Luật TDTT của CHLB Đức quy định liệt
kê rất cụ thể các nhóm trường hợp hạn chế,
ngoại lệ về TCTT ở các mức độ khác nhau
nhằm bảo vệ: a) các lợi ích công đặc biệt; b)
quy trình ra quyết định của chính quyền; c)
các thông tin (dữ liệu) liên quan đến cá
nhân; d) quyền sở hữu trí tuệ và bí mật kinh
doanh hoặc bí mật thương mại.
Đối với Việt Nam thì đây là những kinh
nghiệm quí cần được xem xét để quy định
ngay trong Luật TCTT nhằm tạo thuận lợi
cho nhân dân trong việc thực hiện quyền
TCTT của mình và giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm
quyền TCTT của công dân.
Do việc TCTT theo Luật TDTT của
CHLB Đức được tiến hành chủ yếu là theo
yêu cầu, nên không cần thiết phải quy định
nghĩa vụ phải công khai tất cả các thông tin
chính thức của Nhà nước. Vì vậy, về nghĩa
vụ công khai các thông tin này thì các cơ
quan hành chính liên bang chỉ cần phải lập
các danh bạ (thư mục tài liệu thông tin) mà
từ đó có thể nhận biết được các bộ sưu tập
thông tin hiện có và các mục đích thông tin.
Đồng thời, các kế hoạch tổ chức và lưu hồ
sơ (không có thông tin về các dữ liệu liên
quan đến cá nhân) cũng phải được công bố
công khai theo quy định của Luật này. Đây
là cách thức công khai thông tin hiệu quả, tiết
kiệm, đáng được xem xét, tiếp thu để quy
định trong Luật TCTT của Việt Nam.
Ngoài ra, các quy định về quy trình
TCTT, giải quyết khiếu kiện cũng như thanh
tra về việc chấp hành các quy định về TCTT
theo Luật TDTT của CHLB Đức cũng là các
kinh nghiệm quí báu đối với Việt Nam trong
việc xây dựng Luật TCTT của Việt Nam
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật tự do thông tin của cộng hòa Liên Bang Đức và kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUÊÅT TÛÅ DO THÖNG TIN CUÃA CÖÅNG HOÂA LIÏN BANG ÀÛÁC
VAÂ KINH NGHIÏåM CHO VIÏåT NAM
LƯƠNG MINH TUÂN*
Luật Tự do thông tin (TDTT) của Cộng hòa liên bang (CHLB) Đức hay
còn được gọi là Luật Điều chỉnh tiếp cận thông tin (TCTT) của Liên bang
(Informationsfreiheitsgesetz - IFG) được ban hành ngày 5/9/2005 và
có hiệu lực từ ngày 1/1/20061; Luật đã được sửa đổi, bổ sung theo quy
định tại khoản 6 Điều 2 và Luật sửa đổi, bổ sung này được ban hành
ngày 7/8/20132.
1. Khái quát lịch sử ra đời của Luật Tự do
thông tin
Trước khi Luật TDTT của Liên bang có
hiệu lực thì công dân CHLB Đức không có
quyền chung về tiếp cận các tài liệu hành
chính ở cấp liên bang. Trong thời gian này,
CHLB Đức chỉ có một số lượng lớn các quy
định riêng lẻ, chẳng hạn như các quy định về
quyền tiếp cận tài liệu đăng ký (ví dụ như sổ
địa chính), tài liệu lưu trữ cũng như các
quyền tham gia trong quá trình tố tụng.
Trong pháp luật tố tụng thì áp dụng nguyên
tắc, theo đó cơ quan hành chính có thẩm
quyền cho phép tiếp cận các hồ sơ tài liệu
liên quan đến hoạt động tố tụng nhằm thực
thi hoặc bảo vệ lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng, trừ các trường hợp
ngoại lệ (như việc tiếp cận sớm tài liệu (dự
thảo quyết định) ảnh hưởng không tốt đến
việc thực hiện nhiệm vụ thường xuyên của
cơ quan hành chính; việc tiết lộ nội dung tài
liệu gây thiệt hại đến lợi ích của Liên bang
hoặc của bang; cần giữ bí mật để bảo vệ lợi
ích chính đáng của bên tham gia hoặc người
thứ ba) được quy định tại Điều 29 Luật Thủ
tục hành chính3.
Từ năm 1994, một quyền chung về tiếp
cận thông tin (TCTT) môi trường được thiết
lập trên cơ sở một chỉ thị của Cộng đồng
châu Âu.
57NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(305) T1/2016
CHÚC MừNG NăM MớI - 2016
* TS. Phó Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
1 Đăng trên Công báo liên bang (BGBl. I S. 2722).
2 Lần sửa đổi, bổ sung này có hiệu lực từ ngày 15/8/2013 theo quy định tại Điều 5 của Luật được ban hành ngày 7/8/2013,
đăng trên Công báo liên bang (BGBl. I S. 3154, 3160).
3 Xem § 29 VwVfG.
Trong khi các Luật TDTT ở một số
bang của CHLB Đức đã có hiệu lực như
Brandenburg năm 1998, Berlin năm
1999, Schleswig-Holstein năm 2000 và
Nordrhein-Westfalen năm 2002, thì việc ban
hành Luật TDTT của Liên bang còn là vấn
đề lâu dài. Từ năm 1997 đến năm 2004, việc
xây dựng Luật TDTT của Liên bang đã được
thảo luận; có nhiều dự thảo Luật đã được
chuẩn bị và đã được trình, nhưng đều đã bị
thất bại chủ yếu là do gặp phải sự phản đối
mạnh mẽ từ phía bộ máy hành chính4. Ngày
14/12/2004, các Nhóm nghị sỹ liên minh
cầm quyền đã trình một dự thảo Luật TDTT
trực tiếp ra Quốc hội liên bang5. Qua nhiều
vòng thảo luận “rất căng thẳng” ở Quốc hội,
ở Hội đồng liên bang, ở Ủy ban trung gian
và cuối cùng thì Luật TDTT của Liên bang
cũng đã được thông qua và công bố trên
Công báo liên bang vào ngày 13/9/2005 (sau
đây được gọi là Luật TDTT)6.
2. Các nội dung cơ bản của Luật Tự do
thông tin
2.1. Những vấn đề chung
Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật
TDTT của Liên bang thì mọi người có quyền
tiếp cận các thông tin chính thức của các cơ
quan hành chính liên bang. Luật này cũng
áp dụng đối với các cơ quan và các tổ chức
khác của Liên bang, nếu các cơ quan, tổ chức
này đảm trách các nhiệm vụ quản lý hành
chính theo pháp luật công. Các cá nhân hoặc
pháp nhân theo pháp luật tư được cơ quan
hành chính sử dụng để thực hiện các nhiệm
vụ của mình thì các cá nhân, pháp nhân này
cũng có nghĩa vụ cung cấp thông tin, nếu họ
đang nắm giữ các thông tin được yêu cầu
cung cấp.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2
Điều 1 Luật TDTT thì cơ quan hành chính
liên bang có thể cung cấp thông tin, đảm bảo
cho việc truy cập, tiếp cận hồ sơ, tài liệu
hoặc cung cấp thông tin có sẵn bằng các
hình thức khác. Trong trường hợp có yêu cầu
một hình thức nhất định về TCTT thì người
yêu cầu chỉ có thể được bảo đảm hình thức
này vì lý do quan trọng. Đặc biệt, chi phí
hành chính rõ ràng rất lớn được coi là lý do
quan trọng được nêu ra ở đây.
Khái niệm “thông tin chính thức” ở đây
được hiểu là bất kỳ tài liệu ghi chép nào phục
vụ việc thực hiện các mục đích của chính
quyền, không phụ thuộc vào cách thức lưu
trữ (ví dụ như văn bản trong các tập tài liệu
truyền thống, thông tin lưu trữ điện tử, bản
vẽ, đồ họa, kế hoạch, ghi âm và ghi hình).
Các dự thảo và các ghi chú mà nó không phải
là một phần cấu thành của một quy trình thì
không phải là thông tin chính thức7.
Khái niệm người thứ ba được sử dụng
trong Luật này được hiểu là người mà về
người đó, có sẵn các thông tin (dữ liệu) liên
quan đến cá nhân hoặc các thông tin khác8.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý: khái niệm
TDTT là đa nghĩa và vì thế có thể gây hiểu
nhầm. TDTT được điều chỉnh trong Luật này
cụ thể không phải là việc thực hiện quyền tự
do thu thập thông tin từ các nguồn truy cập
58 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(305) T1/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
4 Xem Informationsfreiheitsgesetz, https://de.wikipedia.org/wiki/Informationsfreiheitsgesetz#cite_note-BTDrs15-4493-20.
5 Xem BT-Drs. 15/4493 vom 14. Dezember 2004 (IFG-Entwurf der Fraktionen SPD und Bündnis 90/Die Grünen; PDF; 389 kB).
6 Cho đến nay, 11 Bang (Tiểu bang) của CHLB Đức trong phạm vi thẩm quyền của Bang đã ban hành các đạo luật tương tự
cho riêng mình. Tuy nhiên, ở các Bang Baden-Württemberg, Bayern, Hessen, Niedersachsen và Sachsen không có Luật
TDTT của Bang. Thay vào đó, ở tất cả các Bang ít nhất cũng áp dụng quyền thỉnh nguyện (the right to petition). Xem
7 Xem điểm 1 Điều 2 Luật TDTT của Liên bang (§ 2 IFG).
8 Xem điểm 2 Điều 2 Luật TDTT của Liên bang (§ 2 IFG).
phổ thông dựa trên quyền tự do biểu đạt được
ghi nhận tại câu 1 khoản 1 Điều 5 Hiến pháp
liên bang, mà quy định điều kiện để thực hiện
quyền đó. Do đó, chính xác hơn có lẽ nên sử
dụng các thuật ngữ “TCTT”, “minh bạch”
(như ở bang Hamburg) hay “truy cập/tiếp cận
tài liệu” (như ở bang Brandenburg).
Ở CHLB Đức, việc tiếp tục sử
dụng các thông tin sau khi “tiếp cận”
không được điều chỉnh bởi Luật TDTT
mà bởi Luật Tiếp tục sử dụng thông tin
(Informationsweiterverwendungsgesetz).
2.2. Các hạn chế và ngoại lệ về tiếp
cận thông tin
Nguyên tắc cơ bản được quy định tại
Điều 1 Luật TDTT được trình bày ở trên cho
thấy, Luật TDTT không có hiệu lực áp dụng
cho các bang của CHLB Đức.
Luật TDTT của Liên bang quy định
nhiều nhóm trường hợp, theo đó quyền
TCTT có thể bị hạn chế hoặc hoàn toàn bị từ
chối (hoàn toàn không được bảo đảm).
Thứ nhất, quyền TCTT hoàn toàn bị từ
chối nhằm bảo vệ các lợi ích công đặc biệt.
Cụ thể là quyền TCTT không được bảo đảm
trong các trường hợp sau:
1. nếu việc công khai, tiết lộ thông tin có
thể có tác động xấu đến
a) các quan hệ quốc tế,
b) các lợi ích quân sự và an ninh nhạy
cảm khác của quân đội liên bang,
c) các lợi ích an ninh nội bộ hoặc an ninh
quốc gia,
d) các nhiệm vụ kiểm tra hoặc nhiệm vụ
giám sát của cơ quan quản lý tài chính, cơ
quan quản lý cạnh tranh và của cơ quan quản
lý điều hành,
e) các hoạt động kiểm soát tài chính từ
bên ngoài (kiểm toán độc lập),
f) các biện pháp bảo vệ trước các hoạt
động ngoại thương trái phép,
g) việc thực hiện một thủ tục tòa án đang
diễn ra, quyền yêu cầu của một cá nhân về
một thủ tục công bằng hoặc việc tiến hành
điều tra hình sự, hành chính hoặc kỷ luật,
2. nếu việc công khai, tiết lộ thông tin có
thể nguy hại đến an ninh công cộng,
3. nếu và chừng nào
a) sự cần thiết bảo mật các cuộc đàm
phán quốc tế hoặc
b) các cuộc thảo luận của chính quyền bị
ảnh hưởng xấu,
4. nếu thông tin thuộc đối tượng được
pháp luật hoặc pháp luật hành chính chung
quy định nghĩa vụ giữ bí mật hoặc bảo mật
nhằm bảo vệ các thông tin được phân loại về
mặt nội dung và hình thức hoặc bí mật nghề
nghiệp hoặc bí mật chức trách đặc biệt,
5. chỉ là thông tin tạm thời có được từ
một cơ quan công quyền khác mà nó không
phải trở thành một bộ phận cấu thành của các
quy trình riêng,
6. nếu việc công khai, tiết lộ thông tin có
thể sẽ phù hợp để gây ảnh hưởng xấu đến lợi
ích tài chính của Liên bang trong các giao
dịch kinh tế hoặc lợi ích kinh tế của an sinh
xã hội,
7. đối với thông tin bí mật thu thập hoặc
bí mật truyền, chừng nào sự quan tâm của
người thứ ba về một hoạt động tin cậy tại thời
điểm có yêu cầu TCTT còn tiếp tục tồn tại,
8. đối với các cơ quan tình báo cũng như
các cơ quan hành chính và các cơ quan công
quyền khác của Liên bang, chừng nào các cơ
quan này đảm nhận các nhiệm vụ trong ý
nghĩa của điểm 3 Điều 10 Luật Kiểm tra an
ninh9.
Thứ hai, quyền TCTT cần phải bị từ chối
nhằm bảo vệ quy trình ra quyết định của
chính quyền, cụ thể như sau:
59NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(305) T1/2016
CHÚC MừNG NăM MớI - 2016
9 Sicherheitsüberprüfungsgesetz.
Yêu cầu TCTT cần phải bị từ chối đối
với các dự thảo quyết định cũng như các
công việc và các nghị quyết nhằm trực tiếp
chuẩn bị hoạt động này, nếu và chừng nào sự
thành công của các quyết định hoặc các biện
pháp hành chính đó còn có thể bị tan biến bởi
việc công khai, tiết lộ sớm thông tin. Các kết
quả của việc lấy chứng cứ và các nhận xét, ý
kiến của chuyên gia hoặc ý kiến của người
thứ ba được coi là không trực tiếp phục vụ
việc chuẩn bị quyết định. Người có yêu cầu
TCTT cần phải được thông tin về việc kết
thúc của quy trình liên quan.
Thứ ba, quyền TCTT bị hạn chế nhằm
bảo vệ các thông tin (dữ liệu) liên quan đến
cá nhân, cụ thể như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật
TDTT thì việc tiếp cận các thông tin (dữ
liệu) liên quan đến cá nhân chỉ được phép
bảo đảm, chừng nào lợi ích thông tin của
người có yêu cầu TCTT lớn hơn lợi ích đáng
được bảo vệ của người thứ ba từ việc loại trừ
TCTT hoặc người thứ ba đã đồng ý. Các loại
hình đặc biệt của các thông tin (dữ liệu) liên
quan đến cá nhân trong ý nghĩa của quy định
tại khoản 9 Điều 3 Luật Bảo vệ dữ liệu liên
bang chỉ được phép chuyển giao, nếu người
thứ ba rõ ràng đã đồng ý.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật
TDTT thì lợi ích thông tin của người có yêu
cầu TCTT là không lớn hơn đối với các
thông tin từ các tài liệu, chừng nào nó liên
quan đến quan hệ công vụ hoặc quan hệ công
tác hoặc một chức danh của người thứ ba và
đối với các thông tin thuộc bí mật nghề
nghiệp hoặc bí mật công tác.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật
TDTT thì lợi ích thông tin của người có yêu
cầu TCTT lớn hơn lợi ích đáng được bảo vệ
của người thứ ba từ việc loại trừ TCTT thông
thường là trong trường hợp thông tin bị giới
hạn trong phạm vi tên, danh hiệu, trình độ
học vấn, tên chức danh và tên nghề nghiệp,
địa chỉ văn phòng và số máy viễn thông văn
phòng và người thứ ba là người nhận xét
(phản biện), chuyên gia hoặc trong các hình
thức tương tự đã đưa ra ý kiến trong một
quy trình.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 5 Luật
TDTT thì tên, danh hiệu, trình độ học vấn,
tên chức danh và tên nghề nghiệp, địa chỉ
văn phòng và số máy viễn thông văn phòng
của người biên tập viên là không bị loại trừ
ra khỏi việc TCTT, chừng nào nó là biểu hiện
và hậu quả của công việc hành chính và
không thỏa mãn các yêu cầu của pháp luật
về trường hợp ngoại lệ.
Thứ tư, quyền TCTT bị từ chối nhằm
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bí mật kinh
doanh hoặc bí mật thương mại, trừ trường
hợp có sự đồng ý của người có liên quan, cụ
thể như sau:
Quyền yêu cầu TCTT là bị từ chối, nếu
việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngăn chặn.
Việc truy cập, tiếp cận bí mật kinh doanh
hoặc bí mật thương mại chỉ có thể được phép
bảo đảm, nếu người liên quan đã đồng ý10.
2.3. Quy trình tiếp cận thông tin
Theo quy định của Luật TDTT thì cơ
quan hành chính quyết định về yêu cầu
TCTT là cơ quan có quyền xử lý các thông
tin được yêu cầu tiếp cận (câu 1 khoản 1
Điều 7).
Trong trường hợp cá nhân hoặc pháp
nhân theo pháp luật tư được cơ quan hành
chính sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ
theo pháp luật công của mình thì yêu cầu
TCTT phải được gửi đến cơ quan hành chính
sử dụng cá nhân hoặc pháp nhân đó. Trường
hợp yêu cầu liên quan đến dữ liệu về người
60 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(305) T1/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
10 Điều 6 Luật TDTT của Liên bang.
thứ ba trong ý nghĩa của các quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 5 hoặc Điều 6 Luật
này thì người này phải giải thích rõ. Đối với
các yêu cầu TCTT có cùng hình thức giống
nhau của trên 50 người thì áp dụng thích hợp
các quy định tại các điều từ Điều 17 đến Điều
19 Luật Thủ tục hành chính11.
Trường hợp có quyền yêu cầu tiếp cận
một phần thông tin thì yêu cầu TCTT được
đáp ứng trong phạm vi mà việc tiếp cận
không làm tiết lộ các thông tin có nhu cầu
được bảo mật hoặc chi phí hành chính
không mất tương thích, v.v.. (khoản 2 Điều
7 Luật TDTT).
Thông tin có thể được cung cấp bằng
hình thức lời nói, bằng hình thức văn bản
hoặc bằng hình thức điện tử. Cơ quan hành
chính không có nghĩa vụ kiểm tra tính chính
xác của thông tin.
Trong trường hợp TCTT chính thức,
người có yêu cầu TCTT có thể ghi chép hoặc
cho tạo các bản sao, chụp và bản in.
Các thông tin sẽ được cung cấp cho
người có yêu cầu tiếp cận không chậm trễ,
có tính đến lợi ích của người có yêu cầu. Việc
TCTT cần phải diễn ra trong vòng một
tháng.
Quy trình có sự tham gia của người thứ
ba (Điều 8 Luật TDTT)
Theo quy định của Luật TDTT thì cơ
quan hành chính cho người thứ ba (người có
lợi ích bị ảnh hưởng bởi yêu cầu TCTT) cơ
hội cho biết ý kiến bằng văn bản về vấn đề
này trong thời hạn một tháng, nếu có cơ sở
cho thấy người này có thể có lợi ích đáng
được bảo vệ trong việc loại trừ TCTT (khoản
1 Điều 8).
Quyết định của cơ quan hành chính theo
quy định tại câu 1 khoản 1 Điều 7 Luật
TDTT nêu trên được ban hành dưới hình
thức văn bản và cũng phải thông báo cho
người thứ ba biết. Việc TCTT chỉ được phép
tiến hành nếu quyết định có hiệu lực thi hành
đối với người thứ ba hoặc lệnh thực hiện
ngay đã được ban hành và từ khi công bố
lệnh cho người thứ ba đã qua 02 tuần.
- Bác yêu cầu; giải quyết khiếu kiện
(Điều 9 Luật TDTT)
Việc công khai quyết định về việc từ
chối toàn bộ hoặc một phần yêu cầu TCTT
phải được tiến hành trong thời hạn một tháng
(khoản 1 Điều 9 Luật TDTT).
Trường hợp cơ quan hành chính chối từ
toàn bộ hoặc một phần yêu cầu TCTT thì cơ
quan này phải thông báo liệu có hay không
khả năng tiếp cận toàn bộ hay một phần
thông tin vào một thời điểm khác sau này và
nếu có thì khi nào.
Yêu cầu TCTT có thể bị từ chối nếu
người yêu cầu đã có sẵn thông tin được yêu
cầu hoặc thông tin này có thể có được một
cách dễ dàng từ các nguồn truy cập phổ
thông.
Để thực hiện yêu cầu TCTT thì các quy
tắc của Luật Thủ tục hành chính được áp
dụng. Việc từ chối yêu cầu TCTT được coi là
một quyết định hành chính mà nó có thể bị
khiếu kiện.
Như vậy, về nguyên tắc, cơ quan hành
chính bảo đảm cho truy cập, TCTT chỉ theo
yêu cầu, cụ thể là “không chậm trễ” qua các
hình thức: cung cấp thông tin, bảo đảm cho
tiếp cận, xem tài liệu (tập tin) hoặc “bằng các
hình thức khác”, ví dụ như bằng cách cho
lắng nghe lại một bản ghi âm hoặc tìm kiếm
trong cơ sở dữ liệu (ngân hàng dữ liệu). Các
yêu cầu này có thể được thực hiện dưới hình
thức một lá thư đơn giản, cũng như bằng lời
nói hoặc bằng điện thoại. Cơ quan hành
chính liên bang có thể thu phí và các khoản
61NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(305) T1/2016
CHÚC MừNG NăM MớI - 2016
11 Verwaltungsverfahrensgesetz.
12 Khoản 1 Điều 11 Luật TDTT.
chi ở mức cao cho phép. Điều này không áp
dụng đối với việc cung cấp thông tin đơn
giản (Điều 10 Luật TDTT).
2.4. Nghĩa vụ công khai thông tin
Không phụ thuộc vào các yêu cầu TCTT
cụ thể, các cơ quan hành chính liên bang cần
phải lập các danh bạ (thư mục) mà từ đó có
thể nhận biết được các bộ sưu tập thông tin
hiện có và các mục đích thông tin. Đồng thời,
các kế hoạch tổ chức và lưu hồ sơ (không có
thông tin về các dữ liệu liên quan đến cá
nhân) cũng phải được công bố công khai
theo quy định của Luật này.
Các cơ quan hành chính liên bang cần
phải công bố công khai các danh bạ (thư
mục) và các kế hoạch nêu trên cũng như các
thông tin thích hợp khác dưới hình thức điện
tử (trên mạng Internet)12.
2.5. Thanh tra liên bang về tự do
thông tin
Theo quy định tại Điều 12 Luật TDTT
thì mọi người có thể thỉnh cầu Thanh tra liên
bang về TDTT, nếu người đó nhận thấy
quyền của mình về TCTT theo quy định của
Luật này bị vi phạm.
Các nhiệm vụ của Thanh tra liên bang về
TDTT do Thanh tra liên bang về bảo vệ dữ
liệu đảm nhận. Thanh tra liên bang về TDTT
có các quyền hạn phù hợp với các quyền hạn
của Thanh tra liên bang về bảo vệ dữ liệu
theo Luật Bảo vệ dữ liệu liên bang.
3. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Để cụ thể hóa quy định tại Điều 25 Hiến
pháp năm 2013 về quyền TCTT, Việt Nam
cần phải ban hành Luật TCTT. Ngoài ra, việc
ban hành Luật này còn đáp ứng yêu cầu của
Nhà nước pháp pháp quyền Việt Nam
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân (Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt
Nam) và đồng thời còn cần phải đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của
nước ta.
Qua nghiên cứu Luật TDTT của CHLB
Đức, chúng tôi xin rút ra một số kinh nghiệm
mà Việt Nam có thể tham khảo trong việc
xây dựng Luật Tiếp cận thông tin của Việt
Nam như sau:
1) Luật TDTT của CHLB Đức chỉ quy
định về việc TCTT chính thức của Nhà nước,
còn việc tiếp tục sử dụng thông tin sau khi
tiếp cận thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
Tiếp tục sử dụng thông tin.
Việt Nam hiện đang xây dựng Luật
TCTT, nếu tên gọi của Luật này vẫn là “Luật
TCTT” thì cần phải cân nhắc có nên quy
định về việc sử dụng thông tin sau khi tiếp
cận trong Luật này hay không để bảo đảm sự
thống nhất giữa tên gọi và phạm vi điều
chỉnh của Luật, vì việc TCTT và việc tiếp tục
sử dụng thông tin sau khi tiếp cận là hai nội
dung khác nhau.
2) Luật TDTT của CHLB Đức quy định
cho mọi người có quyền tiếp cận các thông
tin chính thức của Nhà nước, không phân
biệt đó là công dân CHLB Đức hay là người
nước ngoài. Ở đây, có sự đối xử bình đẳng
giữa các công dân CHLB Đức và người nước
ngoài có yêu cầu TCTT và cũng không có lý
do nào chính đáng để có sự phân biệt đối xử
trong việc TCTT chính thức của Nhà nước.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy
định công dân có quyền TCTT. Điều đó có
nghĩa là Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và
bảo đảm quyền TCTT cho công dân Việt
Nam. Việc bảo đảm quyền TCTT cho người
nước ngoài có nhu cầu TCTT không được đề
cập đến trong Hiến pháp năm 2013. Vấn đề
đặt ra ở đây là pháp luật Việt Nam có bảo
đảm cho người nước ngoài quyền TCTT
chính thức hay không? Trong điều kiện hội
62 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(305) T1/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta
hiện nay thì theo chúng tôi, Luật TCTT của
Việt Nam nên quy định cho phép mọi người
có quyền TCTT chính thức của Nhà nước,
không nên phân biệt công dân Việt Nam hay
người nước ngoài.
3) Theo Luật TDTT của CHLB Đức thì
các cơ quan hành chính liên bang cũng như
của các cơ quan, tổ chức khác của Liên bang
có trách nhiệm cung cấp thông tin, nếu các
cơ quan, tổ chức này đảm trách các nhiệm vụ
quản lý hành chính theo pháp luật công. Các
cá nhân hoặc pháp nhân theo pháp luật tư
được cơ quan hành chính sử dụng để thực
hiện các nhiệm vụ của mình thì các cá nhân,
pháp nhân này cũng có nghĩa vụ cung cấp
thông tin, nếu họ đang nắm giữ các thông tin
được yêu cầu cung cấp. Tiêu chí để xác định
trách nhiệm cung cấp thông tin chính thức
của Nhà nước là việc thực hiện nhiệm vụ
quản lý hành chính theo pháp luật công. Các
văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ban
hành được quy định phải công bố công khai
thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
này13.
Ở Việt Nam hiện nay, ngoài các cơ quan
nhà nước thì các tổ chức chính trị - xã hội
như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn
Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, v.v.. cũng
tham gia “quản lý nhà nước”, thực hiện một
số nhiệm vụ của Nhà nước như xây dựng dự
án luật, tập hợp, tổng hợp ý kiến góp ý của
nhân dân và được Nhà nước bảo đảm kinh
phí hoạt động; các tổ chức, cá nhân cũng
được giao tham gia thực hiện các dịch vụ
công. Vì vậy, theo chúng tôi, việc TCTT
chính thức về vấn đề này cũng cần được xem
xét điều chỉnh trong Luật TCTT. Hơn nữa, để
tránh trùng lặp với các văn bản pháp luật
khác, Luật TCTT không nên quy định về
việc tiếp cận các văn bản do các cơ quan nhà
nước ban hành mà các văn bản này đã được
quy định bắt buộc phải công bố công khai
như các văn bản quy phạm pháp luật, v.v..
Luật TDTT của CHLB Đức quy định liệt
kê rất cụ thể các nhóm trường hợp hạn chế,
ngoại lệ về TCTT ở các mức độ khác nhau
nhằm bảo vệ: a) các lợi ích công đặc biệt; b)
quy trình ra quyết định của chính quyền; c)
các thông tin (dữ liệu) liên quan đến cá
nhân; d) quyền sở hữu trí tuệ và bí mật kinh
doanh hoặc bí mật thương mại.
Đối với Việt Nam thì đây là những kinh
nghiệm quí cần được xem xét để quy định
ngay trong Luật TCTT nhằm tạo thuận lợi
cho nhân dân trong việc thực hiện quyền
TCTT của mình và giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm
quyền TCTT của công dân.
Do việc TCTT theo Luật TDTT của
CHLB Đức được tiến hành chủ yếu là theo
yêu cầu, nên không cần thiết phải quy định
nghĩa vụ phải công khai tất cả các thông tin
chính thức của Nhà nước. Vì vậy, về nghĩa
vụ công khai các thông tin này thì các cơ
quan hành chính liên bang chỉ cần phải lập
các danh bạ (thư mục tài liệu thông tin) mà
từ đó có thể nhận biết được các bộ sưu tập
thông tin hiện có và các mục đích thông tin.
Đồng thời, các kế hoạch tổ chức và lưu hồ
sơ (không có thông tin về các dữ liệu liên
quan đến cá nhân) cũng phải được công bố
công khai theo quy định của Luật này. Đây
là cách thức công khai thông tin hiệu quả, tiết
kiệm, đáng được xem xét, tiếp thu để quy
định trong Luật TCTT của Việt Nam.
Ngoài ra, các quy định về quy trình
TCTT, giải quyết khiếu kiện cũng như thanh
tra về việc chấp hành các quy định về TCTT
theo Luật TDTT của CHLB Đức cũng là các
kinh nghiệm quí báu đối với Việt Nam trong
việc xây dựng Luật TCTT của Việt Nam n
63NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(305) T1/2016
CHÚC MừNG NăM MớI - 2016
13 Ví dụ như các văn bản quy phạm pháp luật do nghị viện ban hành hoặc do các chủ thể khác (Chính phủ, Bộ trưởng, v.v..) được
ủy quyền ban hành phải được đăng trên Công báo; các bản án, quyết định của Tòa án phải được công bố công khai; v.v..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_tu_do_thong_tin_cua_cong_hoa_lien_bang_duc_va_kinh_nghi.pdf