn xin để thử lòng các ngươi. Giờ thì đã rõ. Riêng đối với lòng hy sinh cao đẹp của thỏ, cần phải để cho đời noi gương. Nói xong thần biến mình cao lớn tận mây xanh, đưa tay vịn vào ngọn núi và vẽ hình thỏ lên mặt trăng. Vẽ xong, ông nói: - Ta muốn thế gian đời đời kiếp kiếp thấy hình thỏ trên mặt trăng để nhớ mãi tấm gương hy sinh này. Vì vậy, người Khmer làm lễ cúng trăng ngoài việc để tạ ơn mặt trăng, mừng được mùa lúa mới mà còn để tưởng nhớ đến nghĩa cử cao đẹp của thỏ Sôm Banh-đêt, theo truyền thuyết là tiền kiếp của Đức Phật. 7.2. BẢN KỂ CỦA CHU XUÂN DIÊN:  Sự tích Đua Ghe Ngo: Theo lời của những người già kể lại, cách nay mấy trăm năm nơi đây là một vùng đồng bằng với những đầm lầy rộng lớn. Có những nơi đất cao ráo tập trung sinh sống các loài thú như: chồn, thỏ, heo rừng, trâu rừng, voi, cọp… Đến mùa nước nổi, chúng càng dồn về những nơi này. Những người đàn ông bắt đầu đi săn. Mỗi người có một chiếc xuồng con, một cây sào và một cây lao. Họ đi săn bằng cách phóng lao, một người đi trước phóng lao, nếu con thú chưa chết thì người đi sau tiến lên phóng tiếp. Một hôm, trong khi đi săn, người dẫn đầu gặp một con heo rừng và ông ta phóng lao. Con thú bị trúng lao nhưng không chết, nó quay lại húc vào chiếc xuồng làm cho chiếc xuồng bị lật úp đè lên ông ta. Những người đi sau thấy thế, tiến lên tiếp tục phóng lao, nhưng con heo rừng chạy mất. Họ cứu chữa và đưa ông ta về nhà. Từ đó, những người đi săn rất năng rèn luyện để có sức khỏe và khéo léo trong việc chèo ghe đi săn. Họ tổ chức những cuộc đua ghe, qua đó, chọn ra những người giỏi nhất để cử làm người dẫn đầu các cuộc đi săn. Lúc đầu, mỗi người chỉ cầm một cây sào và ngồi trên một chiếc ghe con, dần dần thể lệ các cuộc đua ghe được cải biến với trên một ghe có nhiều người và nhiều ghe như thế đua với nhau. Những cuộc đua ghe như thế ngày càng hào hứng. Ngày nay, người ta cho rằng đua ghe ngo được xuất phát từ các cuộc đua ghe của những người thợ săn xưa kia. (Người kể: Thạch Ky, 1963, ấp Xây Đá, xã Hồ Đắc Kiện, huyện Mỹ Tú) 7.3. BẢN KỂ CỦA SƠN PHƯỚC HOAN: Theo truyền thuyết, lễ cúng trăng của đồng bào Khmer là xuất phát từ sự tích “con thỏ và mặt trăng”. Đó là sự tích kể về tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Trong các kiếp của Đức Phật, có một kiếp Ngài đã hóa thành con Thỏ sống quanh bờ sông Hằng. Lúc đó, Thỏ kết bạn với Khỉ, Rái cá và Chó rừng. Thỏ thông minh và hiểu biết nhiều hơn ba con thú kia. Thỏ biết tu thân để cầu mong được gần các đấng cao cả. Thỏ cùng ba bạn sống một cuộc đời yên vui, có tính tương thân tương trợ lẫn nhau. Một hôm, gần đến ngày trăng tròn, Thỏ gọi ba bạn đến bảo rằng: - Trước kia, chúng ta cùng hứa với nhau rằng, đến ngày trăng tròn thì sẽ nhịn đói, ngồi thiền, giữ thân xác cho trong sạch, giữ lòng cho thanh khiết và tích cực làm việc thiện. Nay tôi xin nhắc các bạn, chúng ta hãy đi tìm thức ăn để dành bố thí cho những người nghèo đói đến ăn xin. Sáng sớm, cả ba con thú đều vui vẻ nhận lời và chia tay nhau đi tìm mồi. Chẳng mấy chốc, Rái cá đem về một mớ cá; Chó rừng đem về một mớ thức ăn; còn Khỉ thì hái về các loại trái cây chín. Về đến nơi, cả ba con thú cùng ngồi một chỡ để “thiền”. Riêng Thỏ không đi đâu tìm mồi mà chỉ ngồi “thiền tại chỗ” trước cửa hang. Lòng tốt của các con vật làm động lòng trời. Ngọc hoàng bèn giả làm người ăn xin xuống trần gian để thử lòng bốn con vật. Trước tiên, vị thần đến chỗ con Rái cá để xin ăn. Thấy có người đến xin ăn, con Rái cá mời người ăn xin dùng cá mà nó đã tìm được từ hôm trước. Người ăn xin cảm ơn và nói: - Chờ tôi tắm rửa sạch sẽ rồi sẽ dùng sau. Tiếp đó, đến chỗ Chó rừng và Khỉ, người ăn xin cũng được mời ăn và người ăn xin cũng nói với chúng y như đã nói với Rái cá. Cuối cùng, ông đến chỗ Thỏ. Thỏ vui vẻ tiếp đón ông và nói: - Xin người kiếm củi và lửa, rồi đốt lửa lên; tôi sẽ dâng lên người một món ăn ngon. Sau khi kiếm được củi và lửa, người ăn xin đốt lửa lên. Khi ngọn lửa bùng cháy to, Thỏ nhảy vào lửa và nói: “Mời người dùng thịt này”. Nhưng không ngờ khi nhảy vào lửa, Thỏ không thấy nóng vì gió lạnh thổi tắt ngọn lửa. Thỏ yêu cầu tiếp tục bỏ thêm củi vào, đốt cho lửa cháy mạnh lên nhưng lửa vẫn không cháy thân hình Thỏ. Trong lúc ấy, người ăn xin đã biến mất. Ngọc hoàng hiện ra, cho biết danh tánh, khen ngợi nghĩa cử cao đẹp của bốn con vật, đặc biệt nhất là Thỏ. Rồi Ngọc hoàng bế con Thỏ và nói: - Đối với lòng hi sinh cao đẹp của ngươi, ta phải để cho người đời noi gương. Rồi Ngọc hoàng tự biến thân mình cao lớn, đụng tới mây xanh, đưa tay vịn vào ngọn núi và vẽ hình con Thỏ lên mặt trăng. Trước khi về trời, Ngọc hoàng nhắc lại: - Ta muốn thế gian mãi mãi thấy hình Thỏ trên mặt trăng để nhớ mãi sự hi sinh này.  Theo tục truyền: Theo tục truyền, đua ghe đã có từ thế kỉ XIII, việc tổ chức đua ghe hàng năm là để biểu dương lực lượng hùng mạnh và tinh thần thượng võ trên sông nước.  Nguồn gốc tục đua ghe ngo: Nguồn gốc của tục đua ghe ngo được đồng bào kể lại như sau: Ngày xưa, trên vùng sông nước này, đồng bào luôn làm việc thiện và hay giúp đỡ mọi người. Đồng bào tạo điều kiện thuận lợi cho các vị sư trong những lúc khó khăn để thể hiện tấm lòng của mình đối với Đức Phật, nhất là trong việc giúp các vị sư đi khất thực. Vì hàng ngày, các vị sư thường phải đi khất thực rất xa ngôi chùa nên những khi trời mưa gió thường không về kịp giờ ngọ. Một hôm, gần đến giờ ngọ, trời bỗng đổ mưa to, gió lớn, nước nổi mênh mông. Các vị sư không thể trở về chùa kịp. Thấy vậy, đồng bào trong phum đua nhau ngả cây đóng bè để đưa các vị về cho kịp độ buổi trưa. Nước mỗi lúc một dâng cao, việc làm bè trở nên cấp bách. Theo đạo Phật, ai làm việc thiện, nhất là giúp được các vị sư vượt khó khăn, thử thách sẽ thành người có phước. Do đó, ai làm bè nhanh, đưa được nhiều vị sư về đến chùa an toàn, kịp giờ ngọ sẽ là người được phước nhiều. Cho nên, mọi người thi nhau làm bè, bơi thật khéo đưa tất cả các vị sư trở về chùa đúng lúc. Để nhớ lại ngày đưa các vị sư vượt qua mưa to, gió lớn, về đến chùa an toàn, đồng bào Khmer hàng năm đều tổ chức bơi đua ghe trên sông. 7.4. BẢN KỂ CỦA LÊ HƯƠNG:  Sự tích lễ Ok Ang Bok: Lễ Ok Ang Bok là lễ kỷ niệm một nghĩa cử của Đức Phật Thích Ca trong một kiếp trước đã đầu thai làm con thỏ. Hình con thỏ ấy đã được một vị Thần vẽ trên mặt trăng để cho nhân loại đời đời chiêm ngưỡng. Chuyện như sau: Trong một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca, có lần Ngài là một con thỏ sống quanh quẩn trên bờ sông Hằng (Gange). Thỏ kết bạn với con khỉ, con rái và con chó rừng. Trình độ hiểu biết của thỏ cao hơn ba con thú kia. Thỏ biết tham thiền để cầu mong được gần các đấng cao cả. Thỏ cùng ba bạn sống một cuộc đời yên vui và có tình tương thân, tương trợ lẫn nhau. Nhiều năm trôi qua, một hôm, trước ngày trăng tròn, Thỏ gọi ba bạn đến bảo rằng: - Trước kia chúng ta cùng hứa rằng đến ngày trăng tròn thì nhịn đói để ngồi “thiền”, giữ thân thể sạch sẽ và giữ lòng không bợn nhơ. Nay tôi xin nhắc các bạn sáng sớm mai nhớ tìm thức ăn như mọi ngày để dành cho những người ăn xin. Cả ba đều vui vẻ nhận lời rồi cùng chia tay. Trời mờ tối. Khỉ leo lên cây, Rái bò xuống hang và Chó Rừng về ổ nghỉ sớm để dành sức cho công việc ngày mai. Sáng sớm, ba bạn chia tay đi kiếm mồi. Chẳng bao lâu, Rái đem về năm con cá của một ngư ông bỏ quên trên bờ sông. Chú Sói thì bợ nhẹ một buổi cơm sáng của tên chăn cừu đang ngồi thổi sáo gồm một vò sữa, một hủ bơ nhỏ và một gói cơm đem về ổ. Khỉ thì bẻ vài trái xoài chín, rồi ngồi tham thiền. Chỉ có Thỏ không đi đâu mà chỉ ngồi nhập định trước cửa hang. Thay vì mất thì giờ đi tìm thức ăn, Thỏ nghĩ rằng: “Khi có người ăn xin đến, ta sẽ làm như thế này… thì ông ấy sẽ vui lòng”. Ý định tốt đẹp, cao cả của Thỏ làm cảm động đến Thần Sekra, vị Chúa của các Thần Deva. Ngài bèn giả làm người ăn xin xuống trần thử lòng bốn con thú. Thỏ cùng ba bạn đang ngồi tịnh thì thấy một ông thầy tu Bà La Môn, - tức là Thần Sekra – đi đến. Trước tiên, ông ta lại chỗ Rái ngồi. Rái cung kính nói: - Kính mời thầy dùng cá. Ông thầy tu ngỏ ý cảm ơn, đáp: - Xin cảm ơn, nhưng chờ tôi tắm rửa sạch sẽ rồi dùng sau. Ông ta đến chỗ Chó và Khỉ cũng hẹn như đã nói với Rái. Cuối cùng đến Thỏ. Thỏ vui vẻ nói: - Xin thầy chờ tôi đốt lửa và sẽ dâng thầy một thức ăn ngon lành. Nói xong, Thỏ đứng dậy đốt lửa lên. Khi ngọn lửa bùng cháy, thình lình Thỏ nhảy đại vào và nói: - Mời thầy dùng thịt này! Nhưng không ngờ khi nhảy vào lửa. Thỏ không thấy nóng mà lại bị gió lạnh chịu không nổi. Thỏ hốt hoảng la lên rồi nhảy ra bỏ thêm củi vào đốt nữa. Trong lửa ấy, vị tu sĩ biến mất, Thần Sekra hiện ra cho biết tên mình và khen ngợi nghĩa cử của bốn con thú, nhất là Thỏ. Sau cùng ông nói: - Đối với lòng hy sinh cao đẹp của Thỏ ta phải để cho đời đời làm gương. Thần biến thân mình cao lớn đụng tới mây xanh, đưa tay bóp một ngọn núi và vẽ hình con Thỏ trên mặt trăng. Trước khi về Trời, Thần Sekra nhắc lại: - Ta muốn thế gian đời đời, kiếp kiếp thấy hình Thỏ trên mặt trăng để nhớ đến việc hy sinh này. 7.5. BẢN KỂ CỦA TRƯỜNG LƯU:  Con thỏ và mặt trăng: Lễ cúng trăng còn liên quan đến sự tích Con thỏ và mặt trăng như sau: Trong một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca, Ngài là một con thỏ sống quanh quẩn bên bờ sông Hằng. Thỏ kết bạn với Khỉ, Rái và Chó rừng. Trình độ hiểu biết của Thỏ cao hơn ba con thú kia, biết tham thiền để cầu mong được gần các đấng cao cả. Thỏ cùng ba bạn sống một cuộc đời yên vui và có tình thương thân tương trợ lẫn nhau. Nhiều năm trôi qua, một hôm, trước ngày trăng tròn, Thỏ gọi ba bạn đến bảo rằng: - Trước kia chúng ta cùng hứa rằng đến ngày trăng tròn thì nhịn đói để ngồi “thiền”, giữ thân thể sạch sẽ và lòng không bợn nhơ. Nay tôi xin nhắc các bạn sáng sớm mai nhớ tìm thức ăn như mọi ngày để dành cho những người ăn xin. Cả ba cùng vui vẻ nhận lời rồi cùng chia tay. Sáng sớm, cả ba cùng chia nhau đi kiếm mồi. Chẳng bao lâu, Rái đem về năm con cá; Chó rừng đem về một vò sữa, một hũ bơ, một gói cơm; còn Khỉ thì bẻ vài trái xoan chín. Cả ba cùng ngồi một chỗ “tham thiền”. Riêng Thỏ không đi đâu mà chỉ ngồi “nhập định” trước cửa hang. Ý định tốt đẹp của các con vật làm động lòng trời. Thần Sekra, chúa của các thần Deve, bèn giả làm người ăn xin xuống trần thử lòng bốn con vật. Trước tiên, thần đến chỗ Rái ngồi xin ăn. Rái mời thần dùng cá, ông cảm ơn và nói chờ ông tắm rửa sạch sẽ rồi sẽ ăn. Thần lại đến chỗ Chó rừng và Khỉ thì cũng được mời như Rái và ông cũng nói câu giống như nói với Rái. Cuối cùng, thần đến chỗ Thỏ và được Thỏ vui vẻ nói: - Xin Người chờ tôi đốt lửa và sẽ dâng Người một thức ăn ngon lành. Nói xong, Thỏ đốt lửa lên. Khi ngọn lửa bùng cháy to, Thỏ nhẩy vào lửa và nói: - Mời người dùng thịt này. Nhưng không ngờ khi nhẩy vào lửa, Thỏ không thấy nóng mà lại bị gió lạnh. Thỏ nhẩy ra bỏ thêm củi vào đốt cho lửa cháy to nữa. Trong lúc ấy người ăn xin biến mất. Thần Sekra hiện ra cho biết tên mình và ngợi khen nghĩa cử của bốn con vật, nhất là Thỏ. Ông nói: - Đối với lòng hy sinh cao đẹp của Thỏ, ta phải để cho đời đời làm gương. Nói xong, Thần biến thân mình cao lớn đụng tới mây xanh, đưa tay vịn vào ngọn núi và vẽ hình Thỏ lên mặt trăng. Trước khi về trời, Thần Sekra nhắc lại: - Ta muốn thế gian đời đời kiếp kiếp thấy hình Thỏ trên mặt trăng để nhớ mãi việc hy sinh này. Do truyền thuyết trên mà đồng bào Khmer cúng mặt trăng để nhớ đến nghĩa cử của Thỏ mà chính là Phật Thích Ca vậy.  Lễ đua ghe (Um tuk): Theo tục truyền, đua ghe đã có từ thế kỷ thứ 13, khi triều đình đế quốc Khmer xây xong đền Angkor Wat, mới tổ chức cuộc đua ghe hàng năm để biểu dương tinh thần thượng võ trên sông nước. Nhưng như hầu hết các hội lễ khác, Lễ đua ghe cũng mang mầu sắc Phật giáo rõ rệt. Người ta cho rằng đồng bào tổ chức lễ này để tưởng nhớ đến các dấu vết của Đức Phật đã để lại ở bờ cát trên sông Nimôta thuộc xứ Yônol (Lào), hay nhằm để nhớ đến một chiếc cầu bằng thuyền do Phật lập ra để ngăn chặn cơn hạn ở vương quốc Vaicali, hoặc còn để tưởng nhớ một cái rằng của Phật được vua loài Naga giữ… Đua ghe còn để cảm ơn Đất và Nước vì cái ân huệ mà chúng đã ban cho con người và cũng để con người xin lỗi vì đã làm nhơ bẩn chúng. Lễ đua ghe còn gắn đến một sự tích liên hệ với sư sãi và chùa chiền. Thuở xưa, một ngày vào giờ Ngọ, các sư sãi rời chùa đi khất thực, khi về bỗng gặp trời mưa to gió lớn, chung quanh chùa nước ngập mênh mông. Nhân dân trong vùng muốn đưa các vị sư về chùa nên đua nhau ngả cây đóng bè để chở các vị sư. Nước mỗi lúc một to, cuộc làm bè trở nên cấp bách. Ai làm bè nhanh, chở được nhiều sư về chùa là người ấy có phước lớn nên đã lôi cuốn nhiều người tham gia. Số bè mỗi lúc một nhiều nên tự nhiên biến thành ngày hội đua trên dòng nước mênh mông… Đó là hình ảnh cuộc đua ghe ngày nay. 7.6. BẢN KỂ CỦA NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP HẬU GIANG:  Lễ cúng trăng hoặc “đút cốm dẹp” (Bon Sâm Peah Preah khe hoặc Âk âm bok): Theo truyền thuyết, ngày xưa, đồng bào Khmer có hai cái tết: Âm lịch và Dương lịch. Nếu theo Hôra, thì ngày 15 tháng 10 âm lịch đúng là ngày kết thúc một chu kỳ của mặt trăng xoay quanh trái đất, và vào lúc 24 giờ thì bóng trăng không xê dịch cột trụ trồng đứng thẳng ngoài trời. Người xưa cho đó là ngày bước sang năm mới âm lịch, tức là mặt trăng bắt đầu chuyển sang một chu kỳ mới. Mỗi năm vào ngày 15 tháng 10 âm lịch, đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long tổ chức một lễ lớn gọi là lễ Âkâmbok mà ta gọi là Lễ cúng trăng, để tưởng nhớ đến công ơn của mặt trăng, coi như một vị thần điều tiết mùa màng, đã giúp cho họ được làm ăn khá giả trong năm. Thức cúng đặc biệt trong lễ này là cốm dẹp, nên người ta còn gọi là lễ “Đút cốm dẹp”, và sôi nổi nhất là vào dịp ngày lễ cúng trăng, đồng bào Khmer tổ chức cuộc đua ghe Ngo rất vui tươi hào hứng.  Sự tích về “Con thỏ và mặt trăng”: Lễ cúng trăng còn liên quan đến một sự tích về “Con thỏ và Mặt trăng” như sau: Trong một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca, có lần Ngài là một con thỏ sống quanh quẩn bên bờ sông Hằng. Thỏ kết bạn với con Khỉ, con Rái và con Chó rừng. Thỏ hiểu biết cao hơn ba con thú kia. Thỏ biết tham thiền để cầu mong được gần các đấng cao cả. Thỏ cùng ba bạn sống một cuộc đời yên vui, có tính tương thân, tương trợ lẫn nhau. Nhiều năm trôi qua, một hôm, trước ngày trăng tròn, Thỏ gọi ba bạn đến bảo rằng: - Trước kia chúng ta cùng hứa rằng đến ngày trăng tròn thì nhịn đói để ngồi “thiền”, giữ thân thể sạch sẽ và giữ lòng không bợn nhơ. Nay tôi xin nhắc các bạn sáng sớm mai nhớ tìm thức ăn như mọi ngày để dành cho những người ăn xin. Cả ba đều vui vẻ nhận lời rồi cùng chia tay. Sáng sớm, cả ba cùng chia nhau đi kiếm mồi. Chẳng bao lâu, Rái đem về năm con cá; Chó rừng đem về ổ một vò sữa, một hũ mỡ nhỏ, một gói cơm; còn Khỉ thì bẻ về vài trái xoài chín. Cả ba cùng ngồi một chỗ “tham thiền”, riêng Thỏ ta không đi đâu mà chỉ ngồi “nhập định” trước cửa hang. Ý định tốt đẹp của các con vật làm động lòng trời. Thần Sakah, vị chúa của các Thần Têvađa, bèn giả làm người ăn xin xuống trần để thử lòng bốn con vật. Trước tiên Thần Sakah đến chỗ Rái ngồi xin ăn. Rái mời người ăn xin dùng cá, người ăn xin cảm ơn, và nói chờ tôi tắm rửa sạch sẽ rồi sẽ dùng. Người ăn xin đến chỗ Chó rừng và Khỉ thì cũng được mời ăn và ông cũng nói với chúng y như nói với Rái. Cuối cùng, ông đến chỗ Thỏ và được Thỏ vui vẻ nói: - Xin người chờ tôi đốt lửa và sẽ dâng người một thức ăn ngon lành. Nói xong Thỏ đốt lửa lên, khi ngọn lửa bùng cháy to, Thỏ nhẩy vào lửa và nói: “Mời người dùng thịt này”. Nhưng không ngờ khi nhẩy vào lửa, Thỏ không thấy nóng mà lại bị gió lạnh, Thỏ nhẩy ra bỏ thêm củi vào đốt cho lửa cháy to nữa. Trong lúc ấy người ăn xin biến mất, Thần Sakah hiện ra cho biết tên mình và khen ngợi nghĩa cử của bốn con vật, nhất là Thỏ. Ông nói: - Đối với lòng hy sinh cao đẹp của Thỏ, ta phải để cho đời noi gương. Thần biến thân mình cao lớn đụng tới mây xanh, đưa tay vịn vào ngọn núi và vẽ hình Thỏ lên mặt trăng. Trước khi về Trời, Thần Sakah nhắc lại: - Ta muốn thế gian đời đời kiếp kiếp thấy hình Thỏ trên mặt trăng để nhớ mãi việc hy sinh này. Do đó mà đồng bào cúng mặt trăng để nhớ đến nghĩa cử của Thỏ chính là tiền kiếp của Phật Thích Ca vậy. 7.7. BẢN KỂ CỦA SÔRYA:  Lễ “Óc – Om – Bóc” và nguồn gốc ngày hội đua ghe Ngo: Theo dân gian kể lại, đã lâu lắm cách đây bảy trăm năm về trước ghe ngo đã xuất hiện ở một số vùng trên đồng bằng sông Cửu Long - ở vùng Sóc Trăng cũ, vùng thuộc Bạc Liêu cũ “Kromusao” thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay. Vùng này lúc đó còn hoang dại lắm, rừng rất rậm rạp, có nhiều rắn rết và thú dữ, phù sa biển tiếp tục bù đắp ngày một lớn dần, nhiều sông ngòi đổ nghiêng theo chiều dốc của mặt bằng đất bồi bắt đầu hình thành, việc đi lại rất khó khăn. Con người đến cư trú vùng này lúc đó cũng chưa ổn định, người ta chưa biết đắp đường đi và bắc cầu qua lại giao tiếp với nhau, hơn nữa họ mang nặng tâm lý sợ thú dữ nên cố tạo phương tiện đi lại bằng thuyền độc mộc dưới sông, đi có tập thể để đối phó với thú dữ. Từ thuyền độc mộc đơn sơ ấy, sau này do yêu cầu tự vệ và chống chiến tranh giữa các tộc người xung quanh, người ta nghĩ đến cách đục đẽo sáng tạo ra “tuk ngo” để cho nó gọn nhẹ dễ bơi và bơi nhanh hơn. Hình thù ghe ngo tựa như hình con rắn, mình thon thon thoai thoải về hai phía, đầu ghe uốn cong và hơi thấp hơn đằng sau lái một chút. Ghe ngo có nhiều cong và có cây đóng cặp chặt ở đáy thuyền nối dài từ đầu thuyền tới sau lái trên cong đóng nhiều thanh cây ngang, chiều ngang độ 150m vừa để cho hai người ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song song. Ghe ngo thông thường có từ 46, 48, tới 50 chỗ cho người ngồi bơi và chỉ huy. Thân thuyền người ta sơn bằng màu đen, trên be sơn một vệt màu trắng, màu vàng hoặc màu đỏ với độ dày khoảng 5cm. Đầu thuyền vẽ các hình con chim, con thú như con chim công, con sư tử, con cọp, con voi… vừa tượng trưng cho vẻ đẹp đồng thời biểu hiện cho sự hung dữ, biểu dương sức mạnh của thuyền mình. Vì thuyền ngo thân hình thon thon thắt dài kéo về hai phía, đầu thuyền và sau lái đều cong nên nếu bơi động tác không phối hợp ăn ý nhịp nhàng rất dễ mất thăng bằng và bị lật chìm. Nên trước khi đưa xuống nước, người ta tổ chức tập bơi cho nhuần nhuyễn động tác ở trên cạn sau đó mới đưa xuống tập bơi dưới nước. Người được chọn để bơi phải là thanh niên trai tráng khỏe mạnh quen bơi và bơi có nghệ thuật. Người bơi đã quan trọng, người ngồi đầu thuyền lắc đầu đưa nhịp xòe tay chỉ huy, người đứng giữa đánh cồng ra hiệu lệnh đưa nhịp động viên và người cầm lái lại càng quan trọng hơn. Người ngồi đầu chỉ huy được tuyển chọn từ những người có uy tín và thông thạo về môn đua thuyền ngo. Công dụng thuyền ngo thời ấy được coi như là một môn thể thao quân sự. Lúc có giặc giã thuyền ngo được dùng để làm phương tiện đi đánh giặc, lúc thời bình thuyền ngo được dùng để đua vui chơi giải trí biểu dương sức sống văn hóa của dân tộc vào ngày lễ Oc – om – boc vào rằm tháng 12 theo lịch Khơme tức là vào trung tuần tháng 11 dương lịch hàng năm. 7.8. BẢN KỂ CỦA HUỲNH NGỌC TRẢNG:  Sự tích hình “con Thỏ” trên mặt trăng: Thuở ấy, ở một khu rừng nọ có bốn con vật là thỏ, khỉ, rái cá và chó rừng sống với nhau rất thân thiết và hòa thuận. Chúng kết bạn với nhau, cùng chia sẻ những của tìm được cũng như giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn. Một hôm, có một ông lão, thân thể gầy gò da bọc lấy xương, quần áo rách tả tơi, chống gậy lê từng bước một, đi xin ăn. Từ thân hình lão toát ra một mùi hôi thối khó chịu, nên ai cũng ngại, lánh xa. Đi đến đâu, miệng lão cũng thều thào, van nài: “Tôi đói lắm, nhờ bà con làm phúc giúp cho tôi miếng ăn…” Các muôn thú thấy vậy đều làm ngơ một cách dửng dưng, hoặc lảng tránh xa, không con nào giúp đỡ cho lão ấy một miếng ăn, hay một trái cây rừng để đỡ dạ. May sao lão gặp được khỉ đang đi hái trái rừng cho con. Khỉ bèn chọn những chùm trái chín mọng, ngon nhất biếu ông lão và nói: - Tôi chỉ có thứ này, vậy xin cụ vui lòng nhận cho, ăn tạm đỡ đói. Lão ăn mày nhận quà, cảm ơn khỉ rồi tiếp tục chống gậy bước đi. Đến bên bờ con suối, ông lão gặp rái cá. Biết rõ tình cảnh của ông lão, rái cá mang cho tất cả cá lớn cá bé giấu bên gốc cây mà rái cá đã lặn ngụp bắt được từ sáng đến chiều. Nhận cá xong, lão ăn mày, như lần trước, cảm ơn rái cá, rồi ra đi. Đi một đỗi lâu, lão ăn mày gặp chó rừng. Chó rừng nghe lão ăn mày thều thào xin ăn, liền cho ông một miếng thịt nai vừa kiếm được từ một con mồi ăn thừa của hổ bỏ lại. Lão ăn mày nhận lấy miếng thịt, cảm ơn chó rừng, rồi lại tiếp tục ra đi. Qua một chặng đường dài, lão ăn mày lại gặp thỏ đang ngồi ngắm trăng vừa mọc lên cạnh cửa hang. - Thỏ ơi! Già đói quá, sắp chết mất thôi! Có cái gì ăn được, thỏ hãy làm phúc cứu lão với. Giọng người ăn xin run run, thều thào gần như tuyệt vọng. Nhìn hình dáng tiều tụy, xanh xao như sắp kiệt sức của người ăn mày, thỏ vừa cảm động, vừa ái ngại. Lâu nay thỏ có bao giờ dự trữ thức ăn ở trong hang đâu? Đói thì ra rừng tìm những đọt cây, hay đám cỏ non chén một chầu no dạ, rồi tìm bóng râm nằm nghỉ. Thỏ đang lúng túng suy nghĩ thì giọng ông già lại van nài, thôi thúc. Thỏ thấy không thể làm ngơ trước cảnh một cụ già đang bị cơn đói hành hạ như vậy. Một ý nghĩ chợt lóc lên trong đầu thỏ. Thỏ từ tốn nói với ông lão: - Xin cụ ngồi tạm nghỉ chân, chờ tôi một lát. Tôi sẽ biếu cụ thức ăn ngon. Nói xong, thỏ nhặt những cành củi khô rơi vãi, chất thành một đống trước cửa hang, rồi châm lửa đốt cháy bùng lên. Thỏ quay lại nói với ông lão ăn mày: “Xin ông hãy dùng thịt của tôi đây!” Nói xong thỏ nhảy vào giữa đống lửa đang bốc cháy ngùn ngụt. Tự nhiên, một làn gió lạnh buốt bỗng từ đâu thổi đến, lướt ngang qua dập tắt ngay ngọn lửa làm thỏ ngạc nhiên, ngơ ngác. Chưa hết bàng hoàng, thỏ nhìn lại, thì người ăn mày rách rưới ghẻ lở đã biến mất. Trước mắt thỏ là một vị thiên thần, đầu đội mão vàng, phát ra hào quang rực rỡ, đôi mắt sáng, tay cầm gậy phép lóng lánh vàng, cất giọng nói vang như tiếng sấm: - Này thỏ kia! Ta là thần Pờ - rặc Inh đây. Ta vừa giả làm người nghèo đói để thử lòng muôn loài dưới trần gian. Đáng phục thay tấm lòng cao cả, quên mình vì kẻ khác của ngươi. Gương sáng ấy đáng được người đời ca ngợi. Hôm nay trăng tròn, ta sẽ ghi lại hình dáng của ngươi bằng hình tượng đẹp trên mặt trăng, để muôn loài cùng chiêm ngưỡng. Nói xong, thần Pờ - rặc Inh đưa đầu chiếc gậy phép về phía mặt trăng vẽ mấy nét nguệch ngoạc, rồi biến mất. Từ đó mỗi khi trời không mây, trăng sáng, đứng ở trần gian nhìn lên, người ta thấy hình con thỏ đang ngồi giữa mặt trăng. Đồng bào Khơ-me Nam Bộ, hàng năm, đến ngày rằm tháng Mười âm lịch, hay làm cốm dẹp bằng nếp tươi – một món ăn, theo quan niệm của họ, thỏ thích nhất – để cúng con vật đã biết quên mình vì người khác. Lễ này gọi là lễ Ốc – om – bốc (lễ Ngốn cốm dẹp) hay còn gọi là lễ Thơ – vay – Pờ - rặc Chanh (lễ cúng Thần Trăng). ( Theo lời kể của cụ Thạch Bụm, xã Trường Khánh, huyện Long Phú, Hậu Giang).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN032.pdf