Lược sử hội họa cổ điển của Tây Phương
Có 3 họa sĩ của thời Hậu Ấn Tượng (cuối thế kỷ 19): Van Gogh, Gauguin và Cézanne. Cả 3 đều
"sơn" hình Nhân Vật, Phong Cảnh và Tĩnh Vật.
Dùng màu sắc khi "sơn" đối tượng, Van Gogh và Gauguin bày tỏ tình ý cá nhân của mình "trong
Màu Sắc" bằng kỹ thuật riêng biệt. Đó là kỹ thuật dùng màu sắc "chói lọi" (vivid and brillant) và
kỹ thuật sơn màu sắc trên canvas.
Van Gogh dùng đối tượng là Nhân Vật hay Vật thông thường thực tế trong khi Gauguin dùng đối
tượng dị thường (như những thổ dân ở South Sea islands).
Dùng màu sắc khi "sơn" đối tượng, Cézanne bày tỏ hình thể của đối tượng trước nhiều khía cạnh
để cho thấy Hình rõ ràng của đối tượng. Ông mở đường cho phái Lập Thể (Cubism) của
Picasso.
Đối tượng của Cézanne là Nhân Vật hoặc nhứt là Vật thông thường.
Vincent Van Gogh (1853-1890)
Paul Gauguin (1848-1903)
Paul Cézanne (1839-1906)
33 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lược sử hội họa cổ điển của Tây Phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LƯỢC SỬ HỘI HỌA CỔ ĐIỂN CỦA TÂY PHƯƠNG
(Phan Thượng Hải)
Cho đến thời Phục Hưng, Họa sĩ theo hình thức Tự Nhiên (Naturalism) nghĩa là Họa hình đối
tượng có thật (hiện tại hay quá khứ) trong trạng thái tự nhiên của nó. Nó khác với hình thức
Tượng Trưng (Symbolism), nghĩa là Họa hình thể nào đó để bày tỏ ý tưởng và cảm xúc của họa
sĩ. Hình thức Tự Nhiên tiếp tục cho tới cuối thế kỷ 19. Bắt đầu thế kỷ 20, Hội Họa bắt đầu có
thêm Hình thức Tượng Trưng.
Hội Họa khác với Họa khi kết cấu của bức họa có "3 chiều" (3-dimensional).
Để cho bức họa có có "3 chiều", họa sĩ dùng những phương pháp ghép Phối Cảnh (Perspective)
và để rõ hơn còn dùng thêm Kỹ thuật "Chiaroscuro" (Kỹ thuật Đậm-Nhạt). Phối Cảnh là phương
pháp Hội Họa thể hiện không gian của đối tượng trên mặt tranh. Phương pháp Phối Cảnh có
nhiều thay đổi theo thời gian.
Đối tượng trong một bức họa có thể là nhân vật hay phong cảnh.
Hình của nhân vật (đại đa số là con người) trong bức họa gồm có khuôn mặt, thân thể và
trang phục. Chân dung là trong bức họa chỉ có 1 nhân vật thường là khuôn mặt. Hình của nhân
vật có khi biểu lộ cảm xúc (bắt đầu từ thời Phục Hưng).
Hình của phong cảnh trong bức họa có thể là tập hợp (nhiều) nhân vật (kiểu Gothic) hay
thành phố hay thiên nhiên.
Hội Họa Tự Nhiên giữ độc quyền trong suốt lịch sử Hội Họa cổ điển của Tây Phương (thế kỷ 14
cho tới hết thế kỷ 19) gồm: Phục Hưng, Baroque, Rococo, Tân Cổ Điển, Lãng Mạn, Ấn Tượng
và Hậu Ấn Tượng.
PHỤC HƯNG Ở Ý (ITALIAN RENAISSANCE)
Thời Phục Hưng bắt đầu từ thế kỷ 14 cho đến thế kỷ 17.
Đề tài của bức họa là từ Thánh Kinh, Thần thoại Hy Lạp, lịch sử thời Trung Cổ và quí tộc đương
thời; rất hiếm khi từ người thường. Hình nhân vật là thông thường nhứt. Hiếm khi có hình
phong cảnh, thường là gồm nhiều nhân vật như trận chiến...
Với nước sơn cũ, họa sĩ ở Florence, Rome và Parma thường chú trọng đến "vẽ" nhưng từ khi
sáng chế ra nước sơn dầu, họa sĩ ở Venice chú trọng về "sơn" hơn là "vẽ".
1) Florence
*
Nền Hội Họa ở Florence khởi đầu cho thời Phục Hưng, nó bắt đầu từ Giotto. Giotto cố gắng tạo
ra "3 chiều" trong bức họa, khác với thầy mình là Cimabue. Tuy có tiến bộ nhưng ông chưa
thành công. Giotto là họa sĩ bắt đầu vẽ hình nhân vật biểu lộ tình cảm. Các họa sĩ ở Florence
trong thời Phục Hưng chỉ chú trọng đến "vẽ".
Masaccio và Uccello bắt đầu dùng Phối Cảnh Đường Thẳng (Linear Perspective) và riêng
Masaccio còn sáng tạo ra Chiaroscuro (kỹ thuật Đậm-Nhạt). Đặc tính "3 chiều" của bức họa giữ
độc tôn trong ngành Hội Họa cho đến đầu thế kỷ 20 khi có phái Lập Thể (Cubism) của Picasso.
(Madonna and Child enthroned with six angels/Cimabue): Hình "2 chiều" 1270
(The Battle of San Romano/Uccello): Hình "3 chiều" với Phối Cảnh Đường Thẳng 1432
Masaccio cũng nâng cao kỹ thuật vẽ hình khuôn mặt, thân thể con người và trang phục cho các
họa sĩ Florence về sau.
Tu sĩ Fra Angelico, Tu sĩ Fra Filipo Lippi và Mantegna cũng như Uccello chỉ dùng Phối Cảnh
Đường Thẳng (cũng đủ tạo ra hình có "3 chiều" cho 1 bức họa). Tu sĩ Fra Filipo Lippi vẽ khuôn
mặt người rất tế nhị. Mantegna vẽ hình thân thể con người vững chắc hơn, như hình những bức
tượng điêu khắc.
Từ Piero della Francesca và môn đệ là Gozzoli, các họa sĩ ở Florence đều dùng cả 2: Phối Cảnh
Đường Thẳng và Chiaroscuro.
Cimabue (1240-1302)
Giotto di Bondone (1267-1337)
Masaccio tên thật là Tommaso di Ser Giovani di Mone (1401-1428)
Fra Angelico tên thật là Guido di Pietro (1395-1455)
Paolo Uccello tên thật là Paolo di Dono (1397-1475)
Fra Filippo Lippi (1406-1469)
Piero della Francesca tên thật là Pieri dei Benedetto Franceschi (1422-1492)
Benozzo Gozzoli (1421-1497)
Andrea Mantegna (1430-1506)
(St Sebastian/Mantegna) 1459
*
Verrocchio tiến bộ hơn Mantegna trong "vẽ" hình thân thể con người, khởi đầu cho những bức
họa "cơ thể học" của Michelangelo sau nầy. Verrocchio có 3 môn đệ là Ghirlandaio, Botticelli
và Leonardo da Vinci.
Ghirlandaio vẽ không khác Verrocchio nhưng Đề tài của ông là "Người ngoài đời" trong giới quí
tộc không phải từ Thánh Kinh hay Thần thoại Hy Lạp. Ông đặc biệt có những bức họa Chân
Dung cũng như Tu sĩ Fra Filipo Lippi.
Botticelli cũng vẽ hình người (thân thể) vững chắc như Mantegna (và Masaccio) nhưng ông chú
trọng tới nét vẽ rõ ràng (ở chu vi) và có khuynh hướng Cầu Kỳ (Mannerism).
Leonardo da Vinci không khác Verrocchio nhưng ông sáng tạo ra Phối Cảnh Không Gian (Aerial
Perspective) và đi ngược với Botticelli: không dùng nét vẽ rõ ràng khi vẽ hình nhân vật (đó là kỹ
thuật Sfumato được sáng tạo từ Leonardo). Phối Cảnh Không Gian khi nước sơn dầu ra đời thay
thế Phối Cảnh Đường Thẳng.
(The Birth of Venus / Botticelli) 1485
(Mona Lisa / Leonardo da Vinci) 1503-1506
Sau những họa sĩ trên, Bronzino ở Florence nhưng lại vẽ giống Michelangelo (ở Roma). Từ Tu
sĩ Fra Bartolommeo, sau khi có nước sơn dầu, các họa sĩ Florence đổi qua chú trọng về "sơn"
thay vì chú trọng về "vẽ".
Andrea del Verrocchio tên thật là Andrea di Cioni (1435-1488)
Domenico Ghirlandaio (1448-1494)
Sandro Botticelli tên thật là Alesandro di Maciano (1444-1510)
Leonardo da Vinci (1452-1519)
Fra Bartolommeo tên thật là Baccio della Porta (1472-1517)
Bronzino tên thật là Agnolo di Cosimo (1503-1572)
2) Roma
Hội Họa ở Roma bắt đầu sau Florence. Nó có 3 họa sĩ nổi danh là Raphael, Michelangelo và
Piombo. Tất cả đều "vẽ" như họa sĩ cùng thời ở Florence.
Michelangelo dùng Phối Cảnh Đường Thẳng và Chiaroscuro như Masaccio của Florence để vẽ
hình nhân vật ở Sistine Chapel nhưng hình "cơ thể học" của ông về thân thể là đặc sắc nhất.
Khuynh hướng Cầu Kỳ cũng thấy trong những bức họa nhân vật nầy của Michelangelo.
Cũng dùng Phối Cảnh Đường Thẳng nhưng Raphael đổi Chiaroscuro của Masaccio thành ra kỹ
thuật Chiaroscuro của riêng mình, khéo léo hơn (gọi là Raphael's subtle Chiaroscuro).
Piombo là họa sĩ hàng đầu ở Roma sau khi Raphael qua đời. Ông chú trọng nhiều về vẽ chân
dung như Ghirlandaio ở Florence.
Michelangelo Buonarroti (1475-1564)
Raphael tên thật là Raffaello Saurio (1483-1520)
Sebastiano del Piombo (1485-1547)
(The Marriage of the Virgin / Raphael) 1504
3) Parma
Những họa sĩ nổi danh ở Parma cũng chuyên về "vẽ" trong thời Phục Hưng như Florence và
Roma với 2 kỹ thuật Phối Cảnh như Masaccio (Phối Cảnh Đường Thẳng và Chiaroscuro).
Corregio vẽ hình nhân vật với thân thể vững chắc như Mantegna và Michelangelo nhưng có lộ
vẻ "dâm đãng" (erotic).
Parmigianino, chịu ảnh hưởng từ những bức họa hình nhân vật của Botticelli (Venus) và
Michelangelo (Sistine Chapel) chính thức thành lập Kiểu Cầu Kỳ của Hội Họa (Mannerism)
trong hình nhân vật.
Kiểu Cầu Kỳ là một kiểu chủ trương tạo ra những đối tượng đẹp nhứt trong sự tao nhã (elegance)
bất cần thực tế. Hình thể của kiểu Cầu Kỳ "thấy" dài ra hơn bình thường.
Corregio tên thật là Antonio Allegri ((1489-1534)
Parmigianino tên thật là Girolamo Francesco Mazzola (1503-1540)
(Madonna of the long neck / Parmigianino) 1535
4) Venice
*
Hội Họa thời Phục Hưng ở Venice bắt đầu với Bellini và dùng nước sơn dầu. Nước sơn truyền
thống cũ gọi là Tempera là thuốc màu trộn với hồ và lòng trắng trứng (được dùng ở Florence,
Roma và Parma). Nước sơn dầu có màu sống động và giúp cho họa sĩ có thể "sơn" lâu hơn (nên
"họa" lâu hơn). Có thể nói Bellini là cha đẻ của Hội Họa Venice. Ông có anh rể là Mantegna (ở
Florence) và có môn đệ ở Venice là Giorgione và Titian.
Khác với các họa sĩ nổi danh kể trên ở Florence, Roma và Parma đều "vẽ" với nước sơn truyền
thống cũ; các họa sĩ ở Venice đều bắt đầu "sơn" bằng nước sơn dầu. Dĩ nhiên hình "sơn" thì
khác hình "vẽ": chú trọng diễn tả Hình của bức họa bằng màu sắc thay vì bằng nét vẽ.
Giorgione cũng gần giống như Bellini nhưng ông chuyển hướng đề tài, dùng những người quí
tộc trong thế tục. Từ Giorgione, họa sĩ Venice biết dùng "sơn" để diễn tả tình cảm của nhân vật
(trong hình).
Giovanni Bellini (1436-1516)
Giorgione tên thật là Giorgio da Castelfranco hay Giorgio Barbarelli (1452-1519)
*
Hội Họa Venice hoàn hảo với Titian, Veronese và Tintoretto. Titian và môn đồ là Tintoretto
dùng màu sắc nhẹ nhàng và tự do kết liên những hình thể. Trái lại Veronese "sơn" rất nhẹ, dùng
màu sắc để phân biệt hình thể. Tintoretto còn sáng tạo ra Phối Cảnh "off-balanced" làm bức họa
mờ ảo hơn.
(The rape of Europa / Titian) 1560
El Greco là môn đệ và họa giống như Tintoretto nhưng sang ở Toledo của Spain. El Greco có
thêm Kiểu Cầu Kỳ và là họa sĩ độc nhất thời Phục Hưng dùng bức họa để biểu lộ cảm xúc tâm
linh của chính mình.
Titian tên thật là Tiziano Vecellio (1485-1576)
Paolo Veronese tên thật là Paolo Caliari (1528-1588)
Tintoretto Jacopo Robusti (1519-1594)
El Greco tên thật là Domenikos Theotocopoulos (1541-1614)
5) Căn bản Kỹ thuật Hội Họa từ Thời Phục Hưng
*
Phối Cảnh là phương pháp Hội Họa (vẽ và sơn) thể hiện không gian của đối tượng trên mặt
tranh. Bức họa nhìn giống như có "3 chiều" mặc dù được trình bày trên mặt phẳng "2 chiều" của
bức tranh. Họa sĩ đã thử ghép Phối Cảnh từ trước nhưng chỉ có Họa sĩ thời Phục Hưng mới hoàn
chỉnh: "Họa" mới thành "Hội Họa". Kết quả là bức tranh càng giống như thực (Duy
Thực/Realism). Có 2 Phối Cảnh dùng cho hình Nhân Vật và Phong Cảnh.
Trong Phối Cảnh Đường Thẳng (Linear Perspective), tất cả đường thẳng đều gặp nhau ở
chân trời. Gọi đó là Tiêu Điểm (Vanishing point). Phối Cảnh Đường Thẳng dựa trên cách sắp
đặt của các hình thể trong không gian như cách họa đồ kiến trúc của Brunelleschi. Brunelleschi
(bạn của Masaccio) là Kiến trúc sư của nhà thờ Florence.
Trong Phối Cảnh Không Gian (Aerial Perspective), những đối tượng tùy khoảng cách sẽ
được thay đổi bằng ánh sáng hay bộ phận trong không khí. Phối Cảnh Không Gian dựa trên hiệu
quả không khí của Màu và Sắc nên nó còn được gọi là Phối Cảnh Không Khí (Atmospheric
Perspective)
(Phối Cảnh Đường Thẳng)
(Phối Cảnh Không Gian)
Để cho bức họa trông càng "3 chiều" hơn nữa, Họa sĩ còn dùng một kỹ thuật tên là Chiaroscuro.
Chiaroscuro làm dịu những bờ (hình của những đối tượng) bằng cách dùng Ánh sáng và Bóng tối
thay vì vẽ đường chu vi rõ rệt để phân biệt những đối tượng. Theo tiếng Ý, "Chiaro" có nghĩa là
"rõ hay nhạt (lạt)" còn "oscuro" có nghĩa là "đậm (sậm)". "Chiaroscuro" có nghĩa là "Đậm-
Nhạt". Nó dựa trên kỹ thuật dùng sự tương phản của màu sắc giữa Đậm và Nhạt (light and dark)
để làm thành hình thể "3 chiều". Chiaroscuro tạo thêm cảm xúc cho Hội Họa.
(Chiaroscuro cho hình Nhân Vật)
(Chiaroscuro cho hình Phong Cảnh)
*
Như vậy, từ thời Phục Hưng ở Ý, Họa trở thành Hội Họa nhờ có phương pháp Phối Cảnh và kỹ
thuật Chiaroscuro (Đậm-Nhạt). Masaccio chính thức mở đầu Hội Họa thời Phục Hưng bằng
cách sáng tạo ra Chiaroscuro. Masccio và Uccello sáng tạo ra Phối Cảnh Đường Thẳng. Kỹ
thuật Chiaroscuro về sau được Raphael thay đổi là tế nhị hơn gọi là "subtle Chiaroscuro" của
Raphael. Tuy nhiên Chiaroscuro của Masacchio vẫn thông dụng nhứt.
Về sau Leonardo sáng tạo ra Phối Cảnh Không Gian thông dụng hơn Phối Cảnh Đường Thẳng.
Điển hình của Phối Cảnh Không Gian là bức họa Mona Lisa.
Phối Cảnh "off-balance" của Tintoretto không thông dụng và ít được biết đến.
*
Phương pháp Phối Cảnh và Chiaroscuro áp dụng cho cả một bức họa Nhân Vật hay Phong Cảnh.
Bức họa chỉ có khuôn mặt của một Nhân Vật thì gọi là Chân Dung. Bức họa Nhân Vật diễn tả
Thân thể (kể cả Khuôn mặt) và Trang phục.
Bức họa Phong Cảnh có 3 loại:
Phong Cảnh tập họp rất nhiều nhân vật;
Phong Cảnh gồm có Nhân Vật và phong cảnh (thường là thiên nhiên);
Phong Cảnh mà thôi (phong cảnh thiên nhiên/Landscape hoặc phong cảnh Thành
Phố/Cityscape).
Thời Phục Hưng đa số gồm có những bức họa Nhân Vật và thiểu số là những bức họa về Phong
Cảnh tập họp nhiều nhân vật như một trận chiến...
*
"Họa" Nhân Vật hay Phong Cảnh gồm có "vẽ" và "sơn". Lúc đầu với nước sơn truyền thống
Tempora, họa sĩ chú trọng về "vẽ" như ở Florence, Roma và Parma. Từ khi có nước sơn dầu,
họa sĩ ở Venice chú trọng về "sơn".
Khi "vẽ" hình Nhân Vật, Masaccio từ lúc đầu thời Phục Hưng đã thành công "vẽ" trang phục và
nhứt là thân thể vững chắc. Mantegna rồi Verrocchio càng vững chắc hơn cho đến hoàn chỉnh
như hình "cơ thể học" như Michelangelo. Botticelli dùng nét vẽ đậm và rõ hơn (nhứt là ở chu
vi). Trái ngược lại, Leonardo dùng nét vẽ mờ hơn với kỹ thuật gọi là Sfumato. Kiểu Cầu Kỳ khi
vẽ hình thể bắt đầu dùng từ Botticelli và Michelangelo rồi chính thức thành lập bởi Parmigianino
ở Parma và El Greco ở Spain. Hình thể của kiểu Cầu Kỳ "thấy" dài ra hơn bình thường.
Họa sĩ "vẽ" điển hình của thời Phục Hưng ở Ý là Leonardo với Phối Cảnh Không Gian và
Sfumato cho hình Nhân Vật. Leonardo được nhiều họa sĩ về sau bắt chước.
Một số ít họa sĩ "vẽ" Chân Dung là Fra Fillippi Lippi, Ghirlandaio và Piombo.
Một số ít họa sĩ "vẽ" Phong Cảnh tập họp nhiều nhân vật là Ucello và Gozzoli thường dùng Phối
Cảnh Đường Thẳng
Họa sĩ chú trọng về "sơn" đều dùng để "họa" Nhân Vật mà thôi bắt đầu với Bellini rồi Giorgione.
Sau đó có 2 kiểu "sơn": Titian và Tintoretto "sơn" mỏng, nhẹ nhàng và tự do. Veronese "sơn"
còn nhẹ hơn như bay bỗng (airy).
*
Đề tài của thời Phục Hưng tùy theo những bảo trợ là Giáo Hội và quí tộc nên là từ Thánh Kinh,
Thần thoại Hy Lạp, lịch sử thời Trung Cổ và quí tộc (không thấy có trưởng giả hay bình dân).
Đối tượng Nhân Vật và phong cảnh ở ngoài đời đã là trong quá khứ nên họa sĩ phải dựa trên lý
thuyết sách vở đề họa thành đối tượng trong bức họa.
PHỤC HƯNG Ở BẮC ÂU (NORTHERN RENAISSANCE)
Đối tượng Nhân Vật trong bức họa của các họa sĩ ở Bắc Âu khác với các họa sĩ ở Ý: dùng hình
của những người có thật đương thời đại diện cho những Nhân Vật trong Thánh Kinh hay thần
thoại Hy Lạp thay vì tạo hình dựa trên lý thuyết.
Họa sĩ "họa" Nhân Vật của Bắc Âu có 2 phái: "sơn" và "vẽ". "Sơn" như họa sĩ Venice nhưng
dầy hơn. "Vẽ" theo Leonardo. Chân Dung có nhiều hơn.
Họa sĩ "họa" Phong Cảnh: Thiên nhiên và Nhân vật trong bức họa và cũng có 2 phái: "sơn" và
"vẽ".
1) Hình Nhân Vật
*
Ở Hòa Lan có Van Eyck và Van Weyden và người nối nghiệp là Memling đều dùng nước sơn
dầu để "sơn" như các họa sĩ ở Venice và cũng áp dụng Chiaroscuro của Masaccio.
Kỹ thuật "sơn" hình Nhân Vật của họ tiến bộ hơn: chú trọng tới chi tiết rõ ràng và dùng nhiều
nước sơn dầu hơn nữa (sơn nhiều lớp và dầy hơn). Hình trong bức họa của Van Eyck rất sống
động, của Van Weyden mang nhiều tình cảm và của Memling rất cân đối.
Grunewald ở Đức cũng "sơn", giống như 3 họa sĩ trên đây, nhưng có đề tài khác: Nhân Vật thời
Trung Cổ.
Jan Van Eyck (1395-1441)
Roger Van Der Weyden (1399-1464)
Hans Memling (1430-1494)
Matthias Grunewald tên thật là Mathis Gothardt Neithardt (1470-1528)
(The descent from the Cross / Van Weyden) 1435
*
Tuy cùng có hình về Nhân Vật (và Chân Dung), các họa sĩ chỗ khác lại có những khuynh hướng
khác. Massys ở Antwerp, Jean Fouquet ở Pháp, Durer và người thừa kế là Holbein the Youger ở
Đức lại "vẽ" hình với kỹ thuật giống như Leonardo, dùng Phối Cảnh Không Gian và Sfumato.
Bức họa "Portrait of man" của Massys coi như hình "Mona Lisa" trong dạng đàn ông. Hình "vẽ"
của Fouquet còn vững chắc như tượng điêu khắc. Durer còn in bức họa của mình ra nhiều bản
(1st massed-market artist).
Clouet học từ Hòa Lan nhưng chuyển sang Pháp là họa sĩ trong triều đình của vua Francis I.
Ông cũng "vẽ" như Leonardo nhưng còn thêm Kiểu Cầu Kỳ (Mannerism).
(Feast of the Rose Garlands / Durer) 1506
Quentin Massys (1465-1530)
Jean Fouquet (1420-1481)
Albrecht Durer (1471-1528)
Hans Holbein the Younger (1497-1543)
Francois Clouet (1510-1572)
2) Hình Phong Cảnh (và Nhân Vật)
*
Thời Phục Hưng ở Bắc Âu có Altdorfer và Cranach the Elder của Đức và Bruegel của Antwerp
chuyên về Phong Cảnh.
Altdorfer và Cranach the Elder dùng Phối Cảnh Đường Thẳng. Altdorfer "vẽ" những Cảnh gồm
nhiều nhân vật như Gozzoli của Florence. Ngoài ra Altdorfer và Cranach the Elder thuộc về
trường phái Danube nên vẽ Phong Cảnh Thiên Nhiên của nước Đức. Trong những bức họa
phong cảnh, Cranach the Elder còn vẽ thêm hình Nhân Vật (thần thoại Hy Lạp) theo kiểu Cầu
Kỳ và có tính các dâm đãng.
Bruegel "sơn" những Phong Cảnh Thiên Nhiên (Landscape) của Antwerp có những nông dân với
Phối Cảnh Không Gian và Chiaroscuro (dùng ánh sáng).
Như vậy họa sĩ Phong Cảnh Thiên Nhiên của thời Phục Hưng không hoàn toàn vẽ Cảnh Thiên
Nhiên mà còn có vẽ Nhân Vật trong bức họa.
*
Trong thời Phục Hưng với "3 chiều", Bosch trở lại thời Trung Cổ kiểu Gothic. Ông "vẽ" những
bức họa Phong cảnh rộng lớn gồm rất nhiều Nhân Vật (với không gian 2 chiều).
Albrecht Altdorfer (1480-1538)
Lucas Cranach the Elder (1472-1553)
Peter Bruegel the Elder (1525-1569)
Hieronymus Bosch tên thật là Jeroen Van Aken (1450-1516)
BAROQUE
Baroque là thời kỳ Hội Họa (vào thế kỷ 17) lập ra từ Caravaggio và Carracci ở Ý với Hình Nhân
Vật vững chắc và biểu lộ tình cảm rất mạnh.
1) Hình Nhân Vật
*
Caravaggio ở Roma bắt đầu những bức Hình Nhân Vật nầy kèm theo với kỹ thuật Phối Cảnh
"Bold Chiaroscuro" bằng cách dùng hiệu quả của bóng tối làm cho đối tượng như "phát ra" từ
bóng tối. Kỹ thuật "vẽ" Hình và Phối Cảnh của Caravaggio nầy gọi chung là Kiểu
Caravaggesque. Hình "vẽ" của Caravaggio có đường nét rất đậm.
Đối tượng trong Hình của Caravaggio là những nhân vật nổi tiếng trong Thánh Kinh hay Thần
thoại Hy Lạp hay trong giới quí tộc (cũng như trong Thời Phục Hưng) nhưng ông dùng người
thường làm mẫu.
Artemesia Gentileschi ở Roma là nữ họa sĩ nổi tiếng đầu tiên, là môn đồ của Caravaggio và
giống hệt như thầy mình.
Carracci ở Bologna hoàn toàn giống như Caravaggio với Kiểu Caravaggesque. Tuy nhiên ông
vẽ hình thân thể vững chắc như Michelangelo. Ngoài vẽ Nhân Vật, Carracci còn vẽ phong cảnh
thiên nhiên lý tưởng trong Thần thoại Hy Lạp. Từ ông mới có trường phái chuyên về họa Cảnh
Thiên Nhiên khác với họa Nhân Vật (và Chân Dung).
Ở Bologna, Carracci có môn đồ là Reni và Reni có môn đồ là Guercino. Cả hai Reni và
Guercino đều theo giống như Carraci nhưng có thêm kiểu Cầu Kỳ trong Hình vẽ Nhân Vật.
Ở Naples có Rosa với hình họa như Carracci.
Michelangelo Merisi de Caravaggio (1571-1610)
Artemesia Gentilleschi (1593-1653)
Annibale Carracci (1560-1609)
Guido Reni (1575-1642)
Guercino tên thật là Giovanni Francesco Barbieri (1591-1666)
Salvator Rosa (1615-1673)
(The Young Bacchus / Caravaggio) 1596. "Kiểu Caravaggesque"
*
Các họa sĩ Baroque ở Hòa Lan dùng kỹ thuật Caravaggesque cho Hình Nhân Vật và Phối Cảnh
nhưng Rubens, Hals, Rembrandt và Vermeer "sơn" như Titian của Venice hay Van Eyck của
Hòa Lan trong thời Phục Hưng chứ không "vẽ" như Caravaggio và Carracci. Mặc dù nét vẽ
không cần rõ, Rubens, Hals và Vermeer dùng những lớp sơn dầy nên Hình Nhân Vật cũng vững
chắc như những họa sĩ Baroque ở Ý chú trọng về "vẽ". Rubens có một kỹ thuật sơn dầy gọi là
Impasto. Hình Nhân Vật của Hals còn đôi khi biểu lộ tình cảm nhất thời (a snap shot of
emotion). Trái lại, Hình Nhân Vật của Rembrandt thì nhẹ nhàng với sự hiểu biết tâm lý của
người họa sĩ.
Rubens thường có những bức họa lớn ở nhà thờ và bảo trợ của tôn giáo. Hals, Rembrandt và
Vermeer chỉ có những bức họa nhỏ về chân dung hay về đời sống thường dân trong nhà.
Van Dyck là phụ tá chánh của Rubens nhưng sau đó sang ở Anh và là họa sĩ làm đẹp cho giới
quí tộc. Tenier the Younger cũng "sơn" giống như Rubens, trở thành họa sĩ ở triều đình Flemish.
Ruysch ở Hòa Lan dùng phương pháp Caravaggesque để họa Tĩnh Vật (Still Life).
(Descent from the Cross/Rubens) 1618
(Anatomy lesson of Dr Nicolaes Tulp / Rembrandt) 1632
Sir Peter Paul Rubens (1577-1640)
Frans Hals (1581-1566)
Rembrandt Harmensz Van Rijn ((1606-1669)
Jan Vermeer (1632-1675)
Sir Anthony Van Dyck (1599-1641)
David Teniers the Younger (1610-1690)
Rachel Ruysch (1664-1750)
*
Ở Spain (Seville) có 3 họa sĩ Baroque Caravaggesque và họa Hình Nhân Vật. Zubaran còn "vẽ"
hình Tĩnh vật. Zubaran và Murrillo thì "sơn" giống như Rubens nhưng Velazquez lại sơn theo
kiểu Rembrandt, nhẹ nhàng hơn nên nổi tiếng nhứt trong 3 người.
(La Meninas / Velazquez) 1656
Francisco Zubarán (1598-1664)
Bartolomé Estaban Murillo (1617-1682)
Diego Rodriguez de Silva y Velázquez (1599-1660)
*
Như vậy các Họa sĩ họa Nhân Vật của Baroque gồm có: "vẽ" từ Ý và "sơn" từ Hòa Lan và Spain.
Hình thể của Nhân Vật được "vẽ" vững chắc từ Caravaggio và "sơn" cũng vững chắc từ Rubens
(sơn dầy) như các họa sĩ "vẽ" thời Phục Hưng ở Ý. Tất cả đều dùng Phối Cảnh Caravaggio và
Hình Nhân Vật mang rất nhiều tình cảm. Đó là những đặc điểm của Hội Họa Baroque. Thực tế
nó có kiểu "vẽ" Caravaggio (Caravaggesque) và kiểu "sơn" Rubens là tiêu biểu.
Về Đề tài, ngoài Thánh Kinh, Thần thoại Hy Lạp và giới quí tộc còn có Trưởng giả và người
bình dân. Đối tượng trong hình đều là người thật như thời Phục Hưng ở Bắc Âu và đặc biệt bắt
đầu có dùng nhiều người ngồi làm mẫu. Caravaggio vẽ Tửu Thần Bacchus nhưng dùng 1 đĩ đực
làm người mẫu trong bức họa nổi tiếng "The Young Bacchus" (1596).
2) Hình Phong Cảnh
Trong thời kỳ Baroque có các họa sĩ "sơn" Phong Cảnh hoàn toàn Thiên Nhiên (khác với thời kỳ
Phục Hưng), dùng Phối Cảnh Không Gian và Chiaroscuro.
Từ Carracci, có những họa sĩ:
Poussin ở Pháp cũng như Carracci với những Phong Cảnh Thiên Nhiên tưởng tượng đúng như từ
Thần thoại Hy Lạp
Claude ở Roma với những Phong Cảnh Thiên Nhiên của Ý và bờ biển Amalfi (của Ý). Bức họa
của ông có vẻ phóng đại (với không gian cao rộng và ánh sáng mù mờ).
Both ở Hòa Lan với những Phong Cảnh Thiên nhiên hổn hợp của Ý (Roman campagna) và Hòa
Lan. Bức họa của ông luôn trung thực với cảnh vật làm mẫu.
Van Ruysdaele, Jan Van Goyen và Cuyp ở Hòa Lan cũng họa Cảnh đẹp và yên bình của Hòa
Lan một cách trung thực như Both.
(The four season: summer or Ruth and Boaz / Poussin) 1660
(Seaport at Sunset / Claude) 1639
(Southern landscape with a ruin / Both)
Nicolas Poussin (1594-1665)
Claude Lorrain tên thật là Claude Gallée (1600-1682)
Jan Both (1618-1658)
Salomon Van Ruysdaele (1600-1670)
Aelbert Cuyp (1620-1691)
ROCOCO
Hội Họa chuyển sang một hướng, kiểu và bản chất mới: phù phiếm (frivolous) và có khi có thêm
dâm đãng (erotic) để thỏa mãn giới trưởng giả lúc bấy giờ. Đó là Rococo, nó muốn tách ra khỏi
giáo luật của Hội Thánh và chú trọng tới cá nhân Con người . Nó chính thức bắt đầu từ triều
đình của vua Louis XV với họa sĩ Watteau và Boucher cho đến cuối thế kỷ 18.
1) Hình Nhân Vật
*
(Madame de Pompadour / Boucher) 1756
Bức họa Rococo có Hình Nhân Vật mang đặc tính phù phiếm xa hoa trong cách trang sức và
trang hoàng và còn thêm "dâm đãng" (riêng với Boucher và môn đồ là Fragonard ở Pháp và
Ricci và ở Ý). Họa sĩ Rococo đều "sơn" và theo giống như kỹ thuật của Baroque.
Watteau, Boucher và Fragonard ở Pháp và Gainsborough và Sir Reynolds ở Anh "sơn" dầy theo
kỹ thuật Baroque của Rubens. Đối tượng là Người trong giới trưởng giả.
Ricci và Tiepolo ở Ý theo kỹ thuật Baroque nhưng "sơn" nhẹ nhàng, tự do như Titian và rất nhẹ
như Veronese. Đối tượng của họ là nhân vật trong Thần thoại Hy Lạp.
West ở Mỹ dùng Rococo để "sơn" Nhân Vật trong lịch sử Hiệp Chủng Quốc.
Jean Antoine Watteau (1684-1721)
Francois Boucher (1703-1770)
Jean Honoré Fragonard (1732-1806)
Thomas Gainsborough (1727-1788)
Sir Joshua Reynolds (1723-1792)
Sebastiano Ricci (1650-1734)
Giovanni Battista Tiepolo (1696-1770)
Benjamin West (1738-1820)
(Colonel Acland and Lord Sidney, the Archers / Sir Reynolds) 1769
*
Hogarth, Bruegel (ở Anh) và Longhi (ở Ý) cũng "sơn" Hình Nhân Vật theo kiểu phù phiếm của
Rococo nhưng với mục đích châm biếm một cách hài hước.
Hogarth dùng đối tượng ở mọi giai cấp với mục đích khôi hài trong bức họa
Bruegel dùng đối tượng là nông dân và mô tả thẳng thừng (như lúc họ đánh nhau hay đứng đái...)
Longhi dùng đối tượng là giới quí tộc trưởng giả với mục đích chế giễu nhẹ nhàng những người
nầy thể hiện trong bức họa.
William Hogarth (1697-1764)
Pietro Longhi tên thật là Pietro Falca (1702-1785)
(The Ridotto in Venice/Longhi) 1750
*
Stubbs "vẽ" Hình Thú Vật giống như Leonardo và Phục Hưng Ý "vẽ" Hình Nhân Vật.
George Stubbs (1724-1806)
*
Vẫn còn theo Baroque như Carraci, Solimena ở Napoli "vẽ" những Thiên thần trong Thánh Kinh
và Thần thoại Hy Lạp và Chardin ở Pháp "vẽ" những thường dân và tĩnh vật (Still Life).
Francesco Solimena (1657-1747)
Jean Baptiste Siméon Chardin (1699-1779)
2) Hình Phong Cảnh
*
Zuccarelli (và Gainsborough) ở Anh và Robert ở Pháp là những họa sĩ của Phong Cảnh Thiên
Nhiên theo kiểu Rococo. Trong bức họa, phong cảnh thiên nhiên ở đằng sau và ở đằng trước là
Hình Nhân Vật trong phong thái phù phiếm. Đối tượng của Robert lại là Cảnh Thần thoại Hy
Lạp. Họ cũng như Altdorfer và Cranach the Elder ở Đức và Bruegel ở Antwerp (vào thời Phục
Hưng) không hoàn toàn là họa sĩ của Phong Cảnh Thiên Nhiên (Landscape).
Francesco Zuccarelli (1702-1788)
Hubert Robert (1733-1808)
(Mc Beth and the Witches / Zuccarelli) 1760
(Return of the Bucintoro to the Molo on Ascension Day/Canaletto) 1729-1732
*
Tính cách phù phiếm xa hoa của Rococo tạo ra những họa sĩ "sơn" Cảnh Thành Phố (Cityscape)
ở Ý.
Canaletto và Guardi họa thành phố Venice với một kỹ thuật là "Camera Obscura" để phản ánh
thành phố.
Panini họa thành phố Roma. Ông dùng kỹ thuật gọi là "Capricio": góp tất cả những chỗ vào
trong bức họa tùy theo ý tổ chức của họa sĩ (mặc dù không có thật). Nó còn gọi là "Kiểu Kịch
Nghệ" (Theatrical Style).
Canaletto tên thật là Giovanni Antonio Canal (1697-1768)
Francesco Guardi (1712-1793)
Giovanni Paolo Panini (1691-1765)
NEO CLASSICAL
Neo Classical tiếp theo Rococo ở Pháp với David và Vigée-Lebrun. Họa sĩ "vẽ" Hình Nhân Vật
giống như những bức tượng Thần Hy Lạp với bắp thịt và đường nét rõ ràng và dùng
Chiaroscuro.
Ingres (cũng ở Pháp) tiếp tục vào đầu thế kỷ 19 cũng "vẽ" giống như Raphael những Thần Hy
Lạp (thêm phần dâm đãng).
Jacques Louis David (1748-1825)
Élizabeth Louise Vigée-Lebrun (1755-1842)
Jean Auguste Dominique Ingres (1780-1867)
(The Death of Marat / David) 1793
LÃNG MẠN (ROMANTISM)
Tới thế kỷ 19, kỹ thuật Hội Họa đã hoàn chỉnh: "sơn" dầy như Rubens hay đôi khi mỏng như
Titian của Venice thời Phục Hưng và Phối Cảnh như Masaccio thời Phục Hưng hay Caravaggio.
Do đó, họa sĩ đổi qua tìm đối tượng để bày tỏ tình ý của mình một cách tự do. Cũng do đó Đề tài
không còn lấy từ Thánh Kinh hay Thần thoại Hy Lạp và hơn nữa giới quí tộc cũng không còn
nữa.
Theo phái Lãng Mạn, họa sĩ họa một đối tượng mình lựa chọn để bày tỏ tình ý cá nhân của họa sĩ
liên quan tới đối tượng đó hay về một chủ đề nào khác.
Đối tượng trong bức họa có thể là Hình Nhân Vật hay Phong Cảnh Thiên Nhiên.
Những họa sĩ dùng Hình Nhân Vật là: Goya, Blake, Géricault, De la Croix; Courbet, Millet và
Millais.
Những họa sĩ dùng Phong Cảnh Thiên Nhiên là: Constable, Turner, Friedrich, Corot và Church.
(Liberty leading the People/Delacroix) 1830
*
Goya ở Spain bày tỏ sự sợ hãi của mình về chiến tranh và chính trị của Napoléon và Spain. Kỹ
thuật "sơn" theo Baroque của Rubens (và Velazquez).
Blake bày tỏ những ý "không tưởng" của mình. Hoàn toàn chống lại Sir Reynolds ở Anh.
Géricault, chống lại Neo Classical của David và Ingres ở Pháp, dùng những đối tượng (như trong
bức họa "The raft of Medusa" 1830) bày tỏ nhận thức về cái Chết. Kỹ thuật "sơn" theo Baroque
của Rubens
De la Croix ở Pháp dùng những đối tượng (như trong bức họa "Libery leading the people" 1819)
bày tỏ lòng ái quốc anh hùng về cách mạng chính trị ở Pháp. Kỹ thuật "sơn" theo Titian.
Khác với những họa sĩ dùng đối tượng Nhân Vật, Friedrich "sơn" Phong Cảnh Thiên Nhiên do
mình tạo ra để bày tỏ ý thức tâm linh của mình về cái Chết.
Francisco José de Goya y Lucientes (1746-1828)
William Blake (1757-1827)
Eugène Delacroix (1798-1863)
Théodore Géricauld (1791-1824)
Caspar David Friedrich (1774-1840)
*
Kỹ nghệ hóa tạo nên nhiều chủ nhân giàu có mới cho họa sĩ nhưng cũng tạo nên những biến đổi
trong cộng đồng xã hội, thêm giai cấp vô sản ở thành thị và cơ khí quá những truyền thống tiểu
công nghệ. Để phản ứng lại, ý tình "Nostalgia" xuất hiện: thương nhớ lý tưởng thời Trung Cổ ở
thôn quê và những lao động thật thà. Với ý tình "Nostalgia" nầy, họa sĩ mượn đối tượng là Hình
Nhân Vật của người thường dân hay nông dân thay vì từ Giáo hội hay giới trưởng giả quí tộc
hoặc mượn đối tượng là Phong Cảnh Thiên Nhiên.
Những họa sĩ họa Hình Nhân Vật là Courbet, Millet và Millais. Courbet bày tỏ "Nostalgia" nồng
nhiệt nhứt, có tính cách Xã hội (Socialism). Millet bày tỏ "Nostalgia" trong sự u buồn.
Gustave Courbet (1819-1877)
Jean Francois Millet (1814-1875)
Sir John Everett Millais (1829-1896)
(Bonjour, Monsieur Courbet / Courbet) 1854
Những họa sĩ "sơn" Phong Cảnh Thiên Nhiên nơi quê hương của mình để bày tỏ "Nostalgia"
gồm có: Constable và Turner (đều ở Anh) và Corot (ở Pháp).
Constable, Turner và Corot, cũng như Both và Ruysdael (của thời Baroque), họa trung thực với
cảnh thiên nhiên. Constable có tài "phác họa" (Sketches). Turner có thêm sự yên tịnh của phong
cảnh. Corot có thêm "thời tiết" trong phong cảnh.
Church, cũng như Claude (của thời Baroque) phóng đại phong cảnh. Church dùng phong cảnh
thiên nhiên để bày tỏ lòng tự hào về đất nước Mỹ rộng lớn của mình.
John Constable (1776-1837)
Joseph Mallord William Turner (1775-1851)
Jean Baptiste Camille Corot (1796-1875)
Frederick Edwin Church (1826-1900)
(Wivenhoe Park / Constable) 1816
(Cross the Wilderness / Church) 1857
*
Những họa sĩ trên đây (vẽ Nhân Vật hay Phong Cảnh) theo Hiện Thực (Realism) trong Hội Họa
chống đối lại sự xa hoa phù phiếm của Rococo. Với họ, kỹ thuật Sơn hình (điển hình của
Rubens) và Phối Cảnh (Phối Cảnh Không Gian cũng như Chiaroscuro) đã hoàn chỉnh nên họ chỉ
cần áp dụng để họa những đối tượng nhân vật và phong cảnh thông thường tùy ý muốn và ý
thích của mình (không cần phải theo ý của những nhà bảo trợ trong giới trưởng giả).
Với cùng đối tượng thông thường như trên, phái Ấn Tượng và Hậu Ấn Tượng cải tiến những kỹ
thuật "sơn".
ẤN TƯỢNG (IMPRESSONISM)
Dùng màu sắc khi "sơn" đối tượng, họa sĩ của Phái Lãng Mạn bày tỏ tình ý cá nhân của mình
liên quan tới đối tượng đó hay bày tỏ tình ý cá nhân của mình về một chủ đề (có liên quan tới đối
tượng đó).
Dùng màu sắc khi "sơn" đối tượng, họa sĩ của Phái Ấn Tượng bày tỏ ấn tượng cá nhân của mình
về đối tượng đó tại thời điểm (tạm thời) đó.
Như vậy, phái Ấn Tượng (và Hậu Ấn Tượng sau nầy) vào cuối thế kỷ 19 chỉ thay đổi cách "sơn"
một bức họa với những đối tượng là người thường hay phong cảnh (thiên nhiên hoặc thành phố)
thông thường. Không còn cách "sơn" của Rubens làm kiểu mẫu cho tới lúc nầy.
Kỹ thuật của Ấn Tượng Lãng Mạn (Romantic Impressionism) của tất cả các họa sĩ: dùng hiệu
quả của Ánh sáng trên Màu sắc từ tâm tình và nhãn quan (của họa sĩ) đúng ngay trong một lúc
thoáng qua đó. (Paint the "Flash"). Do đó hình bức họa luôn "mờ".
Kỹ thuật của Ấn Tượng Khoa Học: Seurat dùng những điểm chấm của màu sắc thay vì "sơn"
thông thường để tạo nên sự giao động giả tưởng của nhãn quan.
(Impression, soleil levant / Monet) 1872
Những đối tượng thông dụng:
Phong Cảnh Thiên Nhiên: Monet, Whistler
Phong Cảnh Thành Phố: Pissaro, Toulouse-Lautrec (họa cảnh Moulin Rouge), Hassam
Nhân Vật: Manet, Degas, Renoir, Toulouse-Lautrec (họa Bohémiens), Seurat.
Tất cả họa sĩ đều là người Pháp ngoại trừ Whistler (người Anh) và Hassam (người Mỹ, phái Ấn
Tượng của đầu thế kỷ 20).
(Le boulevard de Montmartre, matinée de printemps/Pissaro) 1897
Phái Ấn Tượng theo lối họa của Hokusai ở Nhật Bản. Phái có tên Ấn Tượng từ bức họa của
Monet tựa đề là "Ấn tượng: Ánh sáng mặt trời" (Impression: Sunlight) 1872. Riêng Renoir có
phần "dâm đãng" do chịu ảnh hưởng của Boucher. Pissaro là thầy của Gauguin và Cézanne (thời
kỳ Hậu Ấn Tượng).
Claude Monet (1840-1926)
Édouard Manet (1832-1883)
Camille Pissaro (1830-1903)
Edgar Degas (1834-1917)
Pierre Auguste Renoir (1841-1919)
Henri de Toulouse-Lautrec (1864-1901)
Georges Seurat (1859-1891)
James Abbott Mc Neill Whistler (1834-1903)
(Two sisters / Renoir) 1881
HẬU ẤN TƯỢNG (POST IMPRESSIONISM)
Có 3 họa sĩ của thời Hậu Ấn Tượng (cuối thế kỷ 19): Van Gogh, Gauguin và Cézanne. Cả 3 đều
"sơn" hình Nhân Vật, Phong Cảnh và Tĩnh Vật.
Dùng màu sắc khi "sơn" đối tượng, Van Gogh và Gauguin bày tỏ tình ý cá nhân của mình "trong
Màu Sắc" bằng kỹ thuật riêng biệt. Đó là kỹ thuật dùng màu sắc "chói lọi" (vivid and brillant) và
kỹ thuật sơn màu sắc trên canvas.
Van Gogh dùng đối tượng là Nhân Vật hay Vật thông thường thực tế trong khi Gauguin dùng đối
tượng dị thường (như những thổ dân ở South Sea islands).
Dùng màu sắc khi "sơn" đối tượng, Cézanne bày tỏ hình thể của đối tượng trước nhiều khía cạnh
để cho thấy Hình rõ ràng của đối tượng. Ông mở đường cho phái Lập Thể (Cubism) của
Picasso.
Đối tượng của Cézanne là Nhân Vật hoặc nhứt là Vật thông thường.
Vincent Van Gogh (1853-1890)
Paul Gauguin (1848-1903)
Paul Cézanne (1839-1906)
(Self-portrait / Van Gogh) 1889
(The red vineyard / Van Gogh) 1888
(Jas de Bouffan / Cézanne) 1887
(Kết luận)
Hội Họa cổ điển của Tây Phương theo chiều hướng Tự Nhiên (Naturalism) phai tàn cùng với thế
kỷ 19 vì không còn cạnh tranh nỗi với Nhiếp Ảnh. Hội Họa tân thời từ thế kỷ 20 dần dần chuyển
qua Hội Họa Tượng Trưng (Symbolism) với rất nhiều trường phái và kỹ thuật phức tạp.
Hơn nữa một bức họa còn diễn tả thêm thời gian thay vì chỉ có không gian.
Từ Michelangelo tới Picasso:
(The creation of Adam / Michelangelo at Sistine Chapel) 1510
(Guernica / Picasso) 1937: diễn tả nội chiến Spain ở Guernica.
PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn
Tài liệu tham khảo
1) Painting (Roy Bolton)
2) Related Articles (Wikipedia/Google)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luoc_su_hoi_hoa_co_dien_cua_tay_phuong.pdf