Đồ thị là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả có tính chất quy ước các tài liệu thống kê khác. Đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ để trình bày các đặc điểm số lượng của hiện tượng.
Căn cứ theo nội dung phản ánh có thể phân chia đồ thị thống kê thành: Đồ thị kết cấu, đồ thị phát triển, đồ thị hoàn thành kế hoạch hoặc định mức, đồ thị liên hệ, đồ thị so sánh, đồ thị phân phối.
Căn cứ vào hình thức biểu hiện có thể phân chia đồ thị thống kê thành: Biểu đồ hình cột, biểu đồ tượng hình, biểu đồ diện tích, đồ thị đường gấp khúc, bản đồ thống kê.
Khi xây dựng một đồ thị thống kê phải chú ý những yêu cầu chung sau: Xác định quy mô đồ thị cho vừa phải, lựa chọn loại đồ thị cho phù hợp, các thang đo tỷ lệ và độ rộng của đồ thị phải được xác định chính xác.
37 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 815 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ứng dụng trong Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
* * * * *
Trong sự phát triển chung của xã hội loài người cũng như của mỗi quốc gia, hoạt động ngoại thương luôn giữ vị trí quan trọng, nó tạo đIều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. Không tạo ra của cải vật chất nhưng ngoại thương có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy quá trình sản xuất, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia và các khu vực trên toàn thế giới.
Từ khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hoạt động ngoại thương đã phát triển mạnh mẽ và dần dần hoà nhập vào sự phát triển chung của thế giới. Từ tháng 3 năm 1989 Việt Nam đã thực hiện chính sách một tỷ giá, do ngân hàng nhà nước công bố dựa trên cơ sở xem xét tổng hợp các yếu tố: lạm phát, cán cân thanh toán quốc tế, lãi suất, tỷ giá xuất – nhập khẩu và giá ngoại tệ trên thị trường tự do. Quan điểm và chính sách điều hành kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã khuyến khích xuất khẩu, xoá bỏ độc quyền về ngoại thương, các đơn vị sản xuất kinh doanh được tạo điều kiện cần thiết để tiếp súc với các bạn hàng và thị trường bên ngoài, coi ngoại thương như một trong những mũi nhọn của nền sản xuất trong nước. Quan điểm đó được thể hiện trong chính sách lấy xuất khẩu làm một trong 3 chương trình kinh tế lớn của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ lợi ích kinh tế quốc tế nói chung, lợi ích kinh tế của nước ta nói riêng, nhằm góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với cộng đồng kinh tế thế giới, tham gia tích cực vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế trên các phương diện khoa học-kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thanh toán quốc tế,...ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Đòi hỏi chúng ta cần phải đi sâu nghiên cứu, thông qua đó ta có thể hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu tính toán và dự đoán được những hoạt động của ngoại thương. Từ đó ta có thể điều hành nền kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới và đưa nền kinh tế nước ta một bước tiến lên.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành ngoại thương nói chung và ngành xuất nhập khẩu nói riêng đề tài tập trung nghiên cứu:
- Những vấn đề chung về tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá
- Một số phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa
Mục đích của đề tài là: Trên cơ sở nghiên cứu các phương pháp phân tích thống kê để “Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ứng dụng trong Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam ’’. Nhằm đạt được mục đích này, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có khối lượng ... trang, ... sơ đồ, ... bảng. Cơ cấu nội dung của luận văn gồm có:
Chương I :Những vấn đề chung về tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa.
ChươngII : Một số phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa.
Chương III : vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa ở tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam thời kỳ 1996 – 2002.
Nguồn số liệu trình bầy trong luận văn sử dụng từ các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm của tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam thời kỳ 1996 - 2002
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn của cô giáo Trần Thị Kim Thu phó chủ nhiệm khoa Thống kê, cùng các thầy cô trong Khoa Thống kê và sự nỗ lực của bản thân. Tuy nhiên, do thời gian hạn chế và sự hiểu biết có hạn nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy, cô cùng các bạn góp ý để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin trân trọng cám ơn các thầy, cô trong Khoa, các cán bộ ở Tổng công ty Lâm Nghiệp Việt Nam và đặc biệt là cô Trần Thị Kim Thu đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội, ngày ... tháng ... năm2003.
NộI DUNG
CHƯƠNG I
những vấn đề CHUNG Về tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa
I. Khái niệm và những vấn đề có tính nguyên tắc về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa
1.Một số khái niệm chung
Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ: là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài và với các khu chế xuất làm giảm hoặc tăng nguồn vật chất trong nước.
Trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là toàn bộ giá trị hàng hoá đưa ra hoặc đưa vào lãnh thổ Việt nam làm giảm (xuất khẩu), làm tăng (nhập khẩu) nguồn của cải vật chất của Việt nam trong một thời kỳ nhất định và được tổng hợp theo hệ thống thương mại đặc biệt mở rộng.
Hàng xuất khẩu gồm: Toàn bộ hàng hoá có xuất xứ trong nuớc và hàng tái xuất, được xuât khẩu trực tiếp ra nước ngoài hoăc gửi vào các kho ngoại quan, trong đó:
+ Hàng có xuất xứ trong nước là hàng hoá được sản xuất, kinh doanh, khai thác, chế biến trong nước (kể cả hàng gia công cho nước ngoài, hàng hoá xuất khẩu ra nứơc ngoài của các doanh nghiệp chế xuất ở trong hoặc ngoài khu chế xuất).
+ Hàng tái xuất là nhũng hàng hoá đã nhập khấu, sau đó lại xuất khẩu nguyên dạng hoặc chỉ sơ chế bảo quản, đóng gói lại không làm thay đổi về chất của hàng hoá đó.
Hàng nhập khẩu gồm: Toàn bộ hàng hoá nhập ngoại và hàng tái nhập, việc nhập khẩu được phục vụ cho các mục đích sản xuất, kinh doanh, gia công tiêu dùng trong nước và để tái xuất khẩu, kể cả hàng nhập khẩu vào các doanh nghiệp chế xuất ở trong và ngoài khu chế xuất, trong đó:
+Hàng hóa nhập ngoại: là những hàng hoá được nhập khẩu trực tiếp từ các nước kể cả hàng hoá của Việt nam được gia công ở nước ngoài sau đó nhập vào trong nước (Nếu có) và những hàng hoá nhập vào trong nước từ các kho ngoại quan.
+ Hàng tái nhập: là những hàng hoá của nước ta đã xuất khẩu ra nước ngoài, sau đó được nhập khẩu nguyên dạng hoặc chỉ qua sơ chế, đóng gói lại, bản chất của hàng hoá không thay đổi.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, đó là hoạt động ngoại thương, là một trong ba nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển của mình. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ...mà mỗi quốc gia có một thế mạnh về một hay một số lĩnh vực này nhưng lại không có thế mạnh về lĩnh vực khác. Để có thể khắc phục các hạn chế và tận dụng các cơ hội thuận lợi vốn có, tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia cần phải tiến hành trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho nhau, họ bán những hàng hoá mà đối với họ mà có lợi thế sản xuất và mua những hàng hoá không có lợi thế sản xuất ( lợi thế tuyệt đối của ngoại thương, được nhà kinh tế học Adam Smith đưa ra ). Tuy nhiên hoạt động xuất nhập khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vức khác mà ngay cả khi quốc gia đó không có những lợi thế thì họ vẫn thu được lợi nhuận khi họ tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Đó chính là lợi thế tương đối được nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đưa ra khi ông đề cập về vấn đề lợi thế so sánh .
2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước bao gồm ba nội dung cơ bản:
- Hoạt động ngoại thương, đó là hoạt động xuất - nhập khẩu hàng hoá.
- Hoạt động hợp tác: bao gồm hợp tác đầu tư và hợp tác KHCN.
-Hoạt động du lịch – dịch vụ: đó là các hoạt động vận tảibảo hiểm, ngân hàng và hoạt động du lịch.
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí quan trọng, nó tạo đIều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. Kết quả hoạt động ngoại thương của một nước được đánh giá qua cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “ Cán cân thanh toán xuất nhập khẩu ’’ , kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó mà nó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Khi cán cân thanh toán có mức xuất siêu sẽ làm cho mức chi tiêu giảm, từ đó mà tác động đến GDP.( xem sơ đồ sau)
PL : Mức giá
Y : Mức sản lượng
AS : Tổng cung
AD: Tổng cầu
Sơ đồ 1.1: Khi xuất siêu AD0 chuyển dịch đến AD1 làm cho GDP tăng khi nhập siêu AD0 chuyển dịch đến AD2 làm cho GDP giảm
Do đó vai trò của xuất nhập khẩu ngày càng được nâng cao và dần dần trở thành một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế .
2.1. Vai trò của xuất khẩu
Chiến lược hướng ngoại tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động. Sự phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “ mối liên hệ ngược ” thúc đẩy sự phát triển của các ngành này. Bên cạnh đó khi tích lũy của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ra “ mối liên hệ xuôi ” là nguyên liệu cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và “mối liên hệ xuôi ” này được tiếp tục phát triển. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm tăng thu nhập của những người lao động, tạo ra “ mối liên hệ gián tiếp ” cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì xuất khẩu làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn là thị trường trong nước, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác thị trường thế giới rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhò quy mô sản xuất lớn.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Nguồn thu nhập này vượt xa các nguồn thu nhập khác kể cả vốn vay và đầu tư của nước ngoài.Đối với nhiều nước đang phát triển, ngoại thương đã trở thành nguồn tích luỹ vốn chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiẹep hoá. Xuất khẩu quyết định đến quy mô tăng trưởng qua hoạt động xuất nhập khẩu. Nước ta vào thời kỳ 86-90 xuất khẩu chiếm 50% tổng nguồn thu ngoại tệ. Nguồn thu từ xuất khẩu năm 1994 đủ đảm bảo 60% nguồn vốn nhập khẩu, năm 1995 theo tỷ kệ này là 66%, 1996 là 65%, 1997 là 67%. Đối với những nước kém phát triển vốn từ ngoài được coi là nguồn vốn chủ yếu song mọi cơ hội đầu tư, vay nợ và viện trợ từ nước ngoài chỉ có thể thuận lợi khi chủ đầu tư hay người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu của đất nước.
Xuất khẩu đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua việc xuất khẩu sẽ thúc đẩy nền sản xuất trong nược phát triển điều đó có tác dụng khá tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động của nó thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khai thác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, chè,...có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng, khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế-kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này thể hiện ở chỗ xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Quan hệ cạnh tranh này đòi hỏi mỗi quốc gia phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường.
+ Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công việc, quá trình công việc sản xuất kinh doanh.
+ Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
+ Sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút rất nhiều lao động làm việc.
+ Xuất khẩu tạo ra nguồn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng của nhân dân.
+ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
2.2. Vai trò của nhập khẩu
Bên cạnh xuất khẩu thì nhập khẩu cũng có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhập khẩu góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Do nông sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong sản phẩm xuất khẩu Việt Nam hiện nay đã thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu. Mặt khác, việc nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị đã tạo điều kiện phát triển sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng và tư liệu sản xuất cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Việc nhập khẩu máy móc thiết bị đã góp phần đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất, nhờ đó trình độ sản xuất và năng suất lao động được nâng cao. Đồng thời với việc tiếp cận thị trường quốc tế đã nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Nhập khẩu nhằm bổ sung những hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những mặt hàng mà nó có lợi thế so sánh lớn hơn so với trong nước.
Nhập khẩu thường có hai loại là nhập khẩu thay thế và nhập khẩu bổ sung. Chúng ta cần phải có một chiến lược đúng đắn trong nhập khẩu thì sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là làm cân đối giữa công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động.
Như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân bởi vì hoạt động xuất khẩu nâng cao thu nhập của nhân dân và hoạt động nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, góp phần mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
3. Sự tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam là một nước đang phát triển, hoạt động xuất nhập khẩu không những làm sứ mệnh đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với thế giới mà còn tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước thể hiện ở một số khía cạnh sau:
3.1. Làm tăng nguồn ngoại tệ trong nước
Xuất nhập khẩu hàng hoá, máy móc mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ chủ yếu cho đất nước, góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại hối, tăng khả năng nhập máy móc thiết bị và nhiên liệu để phát triển công nghiệp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, với một nền công nghiệp còn thấp thì các hoạt động nhập khẩu ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Đối với nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ cơ bản cho giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá.
3.2. Tăng thu nhập
Nhờ có xuất nhập khẩu mà khả năng thu nhập của nền kinh tế quốc dân tăng lên, từ đó tạo ra nguồn thu để nhập các máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ mới, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế và đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá.
Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về các mặt hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tái sản xuất và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
3.3. Tạo điều kiện để phát triển các ngành sản xuất
Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bổ sung kịp thời và làm giảm sự mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ.
Thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu mà các ngành công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hoá phát triển. Sự phát triển của các ngành này đã đáp ứng những kỹ thuật tiên tiến nhằm sản xuất hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lượng tốt, rút ngắn thời gian sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh là tất yếu và nó đã dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển được, các doanh nghiệp cần phải hoạt động có hiệu quả nhằm thu lợi nhuận cao với chi phí ít nhất. Muốn vậy các doanh ngiệp cần phải áp dụng kịp thời những tiến bộ của khoa hạc công nghệ mới vào trong sản xuất cũng như kinh doanh, đồng thời phải có đội ngũ sáng tạo trong công việc. Đối với nước ta trong những năm gần đây, nhập khẩu còn có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài.
3.4. Giải quyết việc làm
Có thể nói việc làm là một vấn đề rất nan giải ngay cả thời gian trước đây và hiện giờ. Từ khi hoạt động xuất nhập khẩu ra đời và phát triển, nó đã làm nhẹ đi gánh nặng cho Nhà nước cũng như Chính phủ và các nhà chức trách. Nhờ có hoạt động xuất nhập khẩu mà hàng chục vạn người có công ăn việc làm, không những thế mà còn có thu nhập cao hơn các ngành khác.
4. Thực trạng xuất nhập khẩu của nước ta
Ngành ngoại thương nước ta từ năm 1979 trở về trước được tổ chức theo cơ chế tập trung quan hệ ngoại thương của nước ta chủ yếu là với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Nhà nước chịu trách nhiệm ký kết các nghị định thư với các nước và giao chỉ tiêu kế hoạch xuất nhập khẩu cho các đơn vị chuyên doanh trên cơ sở những nghị định thư đó. Trên cơ sở đó các đơn vị ký hợp đồng ngoại và giao hàng cho các nước. Mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đều thông qua các đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương (gọi là các Tổng công ty ngoại thương Trung ương) thuộc quản lý Bộ Ngoại thương. Các Bộ, Ngành khác và các địa phương có nhiệm vụ sản xuất, khai thác, thu mua rồi giao hàng cho các đơn vị kinh doanh của Bộ ngoại thương xuất khẩu, nhập khẩu theo kế hoạch Nhà nước.
Từ năm 1980 đến nay, Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách mới nhằm khuyến khích, mở rộng và tăng hiệu quả của hoạt động ngoại thương, Nhà nước trao quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các Bộ, Ngành sản xuất, thực hiện chủ trương khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ của mỗi Bộ, Ngành. Đồng thời để phát huy tiềm năng của các địa phương, Nhà nước cũng cho phép nhiều địa phương có đủ những điều kiện do Nhà nước quy định, được phép trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài.
Với chủ trương thay đổi chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, số đơn vị kinh doanh ngoại thương tăng lên nhanh chóng. Năm 1979, số đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương là 11 đơn vị, không có đơn vị kinh doanh nào thuộc địa phương. Năm 1985, đã có 23 đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương và 15 đơn vị kinh doanh ngoại thương địa phương. Năm 1990, tổng số các đơn vị được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thường xuyên và từng chuyến là 270 đơn vị trong đó 170 đơn vị TW và 163 đơn vị địa phương. Năm 1991, số đơn vị xuất khẩu trực tiếp là trên 400 đơn vị, đến nay là hơn 7000 đơn vị.
Sự phát triển của hoạt động ngoại thương không chỉ thể hiện ở sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các đơn vị xuất nhập khẩu mà kim ngạch xuất nhập khẩu qua mỗi năm đều tăng đáng kể, nhất là trong những năm gần đây. Năm 1976, tổng mức lưu chuyển ngoại thương của cả nước chỉ đạt 1,2 tỷ USD, năm 1985 là 2,6 tỷ USD, năm 1990 là 5,1 tỷ USD, năm 1995 là 13,6 tỷ USD và năm 2000 đạt trên 30 tỷ USD, ssơ bộ năm 2001 là 31.1 tỷ USD.
Số nước có quan hệ thương mại với Việt nam cũng tăng lên nhanh chóng, năm 1985 nước ta có quan hệ ngoại thương với 67 nước, năm 1990 là 57 nước, đến nay con số này đã là trên 160 nước.
Hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp phần quan trọng trong những thành tựu kinh tế xã hội của đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 8%, lạm phát giảm từ 3 con số vào cuối những năm 80 xuống còn 2 con số vào đầu những năm 90 và còn một con số từ năm 1996 đến nay. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Kết quả của hoạt động của ngoại thương được tạo ra và gắn liền với hệ thống thống kê xuất nhập khẩu. Mặt khác, những đặc điểm của hệ thống thống kê xuất nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng nhiều chính sách, cơ chế điều hành, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương.
5. Vai trò của thống kê xuất nhập khẩu
Thống kê xuất nhập khẩu đảm bảo cung cấp những số liệu cần thiết cho lãnh đạo và các cơ quan quản lý, dùng làm cơ sở để định ra các quyết định đúng đắn và xây dựng kế hoạch cho công tác xuất nhập khẩu.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động thống kê xuất nhập khẩu là kiểm tra mức độ hoàn thành trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, kế hoạch nhập khẩu và phân phối trên cơ sở các chỉ tiêu đã được giao.
Qua các số liệu thống kê về xuất nhập khẩu hàng hoá của tháng, quý, năm của các đơn vị hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng Cục Thống kê sẽ lập nên các Bảng thống kê tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu.
Số liệu của xuất nhập khẩu nói lên mối quan hệ của nước ta với các nước khác, quá trình tham gia vào sự phân công và hợp tác kinh tế quốc tế.
Số liệu của thống kê xuất nhập khẩu còn giúp Ban lãnh đạo đề ra các chính sách để làm cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, ổn định...
Thống kê xuất nhập khẩu là một chỉ tiêu thống kê kinh tế quan trọng trong đáp ứng nhu cầu sử dụng. Cùng với các thống kê kinh tế cơ bản khác, thống kê xuất nhập khẩu góp phần tính toán các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia, cán cân thanh toán quốc tế, tạo ra bức tranh của nền kinh tế đất nước, đồng thời thể hiện mối giao lưu kinh tế của nước ta.
Số liệu thống kê xuất nhập khẩu có thể được thu từ nhiều nguồn:
+ Báo cáo định kỳ của các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp.
+ Tờ khai Hải quan về xuất nhập khẩu.
+ Các cuộc điều tra doanh nghiệp bổ sung thống kê về thuế giá trị gia tăng, thống kê về trao đổi tiền tệ (qua hệ thống ngân hàng).
II. hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình xuất nhập khẩu
1.Quy mô xuất nhập khẩu hàng hoá
Đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô hàng hoá trao đổi. Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa là chỉ tiêu thời kỳ và là chỉ tiêu tuyệt đối có thể tính theo đơn vị hiện vật ( lượng hàng hoá xuất nhập khẩu ) hoặc theo đơn vị giá trị ( mức xuất nhập khẩu hàng hóa ).
1.1. Lượng hàng hoá xuất – nhập khẩu ( q ):
Chỉ tiêu này biểu hiện khối lượng, số lượng hàng hóa được trao đổi và chỉ được xác định cho từng loại hàng hóa.
Khi tính chỉ tiêu quy mô xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung, lượng lưu chuyển hàng hóa nói riêng, cần lưu ý một số chỉ tiêu đặc thù sau:
+ Lượng hàng hóa mua vào ( qM ): lượng hàng hóa nhập khẩu
+ Lượng hàng hóa bán ra ( qB ): lượng hàng hóa xuất khẩu
1.2. Mức xuất - nhập khẩu hàng hóa ( Q = pq ):
chỉ tiêu này biểu hiện giá trị hàng hoá được trao đổi, mua bán, có thể tính theo giá hiện hành, giá so sánh hay giá cố định, có thể được xác định cho từng loại hàng hóa cũng như nhiều loại hàng hóa khác nhau. Mức xuất - nhập khẩu hàng hóa theo giá hiện hành cho phép nghiên cứu các mối liên hệ kinh tế thực tế. Mức xuất – nhập khẩu hàng hóa theo giá so sánh hay giá cố định cho phép phân tích biến động mức xuất – nhập khẩu hàng hóa.
Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa có thể xét là quy mô xuất nhập khẩu nói chung hoặc riêng rẽ cho xuất và nhập. Hoạt động xuất và nhập lại có thể nghiên cứu chi tiết hơn: xuất từng mặt hàng, xuất chung ( tổng xuất ra ), nhập từng mặt hàng, nhập chung ( tổng nhập vào ). Người ta cũng cần và có thể tính các chỉ tiêu xuất nhập khẩu hàng hóa theo địa điểm, đất nước trao xuất nhập khẩu hàng hóa.
Để xác định chính xác quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa cần làm sáng tỏ vấn đề thời điểm được tính là xuất hoặc nhập. Cần thống nhất cách giải quyết trong trường hợp thu tiền trước, trả hàng dần hoặc trao hàng trước trả tiền dần ( trả góp ).
2. Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa
Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa là chỉ tiêu thời kỳ và là chỉ tiêu tuyệt đối (), tương đối ()
Cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa có thể xét theo nhiều tiêu thức khác nhau. Theo mối tiêu thức, chỉ tiêu tính được phản ánh một đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu và có tác dụng riêng. Có thể nghiên cứu cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo những tiêu thức chủ yếu sau đây:
2.1. Theo nguồn hàng
Chỉ tiêu này được tính cho hàng hóa nhập khẩu:
+ Xét toàn bộ nền kinh tế quốc dân
+ Xét cho từng doanh nghiệp
Nghiên cứu cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo nguồn hàng cho phép nghiên cứu thị trường đầu vào của các đơn vị hoạt động kinh doanh thương mại.
2.2. Theo nhóm hàng, loại hàng, ngành hàng
Chỉ tiêu này được tính cho cả hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa xuất khẩu, có thể được tính cho phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như từng doanh nghiệp. Theo tiêu thức này, có thể chia toàn bộ hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu thành các nhóm nông sản và công nghệ phẩm, lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm
Nó cho phép phản ánh đặc điểm hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu, phân tích biến động các chỉ tiêu giá bình quân, tốc độ chu chuyển hàng hóa bình quân, tỷ suất chi phí lưu thông bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình quân
2.3. Theo kỹ thuật bảo quản
Cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo kỹ thuật bảo quản được tính chủ yếu cho hàng hóa nhập khẩu, trên phạm vi từng doanh nghiệp. Theo tiêu thực này toàn bộ hàng hóa được chia thành hàng hóa chậm hư hỏng ít hao hụt và hàng hóa dễ hư hỏng hao hụt. Nó cho phép phân tích ảnh hưởng đặc điểm này đến tổng thất và chi phí lưu thông
2.4. Theo đối tượng bán
Chỉ tiêu này được tính chủ yếu cho hàng hóa xuất khẩu trên phạm vi từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Theo tiêu thức này, có thể chia hàng hóa xuất khẩu thành xuất cho từng nước, khu vực. Chỉ tiêu cấu thành và kết cấu hàng hóa xuất khẩu theo đối tượng xuất cho phép nghiên cứu thị trường đầu ra
2.5. Theo bộ phận hay đơn vị thành viên
Theo tiêu thức này, toàn bộ hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu được chia thành xuất nhập khẩu hàng hóa của thương nghiệp quốc doanh, tập thể hay tư thương. Cũng có thể phân toàn bộ xuất nhập khẩu hàng hóa thành xuất nhập khẩu hàng hóa của thương nghiệp các địa phương.
Nghiên cứu cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo tiêu thức này cho phép xác định ảnh hưởng của nhân tố này đến biến động các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ chu chuyển hàng hóa, tỷ suất và tổng mức chi phí lưu thông, tỷ suất và tổng mức lợi nhuận.
Chương ii
Một số phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa
i. những vấn đề chung
Phân tích thống kê xuất nhập khẩu hàng hóa có nhiệm vụ nêu lên xu hướng, mức độ biển động của các chỉ tiêu quy mô và cơ cấu đã xét ở trên trong thời gian, không gian và so mục tiêu ( kế hoạch, định mức ).
Các phương pháp có thể ứng dụng để thực hiện nhiệm vụ đã được chỉ ra là: Phân tổ, số tương đối, dãy số thời gian, so sánh hai dãy số song song, đồ thị, chỉ số, hồi quy - tương quan, bảng thống kê.
ii. đặc điểm vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa
1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung của phương pháp dãy số thời gian
Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian .
Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai
Mỗi dãy số thời gian được cấu tạo bởi hai thành phần là thời gian và chỉ tiêu về hiện tượng được ngiên cứu. Thời gian có thể là giờ ngày, tuần, tháng, quý năm...Độ dài giữa hai thời gian liền nhau được gọi là khoảng cách thời gian. Chỉ tiêu về hiện tượng được ngiên cứu có thể là số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu được gọi là mức độ của dãy số.
Căn cứ vào đặc điểm tồn tại về quy mô của hiện tượng qua thời gian có thể phân biệt dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm
+ Dãy số thời kỳ: Biểu hiện quy mô ( khối lượng ) của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Trong dãy số thời kỳ các mức độ là những số tuyệt đối thời kỳ, do đó độ dài của khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong khoảng thời gian dài hơn.
+ Dãy số thời điểm: Biểu hiện quy mô ( khối lượng ) của hiện tượng tại những thời điểm nhất định. Mức độ của hiện tượng ở thời điểm sau thường bao gồm toàn bộ hoặc một bộ phận mức độ của hiện tượng ở thời điểm trước đó. Vì vậy việc cộng các trị số của chỉ tiêu không phản ánh quy mô của hiện tượng.
Yêu cầu cơ bản khi xây dựng một dãy số thời gian là phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Muốn vậy thì nội dung và phương pháp tính toán chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất, phạm vi của hiện tượng nghiên cứu trước sau phải nhất trí, các khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau ( nhất là đối với dãy số thời kỳ ).
Để phản ánh đặc điểm biến động qua thời gian của hiện tương được nghiên cứu, người ta thường tính các chỉ tiêu sau:
* Mức độ trung bình theo thời gian
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của tất cả các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian. Tuỳ theo dãy số thời gian là dãy số thời kỳ hay dãy số thời điểm người ta có cách tính khác nhau.
Đối với dãy số thời kỳ, mức độ bình quân theo thời gian được xác định theo công thức:
Trong đó: : Mức độ bình quân theo thời gian.
yi: Các mức độ dãy số thời kỳ. (i=1,2n)
n: Số các mức độ trong dãy số.
Đối với dãy số thời điểm có thể có khoảng cách thời gian bằng nhau hoặc không bằng nhau. Vì vậy phải có các phương pháp tính khác nhau trong mỗi trường hợp này.
+ Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau để tính mức độ bình quân ta có công thức:
yi: là mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau.(i=1,2n)
+ Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian không bằng nhau ta có mức độ bình quân theo thời gian được tính theo công thức:
ti : Là độ dài thời gian có các mức yi tương ứng. (i=1,2..n)
* Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu dương và ngược lại mang dấu âm.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, ta có các chỉ tiêu về lượng tăng ( hoặc giảm ) sau đây:
+ Lượng tăng ( hoặc giảm ) tuyệt đối liên hoàn ( hay từng thời kỳ ) là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu ( yi ) và mức độ kỳ đứng liền trước đó ( yi-1 ). Ký hiệu là di.
di = yi – yi-1. (i = 2, 3, .. , n)
Với yi: Mức độ nghiên cứu.
yi-1: Mức độ liền trước kỳ nghiên cứu.
+ Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc (hay tính dồn) là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu (yi) và mức độ của một kỳ nào đó được chọn làm gốc. Ký hiệu là các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc
Di = yi – y1 (i = 1, 2, .. , n)
Với . yi: Mức độ của hiện tượng ở kỳ nghiên cứu.
y1: Mức độ của hiện tượng kỳ gốc cố định.
Giữa lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn và định gốc có mối quan hệ tổng.
(i = 1, 2, , n)
+ Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối trung bình là mức trung bình của các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.
* Tốc độ phát triển
Tốc độ phát triển là số tương đối (thường được biểu hiện bằng lần hoặc phần trăm) phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng qua thời gian. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu ta có các loại tốc độ phát triển sau:
+ Tốc độ phát triển liên hoàn (ti): phản ánh sự phát triển của hiện tượng giữa hai thời gian liền nhau:
(i = 2,3,n)
Trong đó: yi : Mức độ của hiện tượng ở thời gian i.
yi-1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian liền trước.
+ Tốc độ phát triển định gốc (Ti): phản ánh sự biến động của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài; thường lầy mức độ đầu làm gốc.
(i = 2,3,..n)
Trong đó: yi: Mức độ của hiện tượng ở thời gian i.
y1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian đầu tiên của dãy số.
Giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định gốc có mối liên hệsau đây.
Thứ nhất: Tích tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc.
t2. t3 tn = Tn
Pti = Ti (i = 2,3,..n)
Thứ hai: Thương của hai tốc độ phát triển định gốc liền nhau bằng tốc độ phát triển liên hoàn giữa hai thời gian đó.
( i=2,3...n)
+ Tốc độ phát triển bình quân: là trị số đại biểu của các tốc độ phát triển liên hoàn.
Khi sử dụng chỉ tiêu tốc độ phát triển bình quân, chỉ nên tính với những hiện tượng phát triển theo một xu hướng nhất định (cùng tăng hoặc cùng giảm).
* Tốc độ tăng (hoặc giảm)
Phản ánh mức độ của hiện tượng giữa hai thời gian đã tăng hoặc giảm bao nhiêu lần (hay bao nhiêu %). Tương ứng với các tốc độ phát triển, ta có các tốc độ tăng (hoặc giảm) sau đây:
+ Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn ai (i= 2,3,..n) là tỷ số so sánh giữa lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn.
ai = ti – 1.
Nếu tính bằng % thì.
ai(%) = ti(%) – 100
+ Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc Ai (i= 2,3,..n) là tỷ số giữa lượng tăng (hoặc giảm) định gốc với mức độ kỳ gốc cố định.
Nếu Ti tính bằng % thì.
Ai(%) = Ti(%) – 100
+ Tốc độ tăng (hoặc giảm) trung bình là chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng hoặc giảm đại biểu trong suốt thời gian nghiên cứu. Nếu ký hiệu là tốc độ tăng hoặc giảm trung bình thì:
Hoặc
* Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm)
Ký hiệu là: gi (i = 2,3,...,n)
Đây là chỉ tiêu phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu.
(i = 2, 3, , n)
Trong thực tế người ta không sử dụng giá trị tuyệt đối của 1% tăng hoặc giảm định gốc vì nó luôn là một hằng số và bằng .
2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung của phương pháp chỉ số
Chỉ số là số tương đối (đơn vị là lần hoặc %) biểu hiện quan hệ so sánh hai mức độ của hiện tượng.
Đối tượng nghiên cứu của phương pháp chỉ số là các hiện tượng phức tạp, gồm các phần tử, đơn vị có đặc điểm, tính chất khác nhau mà người ta không thể cộng trực tiếp để so sánh.
Đặc điểm của phương pháp chỉ số:
+ Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp, trước hết phải chuyển các đơn vị, phần tử, hiện tượng cá biệt có tính chất, đặc điểm khác nhau về một dạng đồng nhất có thể trực tiếp cộng chúng lại với nhau.
+ Khi có nhiều nhân tố cùng tham gia vào việc tính toán phải giả định chỉ có một nhân tố nào đó thay đổi còn các nhân tố khác thì không đổi (gọi là quyền số) nhằm loại trừ ảnh hưởng biến động của các nhân tố này tới kết quả so sánh.
Khi nghiên cứu sự biến động của nhân tố chất lượng thì người ta cố định nhân tố số lượng ở kỳ báo cáo còn khi ta nghiên cứu sự biến động của nhân tố số lượng, người ta thường cố định nhân tố chất lượng ở kỳ gốc. Chỉ số có nhiều tác dụng khác nhau tuỳ theo từng loại. Chỉ số được dùng để phản ánh sự biến động của phần tử qua thời gian gọi là chỉ số thời gian; chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng qua không gian được gọi là chỉ số không gian; chỉ số phản ánh nhiệm vụ kế hoạch gọi là chỉ số kế hoạch. Ngoài ra, chỉ số còn được dùng để phân tích vai trò ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng.
Để phân loại chỉ số, người ta thường căn cứ vào phạm vi tính hoặc tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh.
* Căn cứ vào phạm vi tính, phân chỉ số thành hai loại.
+ Chỉ số đơn (chỉ số cá thể) nêu lên sự biến động của từng đơn vị cá biệt. Ví dụ: chỉ số giá của một loại hàng hoá, chỉ số lượng của từng mặt hàng.
+ Chỉ số tổng hợp (chỉ số chung) là chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng phức tạp gồm nhiều đơn vị hoặc phần tử khác nhau.
Ví dụ: chỉ số giá của một ngành hàng, lượng hàng hoá tiêu thụ của một số mặt hàng hay của tất cả các mặt hàng
* Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh, gồm có hai loại chỉ số:
+ Chỉ số chỉ tiêu chất lượng phản ánh sự biến động chỉ tiêu chất lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số giá thành, chỉ số giá cả
+ Chỉ số chỉ tiêu khối lượng phản ánh sự biến động của một chỉ tiêu khối lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số khối lượng sản phẩm sản xuất, chỉ số khối lượng hàng hoá tiêu thụ
Việc phân chia này được áp dụng chủ yếu với một số chỉ tiêu thông thường trong từng mối quan hệ cụ thể.Dưới đây là một vài nét về phương pháp tính chỉ số, cụ thể là với hai chỉ tiêu giá cả (p) và chỉ tiêu lượng hàng hoá tiêu thụ (q), là hai chỉ tiêu đại diện cho hai dòng chỉ tiêu chất lượng và khối lượng.
2.1. Chỉ số đơn (chỉ số cá thể)
+ Đối với chỉ tiêu giá cả:
+ Đối với chỉ tiêu sản lượng hàng hoá tiêu thụ:
Trong đó: + p0 và p1 giá cả hàng hoá nào đó ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu.
+ q0 và q1 sản lượng hàng hoá nào đớ ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu.
2.2. Chỉ số tổng hợp
2.2.1. Chỉ số phát triển:
* Chỉ số phát triển về giá cả:
Trong đó:
Ip: Chỉ số chung về giá cả.
p1, p0: giá cả mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc.
q: lượng hàng hoá tiêu thụ của mỗi mặt hàng được cố định ở một kỳ nào đó đóng vai trò là quyền số.
+ Nếu chọn quyền số ở kỳ gốc, ta có chỉ số chung về giá cả:
+ Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chung về giá cả:
+ Nếu sự sai lệch giữa hai chỉ số trên là đáng kể thì dùng chỉ số Fisher:
* Chỉ số phát triển về lượng hàng hoá tiêu thụ:
Trong đó:
Iq: Chỉ số chung về lượng hàng hoá tiêu thụ.
q1, q0: lượng hàng hoá tiêu thụ mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc.
pC: giá bán lẻ mỗi mặt hàng được cố định ở kỳ nào đó được chọn là quyền số.
+ Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chỉ chung về lượng hàng hoá tiêu thụ là:
+ Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chỉ chung về lượng hàng hoá tiêu thụ là:
+ Nếu sự sai lệch giữa hai chỉ số trên là đáng kể thì dùng chỉ số Fisher:
* Chỉ số không gian:
+ Chỉ số không gian đối với chỉ tiêu giá cả:
Trong đó:
PA: giá bán lẻ của địa phương A.
PB: giá bán lẻ của địa phương B.
qA: lượng hàng hoá đã tiêu thụ ở địa phương A
qB: lượng hàng hoá đã tiêu thụ ở địa phương B.
+ Chỉ số không gian về chỉ tiêu sản lượng:
Trong đó:
qA: sản lượng từng loại sản phẩm của địa phương A.
qB: sản lượng từng loại sản phẩm của địa phương B.
: giá cố định hoặc giá bình quân của cả hai địa phương A và B.
2.3. Hệ thống chỉ số
Hệ thống chỉ số là một đẳng thức nêu lên mối quan hệ với nhau giữa các chỉ số.Căn cứ để xây dựng hệ thống chỉ số đó là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu mà ta nghiên cứu. Có một số loại hệ thống chỉ số chủ yếu sau:
+ Hệ thống chỉ số của các con số kế hoạch: Biểu hiện mối liên hệ giữa các chỉ số kế hoạch với chỉ số phát triển, được dùng để phân tích trình độ hoàn thành kế hoạch của một doanh nghiệp, của một vùng, lãnh thổ.
Chỉ số phát triển = Chỉ số hoàn thành kế hoạch ´ Chỉ số kế hoạch.
Với k là mức kế hoạch.
+ Hệ thống chỉ số phát triển với quyền số bất biến: Tích các chỉ số liên hoàn bằng chỉ số định gốc.
+ Hệ thống chỉ số của các chỉ tiêu có liên hệ với nhau.
Cơ sở hình thành hệ thống chỉ số này là mối liên hệ thực tế giữa các chỉ tiêu kinh tế, biểu hiện dưới dạng phát triển như sau:
Doanh thu = Giá bán lẻ đơn vị hàng hoá ´ Lượng hàng đã tiêu thụ.
Từ đó ta có hệ thống chỉ số về mối quan hệ này như sau:
Chỉ số doanh thu = Chỉ số giá bán lẻ đơn vị hàng hoá ´ Chỉ số lượng hàng hóa đã tiêu thụ.
Hay:
Ipq = Ip ´ Iq
Hệ thống chỉ số tổng hợp bao gồm các chỉ số nhân tố (hay còn gọi là chỉ số bộ phận) và chỉ số toàn bộ. Mỗi chỉ số nhân tố nêu lên sự biến động của một nhân tố cấu thành hiện tượng và ảnh hưởng của biến động này đối với biến động của cả hiện tượng. Chỉ số toàn bộ nêu lên sự biến động của toàn bộ hiện tượng.
Hệ thống chỉ số có tác dụng
+ Phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng trong quá trình biến động, xác định vai trò ảnh hưởng biến động của mỗi nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng gồm nhiều nhân tố, tìm ra nguyên nhân chủ yếu.
+ Trong nhiều trường hợp, lợi dụng hệ thống chỉ số có thể tính toán các chỉ số chưa biết khi biết các chỉ số khác trong hệ thống chỉ số.
3. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung của phương pháp hồi quy tương quan
Hồi quy tương quan là phương pháp toán học được vận dụng trong thống kê để biểu hiện và phân tích mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng kinh tế -xã hội.
Phương trình hồi quy tuyến tính:
= a + bx
Trong đó:
x : là trị số tiêu thức nguyên nhân.
: là trị số điều chỉnh của tiêu thức kết quả.
a: là tham số tự do nói lên ảnh hưởng của các nhân tố khác ngoài nhân tố x.
b: là hệ số hồi quy nói lên ảnh hưởng của x đối với y tăng bình quân là b đơn vị
a, b: được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. Theo đó a và b thoã mãn hệ phương trình:
hay: b =
Để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính ta sử dụng hệ số tương quan (r). Là một số tương đối ( Đơn vị: lần).
Hệ số tương quan tuyến tính được tính theo công thức:
r =
Bằng các phương pháp biến đổi ta có thể tính hệ số tương quan theo một số công thức sau:
Chú ý: hệ số tương quan có một số tính chất sau.
-hệ số tương quan lấy giá trị trong khoảng: -1 r 1 .
-khi r mang dấu (+) ta có tương quan thuận, khi r mang dấu (-) ta có tương quan nghịch.
- r =1 thì giữa x và y có liên hệ hàm số.
- r càng gần thì liên hệ tương quan càng chặt chẽ.
- r = 0 thì giữa x và y không có liên hệ tuyến tính.
Ngoài dạng phương trình hồi quy tương quan tuyến tính mà ta đã xét trên trong thực tế ta cón gặp một số dạng phương trình mà mối liên hệ của nó là liên hệ tương quan phi tuyến tính, tức là phương trình hồi quy là một đường cong.
+ Phương trình parabol.
Với a, b,c, là các tham số được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Trong đó a, b, c phải thoã mãn hệ phương trình.
Phương trình này thường được sử dụng khi các trị số của tiêu thức nguyên nhân tăng lên thì các trị số của tiêu thức kết quả tăng (hoặc giảm), việc tăng (hoặc giảm) này đạt đến trị số cực đại (hoặc cực tiểu), rồi sau đó giảm (hoặc tăng).
+Phương trình hàm mũ.
Với a,b là các tham số được xác định từ hệ phương trình sau:
Phương trình này đươc áp dụng trong trường hợp cùng với sự tăng lên của các trị số tiêu thức nguyên nhân thì các trị số của tiêu thức kết quả thay đổi theo cấp số nhân, nghĩa là có tốc độ phát triển xấp xỉ nhau.
+ Phương trình Hypebol:
= a +
Với a, b là các tham số được xác định từ hệ phương trình sau đây.
Phương trình này được áp dụng trong trường hợp khi các trị số của tiêu thức nguyên nhân tăng lên thì các trị số của kết quả có thể giảm và đến một giới hạn nào đó ( ) thì hầu như không giảm .
Để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan giữa tiêu thức nguyên nhân và tiêu thức kết quả ta sử dụng tỷ số tương quan ().
Vì :
Nên ta cũng có thể tính bởi công thức.
Trong đó:
+ là phương sai chung phản ánh sự biến thiên của tiêu thức y do ảnh hưởng của tất cả các nguyên nhân (trong đó có nguyên nhân x).
+ là phương sai phản ánh sự biến thiên tiêu thức y do ảnh hưởng của riêng tiêu thức nguyên nhân x.
Chú ý: tỷ số tương quan có một số tính chất sau :
- Lấy giá trị trong khoảng [ 0;1].
- Nếu = 0 thì không có liên hệ tương quan giữa x và y.
- Nếu = 1 có liên hệ hàm số giữa x và y .
- Nếu càng gần tới 1 thì liên hệ càng chặt chẽ.
-Tỷ số tương quan lớn hơn hoặc bằng giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan. Tức là :
-Nếu thì giữa x và y có liên hệ tương quan tuyến tính.
Trong thực tế, một kết quả do nhiều nguyên nhân tác động. Do đó vấn đề đặt ra là cần phải nghiên cứu mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả với một số tiêu thức nguyên nhân. Liên hệ tương quan tuyến tính giữa nhiều tiêu thức số lượng cũng phải giải quyết hai nhiệm vụ nghiên cứu của phương pháp hồi quy tương quan là xác định phương trình hồi quy và đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ. Phương trình hồi quy có dạng:
( ai với i = 0,1,2,...,n )
Các tham số có thể được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Để đánh giá trình độ chặt chẽ mối liên hệ tương quan tuyến tính nhiều tiêu thức người ta thường tính hai loại hệ số tương quan là: Hệ số tương quan bội và hệ số tương quan riêng.
Hệ số tương quan bội được dùng để đánh giá trình độ chặt chẽ mối liên hệ giữa tiêu thức kết quả với tất cả các tiêu thức nguyên nhân được nghiên cứu. Công thức tổng quát như sau:
Hệ số tương quan bội nhận giá trị trong khoảng [0;1] tức là: 0Ê R Ê1
Nếu R = 0 thì không có liên hệ tuyến tính
Nếu R càng gần đến 1 thì mối liên hệ càng chặt chẽ
Nếu R = 1 thì có mối liên hệ hàm số
Hệ số tương quan riêng được dùng để đánh giá trình độ chặt chẽ mối liên hệ giữa tiêu thức kết quả với từng tiêu thức nguyên nhân với điều kiện loại trừ ảnh hưởng của các tiêu thức nguyên nhân khác. Hệ số tương quan riêng giữa y và xi như sau:
Trong nghiên cứu liên hệ tương qua giữa nhiều tiêu thức cần phải đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng tiêu thức nguyên nhân đến tiêu thức kết quả. Điều này có thể được thực hiện bằng cách tính các tham số tương qua chuẩn hóa :
Trong phân tích hồi quy tương quan, ngoài việc xác đinh phương trình hồi quy, tính các hệ hoặc tỷ số tương quan, người ta còn sử dụng độ co dãn để nghiên cứu sự biến thiên của tiêu thức nguyên nhân đã làm cho tiêu thực kết quả biến thiên như thế nào ? Độ co dãn có thể được biểu hiện bằng đại lượng tuyệt đối hoặc tương đối.
Nếu gọi E(x) là độ co dãn tuyệt đối, nói lên khi x thay đổi 1 đơn vị thì y thay đổi bao nhiêu đơn vị.
Nếu gọi E’(x) là độ co dãn tương đối (còn gọi là hệ số co dãn), nói lên khi x thay đổi 1% thì làm cho y thay đổi bao nhiêu %.
Nếu E’(x) dương nói lên x và y biến thiên cùng chiều (thuận) và ngược lại
Nếu = 1 nói lên biến thiên của y trùng với biến thiên của x
Nếu >1 nói lên biến thiên của y nhanh hơn biến thiên của x
Nếu < 1 nói lên biến thiên của y chậm hơn biến thiên của x
Nếu E’(x) = 0 nói lên y là hàm không đổi.
4. Khái niêm, đặc điểm, mục đích, nội dung của phương pháp bảng thống kê
Bảng thống kê là một hình thức trình bày các tài liệu thống kê một cách có hệ thống, hợp lý và rõ ràng. Cấu thành của bảng thống kê:
Về hình thức: Bảng thống kê bao gồm các hàng ngang và cột dọc, các tiêu đề và các số liệu. Các hàng ngang và cột dọc phản ánh quy mô của bảng. Tiêu đề của bảng phản ánh nội dung của bảng và của từng chi tiết trong bảng. Tiêu đề chung là tên gọi chung của bảng, các tiêu đề nhỏ (còn gọi là tiêu mục) là tên riêng của mỗi hàng và cột. Các số liệu được ghi và các ô của bảng, mỗi con số phản ánh một đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng nghiên cứu.
Về nội dung: Bảng thống kê gồm hai phần là phần chủ đề và phần giải thích. Phần chủ đề (còn gọi là phần chủ từ) nó giải thích đối tượng nghiên cứu là những đơn vị nào, những loại hình gì. Phần giải thích (còn gọi là phần tân từ) gồm các chỉ tiêu giải thích các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Phần chủ đề thường đặt ở vị trí bên trái của bảng, còn phần giải thích ở phía trên của bảng
Cấu thành của bảng thống kê có thể biểu hiện bằng sơ đồ sau:
Tên bảng thống kê (tiêu đề chung)
Phần giải thích Phần chủ đề
Các chỉ tiêu giải thích (tên cột)
Tổng số
1
2
3
n
Tên chủ đề ( tên hàng)
Tổng số
Căn cứ vào kết cấu của phần chủ đề, có thể chia làm ba loại bảng thống kê
Bảng giản đơn: là loại bảng mà phần chủ đề không phân tổ, chỉ sắp xếp các đơn vị tổng thể theo tên gọi, theo địa phương hoặc theo tiêu thức nghiên cứu
Bảng phân tổ: là loại bảng trong đó đối tượng nghiên cứu ghi trong phần chủ đề được phân chia thành các tổ theo một tiêu thức nào đó
Bảng kết hợp: là loại bảng thống kê trong đó đối tượng nghiên cứu ghi ở phần chủ đề được phân tổ theo hai, ba tiêu thức kết hợp với nhau. Nó dùng để biểu diễn kết quả của việc phân tổ theo nhiều tiêu thức.
Những yêu cầu đối với việc xây dựng bảng thống kê: Quy mô của bảng thống kê không nên qúa lớn. Các tiêu đề và tiêu mục chính xác, gọn và dễ hiểu. Các hàng và cột thường được ký hiệu. Các chỉ tiêu giải thích trong bảng thống kê cần được sắp xếp theo thứ tự hợp lý, phù hợp với mục đích nghiên cứu. Cách ghi các ký hiệu vào bảng thống kê theo nguyên tắc:
Ký hiệu (-) biểu hiện hiện tượng không có số liệu đó.
Ký hiệu (...) biểu hiện số liệu còn thiếu sẽ bổ sung sau.
Ký hiệu (x) nói lên hiện tượng không có liên quan đến điều đó.
Phần ghi chú ở cuối bảng để giải thích rõ nội dung của một số chỉ tiêu, để nói rõ nguồn tài liệu. Trong bảng thống kê bao giờ cũng phải có đơn vị tính cụ thể cho từng chỉ tiêu.
5. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung của phương pháp đồ thị
Đồ thị là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả có tính chất quy ước các tài liệu thống kê khác. Đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ để trình bày các đặc điểm số lượng của hiện tượng.
Căn cứ theo nội dung phản ánh có thể phân chia đồ thị thống kê thành: Đồ thị kết cấu, đồ thị phát triển, đồ thị hoàn thành kế hoạch hoặc định mức, đồ thị liên hệ, đồ thị so sánh, đồ thị phân phối.
Căn cứ vào hình thức biểu hiện có thể phân chia đồ thị thống kê thành: Biểu đồ hình cột, biểu đồ tượng hình, biểu đồ diện tích, đồ thị đường gấp khúc, bản đồ thống kê.
Khi xây dựng một đồ thị thống kê phải chú ý những yêu cầu chung sau: Xác định quy mô đồ thị cho vừa phải, lựa chọn loại đồ thị cho phù hợp, các thang đo tỷ lệ và độ rộng của đồ thị phải được xác định chính xác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT127.doc