Đề tài Tài phán hành chính Việt Nam

Từ những năm 1990 trở lại đây, từ khi Việt nam mở cửa hội nhập Thế giới thì tình hình kinh tế và mọi mặt của đời sống nâng cao. Thế giới Nhất là ý thức về mặt Pháp luật được nâng cao rõ rệt. Trên tinh thần đổi mới đó Đảng và Nhà nước ta thông qua quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản Pháp luật quan trọng và có tính thiết yếu để thiết lập Tài phán hành chính góp phần ngày càng hoàn thiện các chế định giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của Nhân dân . Ngay từ nghị quyếtVIII của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, một vấn đề mới, cấp bách đã được đặt ra: Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện hành chính và xúc tiến việc thiết lập hệ thống toà án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với quyết định hành chính. Trong các văn bản đều mang tính tập trung liên quan trức tiếp đến hoạt động tổ chức của Tài phán hành chính và xác định lại thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính được ghi nhận trong luật khiếu kiện tố cáo, năm 1998 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 và được bổ sung sửa đổi năm 1998. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VIII tiếp tục khẳng định: củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định thẩm quyền xét xữ của toà án. Do đó Tài phán hành chính là một vấn đề hết sức mới mẻ, từ chỗ Tài phán còn rất xa lạ nhưng đến nay vấn đề Tài phán hành chính đã được tiếp cận. Vì vậy toà hành chính đã được thành lập và đi vào hoạt động ở các Toà án. nhưng xung quanh vấn đề hoàn thiện Pháp luật về Tài phán hành chính ở Việt nam luôn luôn được sự quan tâm bởi các cấp các nghành, trong giới luật gia, các nhà nghiên cứu khoa học quản lý và pháp lý. Chính vì vậy, để nhận thức và nêu rõ tầm quan trọng của Tài phán hành chính và đề tài : Tài phán hành chính ở Việt nam được chọn làm đối tượng nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp này.

docx62 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1911 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tài phán hành chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an xét xử cao nhất theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm. Có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của TA phúc thẩm, toà hành chính TANDTC khi bị kháng nghị ( Điểm a Khoản 1 Điều 22 Luật Tổ chức Toà án Nhân dân ). 2. 1. Đối tượng của Tài phán hành chính. 2. 1. 1. Quyết định hành chính. Dưới góc độ của luật tố tụng hành chính và nghành khoa học luật tố tụng hành chính, quyết định hành chính có khái niệm khác với khái niệm quyết định hành chính theo luật hành chính. Ngay cả những nước có luật hành chính phát triển như: Pháp, CHLB Đức. . coi luật tố tụng hành chính chỉ là bộ phận của luật hành chính thì khái niệm quyết định hành chính theo tố tụng hành chính vẫn có sự phân biệt với khái niệm quyết định hành chính theo luật hành chính. . Nhìn chung trên TG, khái niệm quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính giữa các nước không đồng nhất với nhau tuỳ thuộc vào tính chất nền Tài phán và đặc biệt là đối tượng xét xử của quyền Tài phán mà các nước có quna niệm quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính tương ứng với phạm vi và đặc tính của đối tượng đó. Như ở Pháp quyết định hành chính thuộc đối tượng xét xử hành chính không chỉ là các quyết định hành chính quy phạm. Có nước chỉ coi quyết định hành chính trong tố tụng hành chính bằng hành động. Nhưng cũng có nước xem xét quyết định hành chính tuỳ thuộc đối tượng xét xử hành chính chỉ là những quyết định hành chính cá biệt bằng văn bản, thậm chí chỉ một số quyết định hành chính trong một số lĩnh vực nhất định chứ không phải trong mọi lĩnh vực của hoạt động tư pháp. Theo luật tố tụng hành chính Việt nam, quyết định hành chính thuộc đối tượng xét xử hành chính được xác định trên cơ sở phương pháp liệt kê chỉ những loại quyết định hành chính nào có liên quan trực tiếp đến quyền lực, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và được quan tâm chú ý nhiều hơn hay bị khiếu kiện với khối lượng nhiều. Với ý nghĩa như vậy, Luật tố tụng hành chính Việt nam định nghĩa quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. 1( Xem Khoản 10 Điều 2 Luật khiếu nại và tố cáo, Luật số 09/1998/QH10; Khoản 3 Điều 1 Pháp luật sửa đổi bổ sung một số Khoản của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ hành chính ). Quyết định hành chính phải do cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước ban hành như: Chính phủ, Các bộ và cơ quan ngang bộ. . ( ở TW), uỷ ban Nhân dân các cấp, các sở, phòng, ban. . . ( ở địa phương ). Do yêu cầu đảm bảo chức năng hoạt động hoặc lý do thuộc về tổ chức nội bộ cơ quan hoặc được trao quyền thực hiện một quyền năng hành chính cụ thể nào đó mà cơ quan này cũng có thể ban hành một số quyết định hành chính như: Toà án ra quyết định xử phạt hành chính trong trường hợp vị phạm hành chính, cản trở hoạt động xét xử của Toà án. . . cho nên, cơ quan hành chính ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm các cơ quan chức năng cơ bản là quản lý hành chính mà cả các cơ quan có thẩm quyền quản lý hành chính trong một số lĩnh vực hoặc từng trường hợp nhất định ( quyền bổ nhiệm công chức, quyền tuyển dụng, quyền dự toán. . . ) Chính vì vậy, luật tố tụng hành chính quan niệm các quyết định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, văn phòng Quốc hội, văn phòng chủ tịch nước, TAND, VKSND nếu bị khởi kiện vụ án hành chính, được coi là đối tượng xét xử của TAND. - Theo Điều 11 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số Điều PLTTGQCVA HC khi những quyết định hành chính cụ thể ở các lĩnh vực sau thuộc thẩm quyền giải quyết của TA. + Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. + Quyết định hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trực kiên cố khác. + Quyết định hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. + Quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống; + Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. + Quyết định trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh. + Quyết định hành chính trong việc thu thuế, truy thu thuế. + Quyết định hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản. + Quyết định hành chính trong việc thu phí, lệ phí. + Các quyết định khác theo quy định của Pháp luật. Như vậy, những quyết định hành chính mà Pháp luật không quy định thuộc lĩnh vực ( đối tượng ) xét xử hành chính thì không coi là quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính Việt nam. 1 Xem Khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh số 10/1998 / PL -UBTVQH10). Quyết định hành chính cá biệt được hiểu là chỉ áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Đối tượng áp dụng của quyết định là cá nhân hoặc tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp và được ghi nhận trong nội dung của quyết định. VD: một người bị cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi giấy phép sản xuất kinh doanh có thể khởi kiện yêu cầu toà án huỷ bỏ quyết định thu hồi giấy phép của mình; trái lại không phải bất cứ người khởi kiện nào cũng đều là đối tượng áp dụng của quyết định. Chẳng hạn, cấp có thẩm quyền quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho một người nhưng nếu thực hiện quyết định này sẽ gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác( quyền sử dụng đất hợp pháp ) do đó người này có thể kiện đòi hỏi huỷ bỏ quyết định cho phép sử dụng đất trên chứ không phải là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( đối tượng áp dụng của quyết định ) khởi kiện. Như vậy, đối với đối tượng áp dụng, quyết định hành chính sẽ dẫn tới tình trạng làm phát sinh thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ cụ thể như: - Được hưởng quyền, lợi ích. - Gánh vác một nghĩa vụ bổ sung. - Tước bỏ hoặc hạn chế một hoặc môt số quyền, lợi ích. Quyết định hành chính lần đầu: vấn đề này, hiện chưa được quy định cụ thể trong văn bản Pháp luật về tố tụng hành chính. Song có thể căn cứ vào hướng dẫn của TANDTC để xác định hành chính lần đầu. Quyết định được ban hành lần đầu tiên bởi cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước. Sau khi đã thành quyết định hành chính lần đầu tiên mà bị khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo đã ra quyết định huỷ quyết định hành chính lần đầu giao về giải quyết lại và cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính lần đầu lại ra quyết định mới thì quyết định mới này vẫn được coi là quyết định hành chính lần đầu. Khi giải quyết việc khiếu nại đối với quyết định hành chính lần đầu, cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ra một quyết định trong đó có nội dung hoàn toàn mới hoặc làm phát sinh thềm quyền và nghĩa vụ của người chấp hành quyết định thì trong trường hợp này được coi là quyết định hành chính lần đầu. 2. 1. 2. Hành vi hành chính. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính ( người giải quyết khiếu nại ) do Luật Khiếu nại, tố cáo quy định, gồm: Chủ tịch UBND các cấp; Giám đốc Sở, Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở; Bộ Trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ; Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ. Các hành vi hành chính diễn ra trên tất cả những lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính Nhà nước được quy định tại Điều 11 pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số Điểu Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là đối tượng xét xử hành chính. Hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trúc kiên cố khác. Hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính. Hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh. Hành vi hành chính trong việc trưng dựng, trưng mua, tịch thu tài sản. Hành vi hành chính trong việc thu thuế, trưng thu thuế. Hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí. - Hình thức và thủ tục khiếu nại hành chính: Hình thức khiếu nại được biểu hiện bằng đơn hoặc trình bày khiếu nại ( tự trình bày hoặc thông qua người đại diện ) để người có trách nhiệm ghi chép lại. . . 2. 1. 3 Quyết định kỷ luật: là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của Pháp luật về cán bộ, công chức ( Xem Khoản 12 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo. ) 2. 2. Thẩm quyền xét xử hành chính của TAND. Trước một quyết định hành vi, hành vi hành chính trái Pháp luật xâm hại quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân có quyền khởi kiện tại toà án có thẩm quyền yêu cầu toà án xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính đều thuộc thẩm quyền xét xử của TA. Do vậy, để bảo đảm sự thuận tiện, tiết kiệm về mặt thời gian và tiền của của công dân trong việc bảo vệ các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của họ cần xác định công dân có quyền khiếu kiện tại toà án, những loại quyết định hành chính hành vị hành chính nào. và nếu khiếu kiện thì toà án nào sẽ là toà án có thẩm quyền giải quyết. Mỗi một cơ quan Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình đều phải hoạt động trong phạm vi thẩm quyền mà Nhà nước giao phó, tuyệt đối không lạm quyền hoặc xâm phạm đến thẩm quyền cơ quan Nhà nước khác. Sự phân định thẩm quyền này là hoàn toàn cần thiết, là Điều kiện để bảo đảm cho hoạt động của Bộ máy Nhà nước được diễn ra bình thường, đạt hiệu quả cao và bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó cơ quan xét xử - Toà án Nhân dân . Để đảm bảo quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung quy định thẩm quyền chung của TAND các cấp đối với các vụ khiếu kiện hành chính như sau. 2. 2. 1. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Căn cứ vào pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ( năm 2002 ) thì các hình thức xử phạt hành chính bao gồm các hình thức xử phạt hành chính, kinh tế - xã hội, vừa mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hay không thường xuyên về xây dựng, bảo dưỡng, tổ chức quản lý hành chính Nhà nước. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng không giới hạn là khiếu kiện đối với các loại phí, lệ phí. Cho nên đối tượng xét xử của toà hành chính trong lĩnh vực này là toàn bộ các quyết định hành chính, hành vi hành chính về thu phí, lệ phí. 2. 2. 2 Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức và giữ chức vụ từ vụ trường và tương đương trở xuống. Đây là hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất đối với cán bộ công chức, với tư cách là một trong những phương thức bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân việc quy định thẩm quyền của Toà án ( toà hành chính ) trong việc giải quyết các khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết ( Quy định Khoản 4 Điều 11 ). 2. 2. 3 Khiếu kiện quyết định hành chính hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai ( Khoản 5 Điều 11 ). Để xác định được các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc đối tượng xét xử của toà án hành chính , trước hết cần xuất phát từ nội dung quản lý Nhà nước về đất đai ( Điều 13 Luật đất đai 1993 ) bao gồm : - Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phan dạng đất, lập bản đồ địa chính. - Quy hoạch về kế hoạch hoá sử dụng đất. - Ban hành các văn bản Pháp luật về quản lý, sự dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó. - Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất. - Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sự dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung chỉ quy định là khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính, trong lĩnh vực quản lý đất đai, do đó có thể hiểu là tất cả các quyết định cá biệt và mọi hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong khi thực hiện các nội dung nói trên về quản lý Nhà nước về đất đai thuộc đối tượng xét xử của Toà án . 2. 2. 4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh ( Quyết định Khoản 6 Điều 11 ). Theo pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính, tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn hoặc không có thời hạn được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy tắc sử dụng giấy phép. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép. Quyết định của người có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật khi bị khởi kiện sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. 2. 2. 5 Khiếu kiện giải quyết hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản ( Khoản 7 Điều 11 ) Khi thực thi quyền hành pháp của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, trong những trường hợp vì lợi ích công cộng có thể buộc các công dân, tổ chức hợp tác, thì một số trường hợp do luật định, các cơ quan cá nhân có thẩm quyền có quyền buộc công dân, tổ chức hợp tác với mình. Một trong những hình thức đó là ban hành các quyết định về trưng dụng, trưng mua tài sản, tịnh thu tài sản. Về căn cứ trưng dụng trưng mua tài sản, Điều 175 Khoản 3 của Bộ luật dân sự quy định. “ Trong trường hợp thật . . . của Pháp luật “ Đây là quy định về nguyên tắc bồi hoàn theo quan hệ dân sự. Nhưng trước khi thực hiện quan này là một quan hệ hành chính. Cho nên các quyết định hành chính về trưng dụng, trưng mua có thể bị công dân, tổ chức khởi kiện tại toà hành chính và nó thuộc thẩm quyền của Toà án hành chính. Tịch thu tài sản theo quy định của Pháp luật hành chính, mà cụ thể là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện vi phạm hành chính theo Điều 12 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ( năm 1995 ) thuộc đối tượng xét xử của toà hành chính. 2. 2. 6 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu thuế trưng thu thuế ( Quyết định Khoản 8 Điều 11 ). Các quyết định về thu thuế, truy thu thuế ở đây là các quyết định ấn định mức nộp thuế cụ thể của tổ chức, cá nhân trên cơ sở luật thuế pháp lệnh chỉ quy định chung là “ quyết định về thu thuế, trưng thu thuế “, không giới hạn loại thuế nào. Vì vậy, thẩm quyền xét xử của Toà án hành chính trong lĩnh vực này là tất cả các quyết định về thu thuế, trưng thu thuế đối với các loại thuế. 2. 2. 7 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí ( Khoản 9 Điều 11 ). Lệ phí là Khoản thu của Nhà nước vừa mang tính chất bù đắp chi phí để phục vụ người nộp lệ phí, vừa thực hiện một số thủ tục hành chính ( phạt cảnh cáo: phạt tiền ); Các hình thức xử phạt bổ xung ( tước quyền sử dụng giấy phép: chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng đề vi phạm hành chính ). Ngoài ra hình thức xử phạt trên, cá nhân và tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các biến pháp sau: + Buộc phục hồi tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. + Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện. + Buộc tiêu huỷ những vật phẩm gây hại cho sức khoẻ của con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại. Trong xét xử hành chính thì toà án phán quyết cả việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn mặc dù Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chỉ quy định là: “ khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính “. Do đó có thể hiểu tất cả các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên mọi lĩnh vực bị khởi kiện đều thuộc thẩm quyền xử phạt của Toà án, với bất kỳ hình thức xử phạt nào ( xử phạt chính, xử phạt bổ sung ) và việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn . Điều 119 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 cũng đã quy định với tinh thần như vậy. 2. 2. 8 Khiếu kiện quyết định hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trực hiện có. Điều 62 Hiến pháp 1992 quy định “ Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và Pháp luật, quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo Pháp luật “. Như vậy, quyền có nhà ở và quyền được xây dựng nhà ở là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ hiện thực hoá quyền này Pháp luật nước ta đã đặt ra nhiều bảo đảm pháp lý khác nhau và một trong những đảm bảo đó là cho phép công dân có quyền khiếu kiện ra toà án những quyết định hành chính, hành vi hành chính trái Pháp luật trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình vật kiến trúc kiên cố khác. 2. 2. 9 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục tại xã phường trị trấn, dựa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Hiến pháp 1992, quy định “ Công dân có quyền bất khả xâm phạm. . . ) Điều 71 Hiến pháp 1992. Như vậy, việc áp dụng 1 trong các biện pháp nói trên là một trong những chừng mực nhất định đã hạn chế các quyền, tự do của công dân, vì vậy việc bảo vệ các quyền tự do của họ bằng con đường hành chính và tố tụng toà án có ý nghĩa rất quan trọng. Theo Khoản 3 Điều 11 quy định, Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án về khiếu kiện giải quyết hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thực thi biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào chữa bệnh quản chế hành chính. Khi thực hiện thẩm quyền đối với các việc thuộc nhóm này cần phải xác định việc khiếu kiện giải quyết hành chính và việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thị trấn là thuộc thẩm quyền của toà án cấp huyện, còn lại đối với việc khiếu kiện hành chính về quyết định hành chính, khác đều thuộc thẩm quyền của Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. 2. 2. 10. khiếu kiện các quyết định khác theo quy định của Pháp luật. Đây là một “ quy định mở rộng “ cho việc bổ sung các việc khác thuộc thẩm quyền xét xử của toà án trong lĩnh vực hành chính khi có nhiều văn bản Pháp luật khác nhau liên quan đến nhiều lĩnh vực Điều chỉnh khác nhau. 2. 3. Thẩm quyền theo lãnh thổ ( cấp xét xử ). 2. 3. 1. 1 Thẩm quyền xét xử hành chính của toà án Nhân dân tối cao. Với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, Toà án Nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử hành chính như sau: + Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án theo quy định của Pháp luật. + Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị; + Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định, đã có hiệu lực Pháp luật bị kháng nghị theo quy định của Pháp luật tố tụng. + Toà án Nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền của toà án cấp tỉnh mà toà án Nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết đối với khiếu kiện quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và giải quyết hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó liên quan đền nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được thẩm quyền của toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban Nhân dân . chủ tịch uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của toà án cấp tỉnh đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Thẩm quyền xét xử hành chính trên đây của Toà án Nhân dân tối cao được thực hiện thông qua thẩm quyền theo quy định của các cơ chế sau: - Toà hành chính Toà án Nhân dân tối cao Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án và bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị ( Theo Khoản 3 Điều 70 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ). - Toà phúc thẩm toà án Nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án , quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị. - Uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bán ản quyết định đã có hiệu lực Pháp luật bị kháng nghị theo quy định của Pháp luật tố tụng hành chính. Uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của các toà phúc thẩm. - Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao ( cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm ) có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao bị kháng nghị. 2. 3. 1. 2. Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án Nhân dân cấp tỉnh. Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố thuộc trung ương ( gọi chung là Toà án cấp tỉnh ) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây: - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bô, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. Việc quy định thẩm quyền này đối với Toà án cấp tỉnh dựa vào một số lý do sau: Các cơ quan Nhà nước nói trên đều là cơ quan quản lý Nhà nước cấp Trung ương, quản lý nghành hoặc lĩnh vực nào đó trên phạm vi toàn quốc có thể có những quyết định hành chính, hành vi hành chính tác động đến cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân ở bất kỳ địa phương nào. Nếu quy định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện thuộc Toà án Nhân dân tối cao thì trong nhiều trường hợp sẽ gây khó khăn cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện nếu họ ở vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, quy định như vậy tránh việc dồn nhiều vụ án hành chính về Toà án Nhân dân tối cao theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm, phù hợp với xu hướng cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan Nhà nước nêu trên và của cán bộ, công chức các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cu trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó; - Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống. - Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện, đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban Nhân dân , chủ tịch uỷ ban Nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Toà án Nhân dân cấp tỉnh còn có thẩm quyền như sau: - Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị. - Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị. Thẩm quyền trên đây của Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thực hiện thông qua quyền hạn giải quyết vụ án hành chính, cụ thể như sau: - uỷ ban thẩm phán Toà án Nhân dân cấp tỉnh có quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới kháng nghị. - Toà hành chính Toà án Nhân dân cấp tỉnh có quyền xét xử sơ thẩm những vụ án do Pháp luật quy định: xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị. 2. 3. 1. 3 Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án Nhân dân cấp huyện. Toà án Nhân dân cấp huyện, quận thị xã thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là Toà án cấp huyện ) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây: - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó. - Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuỗng trên cùng lãnh thổ đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan tổ chức đó. 2. 2. 2 Phân định thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính. Nếu có sự tranh chấp về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính thì việc giải quyết tranh chấp đã được phân định như sau: 2. 2. 2. 1 Phân định thẩm quyền giữa toà án và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Theo quy định này Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, thì họ có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Trường hợp vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì phân định thẩm quyền như sau: - Nếu chỉ có một người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền. - Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Toà án đã thụ lý án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Đây là môt trong những quy định phản ánh tính chất đặc thù của thủ tục tố tụng hành chính so với các thủ tục khác, theo đó ghi nhận quyền của người khiếu nại trong việc lựa chọn trật tự giải quyết khiếu nại hành chính và đề ra nguyên tắc phân biệt thẩm quyền của Toà án ( được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết khiếu nại tiếp theo ( được quy định trong Luật khiếu nại, tố cáo ). Phương án phân định thẩm quyền này cần được nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa, đảm bảo là cơ sở pháp lý vững chắc để vận dụng và thực hiện thống nhất trong thực tiễn khiếu kiện hành chính. Ví dụ: Khi Toà án đã thụ lý và đang giải quyết vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của một người thì nhận được quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc xảy ra sự tranh chấp thẩm quyền trong trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo vẫn ra quyết định giải quyết khiếu nại tiếp theo khi Toà án đã thụ lý giải quyết vụ án. . . 2. 2. 2. 2 Phân định thẩm quyền giữa các Toà án với nhau. Trong thực tiễn hoạt động của các Toà án, có thể xảy ra tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính theo các dạng sau đây: - Cả hai Toà án đều cho rằng mình có thẩm quyền giải quyết vụ việc; - Cả hai Toà án đều từ chối giải quyết các vụ án vì cho rằng mình không có thẩm quyền. Các trường hợp trên đây đều dẫn đến hệ quả là làm chậm trễ quá trình giải quyết vụ án, có thể gây thiệt thòi về quyền lợi cho đương sự. Để tránh việc này, Pháp luật tố tụng hành chính quy định phương thức phân định thẩm quyền cụ thể giữa các Toà án. Khoản 2 Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hổ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết. Việc xác định thẩm quyền giải quyền vụ án hành chính thuộc về Toà án nào trong nhiều trường hợp không phải là vấn đề dễ dàng. Ví dụ: việc xác định thẩm quyền của Toà án căn cứ vào nơi xảy ra khiếu kiện hay nơi người khởi kiện, người bị kiện cư trú. . . Vì vậy, ngoài quy định này, cần liên hệ và vận dụng đồng bộ các quy định khác về thẩm quyền của Toà án, như Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chínhvà các quy định khác có liên quan. * Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Toà án Nhân dân cấp xét xử. - Thẩm quyền tiến hành xét xử sơ thẩm khiếu kiện hành chính. Pháp luật thủ tục hành chính Việt nam quy định toà án Nhân dân cấp huyện, toà án Nhân dân cấp tỉnh, toà hành chính Toà án Nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hành chính theo quy định của Pháp luật. Toà án sơ thẩm có quyền áp dụng mọi biện pháp do luật quy định để kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án nhằm xác định tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trong Khoảng thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định sau đây: - Đưa vụ án ra xét xử. - Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án ( Khoản 1 Điều 40 Pháp luật giải quyết khiếu nại tố cáo ). - Đình chỉ việc giải quyết vụ án ( Khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. ) Việc xét xử sơ thẩm thường được tiến hành công khai nên Nhân dân có thể tham dự phiên toà để chứng kiến, giám sát hoạt động xét xử của toà án. Bản án quyết định của toà án ghi nhận toàn bộ kết quả giải quyết vụ án hành chính, quyết định có tính hợp pháp hay không hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc khi bị khiếu kiện. Bản án của toà án góp phần giúp cho đương sự và quần chúng Nhân dân được hiểu biết hơn về Pháp luật từ đó nâng cao ý thức tôn trọng Pháp luật và chấp hành Pháp luật. * Thẩm quyền và xét xử phúc thẩm khiếu kiện hành chính phúc thẩm là việc xem xét lại những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của toà án cấp dưới khi có kháng cáo kháng nghị ( Điều 60 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ). Pháp luật thủ tục hành chính Việt nam quy định những cơ quan có thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Đó là toà phúc thẩm toà án Nhân dân tối cao, toà hành chính toà án Nhân dân cấp tỉnh , toá án cấp phúc thẩm có thẩm quyền cụ thể được quy định tại Khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi bổ sung. - Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm. - Sửa 1 phần hoặc toàn bộ phần quyết định của bán án, quyết định sơ thẩm; - Huỷ bản án , quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho toà án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ mà toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được: + Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 40 của Pháp lệnh này. + Đình chỉ. . + Đối với trường hợp có nhiều người kháng cáo, thì toà án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm, nhưng không xem xét nội dung kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt nói trên. - Thành phần của Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 thẩm phán ( Khoản 3 Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ). Do mục đích của xét xử phúc thẩm là sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật để bảo vệ lợi ích ỡƠÁXXXGXXX XXXXXXXXX¿XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX³zXXXXXXbjbjŽÙŽÙXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX XXX%´XXXỡ³XXXỡ³XXX›vXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXÿÿXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXÿÿXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXÿÿXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX]XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXX8XXXXXXXXXịXXXXXXXXXỡƠÁXXXGXXX XXXXXXXXX¿XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX³zXXXXXXbjbjŽÙŽÙXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX XXX%´XXXỡ³XXXỡ³XXX›vXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXÿÿXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXÿÿXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXÿÿXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX]XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXXXXXXXXXXXXXXƯXXXXXX8XXXXXXXXXịXXXXXXXXXung kháng cáo, kháng nghị và quyết định của toà án cấp phúc thẩm. * Thẩm quyền vòng xét xử Giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính theo Khoản 1 Điều 7 Uỷ Ban Thẩm phán TANDTC có thẩm quyền Giám đốc thẩm tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực Pháp luật bị kháng nghị theo quy định của Pháp lệnh tố tụng hành chính. Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của các toà phúc thẩm. + Hội đồng thẩm phán toà án Nhân dân tối cao ( Cơ quan cao nhất theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm ) có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án, quyết định đã cso hiệu lực Pháp luật của Uỷ Ban Thẩm phán TANDTC bị kháng nghị. + UB thẩm phán Toà án cấp tỉnh, Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của Toá án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. + Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, toà án phải mở phiên toà Giám đốc thẩm, tái thẩm. - Theo Khoản 4, 5 Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm, tái thẩm của toà án hành chính tối cao bao gồm 3 thẩm phán, Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán toà án Nhân dân tối cao, UBTPTA cấp tỉnh khi xét xử theo thủ tục Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên tham gia. - Sau khi nhận hồ sơ vụ án. Một trong các thành viên của Hội đồng xét xử chia trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án đề trình bày nội dung vụ án. khi có kháng nghị tại phiên toà. Kiểm sát viên được viện trưởng viện kiểm sát uỷ quyền tham gia tại nhiều phiên toà để trình bày ý kiến của viện kiểm sát về giải quyết vụ án. Trong trường hợp toà án có triệu tập các đương sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì họ được trình bày ý kiến trước khi kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án. - Theo Điều 72 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính thì Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền: + Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật. + Sửa đổi một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật khi bị kháng nghị. + Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh như Đương sự là cá nhân đã chết, pháp nhân giải thể mà không có cá nhân, pháp nhân thừa kế quyền nghĩa vụ, nguyên đơn rút đơn kiện, thời hạn khởi kiện đã hết trước ngày toà án thụ lý khởi kiện, sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. 2. 3 Thực trạng Tài phán hành chính . Giải quyết khiếu kiên hành chính là một vấn đề hết sức nhạy cảm, luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Về phương diện góc độ hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử hành chính còn mang tính hình thức, kém hiệu quả chưa phản ánh được thực chất, tình hình khiếu kiện ở nước ta. a) Công tác xét xử khiếu kiện năm 1998. - Sơ thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 292 vụ án trong đó xét xử 107vụ việc ; Đình chỉ 58 vụ; Tạm đình chỉ 20 vụ. - Phúc thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 80 vụ án trong đó xét xử 68 vụ; Đình chỉ 4 vụ; Tạm đình chỉ 0 vụ. - Phúc thẩm TANDTC thụ lý 52 vụ án trong đó xét xử 20 vụ việc; Đình chỉ 11 vụ; Tạm đình chỉ 0 vụ. - Giám đốc thẩm, tái thẩm TANDTC thụ lý 11 bản án: Bác kháng nghi 0 bản án; sửa bản án quyết định 5 bản án; huỷ bản án quyết định 5 bản án. b) Công tác xét xử khiếu kiện năm 1999. - Sơ thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 484 vụ án trong đó xét xử 194 vụ việc ; Đình chỉ 98 vụ; Tạm đình chỉ 35 vụ. - Phúc thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 142 vụ án trong đó xét xử 103 vụ; Đình chỉ 6 vụ; Tạm đình chỉ 15 vụ. - Phúc thẩm TANDTC thụ lý 90 vụ án trong đó xét xử 36 vụ việc; Đình chỉ 10 vụ; Tạm đình chỉ 3 vụ. - Giám đốc thẩm, tái thẩm TANDTC thụ lý 20 bản án: Bác kháng nghi 1 bản án; Sửa bản án quyết định 10 bản án; Huỷ bản án quyết định 4 bản án. c) Công tác xét xử khiếu kiện năm 2000. - Sơ thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 539 vụ án trong đó xét xử 214 vụ việc ; Đình chỉ 168 vụ; Tạm đình chỉ 37 vụ. - Phúc thẩm TAND cấp tỉnh thụ lý 147 vụ án trong đó xét xử 68 vụ; Đình chỉ 9 vụ; Tạm đình chỉ 0 vụ. - Phúc thẩm TANDTC thụ lý 212 vụ án trong đó xét xử 72 vụ việc; đình chỉ 4 vụ; tạm đình chỉ 0 vụ. - Giám đốc thẩm, tái thẩm TANDTC thụ lý 26 bản án: Bác kháng nghi 1 bản án; Sửa bản án quyết định 15 bản án; huỷ bản án quyết định 9 bản án. Qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo bên cạnh những mặt đạt được thì còn có một số hạn chế cơ bản sau: Thứ nhất, Tình hình khiếu kiện của công dân ở các địa phương có chiều hướng gia tăng, đáng lưu ý là tình trạng khiếu kiện đông người phức tạp kéo dài trong nhiều năm do không được giải quyết hoặc giải quyết không đúng Pháp luật. Tại Điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, quy định Điều kiện và thời hạn khởi kiện. Điều kiện này dễ dàng làm cho người khởi kiện bị mất quyền khởi kiện nếu thời hạn khởi kiện. Như vậy, dẫn đến tình trạng bất hợp lý bởi vì đại đa số những người khởi kiện vẫn không biết được toà án tham gia vào cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính bằng thủ tục tố tụng. Một phần phải nói đến nhận thức và sự hiểu biết của người dân về thời hạn, thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính còn rất thấp. Đây là một nguyên nhân và hạn chế thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Toà án. Thứ 2: Nhiều trường hợp cơ quan Nhà nước làm sai nhưng khi dân khiếu kiện lại không giải quyết kịp thời hoặc giải quyết không khách quan, thấy sai không chịu sửa, bao che cho cấp dưới. Việc xử lý các hành vi vi phạm và kỷ luật cán bộ và sai phạm còn chậm, thậm chí xử lý nương nhẹ đối với người có sai phạm làm cho một bộ phận cán bộ và dân ở nơi có khiếu kiện và người đi khiêú kiện thiếu tin tưởng gửi đơn vượt cấp hoặc trực tiếp đi khiếu kiện lên cấp trên. Mặc dù trên thực tế, khiếu nại của công dân xảy ra hầu như trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, các vụ việc khiếu kiện vô cùng lớn có chiều hướng gia tăng song Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chỉ quy định 10 loại việc thuộc quyền khiếu kiện hành chính của toà án. Thứ 3: Qua kiểm tra việc thực hiện khiếu nại tố cáo cho thấy còn “ nể, sợ : giữa quyền hành pháp và tư pháp. Được thừa nhận qua báo cáo công tác nghành toà án năm 2000: “ Giải quyết vụ án hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp vì trực tiếp đụng trạm đến các cơ quan hành chính Nhà nước. Đặc biệt là cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp với toà án địa phương “ Chính vì vậy, một số toà án dè dặt trong công tác xét xử giải quyết vụ án. Thứ 4: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chưa phát huy đẩy đủ vai trò của mình và tổ hoà giải cơ sở tham gia vào quá trình giải quyết bằng các hình thức hoà giải, giải quyết hành chính, tại cơ sở. KẾT LUẬT CHƯƠNG II. Theo quy định của Pháp luật hiện hành (Hiến pháp; Luật tổ chức TAND, Luật khiếu lại, tố cáo ; Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính . . . )thì bắt đầu từ ngày 1-7-1996, Toà án Nhân dân được giao thêm thẩm quyền xét xử. Từ đấy Toà án hành chính thực sự đi vào hoạt động qua 6năm công tác thực hiện thẩm quyền của mình cũng như qua xét xử các vụ án hành chính cho thấy tình trạng người đi khiếu kiện ngày một tăng, vượt cấp. Như vậy cần phải có sự nhìn nhận đánh và giải quyết nghiêm túc của Pháp luật khi có người khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ở nước ta hiện nay thực trạng giải quyết khiếu kiện hành chính chưa đạt được kết cao , Điều đó bộc lộ qua những hạn chế sau: Thứ nhất: Phạm vi khiếu nại trong Nhân dân rất rộng lớn trên nhiều lĩnh vực chính trị, đời sống-xã hội và số lương vụ việc ngày càng tăng. Trong khi đó toà hành chính chỉ giải quyết trong phạm vi 9 loại viẹc được quy định tại Điều 11 Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính. Thứ hai: Kinh nghiệm trong công tác tổ chức xét xử các vụ án của toà hành chính còn ít, trình độ hiểu biết về quản lý hành chính, Pháp luật còn hạn chế. Bên cạnh đó việc tổ chức xét xử của toà án còn phụ thuộc vào các cấp chính quyền địa phương đã tạo ra tâm lý còn nể sợ . Như vậy, những hạn chế trên đã làm cho tính khách quan, dân chủ , chất lượng và hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính chưa cao. CHƯƠNG III. VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Để xây dựng một hệ thống Pháp luật về khiếu nại, tố cáo một cách đồng bộ, toàn diện có hệ thống đồng thời cần phải hoàn thiện hệ thống toà án cả về tổ chức lẫn Tài phán hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cần phải giải quyết những vấn đề sau: 3. 1 Hoàn thiện Pháp luật phù hợp với thực tiễn của đời sống KT- XH. Pháp luật là một phạm trù chủ quan, phản ánh hiện thực khách quan. Sự phản ánh đó xuất phát từ đòi hỏi của đời sống hiện thực không thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Pháp luật có sự phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan thì mới Điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội và mới được xã hội chấp nhận. Tính khách quan trong hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm Pháp luật cũng đòi hỏi phải khắc phục phù hợp với trình độ nhận thức hiểu biết Pháp luật của Nhân dân , giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa nhu cầu hoàn thiện hệ thống Pháp luật theo những quy luật nội tại của nó với nhu cầu Điều chỉnh Pháp luật của cuộc sống. 3. 2 Hoàn thiện mở rộng thẩm quyền của Toà án hành chính. Những vấn đề thẩm quyền xét xử của toà án hành chính, Điều kiện để thụ lý giải quyết khiếu nại theo con đường toà án và cơ chế Tài phán hành chính cũng là một trong số những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng toà án hành chính hiện nay còn ít việc. Do vậy, cần phải nghiên cứu chuyển dần giải quyết khiếu nại hành chính sang toà án hành chính theo hướng mở rộng thẩm quyền của toà án hành chính, không chỉ bó hẹp thẩm quyền như quy định tổng 9 vấn đề được khiếu kiện của Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính. Nên sửa đổi bổ sung Luật khiếu nại, tố cáo về thẩm quyền trình tự, thủ tụcgiải quyết khiếu nại hành chính, hành vi hành chính theo hướng một vụ việc khiếu nại được được giải quyết ở hai cấp hành chính : cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện là cấp có thẩm quyền giải quyết lần đầu, cơ quan cấp trên trực tiếp giải quyết lần tiếp theo. Nếu người khiếu nai không đông ý thì khởi kiện tại toà hành chính. Đồng thời cần sửa đổi Điều kiện để đơn khiếu kiện được thụ lý đơn giản hơn, tạo Điều kiện cho người khởi kiện trước toà theo hướng cải cách thủ tục tư pháp. 3. 3 Xây dưng vầ tăng cường đội ngũ cán bộ, thẩm phán hành chính. Tuy toà hành chính đã đi vào hoạt động được hơn 6 năm nhưng ở nhiều địa phươngvấn đề tổ chức vẫn chưa thực sự ổn định như các toà hành chính ở vùng sâu, vùng xa trang thiết bị cơ sở vật chất tối thiểu để phục vụ xét xử vẫn còn tạm bợ thiếu tập trung. Tình trạng thẩm phán kiêm nghiệm đây cũng là mọt nguyên nhândẫn đếnhoạt động xet xử chưa đạt được hiểu quả cao. Do đó cần phải xây dựng và tăng cường đội ngũ cán bộ thẩm phán là một trong những nội dung cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt có trình độ thực sự để giải quyết khiếu nại có hiệu quả cao. bên cạnh đó phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ băng nhiều hình thức đào tạo tập trung, đào tạo ngắn hạn . . . để không ngừng nâng cao trình độ. 3. 3 Trước những vấn đề bất cập ở trên vấn đề nghiên cứu tổ chức hoạt động và thẩm quyền xét xử của TAND là một vấn đề cấp bách. Qua đó mạnh dạn đưa ra những phương án: Phương án 2: Thiết lập cơ quan Tài phán hành chính thuộcToà án Nhân dân cấp tỉnh và Toà án Nhân dân tối cao . Thẩm quyền xét xử hành chính được phân định theo cấp như sau: -Toà án Nhân dân cấp huyện có thẩm quyền các vụ án hành chính: -Toà án Nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền các vụ án hành chính: Xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của toà án hành chính mà TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Xét xử phúc thẩm những bản án mà chưa có hiệu lực Pháp luật thuộc thẩm quyền của toà hành chính khi có kháng cáo, kháng nghị. -Toà án Nhân dân tối cao: Xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của toà hành chính khi mình lấy lên xét xử. Uỷ ban thẩm phán xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực Pháp luật của toà án cấp dưới khi có kháng cao, kháng nghị. Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án đã có hiệu lực Pháp luật khi có kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng thẩm phán TANDTC có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án đã có hiệu lực Pháp luật của Uỷ ban thẩm phán khi có kháng nghị. Phương án 1: Để làm tốt chức năng giải quyết các vụ án hành chính, việc xây dựng một cơ chế Tài phán hành chính đơn giản, hiệu quả là cần thiết. Nên chăng cần phải xây dựng cơ quan Tài phán hành chính trực thuộc Chính phủ để giải quyết khiếu kiện của Nhân dân , còn hệ thống Toà án Nhân dân vẫn có vai trò trong việc giải quyết các vụ án hành chính nhưng ở cấp Giám đốc thẩm và chỉ tập trung vào những vấn đề tố tụng hơn là vấn đề thuộc về nội dung chuyên môn. KẾT LUẬN CHƯƠNG III Từ những quan niệm, quan điểm đã nêu trên về Tài phán hành chính việc nghiên cứu đề tài, phân tích thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại để làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn thì cần thiết phải đưa ra để bàn bạc và tìm những phương hướng giải quyết cho các vấn đề về vụ án hành chính nhằm hoàn thiện hơn trong các cơ chế, thể chế, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Sự cần thiết phải: Mở rộng phạm vi đối tượng của khiếu kiện về Tài phán hành chính; Xây dựng và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên trong công tác thẩm phán nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các khiếu kiện hành chính; Hoàn thiện Pháp luật về thẩm quyền của Toà án hành chính. Cải cách cơ cấu tổ chức, sắp xếp hợp lý bộ máy toà án hành chính sao cho vừa có hiệu quả và vẫn giữ được tính khách quan. KẾT LUẬN CHUNG Trong hệ thống các quyền con người quyền công dân ở nước ta thì quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được tồn tại với tư cách là: ”Quyền bảo vệ quyền” . Thông qua việc sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo công dân bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của mình công dân bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, xã hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Đồng thời với việc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo thể hiện tính dân chủ của xã hội, tính cực chính trị của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước với xã hội. Để công dân thực hiên đầy đủ quyền khiếu nại tố cáo , cũng như để giải quyết khiếu kiện hành chính có hiệu lực, hiệu quả thì Điều kiện quan trọng hàng đầu của TAND phải có một hệ thống cơ sở pháp lý phù hợp với thực tiễn, đầy đủ, đồng bộ. Nhà nước ta đã xây dựng một hệ thống cơ sở pháp lý cho quyền khiếu nại tố cáo của công dân cũng như quan tâm tới việc giải quyết khiếu kiện hành chính. Thực tiễn xét xử trong 6 năm qua các cấp toà án ở nước ta đã chững minh giá trị tích cực. Trước sự phức tạp của các khiếu nại, tố cáo hiện nay việc xác lập thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của toà hành chính Nhân dân đánh giá một bước tiến quan trọng và rất cần thiết trong quá trình tăng cương hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Để hiểu rỗ được tính chất, nội dung của thẩm quyền Tài phán hành chính Việt nam khoá luận đã tập trung phân tích cơ cấu hoạt động, đối tượng và thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính. Qua nghiên cứu Tài phán hành chính cho phép chúng ta rút ra một số kết luận về thực trạng, thực tiễn hoạt động giải quyết khiếu kiện của toà án như sau: - Tài phán hành chính là một lĩnh vực còn mới mẻ kinh nghiệm giải quyết các vụ việc của toà án hành chính còn hạn chế, tỷ lệ xử sai, thiếu sót, các bản án kháng cáo kháng nghị còn nhiều. - Tuy nhiên, Tài phán hành chính ở nước ta đã đánh dấu một bước phát triển trên con đường hoàn thiện xây dựng Nhà nước pháp quyền. Xuất phát từ những yêu cầu đòi hỏi của tiến trinh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa và từ nhược điểm trên, khoá luận cũng đã mạnh dạn nêu ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống Tài phán hành chính, là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và cả thời dan dài về sau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLuat11.docx
Tài liệu liên quan