Sáu là, hoàn thiện LCĐ trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong việc
xây dựng pháp luật về công đoàn, bảo đảm
các quy định của LCĐ vừa phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với pháp luật và
thông lệ quốc tế. Hơn nữa, hoàn thiện LCĐ
cần phải tiếp cận các tiêu chuẩn lao động
quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế. Việc tiếp cận các tiêu chuẩn lao
động quốc tế không chỉ bó hẹp trong 18 Công
ước của ILO mà Việt Nam đã phê chuẩn3 mà
còn phải tính đến đến các nguyên tắc cơ bản
của ILO như: loại bỏ lao động cưỡng bức,
việc làm bền vững, chống phân biệt đối xử,
đảm bảo các quyền cơ bản của người lao
động tại nơi làm việc. Do đó, hoàn thiện
pháp luật cần phải dựa trên cả những Công
ước mà Việt Nam chưa phê chuẩn như: Công
ước số 87 (1948) về quyền tự do liên kết và
về việc bảo vệ quyền được tổ chức; Công ước
số 98 (1949) về áp dụng những nguyên tắc
của quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
Do vậy, LCĐ cần phải thể chế hoá các Công
ước này, tạo điều kiện để Việt Nam sớm phê
chuẩn các Công ước trên trong thời gian tới.
Để góp phần đưa LCĐ đi vào cuộc sống,
tiếp tục phát huy hiệu lực, thì việc đánh giá
đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
công đoàn là rất quan trọng. Có như vậy, LCĐ
mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
liền với yêu cầu xây dựng tổ chức công đoàn
lớn mạnh, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, góp phần thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật công đoàn một số bất cập và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 37112009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
LUẬT CôNG ĐOÀN
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Nhận xét chung
Luật Công đoàn năm 1990 (LCĐ) được
Quốc hội khoá 8, kỳ họp thứ 7 thông qua vào
ngày 30/06/1990 thay thế Luật Công đoàn
năm 19571. LCĐ gồm 4 Chương 19 Điều, là
cơ sở pháp lý để phát huy vai trò của công
đoàn trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường, bảo đảm quyền dân chủ và
lợi ích của người lao động trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò, vị
trí của tổ chức công đoàn đã được xác định
rõ hơn trong hệ thống chính trị: “Công đoàn
là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công
nhân và của người lao động, cùng với các
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán
bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo
dục cán bộ, công nhân, viên chức và những
người lao động khác xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”2. LCĐ đã quy định về vị trí, chức
năng, quyền và nghĩa vụ của tổ chức công
đoàn cũng như trách nhiệm của các cơ quan,
đơn vị... trong việc tạo điều kiện cho công
đoàn thực hiện các quyền của công đoàn.
LCĐ là một trong những luật ra đời sớm
Luật Công đoàn 1990 đã thể chế hoá được các chủ trương, các định hướng của Đảng và Nhà nước trong lĩnh
vực điều tiết quan hệ lao động. Tuy nhiên, trước sự biến đổi và phát triển nhanh chóng của các quan hệ xã
hội, Luật này đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập với thể chế kinh tế thị trường. Đồng thời, về kỹ thuật lập pháp,
các quy định liên quan đến đối tượng, phạm vi điều chỉnh, cách tiếp cận xây dựng quyền công đoàn, sự phân
công quyền và trách nhiệm giữa các cấp công đoàn, nội dung các điều luật, và đặc biệt là các cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền công đoàn... đã tỏ ra hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng đi vào cuộc sống. Do vậy, cần
phải nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung phù hợp.
(*) TS. Khoa Luật - Đại học Qụốc gia Hà Nội.
(1) Đây là Luật Công đoàn đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1957 (tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà tháng 9/1957).
(2) Điều 10 Hiến pháp năm 1992.
LÊ THỊ HOÀI THU (*)
38 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
(năm 1957) và ngày càng phát huy tốt vai
trò tác dụng trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở nước ta. Đến nay, nhờ LCĐ,
tổ chức và hoạt động công đoàn đã có bước
phát triển tốt cả về số lượng và chất lượng1.
Các quy định của LCĐ là cơ sở pháp
lý quan trọng để tổ chức công đoàn thực
hiện các chức năng, quyền và trách nhiệm
cũng như địa vị xã hội của một tổ chức. Về
hình thức, LCĐ đã trở thành hệ thống luật
chuyên ngành tương đối quy củ với khá
nhiều văn bản pháp luật. Nhiều quy định
liên quan đến tổ chức công đoàn đã được đề
cập trong các văn bản có hiệu lực pháp lý
cao nhất như trong LCĐ và trong nhiều nghị
định, quyết định, chỉ thị, thông tư... của các
cơ quan quản lý ban hành, đặc biệt là Bộ
luật Lao động đã dành cả Chương XIII quy
định quyền và trách nhiệm của tổ chức công
đoàn (từ Điều 153 đến Điều 156) và có tới
43 Điều liên quan trực tiếp đến công đoàn.
Hệ thống pháp luật này đã điều chỉnh quan
hệ lao động, cơ chế hoạt động công đoàn
một cách tương đối toàn diện trong tất cả
các thành phần kinh tế, kể cả các quan hệ
lao động có yếu tố nước ngoài.
Về nguyên tắc, LCĐ đã thực hiện đồng
bộ hai nguyên tắc: tôn trọng quyền độc lập,
tự do hoạt động của công đoàn và đảm bảo
quyền, trách nhiệm của công đoàn. Các
nguyên tắc này là cơ sở để cho công đoàn
hoạt động, đề cao địa vị pháp lý và thực hiện
tốt các chức năng của mình, xây dựng mối
quan hệ lao động hài hoà, ổn định, phát triển
kinh tế song hành với tiến bộ xã hội.
Về nội dung, LCĐ đã xác định rõ quyền
và trách nhiệm của công đoàn trên tất cả lĩnh
vực của quan hệ lao động, đáp ứng yêu cầu
của việc điều chỉnh quan hệ công đoàn hiện
nay. Cụ thể là: Quyền gia nhập, thành lập
và hoạt động công đoàn của người lao động
thuộc mọi thành phần kinh tế, đây còn là
một trong những quyền cơ bản trong “quyền
công đoàn”, là nhiệm vụ quan trọng của công
đoàn Việt Nam; Quyền đại diện của công
đoàn (được ghi nhận tại Điều 10 Hiến pháp
năm 1992) được xác định trong cơ cấu của
tổ chức công đoàn, nội dung chức năng đại
diện, địa vị pháp lý của đại diện và các bảo
đảm cho việc thực hiện chức năng đại diện
của từng cấp công đoàn; Quyền tham gia với
cơ quan nhà nước và đại diện của người sử
dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan
hệ lao động (đây là quyền hạn của hệ thống
công đoàn các cấp); Quyền tham gia kiểm
tra, giám sát việc thi hành các quy định của
pháp luật lao động (là một trong những nhóm
quyền thể hiện chức năng tham gia vào hoạt
động quản lý của tổ chức công đoàn); Một
số quyền của công đoàn trong bảo vệ người
lao động về việc làm, tiền lương, tính mạng,
sức khỏe, bồi thường thiệt hại, giải quyết
tranh chấp lao động, đình công... cũng đồng
bộ với cơ chế điều chỉnh mới, góp phần bảo
vệ người lao động, phát triển quan hệ lao
động hài hoà, ổn định; Các quy định về bảo
đảm hoạt động của công đoàn nhằm tạo điều
kiện cho công đoàn hoạt động làm tròn chức
năng của mình đối với giai cấp công nhân và
người lao động.
Qua hơn 20 năm chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế, LCĐ đã từng bước thiết lập cơ chế
hoạt động công đoàn, góp phần xác lập và
hình thành thị trường lao động theo cơ chế
thị trường. Đây thực sự là lĩnh vực pháp luật
của giai cấp công nhân và người lao động
Việt Nam, tạo cơ chế bảo vệ người lao động
trước xu hướng giảm chi phí nhân công của
giới chủ và trước những tác động tiêu cực
của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, các quan hệ lao động phát triển
và biến đổi một cách nhanh chóng. Do đó,
LCĐ không thể tránh khỏi những bất cập cần
phải sửa đổi, bổ sung.
(1) Tính đến tháng 6/2009 cả nước có 670 Liên đoàn lao động cấp quận huyện, 436 công đoàn ngành địa phương, 97.306 công đoàn
cơ sở, nghiệp đoàn với hơn 6.463.000 đoàn viên. So với năm 1990, số lượng tăng hơn 3 triệu đoàn viên (Lê Đình Quảng, Một số
đánh giá về kết quả thực hiện Luật Công đoàn năm 1990, Tạp chí Lao động và Công đoàn, Số 393/2007).
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 39112009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
2. Một số bất cập của Luật Công đoàn
Thứ nhất, về hình thức, các quy định của
LCĐ còn bị ảnh hưởng của tư duy kinh tế
cũ, thể hiện rõ nét nhất là những quy định về
quyền dân chủ, quyền tham gia quản lý của
công đoàn, những quy định về hoạt động công
đoàn đối với từng loại hình doanh nghiệp.
Nhiều quy định trong LCĐ còn chung chung,
không thiết thực với quyền lợi của người lao
động trong nền kinh tế thị trường hoặc đã lỗi
thời, gây trở ngại lớn đến quyền thành lập và
gia nhập công đoàn của đông đảo người lao
động (ví dụ khoản 1, khoản 2 Điều 1; Điều 4,
khoản 1 Điều 8, Điều 11, Điều 12...). Có lẽ vì
vậy mà hiện nay, có tới 85% số doanh nghiệp
dân doanh, 65% số doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chưa có tổ chức công đoàn2.
Thứ hai, về nội dung, LCĐ được ban hành
ở thời kỳ nước ta còn thiếu những văn bản
pháp lý quan trọng đối với hoạt động công
đoàn. Sau gần 20 năm, nhiều đạo luật quan
trọng đã được sửa đổi, bổ sung như Hiến
pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Bộ luật Lao động năm 1994 (đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007),
Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Bảo hiểm
xã hội... Do vậy, một số nội dung quy định
trong LCĐ hiện hành đã không còn phù hợp
và tương thích với các đạo luật trên, chẳng
hạn như: Quyền và trách nhiệm của tổ chức
công đoàn được ghi nhận tại Điều 10 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
quy định quyền và trách nhiệm rất rộng và
cụ thể, nhưng nội dung và các quy định điều
chỉnh trong LCĐ còn nhiều hạn chế, định
tính là chủ yếu, thiếu chi tiết cụ thể. Đồng
thời, LCĐ quy định về quyền và trách nhiệm
của tổ chức công đoàn từ Điều 4 đến Điều 13
(chiếm quá 1/2 số điều của LCĐ) nhưng lại
trùng chéo với hệ thống pháp luật hiện hành,
không chi tiết hoá được các quy định để điều
chỉnh trực tiếp các hoạt động công đoàn, mặt
khác, Luật cũng chưa chi tiết hoá được các
quy định nhằm điều chỉnh hệ thống tổ chức
công đoàn, hoặc nhiều quy của Luật chưa
đồng bộ với hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật lao động nói riêng trong những
năm gần đây. Cũng với các quy định hiện
hành, Luật chưa tạo được điều kiện để các
bên tham gia xây dựng thoả ước ngành mà
Bộ luật Lao động đã ghi trong Chương thoả
ước lao động tập thể hay nội dung công đoàn
ngành không liên quan đến tranh chấp lao
động và đình công.
Nhìn chung, các quyền thiết thực của tổ
chức công đoàn trong quan hệ lao động hiện
nay, như quyền tổ chức và lãnh đạo đình
công, quyền tham gia các cơ cấu giải quyết
tranh chấp lao động, tham gia Ủy ban quan
hệ lao động, tham gia với các tổ chức đại
diện người sử dụng lao động và Nhà nước...
vẫn chủ yếu do các văn bản khác quy định.
Điều đó, làm giảm hiệu lực của đạo luật này,
khiến cho LCĐ ngày càng trở nên “hữu danh
vô thực”. Ngoài ra, tại thời điểm LCĐ được
ban hành, Việt Nam chưa trở lại sinh hoạt
với tư cách là thành viên của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO), chưa là thành viên của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), quan
hệ quốc tế của Công đoàn Việt Nam với công
đoàn nhiều nước thành viên Liên hiệp Công
đoàn thế giới (WFTU) lâm vào khủng hoảng
do sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu... nên việc tham khảo
kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng
Luật gặp nhiều khó khăn, chưa có điều kiện
thuận lợi để tiếp cận với những tư tưởng,
quan điểm về công đoàn trong nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, về kỹ thuật lập pháp. Đây là một
trong những hạn chế lớn nhất của LCĐ, làm
cho việc hiểu và thực hiện các quyền công
đoàn chưa được đầy đủ, nghiêm túc, ảnh
hưởng tới tính khả thi của Luật. Cụ thể là:
- LCĐ chưa xác định đối tượng và phạm
vi điều chỉnh một cách rõ ràng, cụ thể và
(2) Báo Lao động số 295/2007, Luật Công đoàn năm 1990: Cần sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn.
40 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nhất quán. Một số nội dung thuộc phạm vi,
đối tượng điều chỉnh của Luật nhưng chưa
được quy định, trong đó có những nội dung
quan trọng như: vấn đề thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn, việc
giải quyết khiếu nại và tranh chấp liên quan
tới quyền công đoàn...
- Cách tiếp cận xây dựng các quyền của
công đoàn trong LCĐ không theo một tiêu
chí rõ ràng, thống nhất. Có sự lẫn lộn giữa
quyền hạn, chức năng và nhiệm vụ của
công đoàn. Chương II của LCĐ với tiêu
đề “Quyền và trách nhiệm của công đoàn”
nhưng trong chương này có vấn đề được tiếp
cận theo chức năng của công đoàn (Điều 4,
Điều 11...), song lại có vấn đề được tiếp cận
theo lĩnh vực hoạt động của công đoàn (Điều
5, Điều 6, Điều 8...). Chính vì thế, việc thực
hiện các quyền công đoàn gặp nhiều khó
khăn trên thực tế.
- Nội dung các điều luật thiếu thống nhất,
trùng lặp. Nhiều nội dung độc lập cần được
quy định ở những điều luật khác nhau lại
đang được thể hiện trong cùng một điều luật
(Điều 1, Điều 3, Điều 4, Điều 11...). Ngược
lại, có một số nội dung được quy định lặp đi
lặp lại ở nhiều điều luật, như quyền đại diện
của công đoàn được quy định rải rác ở nhiều
điều (Điều 2, Điều 4, Điều 6, Điều 10, Điều
11) hay quyền tham gia quản lý (Điều 2,
Điều 5, Điều 7, Điều 8, Điều 11) hoặc quyền
kiểm tra giám sát của công đoàn (Điều 5,
Điều 6, Điều 9). Như vậy, có thể thấy, nhiều
nội dung quy định tại các khoản trong một
Điều cũng như các Điều trong một Chương
của LCĐ chưa được sắp xếp theo một tiêu
chí thống nhất, thiếu tính logic. Những hạn
chế này cũng làm cho việc nắm bắt và thực
hiện các quy định cụ thể của Luật gặp không
ít khó khăn, hạn chế tính khả thi.
- Một số từ ngữ, cụm từ trong Luật sử
dụng không chính xác, không còn phù hợp
với thuật ngữ pháp lý hiện hành như “Hội
đồng Bộ trưởng”, “Hội đồng Nhà nước”,
“Giám đốc xí nghiệp”, “Xí nghiệp quốc
doanh”, “thi hành kỷ luật đến mức buộc
người lao động thôi việc”...
Thứ tư, thiếu cơ chế bảo đảm thi hành các
quyền công đoàn, đặc biệt là các chế tài pháp
lý cụ thể đối với các hành vi vi phạm các
quy định của LCĐ. Điều 18 LCĐ quy định:
“Người vi phạm các quy định của Luật này,
thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử
lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự”. Quy định này quá
chung chung, không có tính khả thi, vì việc
xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự chỉ có thể được thực hiện
khi pháp luật tương ứng có các quy định về
hành vi vi phạm và chế tài xử lý cụ thể. Trong
trường hợp pháp luật hình sự và pháp luật
hành chính không quy định cụ thể thì người
có hành vi vi phạm LCĐ cũng không thể xử
lý được bằng các chế tài kỷ luật, hành chính
hoặc hình sự, dẫn đến tình trạng coi thường
Luật diễn ra khá phổ biến.
Pháp luật công đoàn cũng chưa có các biện
pháp chế tài phù hợp để xử lý những doanh
nghiệp trốn tránh, không trích nộp kinh phí
công đoàn. Quyền công đoàn trong việc quản
lý, hướng dẫn sử dụng ngân sách công đoàn
chưa rõ ràng.
Thứ năm, vấn đề chức năng, nhiệm vụ
công đoàn. Công đoàn là tổ chức đại diện
duy nhất của giai cấp công nhân và những
người lao động Việt Nam. LCĐ đã xác định:
“Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp, chính sách của người lao
động; tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra
hoạt động nhà nước; giáo dục, động viên
công nhân lao động phát huy quyền làm chủ
của đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa” (Điều 2). Đây là ba chức năng cơ
bản của tổ chức công đoàn, các chức năng
phụ thuộc nhau, quan hệ mật thiết với nhau,
trong đó chức năng đại diện bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao
động là trung tâm, là tiền đề, động lực để
thực hiện các chức năng khác. Tuy nhiên,
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 41112009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
cho đến nay, vẫn còn những cản trở không
nhỏ từ cơ chế, chính sách cũng như từ chính
bản thân tổ chức công đoàn đến chức năng
này. Trong mối quan hệ với Nhà nước và
giới sử dụng lao động, Công đoàn Việt Nam
chưa độc lập về phương diện kinh tế (còn sử
dụng nguồn kinh phí lớn từ giới sử dụng lao
động và ngân sách nhà nước, cán bộ công
đoàn cơ sở tuyệt đại đa số là người lao động
hưởng lương của người sử dụng lao động...).
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
vai trò của người lao động và người sử dụng
lao động (hay đúng hơn vai trò của người
lao động và Nhà nước) là đồng nhất thì cách
làm này là phù hợp. Ngược lại, trong cơ
chế kinh tế thị trường, Nhà nước, người lao
động và người sử dụng lao động đóng vai
trò khác nhau trên thị trường lao động và
trong quan hệ lao động thì cách làm này lại
nảy sinh những vấn đề không thuận lợi cho
tổ chức công đoàn. Từ chỗ lệ thuộc về kinh
tế, công đoàn rất khó hoặc không thể độc
lập thực sự về phương diện tổ chức. Đây có
thể coi là cản trở lớn nhất cho việc thực hiện
chức năng đại diện, bảo vệ người lao động
của tổ chức công đoàn. Đến lượt mình, hệ
thống tổ chức nội tại của công đoàn chưa
thực sự hợp lý để có thể thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ. Nội dung và phương pháp
hoạt động, nhất là ở công đoàn cấp cơ sở -
nơi thực hiện thường xuyên và chủ yếu nhất
chức năng bảo vệ người lao động - chưa
thực sự đổi mới để có thể theo kịp nhu cầu
của đời sống lao động - xã hội. Ngoài ra,
chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác
công đoàn, nhất là cán bộ công đoàn cơ sở,
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
3. Phương hướng hoàn thiện Luật
Công đoàn
Một là, cần khắc phục những bất hợp lý
của các quy định trong LCĐ, các quy định
liên quan đến quyền của tổ chức công đoàn
trong các văn bản pháp luật khác để xác định
những vấn đề còn phù hợp, không còn phù
hợp cần sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo sự
hợp lý, tính thống nhất trong điều chỉnh và
thực thi LCĐ, đảm bảo sự phù hợp với điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hai là, LCĐ sửa đổi không những phải
được xây dựng trên cơ sở của Hiến pháp
năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung), đồng
bộ, phù hợp với Bộ luật Lao động sửa đổi
bổ sung, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm
xã hội và các văn bản pháp luật khác có liên
quan, mà còn phải trở thành văn bản quan
trọng nhất để điều chỉnh các mối quan hệ
trong hoạt động công đoàn, dẫn chiếu đến
các văn bản khác nếu phạm vi điều chỉnh
của văn bản đó có liên quan đến hoạt động
42 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
công đoàn.
LCĐ cần sửa đổi, bổ sung theo hướng xác
định những vấn đề cần thiết điều chỉnh để
đáp ứng yêu cầu của quan hệ lao động, thể
hiện chức năng chính của công đoàn là đại
diện và bảo vệ người lao động ở tất cả các
cấp hoạt động công đoàn (vấn đề ký kết thoả
ước lao động tập thể, tổ chức và lãnh đạo
đình công, tham gia giải quyết tranh chấp
lao động, kể cả những tranh chấp được giải
quyết tại toà án, tham gia các thiết chế ba
bên như Uỷ ban quan hệ lao động, Hội đồng
trọng tài lao động...).
Ba là, cần phải thống nhất tiêu chí xây
dựng những quy định về quyền công đoàn
theo các chức năng cơ bản của công đoàn.
Chẳng hạn, công đoàn cấp trên của công
đoàn cơ sở sẽ có vai trò và trách nhiệm lớn
hơn trong việc thực hiện chức năng đại diện,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động trong quan hệ lao động
một cách trực tiếp. Công đoàn cơ sở chỉ thực
hiện chức năng này khi có sự phân công,
phân nhiệm của công đoàn cấp trên cơ sở
đối với những nơi có đủ điều kiện.
Bốn là, LCĐ cần cụ thể hoá những điều
kiện đảm bảo cho hoạt động công đoàn như:
Quy định việc trích nộp kinh phí công đoàn;
Quy định đảm bảo về kinh phí, vật chất, điều
kiện, phương tiện, thời gian hoạt động công
đoàn của cán bộ công đoàn; Quy định cơ chế
bảo vệ cán bộ công đoàn trong các trường
hợp như việc làm, thu nhập, nhất là cán bộ
công đoàn cơ sở hoạt động kiêm nhiệm; Việc
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật;
Giải quyết khiếu nại và tranh chấp liên quan
tới quyền công đoàn...
Năm là, cần xây dựng các cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền công đoàn. Đây là những
quy định pháp lý vô cùng quan trọng trong
việc bảo đảm cho công đoàn có thể thực hiện
được chức năng của mình, song chưa được
LCĐ hiện hành điều chỉnh. Cụ thể là: Quy
định về các chế tài pháp lý đối với những
hành vi vi phạm LCĐ; Vấn đề thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện LCĐ; Thẩm quyền, trình tự,
thủ tục khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong
quá trình thực hiện LCĐ; Quyền khởi kiện
và cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh
liên quan đến quyền công đoàn...
Sáu là, hoàn thiện LCĐ trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong việc
xây dựng pháp luật về công đoàn, bảo đảm
các quy định của LCĐ vừa phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với pháp luật và
thông lệ quốc tế. Hơn nữa, hoàn thiện LCĐ
cần phải tiếp cận các tiêu chuẩn lao động
quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế. Việc tiếp cận các tiêu chuẩn lao
động quốc tế không chỉ bó hẹp trong 18 Công
ước của ILO mà Việt Nam đã phê chuẩn3 mà
còn phải tính đến đến các nguyên tắc cơ bản
của ILO như: loại bỏ lao động cưỡng bức,
việc làm bền vững, chống phân biệt đối xử,
đảm bảo các quyền cơ bản của người lao
động tại nơi làm việc... Do đó, hoàn thiện
pháp luật cần phải dựa trên cả những Công
ước mà Việt Nam chưa phê chuẩn như: Công
ước số 87 (1948) về quyền tự do liên kết và
về việc bảo vệ quyền được tổ chức; Công ước
số 98 (1949) về áp dụng những nguyên tắc
của quyền tổ chức và thương lượng tập thể...
Do vậy, LCĐ cần phải thể chế hoá các Công
ước này, tạo điều kiện để Việt Nam sớm phê
chuẩn các Công ước trên trong thời gian tới.
Để góp phần đưa LCĐ đi vào cuộc sống,
tiếp tục phát huy hiệu lực, thì việc đánh giá
đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
công đoàn là rất quan trọng. Có như vậy, LCĐ
mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
liền với yêu cầu xây dựng tổ chức công đoàn
lớn mạnh, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, góp phần thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
(3) Nguồn của ILO: Tính đến tháng 6/2009 Việt Nam đã phê chuẩn 18 Công ước của ILO trong đó có 17 công ước đã có hiệu lực.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_cong_doan_mot_so_bat_cap_va_huong_hoan_thien.pdf