Luật sư biện hộ trong lịch sử các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới và Việt Nam

Thứ ba, tính độc lập và năng lực đội ngũ luật sư của chính các luật sư biện hộ. Tính độc lập của luật sư trở thành một trong những đặc tính, những giá trị của hệ thống tư pháp tại nhiều nước trên thế giới với triết lý: “sẽ không bao giờ có một hệ thống tư pháp độc lập nếu không có một hệ thống luật sư độc lập. Sự độc lập của hệ thống tư pháp không tồn tại trong chân không, được phản ánh qua sự độc lập của những người hành nghề luật sư” 13. Độc lập không phụ thuộc vào cơ quan nhà nước, độc lập trong giải quyết các vấn đề pháp lý theo yêu cầu của khách hàng. Tính độc lập của luật sư đang ngày càng được khẳng định tại Việt Nam, tuy nhiên, vẫn còn những ràng buộc, những hạn chế cho việc bảo đảm vị thế độc lập của luật sư từ cách nhìn nhận của các cơ quan hành pháp và tư pháp trong tố tụng hình sự. Ở nước ta, người bào chữa mang tư cách của người tham gia tố tụng và luật sư vẫn được nhìn nhận là một trong số các chủ thể bổ trợ tư pháp, có nghĩa là sự hiện diện của họ ít nhiều vẫn chỉ là mang tính thụ động, hỗ trợ, không nhất thiết, không bắt buộc. Về chủ quan, kỹ năng và bản lĩnh tranh tụng của luật sư khi biện hộ tại phiên tòa cũng còn những hạn chế. Một vấn đề quan trọng khác là số lượng luật sư ở Việt Nam, tỷ lệ số dân trên đầu luật sư còn thấp. Ngày 05/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, trong đó xác định mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến năm 2020 có thêm 9000 đến 12.000 luật sư để đạt con số khoảng từ 18.000 đến 20.000 luật sư với tỷ lệ trung bình khoảng 5.200 dân/Luật sư. Tỷ lệ số dân trên luật sư thấp phản ánh những khó khăn để xây dựng một thói quen, một văn hoá sử dụng luật sư trong các vụ việc, vụ án khi số vụ án hình sự có luật sư biện hộ chưa nhiều.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 166 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật sư biện hộ trong lịch sử các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới và Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÙP LUAÄT THEÁ GIÔÙI 64 LUẬT SƯ BIỆN HỘ TRONG LỊCH SỬ CÁC MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM Lê Lan Chi1 Tóm tắt: Trong các vụ án hình sự, luật sư - người biện hộ/bào chữa có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội cũng như bảo đảm các giá trị công lý, công bằng xã hội. Tuy nhiên, vai trò này là khác nhau trong các giai đoạn khác nhau, các mô hình khác nhau của tố tụng hình sự. Việc Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm cũng như gia tăng các quyền của người bị buộc tội đòi hỏi sự nâng cao vai trò của luật sư biện hộ, ngược lại, vai trò của luật sư biện hộ chỉ được bảo đảm trong một môi trường tố tụng dân chủ và tranh tụng thực chất. Đặc điểm của lịch sử tố tụng hình sự trên thế giới cũng như tại chính Việt Nam cho thấy rõ mối quan hệ này; những chiêm nghiệm và kinh nghiệm từ phương tây đến phương đông, từ quá khứ đến hiện tại đưa lại giá trị tham khảo hữu ích cho việc tạo lập một vị thế thoả đáng cho luật sư biện hộ ở nước ta trong thời gian tới. Từ khoá: luật sư, biện hộ, tố tụng hình sự, tranh tụng, người bị buộc tội, tố tụng tố cáo, tố tụng thẩm vấn, tố tụng tranh tụng. Nhận bài: 10/05/2018; Hoàn thành biên tập: 23/05/2018; Duyệt đăng: 26/07/2018. Abstract: In criminal cases, lawyer-pleading/defending person has important role in ensuring the accused’s rights and ensuring justice values, social equality. However, this role is different at different stages, models of criminal procedure. The recognization of adversarial principle in hearing by the criminal procedure Code 2015 is ensured and the accused is given more rights that requires the advocates’s role to be encreased. However,the advocates’s role is only ensured in a democratic procedure real litigation environment. This relation is clearly shown via criminal procedure history in the world and in Vietnam. Experiments and experiences from western region to eastern region, from the past to present brings about useful value of reference for creating a reasonable status for advocates in Vietnam in the future. Keywords: lawyer, pleading, criminal procedure, litigation, the accused, denunciation procedure, inquisitional procedure, adversarial procedure. Date of receipt: 10/05/2018; Date of revision: 23/05/2018; Date of approval: 26/07/2018. 1 Tiến sỹ Luật, Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội 2 Xem: Anton-Hermann Chroustc, Legal Profession in Ancient Athens, Notre Dame Law Review, Volume 29, Issue 3, Article 2 và Phan Trung Hoài, Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003: “Từ thế kỷ I hoặc II trước và sau công nguyên, tại Hy Lạp (Grèce) và La Mã (Rome) đã xuất hiện một loại hiệp sĩ đặc biệt. Loại hiệp sỹ này không dùng khí giới hay bắp thịt (sức mạnh về thể lực) để chiến thắng kẻ địch, mà chỉ dùng thiên tài ngôn ngữ và sự hiểu biết rộng rãi về cổ luật để đứng ra bênh vực cho những kẻ nghèo nàn, yếu thế, thấp kể bé miệng hoặc phụ nữ bị ngược đãi trước các thế lực đương thời. Họ được gọi tên là “Advocatus” (người biện hộ)”. 1. Luật sư biện hộ hình sự trong lịch sử các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới Trong lịch sử tố tụng hình sự, những hình ảnh đầu tiên về người biện hộ là hình ảnh của những “hiệp sĩ” - những người hùng bảo vệ kẻ thân cô thế yếu trong các phiên tòa hình sự, không nhận thù lao, không tư lợi cách đây hơn 2000 năm2. Trước đó, mô hình tố tụng tố cáo (từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ kéo dài đến giai đoạn đầu của thời kỳ phong kiến) – là mô hình tố tụng được đặc trưng bởi vai trò của người tố cáo (thường là người bị tội phạm xâm hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản), người tố cáo có quyền phát động vụ án, có Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö” 65 3 Nguyễn Văn Tuân, Pháp luật về luật sư và đạo đức nghề nghiệp luật sư, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, 2014, tr.7, 8 4 Erika Fairchild, Harry D. Dammer, Comparative Criminal Justice Systems, Wadsworth Thomson Learning, USA, 2001, p. 146 quyền thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ để buộc tội cũng như có quyền dừng lại tiến trình buộc tội để tha miễn cho người phạm tội. Ngược lại, người bị buộc tội cũng có quyền chứng minh sự vô tội của mình nhưng bằng cách vượt qua những thử thách về tâm linh hoặc những thử thách về thể chất. Người bị buộc tội bị tước bỏ những cơ hội thông thường nhất để chứng minh sự vô tội và rất cần có người biện hộ để được bảo vệ, được tiếp cận công lý. Trong mô hình tố tụng này, người biện hộ được trông đợi, được kỳ vọng nhưng sự xuất hiện của họ tương đối muộn, họ cũng chưa được các quan toà hay nhà cầm quyền chào đón và đảm bảo các điều kiện để thực hiện công việc biện hộ. Phải từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, tại một số phiên toà ở Hy Lạp cổ đại và sau đó là La Mã cổ đại, “nguyên cáo hoặc bị cáo có thể trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Hội đồng hoặc nhờ người khác có tài hùng biện viết hoặc trình bày hộ ý kiến, lý lẽ trước hội đồng. Với hình thức tố tụng như vậy đã tạo điều kiện và thúc đẩy việc hình thành nghề luật sư”3. Sự tối tăm và dã man của mô hình tố tụng tố cáo dần được thay thế bằng mô hình tố tụng xét hỏi. Trong mô hình tố tụng xét hỏi, vai trò buộc tội của người tố cáo, của nạn nhân của tội phạm từng bước được dịch chuyển sang cho Nhà nước và Nhà nước nhận lấy trách nhiệm buộc tội cũng như trách nhiệm thu thập chứng cứ để chứng minh cho lời buộc tội của mình. Đây là sự thay đổi tạo nên một trong những đặc trưng của mô hình tố tụng thẩm vấn so với mô hình tố tụng tố cáo khi nạn nhân không còn được trao “quyền” chứng minh tội phạm (nhưng thực chất là trao “nghĩa vụ” chứng minh tội phạm). Nhà nước đã tự dành cho mình quyền phát động truy tố, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, thể hiện tính chủ động và tích cực đáng kể trong cuộc chiến chống tội phạm và đem lại công lý, công bằng, trật tự và ổn định xã hội. Tuy nhiên, Nhà nước cũng đã tự dành cho mình một quyền lực tố tụng mang tính chi phối, áp đảo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và người bị buộc tội chỉ là đối tượng truy cứu trách nhiệm của Nhà nước mà không được coi là một chủ thể của tố tụng hình sự. Phương thức điều tra đặc trưng của mô hình tố tụng này là thẩm vấn (xét hỏi), được tiến hành phổ biến từ điều tra đến xét xử. Người bị buộc tội với tư cách đối tượng truy cứu trách nhiệm của Nhà nước khi bị thẩm vấn có nghĩa vụ phải khai báo trung thực, bao gồm việc phải khai báo cả những nội dung buộc tội chính mình, đặc biệt, nếu được cho là không khai báo trung thực, có thể phải chịu nhục hình4. Chứng cứ chủ yếu của tố tụng xét hỏi là chứng cứ viết và được đưa vào hồ sơ vụ án. Phiên toà của tố tụng xét hỏi xét xử trên cơ sở thẩm vấn để kiểm tra các chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thu thập từ giai đoạn điều tra trước phiên toà, yếu tố tranh tụng, tranh biện rất mờ nhạt. Người bị buộc tội ở vị thế bất bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội, lại phải đối diện với quá trình điều tra kéo dài, phải chấp nhận các biện pháp cưỡng chế giam giữ và nhục hình - người bị buộc tội được đối xử như có tội từ trước khi họ bị tuyên án. Những đặc điểm trên của mô hình tố tụng thẩm vấn càng đòi hỏi vai trò của người biện hộ để đem lại sự cân bằng hơn, công bằng hơn cho người bị buộc tội. Tuy nhiên, người biện hộ được cho là không cần thiết đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, bởi nhận thức rằng Nhà nước đã tiến hành điều tra toàn diện, khách quan, chắc chắn, do đó gần như không có oan sai, bởi nhận thức rằng những biện pháp cưỡng chế áp dụng trước khi xét xử, những đối xử như là có tội trước khi xét xử là mang tính tất yếu khách quan để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với tội phạm và do người phạm tội đáng bị đối xử như vậy, kể cả trước khi xét xử. Mô hình tố tụng tranh tụng là mô hình tố tụng mà luật sư – người biện hộ được đề cao PHAÙP LUAÄT THEÁ GIÔÙI 66 hơn cả về vị thế và chức năng nghề nghiệp của họ. Tố tụng tranh tụng với sự phân định rõ ràng các chức năng của tố tụng: chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử. Phương thức chứng minh để xác định sự thật của vụ án chủ yếu dựa trên tranh tụng, tranh luận giữa các bên có quyền và lợi ích đối lập nhau. Trong vụ án hình sự, luật sư là chủ thể chính thực hiện chức năng gỡ tội - một trong ba chức năng của tố tụng hình sự. Hoạt động tranh tụng của luật sư giúp các phán quyết của tòa án khách quan, toàn diện và đặc biệt là bảo đảm tính có căn cứ, có lập luận của các phán quyết vì sự thật của vụ án, bản án, quyết định của tòa án được dựa trên kết quả tranh tụng, ý kiến của các bên tại phiên tòa. Các quyền của bị cáo liên quan đến người biện hộ được ghi nhận và bảo đảm: quyền có người biện hộ, quyền giữ im lặng, quyền được bảo lãnh5. Ngoài ra, luật sư biện hộ trong tố tụng tranh tụng có địa vị hoàn toàn khác trong tố tụng xét hỏi còn bởi vai trò khách quan hơn, vô tư hơn, độc lập hơn của toà án, toà án với tư cách người trọng tài trong cuộc chiến pháp lý giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, khác với vị trí của toà án trong tố tụng xét hỏi. Trong lịch sử nhân loại, các mô hình tố tụng nêu trên đều ít nhiều bị tác động bởi yếu tố tôn giáo, đặc biệt là tố tụng xét hỏi trong thời kỳ trung cổ tại Châu Âu, với sự ra đời của các toà án tôn giáo hay toà án xét xử những kẻ dị giáo, vô đạo, vô thần hoặc phù thuỷ. Nguyên tắc suy đoán có tội kết hợp với các định kiến tôn giáo, quyền lực tôn giáo đẩy người bị buộc tội vào thế càng phải chấp nhận những biện pháp cưỡng chế tố tụng tiền kết án và những hình phạt hậu kết án đặc biệt man rợ, người bị buộc tội càng có địa vị thấp kém và tương tự như vậy là những người đứng về phía họ, bao gồm cả các luật sư biện hộ. Tất nhiên, không thể phủ nhận yếu tố tranh tụng và dân chủ ở mức độ nhất định của tố tụng hình sự Hồi giáo. Tại một số quốc gia Hồi giáo Trung Đông hiện hữu một mô hình tố tụng hình sự khác – mô hình tố tụng hình sự Hồi giáo. Hình thức tố tụng này bị chi phối bởi yếu tố tôn giáo, cả luật nội dung và luật tố tụng đều phản ánh những quan điểm tôn giáo của Thiên chúa (Thánh Ala) qua những thông điệp được truyền tải từ Thánh Ala qua Thiên sứ Muhammad về tội phạm và xử lý tội phạm. Thánh Ala đòi hỏi người phán xử phải nghe cả hai bên, phải dành cho bên bị cáo buộc cơ hội được bào chữa và không bị đối xử như là có tội cho đến khi bị kết án. Mặc dù vậy, mô hình tố tụng này ở giai đoạn nguyên bản với những yêu cầu dị biệt, bất bình đẳng trong đánh giá chứng cứ như dựa trên nhân thân của người làm chứng, trên giới tính và số lượng của người làm chứng, với những phiên tòa không công khai, đậm màu sắc tôn giáo cũng không chào đón các luật sư tranh tụng, đặc biệt khi thân chủ của họ được coi là những kẻ phạm các tội Hudus – tội chống lại Thiên chúa. “Mặc dù người biện hộ có thể được sử dụng trong nhiều vụ án nhưng họ không được có mặt ở tất cả các phiên toà, không có quyền tham dự”6. 2. Luật sư tranh tụng hình sự trong mô hình tố tụng xét hỏi tại Việt Nam Dù bị ảnh hưởng của pháp luật các triều đại phong kiến Trung Hoa (thuộc nhóm “Trung hoa pháp hệ” cùng với các quốc gia khác ở khu vực Đông Á), bị ảnh hưởng bởi pháp luật của Cộng hoà Pháp trong nửa đầu thế kỷ XX thì tố tụng hình sự Việt Nam đều đi theo mô hình tố tụng xét hỏi. Những năm 1980, Việt Nam tiếp tục đi theo mô hình tố tụng này khi chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng pháp luật Xô Viết trong quá trình xây dựng BLTTHS mới năm 1988. Dù với các nguồn gốc khác nhau, thể hiện ở các mức độ khác nhau, nhưng những đặc tính của mô hình tố tụng xét hỏi hiện diện trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam đều phản ánh việc người bị buộc tội cũng như người biện hộ của họ có địa vị tố tụng khá hạn chế. Giai đoạn điều tra là 5 Erika Fairchild, Harry D. Dammer, Comparative Criminal Justice Systems, Wadsworth Thomson Learning, USA, 2001, p. 141 6 Erika Fairchild, Harry D. Dammer, Comparative Criminal Justice Systems, Wadsworth Thomson Learning, USA, 2001, p. 160 Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö” 67 7 Đào Duy Anh, Việt Nam Văn hóa sử cương, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1992, trang 171 (tái bản theo nguyên bản của Quan hải tùng thư 1938) 8 Lê Đức Tiết, Về Hương ước, lệ làng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 (Phần phụ lục (một số bản hương ước cổ lưu tại Thư viện Hà Nội) 9 Lê Đức Tiết, Về Hương ước, lệ làng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 (Phần phụ lục (một số bản hương ước cổ lưu tại Thư viện Hà Nội) giai đoạn trọng tâm của quá trình chứng minh với hình thức điều tra xét hỏi được đề cao, sự phân tách các chức năng tố tụng không thật sự rõ ràng tương tự như tố tụng hình sự châu Âu lục địa với mô hình tố tụng thẩm vấn mà phần trên đã đề cập. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nghề luật sư đã manh nha xuất hiện. Những người này được gọi là các thầy cung, thầy kiện. Họ sử dụng sự hiểu biết pháp luật của mình để làm các công việc như viết đơn kiện, bày chỉ “đường đi nước bước” cho người cáo kiện (nguyên đơn, nguyên cáo) hoặc bị kiện (bị đơn, bị cáo). Đây là những hoạt động dịch vụ pháp lý đáp ứng nhu cầu tất yếu khách quan của người dân, với trình độ dân trí còn thấp, trong khi nhu cầu hỗ trợ về mặt pháp lý trong các vụ án hình sự hay trong các tranh chấp hộ hôn, điền sản lại là rất lớn Mặt khác, nhu cầu này còn xuất phát từ sự bất bình đẳng xã hội, bất bình đẳng về địa vị chính trị, kinh tế dẫn tới bất bình đẳng về địa vị pháp lý trong quá trình tố tụng. Chính vì vậy, họ cần có những người biện hộ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, những thầy cung, thầy kiện này không có tư cách tranh tụng rõ ràng. Về địa vị xã hội, họ cũng không được gọi là kẻ “Sĩ”, không được xếp vào tầng lớp trí thức trong xã hội. Lý giải về điều này, học giả Đào Duy Anh cho rằng: “Nhà lập pháp (thời quân chủ) dụng tâm làm cho dân bớt kiện tụng, như gia tội những người chống án không căn cứ, cấm nghề thầy kiện, thầy cung. Sở dĩ có điều này vì dân nhà quê ta rất hiếu tụng, đó cũng là một ảnh hưởng của nông nghiệp”7. Như vậy, nhu cầu từ xã hội, từ người dân về nghề luật sư – biện hộ hình sự là có thật nhưng nhu cầu từ phía chính quyền, từ người cai trị xã hội thì không. Những tranh chấp, kiện tụng trong nhiều trường hợp bị bộ máy hành chính – tư pháp nhận định là những “mầm loạn”, do vậy những tranh chấp, kiện tụng bị hạn chế đến mức đối đa để duy trì sự “ổn định” của Nhà nước. Đó là từ phía chính quyền trung ương, còn từ phía các cộng đồng làng xã, người biện hộ trong các tranh chấp cũng là loại người không được hoan nghênh. Trong lịch sử Việt Nam, làng xã là những “quốc gia” thu nhỏ, về mặt thiết chế, có một bộ máy chính quyền tương đối tự chủ và độc lập nhất định với chính quyền trung ương: có cơ quan đại diện (hội đồng đề mục, tiên chỉ), quản lý hành chính (lý trưởng), quản lý trật tự trị an (trương tuần, tuần đinh) và về mặt thể chế, có hương ước, lệ làng. Trong mối quan hệ với chính quyền trung ương, làng xã luôn có xu hướng muốn khẳng định sự độc lập trên nhiều phương diện, trong đó có độc lập trên phương diện quản lý an ninh trật tự và phán định các tranh chấp. Do vậy, những khiếu kiện hình sự có xu hướng được giải quyết trước hết tại các thiết chế của làng xã, nếu không giải quyết được mới chuyển lên huyện phủ. Điều 74 H ương ước làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lư u, Nghệ An: “Nếu không xét được bình tình thì mới lên kêu ở quan huyện, quan phủ. Quan phủ, quan huyện xử lý cũng y như tình lý làng xử, thời làng phạt kẻ ấy 1 con lợn đáng giá 3 quan. Còn những kẻ không trình làng xử trư ớc, lên quan huyện, quan phủ để kiện, làng cũng phạt đồng nh ư vậy”8. Khoản thứ 70 Hương ước làng Mộ Trạch Hương ước làng Mộ Trạch, xã Cửu Khoán, xứ Hải Dương quy định: “nếu ai có sự gì bất bình thì trình lý trưởng khu xử, không được thiên tiện cãi nhau, đánh nhau. Nếu xử không nghe thì đến ngày hội đồng đem ra xét xử, người có lỗi phải phạt nặng, người không lỗi phải phạt người kém lỗi hay phần. Phạt cả đôi bên để khuyến khích lấy sự hòa nhẫn hòa mục”9. Sự “hoà nhẫn hoà mục” cũng chính là sự ổn định của làng xã và cũng là cơ sở HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 68 10 Trê Cóc – Truyện dài khuyết danh dân gian Việt Nam 11 Xem Nguyễn Văn, Sự hình thành và phát triển pháp luật nghề luật sư ở Việt Nam, Số chuyên đề Pháp luật về luật sư, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2011, trang 16, 17 để duy trì quyền lực của chính quyền làng xã cũng như sự độc lập của chính quyền làng xã với chính quyền nhà nước. Trong bối cảnh như vậy, những người hành nghề “luật sư” không có điều kiện để phát triển, bị bóp méo qua lăng kính dân gian: “Chỉ nghề dạy khỉ leo cây, Xui nguyên giục bị khéo hay bày trò” hay “Đơn từ mẹo mực vào ra, Bàn tay tráo trở coi đà ngon không”10. Khi thực dân Pháp đến xâm lược nước ta và dần hình thành bộ máy cai trị, Việt Nam trở thành quốc gia nửa thuộc địa, nửa phong kiến, năm 1884, Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và người Việt Nam đã nhập quốc tích Pháp. Các luật sư chỉ biện hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp. Như vậy, đây cũng là sự tiếp nối của cái gọi là “lễ không đến thứ dân, hình không đến bậc trượng phu”, chỉ khác là Luật sư chỉ dành cho những người có quốc tịch Pháp và bảo vệ lợi ích của người Pháp. Phải đến năm 1911, với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, người Pháp mới mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của Toàn quyền Đông dương về tổ chức Luật sư đoàn ở một số thành phố lớn mở rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả trước Toà Nam án – điều đó có nghĩa là đến lúc này người Việt Nam mới có quyền sử dụng luật sư ngay trên mảnh đất của cha ông mình. Sau khi đất nước dành được độc lập, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 46/SL về tổ chức Đoàn luật sư. Sắc lệnh này vẫn giữ lại các Đoàn luật luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa như Sắc lệnh ngày 25/5/1930 nhưng đã khẳng định những vấn đề quan trọng như điều kiện làm luật sư là: Người Việt Nam không kể nam hay nữ; có bằng cử nhân luật; có hạnh kiểm tốt; đã tập sự 3 năm ở một văn phòng luật sư. Cùng với việc Hiến pháp năm 1946 quy định: “Các phiên tòa đều xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt; người bị cáo có quyền bào chữa lấy hoặc mượn luật sư’’ (Điều 67) đã tạo ra những tiền đề cho sự phát triển của đội ngũ luật sư biện hộ ở nước ta. Tiếp sau Hiến pháp, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định chế định bào chữa viên cho các bị cáo tại các Tòa án. Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng cho người không phải là luật sư cũng được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong các vụ án dân sự11. Quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980. Tuy nhiên, từ năm 1946 đến năm 1986, đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cũng như các cuộc chiến tranh biên giới và sau đó là những năm hậu chiến đặc biệt khó khăn, trì trệ về kinh tế và xã hội, pháp luật và tư pháp. Chỉ sau khi thực hiện chính sách Đổi mới năm 1986, Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 mới được ban hành (ngày 18/12/1987) và 15 năm sau là Pháp lệnh luật sư năm 2001. Vị thế của luật sư biện hộ - người bào chữa cũng dần được khẳng định, gắn với việc ban hành và pháp điển pháp luật luật sư và pháp luật tố tụng hình sự. Luật Luật sư năm 2006 và sửa đổi năm 2012 đã đặt ra những quy định theo hướng ngày càng bảo đảm vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mặt khác, vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự còn phải được nhìn nhận từ các quy định về quyền của người bị buộc tội – thân chủ của họ, trong pháp luật tố tụng hình sự, cũng ngày càng được mở rộng và đảm bảo thực hiện trong các BLTTHS năm 2003 và năm 2015. Trải qua các BLTTHS năm 1988, năm 2003, năm 2015, có thể thấy luật sư với vai trò biện hộ được tham gia sớm hơn vào tiến trình tố tụng, được trao nhiều quyền hơn trong giai đoạn khởi tố, điều tra, được chính thức ghi nhận có quyền thu thập chứng cứ, được tranh tụng bình đẳng hơn với đại diện Viện kiểm sát Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö” 69 12 Lê Lan Chi, Tòa án với vai trò bảo đảm quyền con người trong mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, Tập 34, Số 1, 2018, tr. 57,58 tại phiên toà. Chưa bao giờ, luật sư – người bào chữa được trao nhiều quyền biện hộ như hiện nay, phản ánh những nỗ lực cải cách tư pháp đã và đang được triển khai trong tố tụng hình sự gần hai thập niên qua. 3. Một số vấn đề đặt ra để nâng cao vị thế của luật sư biện hộ ở nước ta - từ lăng kính lịch sử và mô hình tố tụng hình sự Tuy nhiên, bên cạnh những ghi nhận đáng kể về mặt pháp lý trong tiến trình lập pháp hơn 30 năm qua (1987-2018) ở nước ta, tiếng nói và hiệu quả biện hộ của luật sư tiếp cận ở giác độ thực tế còn rất nhiều thách thức. Những đặc điểm của các giai đoạn lịch sử tố tụng hình sự và mô hình tố tụng hình sự nêu trên cho thấy để đảm bảo một vị thế thỏa đáng, hợp lý của luật sư biện hộ phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố nội tại của tư pháp hình sự cũng như các yếu tố khách quan, chủ quan khác đối với chính đội ngũ luật sư ở nước ta hiện nay: Thứ nhất, chức năng và nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay vẫn chưa có sự phân định rõ ràng ba chức năng buộc tội, gỡ tội và xét xử. Chức năng gỡ tội chưa được quan tâm thoả đáng và chưa là đối trọng thực sự với chức năng buộc tội. Giai đoạn điều tra là giai đoạn kéo dài, hạn chế về tính tranh tụng và được tạo nhiều điều kiện để thu thập chứng cứ buộc tội. “Pháp luật TTHS có thiên hướng “ưu ái” hơn, tạo sự chủ động nhiều hơn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, giảm thiểu các rào cản về thủ tục cho tiến trình phát hiện, điều tra, truy tố và kết tội người phạm tội. Tòa án được “thụ hưởng” nhiều quy định thuận lợi cho việc tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ví dụ, Tòa án (Thẩm phán, Hội đồng xét xử) có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, yêu cầu điều tra bổ sung, có quyền hoãn phiên toà (khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa, khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (Điều 179, Điều 199 Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 280, Điều 297 Bộ luật TTHS năm 2015). Có thể hiểu đây là những biện pháp bảo đảm “an toàn” cho Tòa án và các bản án của Toà án và cao hơn cả là bảo đảm chất lượng cho quyết định được trông đợi nhất của toàn bộ tiến trình tố tụng. Tuy nhiên, ở một lăng kính khác, có thể thấy Toà án với chức năng xét xử đang thực hiện một phần chức năng buộc tội hay Toà án/chức năng xét xử đang có sự gần gũi và tương hỗ với Viện kiểm sát/chức năng buộc tội. Trong các chức năng của TTHS, chức năng buộc tội được chú trọng hơn chức năng gỡ tội, và do vậy, chức năng gỡ tội cũng như quyền và các bảo đảm quyền cho người bị buộc tội khó có được vị trí và sự quan tâm thoả đáng”12. Thứ hai, tính độc lập tư pháp và giải trình tư pháp. Có thể nói, còn rất nhiều vấn đề cần tranh luận khi đánh giá về tính độc lập tư pháp và giải trình tư pháp. Thẩm phán và hội thẩm độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật là nội dung được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật tố tụng, luật tổ chức các cơ quan trong hệ thống tư pháp nhưng quy định này chỉ phản ánh tính độc lập của các chủ thể trực tiếp xét xử mà không phải là sự độc lập của nhánh tư pháp, của quyền tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước. Không ít trường hợp các phán quyết tư pháp bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài ngoài. Mặt khác, đặc thù của tố tụng xét hỏi cho thấy Tòa án không dễ dàng để hoàn toàn tách biệt vị trí chủ thể xét xử của mình với vị trí chủ thể buộc tội của Viện kiểm sát. Vì thế, chỗ đứng và tiếng nói tranh tụng của luật sư biện hộ trong tư pháp hình sự chưa thực sự được đảm bảo. Nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự chủ yếu được nhìn nhận là tạo ra các công cụ pháp lý hữu hiệu để cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành nhiệm vụ xác định tội phạm và người phạm tội, xét xử tội phạm và trừng phạt người phạm tội. Nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự chưa được HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 70 13 Charles E. Wyzanski, The new meaning of justice (Essay in judgemnet, ethics, and the law), Bantam Book, published by an arrangement with Little, Brown and Company in association with the Atlantic monthly Press,1966, p.177 nhìn nhận đầy đủ từ giác độ là tạo ra các cơ sở pháp lý để thúc đẩy tính giải trình và khả dự của phán quyết tư pháp cũng như đảm bảo quyền của người bị buộc tội trước các biện pháp cưỡng chế tố tụng. Thứ ba, tính độc lập và năng lực đội ngũ luật sư của chính các luật sư biện hộ. Tính độc lập của luật sư trở thành một trong những đặc tính, những giá trị của hệ thống tư pháp tại nhiều nước trên thế giới với triết lý: “sẽ không bao giờ có một hệ thống tư pháp độc lập nếu không có một hệ thống luật sư độc lập. Sự độc lập của hệ thống tư pháp không tồn tại trong chân không, được phản ánh qua sự độc lập của những người hành nghề luật sư” 13. Độc lập không phụ thuộc vào cơ quan nhà nước, độc lập trong giải quyết các vấn đề pháp lý theo yêu cầu của khách hàng. Tính độc lập của luật sư đang ngày càng được khẳng định tại Việt Nam, tuy nhiên, vẫn còn những ràng buộc, những hạn chế cho việc bảo đảm vị thế độc lập của luật sư từ cách nhìn nhận của các cơ quan hành pháp và tư pháp trong tố tụng hình sự. Ở nước ta, người bào chữa mang tư cách của người tham gia tố tụng và luật sư vẫn được nhìn nhận là một trong số các chủ thể bổ trợ tư pháp, có nghĩa là sự hiện diện của họ ít nhiều vẫn chỉ là mang tính thụ động, hỗ trợ, không nhất thiết, không bắt buộc. Về chủ quan, kỹ năng và bản lĩnh tranh tụng của luật sư khi biện hộ tại phiên tòa cũng còn những hạn chế. Một vấn đề quan trọng khác là số lượng luật sư ở Việt Nam, tỷ lệ số dân trên đầu luật sư còn thấp. Ngày 05/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, trong đó xác định mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến năm 2020 có thêm 9000 đến 12.000 luật sư để đạt con số khoảng từ 18.000 đến 20.000 luật sư với tỷ lệ trung bình khoảng 5.200 dân/Luật sư. Tỷ lệ số dân trên luật sư thấp phản ánh những khó khăn để xây dựng một thói quen, một văn hoá sử dụng luật sư trong các vụ việc, vụ án khi số vụ án hình sự có luật sư biện hộ chưa nhiều. Những hạn chế của tố tụng hình sự xét hỏi và bối cảnh lịch sử ở Việt Nam hiện nay đang dần được giải quyết bằng xu thế mở rộng tranh tụng và dân chủ hoá hoạt động tố tụng trong tiến trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên, tiến trình này hiện vẫn cần được giải quyết với rất nhiều nỗ lực, trong đó có những nỗ lực từ chính những người hành nghề luật sư biện hộ./. Trước vi phạm rõ nét của điều tra viên, luật sư yêu cầu điều tra viên có trách nhiệm tuân thủ đúng pháp luật. Bởi vì, nghĩa vụ của điều tra viên là phải ghi trung thực, chính xác và đầy đủ mọi câu trả lời của bị can. Giả thiết trường hợp, nếu bị can cố tình khai báo gian dối thì bị can sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật nên điều tra viên phải ghi đúng lời khai của bị can. Khi điều tra viên tự ý không hỏi cung nữa và dừng buổi làm việc, luật sư đã yêu cầu điều tra viên có nghĩa vụ tiếp tục hỏi cung (phải ghi trung thực lời khai của bị can) và phải tiếp tục làm việc bình thường. Điều tra viên vẫn tự ý bỏ về nên luật sư buộc phải yêu cầu cán bộ trại tạm giam lập biên bản về sự việc này. Thực tế của vụ án này, các cơ quan tiến hành tố tụng đã phối hợp xem xét toàn diện các tình tiết, chứng cứ khách quan, nên đã thống nhất đình chỉ điều tra đối với bị can vì hành vi của bị can không đủ yếu tố cấu thành tội tham ô tài sản./. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TÌNH HUỐNG THỰC TẾ VỀ ĐẠO ĐỨC... (Tiếp theo trang 63)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluat_su_bien_ho_trong_lich_su_cac_mo_hinh_to_tung_hinh_su_tr.pdf
Tài liệu liên quan