Luật sư với hoạt động xác minh sự thật khách quan của vụ án và một số kiến nghị

Một số kiến nghị bổ sung môn học “Kỹ năng điều tra của Luật sư” Dù ngoại biên của hoạt động xác minh sự thật khách quan cũng như nội hàm cần điều tra làm sáng tỏ của các vụ án/vụ việc như thế nào, nhu cầu học tập, nghiên cứu kỹ năng này, trong đó có kỹ năng điều tra là cần thiết đối với các Luật sư hành nghề tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, các tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về điều tra thường do cơ quan công an thực hiện, xuất bản và lưu hành nội bộ. Tại Học viện Tư pháp, hiện nay, các Luật sư chưa được nghiên cứu, học tập kỹ năng điều tra30. Trong khi đó, nhu cầu trên thực tế của việc này là rất quan trọng (như đã phân tích tại mục 3 trên đây). Vì vậy, Tác giả kiến nghị bổ sung môn học “Kỹ năng điều tra của Luật sư” vào chương trình học “Nghiệp vụ Luật sư”, cụ thể: Về thời lượng: chương trình học ít nhất là 03 (ba) tín chỉ; Về chương trình học: tổng quan về kỹ năng điều tra của Luật sư; chuyên sâu Giả thuyết điều tra; các kỹ năng điều tra tại hiện trường; Về giảng viên: kiến nghị mời các Điều tra viên nhiều kinh nghiệm (Bộ Công an) đã từng điều tra những vụ án nổi tiếng, phức tạp, chưa từng gây oan, sai do công tác điều tra; và/hoặc các Luật sư có kinh nghiệm trong vụ án hình sự, từng thực hiện/tư vấn/bào chữa nhiều vụ án phức tạp liên quan đến hoạt động điều tra.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật sư với hoạt động xác minh sự thật khách quan của vụ án và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 50 1. Nhu cầu học tập kỹ năng xác minh sự thật khách quan của vụ án của Luật sư 1.1 Quy định hiện hành về điều tra vụ án hình sự Theo tác giả, hoạt động xác minh sự thật khách quan của vụ án có phần gần gũi với hoạt động “điều tra tư nhân” của các thám tử tư tại các nước phát triển. Trên thực tế, các tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về điều tra thường do cơ quan công an thực hiện, xuất bản và lưu hành nội bộ. Tại Học viện Tư pháp, hiện nay các Luật sư chưa được nghiên cứu, học tập kỹ năng điều tra2 . Để tìm hiểu về hoạt động xác minh sự thật khách quan của vụ án, cần tìm hiểu các nội dung liên quan đến điều tra, đặc biệt là điều LUẬT SƯ VỚI HOẠT ĐỘNG XÁC MINH SỰ THẬT KHÁCH QUAN CỦA VỤ ÁN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Phạm Quang Huy1 1 Thạc sỹ, Luật sư, Nghiên cứu viên độc lập, Trưởng Văn phòng luật sư Hàn Sĩ Huy (Hà Nội). 2 Bộ Giáo trình cũ do Phan Hữu Thư chủ biên và NXB Công an nhân dân xuất bản năm 2002, gồm 04 tập: Tập I – Luật sư và nghề luật sư; Tập II – Chuyên đề pháp luật liên quan đến kỹ năng hành nghề luật sư; Tập III – Hợp đồng và tư vấn pháp luật và Tập IV – Kỹ năng tranh tụng. Cả 04 tập này không nhắc tới Kỹ năng điều tra của Luật sư (Ví dụ: Tập IV chỉ nhắc đến hoạt động đánh giá chứng cứ của Luật sư trong tố tụng hình sự tại trang 7-16). Tương tự, bộ giáo trình mới (2010) cũng không đề cập tới chủ đề này. Tóm tắt: Hiện nay, hoạt động xác minh sự thật khách quan của vụ án hay hoạt động điều tra, đặc biệt là trong vụ án hình sự, thường do các cơ quan điều tra Nhà nước (hệ thống Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và trong Quân đội nhân dân) thực hiện. Theo đó, các chứng cứ, bằng chứng do các cơ quan này thu thập theo trình tự tố tụng có giá trị là chứng cứ, chứng minh trong quá trình tố tụng. Việc điều tra của Luật sư nhằm tìm ra chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án/vụ việc chưa có giá trị chứng cứ, chứng minh và chưa được nghiên cứu thấu đáo trong quá trình học tập và hành nghề của Luật sư. Do đó, nhu cầu học tập nâng cao kỹ năng xác minh sự thật khách quan là cần thiết đối với việc đào tạo nghiệp vụ Luật sư. Bài viết đề cập đến nội dung này và có những đề xuất kiến nghị trong việc bổ sung chương trình nâng cao nghiệp vụ hành nghề của Luật sư trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Luật sư, Cơ quan điều, Viện kiểm sát, Tòa án, Điều tra viên Nhận bài: 25/10/2016; Hoàn thành biên tập:25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016 Lawyers and verifying objective facts of the case and some recommendations Abstract: Currently, verifying the facts of cases or investigation activities, especially in criminal cases, is often undertaken by the State’s investigation authority (investigating agency system of the People’s Police, People’s Procuracy and the Supreme people’s Army). Accordingly, the evidences collected and provided by these bodies during the proceedings are valued as evidences and proves for the proceedings. The investigation of the lawyer to find evidences to clarify the objective truth of the case / incident is of no evidentiary value, and has not been studied thoroughly during the learning and practicing of lawyers. Therefore, the learning and improving skills of objective truth verification is necessary for the professional training of lawyers. The paper mentions the situation and recommendations for additional programs to improve professional practice by lawyers in the current period. Keywords: Lawyers, Investigating Agencies, Procuracy, Courts, Investigators Received: Oct 25th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication: Dec 20 th, 2016. Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 51 tra vụ án hình sự. Theo đó, Chương X, BLTTHS năm 2015 về Những quy định chung về điều tra trong vụ án hình sự gồm 16 Điều từ Điều 163 đến Điều 178. Ngày 26 tháng 11 năm 2015, Quốc hội khóa XIII ban hành Luật số 99/2015/QH13 về Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (Luật ĐTHS) Theo các quy định này, thẩm quyền, phân cấp điều tra sơ lược như sau: (1) Hệ thống cơ quan điều tra: gồm Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) (Điều 4, Điều 5, Điều 6 Luật ĐTHS). (2) Bên cạnh đó, Luật ĐTHS cũng quy định các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, gồm có: một số cơ quan của Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Cảnh sát biển; Kiểm ngư; cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Đội An ninh ở Công an huyện....); Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm có Trại giam, đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương (Điều 9). 1.2 Thực trạng tư pháp Việt Nam với hoạt động điều tra Giai đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng, như Luật sư Lê Minh Đức nhận định “Ở giai đoạn điều tra, giai đoạn có tính quyết định của quá trình tiến hành tố tụng, vì người bị tạm giữ, bị can chỉ là đối tượng bị “tình nghi phạm tội”, nếu thiếu thận trọng thì khoảng cách giữa không phạm tội và phạm tội hoặc giữa lỗi và tội dễ bị xóa nhòa”3. Theo đó, mục đích hướng đến của Luật sư phải “đóng vai trò bác sĩ pháp lý” cho bị can, người được tiếp cận bị can với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có trách nhiệm giải thích cho bị can về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo, trung thực, khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung điều tra để minh oan cho người bị “tình nghi phạm tội”4 . Để được tham gia vào các giai đoạn tố tụng (bao gồm cả điều tra), Luật sư phải thực hiện thủ tục “đăng ký bào chữa” (BLTTHS đã thay thế thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục này). Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký người bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu các giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa trong hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản (Điều 78). (1) Trong cuốn sách Vụ án vườn điều từ những góc nhìn5, tác giả Luật sư Phạm Hồng Hải đã miêu tả quá trình bị can đối mặt với cơ quan tư pháp tỉnh Bình Thuận. Niềm vui bảo vệ công lý cho gia đình bị can Nguyễn Thị Lâm chỉ vỡ òa khi Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an công bố Bản kết luận điều tra số 01/KLĐT (C14-P9) quyêt́ định tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can đối với Nguyễn Thị Lâm, Nguyễn Văn Sơn, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thị Tiến; đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định trả tự do cho bà Nguyễn Th Lâm. Trong quá trình này, luật sư Phạm Hồng Hải và luật sư Trần Vũ Hải chịu rất nhiều áp lực, ngay từ dư luận và phía cảnh 3 Lê Minh Đức, “Phát huy vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, dẫn theo 773.html, truy cập ngày 19/07/2016. 4 Lê Minh Đức, Tlđd. 5 Phạm Hồng Hải. 2008. Vụ án vườn điều từ những góc nhìn. Hà Nội: Nxb. Công an nhân dân. Trang 10. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 52 sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận/Điều tra viên thụ lý vụ việc6. Trong bản tổng kết, luật sư Hải đã chỉ ra các vi phạm tố tụng của một số người thuộc cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bình Thuận như sai lầm trong thu thập chứng cứ; bức cung, nhục hình (“đấu tranh”) bị can; năng lực và lương tâm hạn chế của Điều tra viên (Cao Văn Hùng) thụ lý vụ việc.7 Trong một bối cảnh khác có liên quan, trước khi có kết luận chính thức về vụ án “Người tù thế kỷ” này (Ông Huỳnh Văn Nén được trả tự do), cựu Điều tra viên Cao Văn Hùng được kết nạp vào Đoàn Luật sư cũng tạo dư luận không tốt trong giới Luật sư nước nhà. (2) Tương tự, việc xét xử 5 công an sử dụng nhục hình gây chết người (Tuy Hòa, Phú Yên) với những mức án nhẹ (trong đó một người lãnh 5 năm tù giam, một người 2 năm tù giam, một người 1 năm 6 tháng tù giam và 2 người còn lại hưởng án treo) cũng tạo nên sự nghi hoặc nhất định đối với hệ thống tư pháp và công cuộc cải cách tư pháp nói chung8. Trong cả hai vụ việc nêu trên, sự tham gia của Luật sư trong phiên tòa còn gặp nhiều cản trở nhất định. Đặc biệt, trong một diễn biến bất thường, tại vụ việc thứ hai, các cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát tỉnh Phú Yên yêu cầu Liên đoàn Luật sư Việt Nam thu hồi chứng chỉ hành nghề Luật sư của Luật sư Võ An Đôn (Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại) với lý do có lời lẽ thiếu văn hóa, xúc phạm đến người tham gia tố tụng và nhiều cán bộ lãnh đạo các ngành nội chính của tỉnh Phú Yên/thành phố Tuy Hòa. Mặc dù, cuối cùng, yêu cầu bất hợp pháp và không chính đáng này bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam bác bỏ9 nhưng vụ việc cũng để lại nhiều dư âm không tốt trong môi trường tư pháp nước nhà10 11. (3) Bên cạnh vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn đã tốn nhiều bút, mực của báo chí Việt Nam, Vụ án ông Trần Văn Thêm (80 tuổi) bị truy tố về tội giết người tại tỉnh Vĩnh Phú (cũ) vào năm 1970 được Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) kết luận là oan sai vào ngày 09/8/2016 mới đây. Đây được xem là vụ án hy hữu trong lịch sử tố tụng hình sự, hầu hết các tài liệu liên quan đến vụ án đều đã bị thất lạc trong một thời gian dài. TANDTC mới đây đã tìm được 2 bản án sơ thẩm, phúc thẩm cùng tài liệu liên quan trong hồ sơ lưu trữ và quyết tâm nhanh chóng xử lý sự việc để chính thức minh oan cho ông Trần Văn Thêm12. May mắn cho không chỉ ngành tư pháp nước nhà lẫn công dân, người hàm oan vẫn sống được tới 46 năm để chờ đợi công lý đến được với mình. Câu hỏi đúng (right question13) cần đặt ra là còn bao nhiêu phận người oan sai và sống được đến ngày được giải oan. Theo số liệu án oan, sai giai đoạn 2011 – 2014, số vụ án oan, sai gồm 6 Phạm Hồng Hải, Sđd, tr. 310. 7 Phạm Hồng Hải, Sđd, tr. 357, 361. 8 Duy Thanh, M. Quang, Chủ tịch nước yêu cầu xử nghiêm vụ “dùng nhục hình”, Báo Tuổi trẻ, ngày 10/4/2014. 9 Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Báo cáo số 01/2015/BC-BVQLLUẬT SƯ ngày 18/01/2015 về kết quả làm việc với các cơ quan có thẩm quyền của TP. Tuy Hòa và tỉnh Phú Yên liên quan việc kiến nghị xử lý vi phạm của luật sư Võ An Đôn và ý kiến về kế hoạch thanh tra của Sở Tư pháp đối với hoạt động VPLUẬT SƯ Võ An Đôn (Đoàn luật sư Tỉnh Phú Yên). 10 Đào Tuấn, Thấy gì qua cái kết vụ đòi “trảm” luật sư Đôn?, Báo Lao động, ngày 24/01/2015. 11 Xem thêm: Phạm Quang Huy [2015]. “Tố tụng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Việt Nam, Hoa Kỳ và một số kiến nghị đối với Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (296), kỳ 2 tháng 8/2015, Tr 52-61. 12 Xuân Hoa, VnExpress, 9/8/2016, Cụ ông 80 tuổi mang án giết người hơn 40 năm được minh oan, xem 3450088.html , truy cập ngày 10/8/2016. 13 Trong bộ phim “Wall Street: Money Never Sleep”, Jacob Moore (do Shia LaBeouf đóng) được Louis Zabel (Frank Langella) trả lời về sự sụp đổ của các ngân hàng đầu tư (khủng hoảng tài chính 2008) rằng: “Câu hỏi đúng là ai sẽ không sụp đổ?” Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 53 71 vụ, giá trị bồi thường 30 tỷ đồng (Nguồn Liên đoàn Luật sư Việt Nam14) Song song với số liệu nêu trên của Liên đoàn Luật sư Việt Nam (những vụ việc có sự tham gia của Luật sư), theo Đoàn Luật sư Hà Nội, trong 47 vụ án có dấu hiệu oan sai mà Luật sư của đoàn từng trợ giúp pháp lý từ 01/10/2011 đến 30/9/2014, tương tự vụ việc (1) và (2) trên đây, oan sai chủ yếu xuất phát từ giai đoạn điều tra15. Tác giả cũng không phủ nhận rằng các Điều tra viên gây ra oan sai trong thống kê kể trên chỉ là số ít và vẫn có những Điều tra viên có lương tâm nghề nghiệp16. Từ thực tế hành nghề Luật sư trong thời gian qua, Luật sư Nguyễn Huy Thiệp nhận định “người bị tạm giữ, bị can, đặc biệt là những bị can đang bị tạm giam, người nhà của những người này rất mong muốn Luật sư tham gia vào từ giai đoạn điều tra, bởi đối với họ, lúc này Luật sư người bào chữa là người duy nhất có thể tư vấn và hướng dẫn họ tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Hơn thế nữa, khi tham gia từ giai đoạn điều tra, người bào chữa sẽ giám sát và kịp thời phát hiện những sai sót (nếu có) của Điều tra viên, từ đó có những đề xuất, kiến nghị đối với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng”17. Các hoạt động điều tra của Luật sư cũng góp phần tìm kiếm sự thật khách quan của vụ án và đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của thân chủ không bị xâm hại. 1.3 Tham khảo quy trình tư pháp Hoa Kỳ với hoạt động điều tra của Luật sư Trong quá trình tác nghiệp, theo quy định pháp luật TTHS Hoa Kỳ, luật sư bào chữa có 12 quyền, trong đó có quyền (1) Đại diện bị can ngay khi bị bắt giữ, để cung cấp cho thân chủ tư vấn suốt quá trình thẩm vấn và để đảm bảo sự bảo hộ̣ của hiến pháp không bị xâm phạm suốt quá trình tiền tố tụng; (2) Giám sát báo cáo của cảnh sát và điều tra sâu hơn để bào chữa cụ thể; và (3) phỏng vấn cảnh sát, bị can, nhân chứng và tìm kiếm bằng chứng và nhân chứng bổ sung nhân danh nguyên đơn18. Qua nghiên cứu và phỏng vấn trực tiếp một số chuyên gia pháp luật Hoa Kỳ19, tác giả chưa thấy Luật sư Hoa Kỳ phải thực hiện thủ tục “đăng ký bào chữa” như Luật sư tại Việt Nam. Theo Thomas J. Gardner, Terry M. Anderson, tại Hoa Kỳ, Luật sư bào chữa có toàn quyền đánh giá, kiểm tra chứng cứ và có tiếng nói quyết định về chứng cứ nào sẽ được đem trình bày trước Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn tại phiên xét xử20 . 1.4 Nhu cầu thực hiện điều tra của Luật sư Theo số liệu dẫn ra ở trên, vì đa số oan sai xuất phát từ giai đoạn điều tra nên trong quá trình tham gia tố tụng, chính bản thân Luật sư cần thực hiện các nghiệp vụ điều tra nhằm làm rõ sự thật khách quan, độc lập với sự điều tra của cơ quan điều tra Nhà nước. Trong một chừng mực nhất định, Luật sư từ trực giác nghề 14 Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Tạp chí Luật sư Việt Nam, Án oan sai và vai trò của luật sư, xem , truy cập ngày 10/8/2016. 15 Đặng Trung, Chân luật, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh 12/1/2015, Án oan sai ngày càng gia tăng và phức tạp, , truy cập ngày 10/8/2016. 16 Xem thêm: Nguyễn Văn Kiệp (Lâm Phương). 1998. Hồi ức Điều tra viên. Hà Nội: Quân đội nhân dân. 17 Nguyễn Huy Thiệp, Tham luận “Kỹ năng tham gia tố tụng của Luật sư trong giai đoạn điều tra” tại Hội thảo Kỹ năng thẩm vấn và tranh tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, xem luan-cua-luat-su-nguyen-huy-thiep-tai-hoi-thao-ky-nang-tham-van-va-tranh-tung-cua-luat-su-trong-cac-vu-an-hinh- su-737.html, truy cập ngày 18 James. A. Inciardi. 2005. Criminal Justice (7th edition). New York: Mc GrawHill. Page 349. 19 Tác giả được Đại sứ quán Hoa Kỳ mời với tư cách chuyên gia pháp lý địa phương (local spcecialist) tham gia các buổi tiếp tân (reception) với các thẩm phấn, luật sư Hoa Kỳ mong muốn tiếp chuyện với giới luật sư, luật gia Việt Nam. Trong một số dịp, tác giả đã kết nối giữa Đoàn Luật sư Hà Nội với các đối tác pháp lý Hoa Kỳ. 20 Thomas J. Gardner, Terry M. Anderson. Criminal Evidence: Principles and Cases (6th edition). Australia, Brazil, Canada, Mexico, Singapore, Spain, United Kingdom, United States: Thomson Wadsworth. Page 38 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 54 nghiệp, các chứng cứ, bằng chứng trực tiếp tại hiện trường; gián tiếp (bút lục...) do cơ quan công quyền cung cấp, phải tự mình thực hiện và thực nghiệm các hoạt động điều tra riêng rẽ. Từ việc thẩm tra chéo, đối chiếu các mối quan hệ hiện có của đương sự, các nhân chứng... để tìm ra sự mâu thuẫn, bất hợp lý mà vì một lý do nào đó, các cơ quan điều tra Nhà nước đã, vô tình hay hữu ý, bỏ qua. Từ các mâu thuẫn, phi logic này, Luật sư sẽ góp phần tìm đến sự thực khách quan của vụ án. Điều này không những giúp cho Luật sư làm đúng chức phận, lương tâm nghề nghiệp của mình mà còn góp phần tránh oan, sai trong công tác điều tra đi tìm sự thực khách quan của cơ quan có thẩm quyền. Tại đây, xuất hiện khoảng trống đào tạo/nghiên cứu cho nghiệp vụ điều tra mang tính “tư nhân” của Luật sư. Thông qua đó, việc nghiên cứu kỹ năng điều tra của Luật sư cung cấp ít nhất là một số yếu tố chỉ điểm cho các Luật sư khi tham gia tìm kiếm sự thực khách quan của vụ án. 2. Nội dung kỹ năng điều tra của Luật sư 2.1 Vân dụng kỹ năng điều tra Một Điều tra viên (ĐTV) lành nghề cần tiến hành theo các bước sau: (1) Phân loại (classification): ĐTV cần phải phân loại từng việc từng người với những tính chất riêng biệt của từng người, từng việc. Phân loại để ta tìm hiểu kẻ phạm pháp thuộc hạng nhà nghề, vô tình hay hữu ý, và việc tình tiền hay thù oán v.v... để cuộc điều tra có một phương hướng rõ rệt khi xúc tiến. (2) Bản đồ (Plan d’examination): Trung tâm của bản đồ là phạm trường, chung quanh là những chứng tích xa vời và kế cận. Nhờ đó mà công tác điều tra được xúc tiến việc nào trước việc nào sau. (3) So sánh (Comparaison): ĐTV cần phải biết so sánh điểm này với điểm kia, và so sánh sức tiến triển của sực việc với mức tiến bộ của thủ phạm. (4) Ức thuyết (Hypothèse)(Giả thuyết điều tra): Trong khi điều tra, “Thêm vào những chi tiết đã thâu lượm được chung quanh phạm trường, điều tra viên có thể bắt đầu dựng lên một ức thuyết để dự đoán loại tội trạng trước khi xác định cuối cùng”21 . (5) Nguyên nhân (la cause): biết được nguyên nhân làm tìm ra động cơ thúc đẩy hành động phạm pháp rồi đến giai đoạn phán đoán (raisonner). ĐTV tự đặt ra những câu hỏi: Có thể đã xảy ra như thế này sao? Có thể sẽ kết liễu như thế này được không? Tại sao có những hiện tượng như thế?v.v.. Việc phán đoán đòi hỏi một trình độ lý luận cần thiết để cân nhắc và suy luận. (6) Tổng hợp (le rassemblement général): tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề, không phải chỉ dựa theo vài ba chi tiết chung quanh phạm trường là đủ mà phải nhiều nơi thâu góp về. Hằng ngày, ĐTV lo việc tổng hợp tất cả những chứng tích ấy lại, và sắp xếp theo từng đợt. Chừng ấy, ĐTV sơ kết lần lần để đi đến tổng hợp đầy đủ. (7) Lập thành hồ sơ (former le dossier): Sau 6 bước trên, ĐTV có thể lập thành hồ sơ. Việc lập hồ sơ có tánh cách kết thúc giai đoạn điều tra. Cho nên, ĐTV phải thận trọng, và cân nhắc kỹ lưỡng bởi vì lập thành hồ sơ là có cả đề nghị xử lý. Thủ phạm, đồng phạm, và các dẫn chứng cụ thể cần phải được nêu lên rõ ràng22. Liên quan đến hoạt động xác minh sự thật khách quan của vụ án, BLTTHS mới năm 2015 quy định việc thu thập chứng cứ, Luật sư vận dụng những quy định của pháp luật để thực hiện các kỹ năng điều tra dựa trên các bước đã nêu trên, cụ thể như sau: - Được thu thập, đưa ra chứng cứ (Điểm h khoản 1 Điều 73) - Có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (khoản 2 Điều 88); 21 Lương Bình An. 1964. Kỹ thuật Điều tra tư pháp. Sài Gòn: Không ghi nơi xuất bản. Trang 12. 22 Lương Bình An 1964. Sđd. Trang 11 - 13. Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 55 - Theo quy định tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015, mà theo đó, nội dung của Bản án sơ thẩm phải ghi rõ: “c) Ý kiến của người bào chữa, bị hại, đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập;đ) Phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra;”. Luật sư vận dụng các bước điều tra như trên đã nêu để có thể tham gia hoặc đưa ra những ý kiến đề nghị với Điều tra viên trong việc tiến hành điều tra vụ án. 2.2 Kỹ năng điều tra chuyên biệt Tác giả bài viết Lương Bình An phân loại các phương pháp điều tra tội trộm; cướp; cờ bạc; bắt gái mãi dâm; bắt tội nhận hối lộ...mỗi loại tội có một phương pháp, thứ tự điều tra nhất định, phù hợp với đặc thù tự nhiên của phân loại tội phạm23. Trong khi đó, nhóm tác giả Học viện Cảnh sát nhân dân (HVCSND) cũng phân loại các phương pháp điều tra theo các loại tội phạm khác nhau. Ví dụ: phương pháp điều tra tội phạm sản xuất buôn bán hàng giả; Điều tra các vụ án tham ô tài sản; Phương pháp điều tra về tội phạm ma túy...24 . Nhóm tác giả HVCSND dựa vào phân tích 4 yếu tố cấu thành tội phạm, gồm: Khách thể/Chủ thể; mặt khách quan/chủ quan của tội phạm để triển khai hoạt động điều tra25. Trong nhiều trường hợp, để thực hiện được hoạt động điều tra “tư nhân” kể trên, Luật sư cần phải có cả nghiệp vụ trinh sát26, tiếp cận các đối tượng cần thiết (nhân chứng, người có quyền và lợi ích liên quan...). Ví dụ: Luật sư hoàn toàn có thể đóng vai một người xe ôm uống nước chè tại địa bàn gần nơi cần thu thập thông tin. Luật sư cũng cần nắm được cơ bản các nội dung liên quan đến dấu tay con người, giám định pháp y... Ví dụ, đối với khoa dấu tay, về cơ bản, ít nhất Luật sư phải biết các phân loại cơ bản như loại cung (arch), loại cong (loop), loại ốc (whorl)27. 2.3 Giả thuyết điều tra Tổng hợp các khái niệm khác nhau về giả thuyết điều tra, Tác giả bài viết Nguyễn Văn Nhật nhận định “Giả thuyết điều tra là những nhận định, phán đoán về bản chất của một vụ việc đang được điều tra, nội dung, các tình tiết và mối liên hệ giữa chúng, dựa trên cơ sở những thông tin đã thu thập được, kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động điều tra và những tài liệu của các ngành khoa học khác, làm phương hướng cho hoạt động điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ việc28”. Trong trường hợp cụ thể, có sự kiện là cơ thể người rơi từ nhà cao tầng xuống và tử vong, ĐTV có thể xác định nhiều giả thuyết điều tra khác nhau. Ví dụ: ĐTV tìm các chứng cứ, tài liệu, hồ sơ chứng minh (1) tai nạn do sơ ý (2) tự tử hoặc (3) án mạng, do người khác đẩy xuống. Luật sư, bằng kỹ năng nghề nghiệp, dựa trên cơ sở khoa học, trình tự logic, xác xuất logic, không bị phụ thuộc vào ý chí điều tra chủ quan của cơ quan Nhà nước, cần có và đưa ra những giả thuyết điều tra của riêng mình. Tóm lại, bất luận với phương pháp và kỹ thuật điều tra như thế nào, chứng cứ trực tiếp (thu thập hợp pháp tại hiện trường vụ án) sẽ có giá trị pháp lý và kết quả điều tra cao nhất, có 23 Lương Bình An 1964. Sđd. Trang 57, 67, 73. 24 Học viện Cảnh sát nhân dân. 2002. Giáo trình Phương pháp Điều tra các loại tội phạm cụ thể (Tập II). Hà Nội: Học viện Cảnh sát nhân dân. Trang 5, 42, 117. 25 Học viện Cảnh sát nhân dân (Tập II). 2002. Sđd. Trang 14. 26 Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (Bộ Nội vụ). 1996. Giáo trình Hoạt động nghiệp vụ trinh sát của lực lượng cảnh sát nhân dân. Hà Nội: Đại học Cảnh sát nhân dân. 27 Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. 1973. Khoa Dấu tay. Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia Việt Nam dịch Cộng Hòa. Sài Gòn: Bộ tư lệnh Cảnh sát quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Trang 7 28 Nguyễn Văn Nhật. 2002. Giả thuyết điều tra vụ án hình sự. Hà Nội: Công an nhân dân. Trang 17. 29 Cao Xuân Quyết. 2009. Giám định pháp y và Điều tra hình sự. Hà Nội: Chính trị quốc gia. Trang 155. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 56 sức thuyết phục nhất trong quá trình tìm kiếm sự thực khách quan của vụ án29. 2.4 Một số kiến nghị bổ sung môn học “Kỹ năng điều tra của Luật sư” Dù ngoại biên của hoạt động xác minh sự thật khách quan cũng như nội hàm cần điều tra làm sáng tỏ của các vụ án/vụ việc như thế nào, nhu cầu học tập, nghiên cứu kỹ năng này, trong đó có kỹ năng điều tra là cần thiết đối với các Luật sư hành nghề tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, các tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về điều tra thường do cơ quan công an thực hiện, xuất bản và lưu hành nội bộ. Tại Học viện Tư pháp, hiện nay, các Luật sư chưa được nghiên cứu, học tập kỹ năng điều tra30. Trong khi đó, nhu cầu trên thực tế của việc này là rất quan trọng (như đã phân tích tại mục 3 trên đây). Vì vậy, Tác giả kiến nghị bổ sung môn học “Kỹ năng điều tra của Luật sư” vào chương trình học “Nghiệp vụ Luật sư”, cụ thể: Về thời lượng: chương trình học ít nhất là 03 (ba) tín chỉ; Về chương trình học: tổng quan về kỹ năng điều tra của Luật sư; chuyên sâu Giả thuyết điều tra; các kỹ năng điều tra tại hiện trường; Về giảng viên: kiến nghị mời các Điều tra viên nhiều kinh nghiệm (Bộ Công an) đã từng điều tra những vụ án nổi tiếng, phức tạp, chưa từng gây oan, sai do công tác điều tra; và/hoặc các Luật sư có kinh nghiệm trong vụ án hình sự, từng thực hiện/tư vấn/bào chữa nhiều vụ án phức tạp liên quan đến hoạt động điều tra./. Tài liệu tham khảo: (1) Phạm Quang Huy (2014), “Bình luận về Hợp đồng chuyển nhượng bất động sản hình thành trong tương lai”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06 (262), kỳ 2 tháng 3/2014, Tr 24-37. (2) Phạm Quang Huy (2014). “Chính quyền địa phương ở Việt Nam, Trung Quốc, Thụy Điển, Hoa Kỳ và một số kiến nghị”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 24 (280), kỳ 2 tháng 12/2014, Tr 57-63. (3) Phạm Quang Huy (2015). “Tố tụng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ởViệt Nam, Hoa Kỳ và một số kiến nghị đối với Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (296), kỳ 2 tháng 8/2015, Tr 52-61. (4) Phạm Quang Huy (2016). “Bình luận Hương ước theo giác độ luật hợp đồng”, Tạp chí Luật học, số tháng 4/2016 (191), tr 42-49. (5) Phạm Quang Huy (2016). “Tội dâm ô với trẻ em: một số thực trạng và giải pháp pháp lý”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 13 (317) Kỳ 1 Tháng 7/2016, tr 44-51. (6) Phạm Quang Huy (2016). “Lý luận về Công lý & Pháp luật và một số kiến nghị”. Bài viết Kỷ yếu Hội thảo “Những vấn đề lý luận về pháp luật”, ngày 26/8/2016 do Trường ĐH Luật Tp. HCM tổ chức. (7) Hàn Sĩ Huy (2013), Nghiencuuquocte.net, Bài dịch “Trung Quốc tới hạn: Chi phí gia tăng của sự ổn định” bài viết “China at Tipping Point? The Rising Cost of Stability” của Xi ChenJournal of Democracy, Volume 24, Number 1, January 2013, pp. 57-64. (8) Phạm Quang Huy (2016). Bài viết “Bản chất tư của hội đoàn dân sự” trong Kỷ yếu Hội thảo hội thảo quốc tế “Góp ý Dự thảo Luật về hội” vào ngày 11/10/2016 do Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, tr136-150. (9) Phạm Quang Huy (2016). Bài viết “Các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng tại Myanmar và những thách thức”, Chuyên san Quý III/2016, Trung tâm Nghiên cứu NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), tr 91-98. (10) Phạm Quang Huy, Vũ Văn Anh (2016). “Một số hình thức và văn phong án văn Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 18 và số 19 tháng 10 năm 2016. 30 Tại website của Học viện Tư pháp, chương trình đào tạo có môn học “Kỹ năng của luật sư khi thu thập nguồn chứng cứ, chứng cứ”, xem truy cập ngày 13/9/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluat_su_voi_hoat_dong_xac_minh_su_that_khach_quan_cua_vu_an.pdf
Tài liệu liên quan