Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng . luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội.
30 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2382 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i, nhất là trong quá trình đổi mới
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 2
hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Lý luận nhận thức, vận dụng quan
điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay”.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
I, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, sự thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bằng xã
hội cộng sản chủ nghĩa trong tiến trình lịch sử của nhân loại là một quy luật khách
quan. Việt Nam hiện nay đang ở vào thời kỳ quá độ, chúng ta đã bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy trong quá trình phát triển, luôn
luôn nảy sinh những mâu thuẫn cần giải quyết. Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
Chính phủ, chúng ta đã có những chiến lược và sách lược đúng đắn.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận triết học Mác-
Lênin, chúng ta đã vạch rõ được con đường phát triển kinh tế đúng đắn đó là: ”luôn
luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách
quan.’(Trích’Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI”). Từ năm 1986, chúng ta
đã tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu để đổi mới và cải cách kinh tế.
Xây dựng một nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế nhiều thành phần, lành mạnh
chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chỉ đạo của Đảng vào thực tiễn hoàn cảnh
trong nước và trên thế giới. Những quan điểm đổi mới, tiến bộ đó là sự tôn trọng hoàn
toàn những lý luận nhận thức và thực tiễn chi phối nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm triết học Mác- Lênin, ta càng có cơ sở để khẳng định
những khởi sắc trong mười năm đổi mới cho dến nay từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI
là những thành công mang tính tất yếu do chúng ta đã vận dụng đúng đắn các quy luật
khách quan vào cải tạo thực tiễn. Chúng ta đã tôn trọng những bước phát triển có tính
quy luật của lịch sử, không đi ngược lại “guồng quay” của lịch sử.
II, MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Luôn luôn gắn lý thuyết với thực hành, nắm vững kiến thức thông qua sự hiểu
biết sâu rộngvấn đề là một phương châm hành động của sinh viên trong thời đại mới.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 3
Nghiên cứu lý luận nhận thức và thực tiễn là một sự nghiên cứu sâu rộng của triết học
trong mối liên quan với phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Hơn thế nữa, đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thé hội nhập đang
tăng cao, nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát từ
quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của
Đảng, Nhà nước ta.
Muốn phát triển kinh tế vững mạnh thì phải luôn đặt nó với mối quan hệ với
những khoa học khác, đặc biệt là triết học. Sự thành công hay thất bại, phát triển hay
lạc hậu của bất cứ nền kinh tế nào là do có lập trường triết học đúng đắn. Bởi vì xuất
phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được cách giải quyết
phù hợp với những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập
trường triết học sai lầm, con ngưòi khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Trong
hoạt dông kinh tế, một lập trường triết học đúng đắn là tối cần thiết. Chỉ có triết học
Mác - Lênin mới có được những tính ưu việt này.
Đối với một sinh viên ngân hàng nói riêng và những cán bộ kinh tế nói chung,
viếc nắm vững triét học với những quy luật, lý luận, phương pháp của nó là không thể
thiếu được. Vì khi giải quyết những vấn đề phức tạp cụ thể như: các cán bộ làm công
tác thực tiễn này không thể tìm thấy được ở những cán bộ thuộc lĩnh vực chuyên ngành
triết học một câu trả lời cụ thể về vấn đề đó dược, nhưng trong hoạt động thực tiễn,
những vấn đề phức tạp này lại luôn nảy sinh.
III, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về sự
thống nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học và
có ý nghĩa về phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực
tiễn. Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại nó gắn bó hết
sức chặt chẽ với cuộc sống, thực tiễn, chỉ đạo cho con người hành động. Nắm vững
được mọi nội dung của triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn sẽ
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 4
làm cho con người làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải tạo được xã hội, phát
triển kinh tế mạnh mẽ.
Vấn đề đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng VI có tác dụng tích cực đối với sự
phát triển của nền kinh tế hiện nay. Sau hơn mười năm đổi mới với những thành tựu
nhất định ta càng thấy rõ sự đúng đắn và cần thiết của bài học kinh nghiệm đó. Trong
bài viết này, chỉ tập trung phân tích vấn đề lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn của
nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển. Cùng với sự tổng kết của đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI trong văn kiện đã đánh dấu một mốc son lịch sử của Việt Nam
chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Hoạt động xây dựng kinh tế, đổi mới kinh tế những năm gần đây và mối liên hệ
của nó với thực tiễn và các quy luật triết học là trung tâm của nội dung này.
IV, CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước văn kiện này, những bài học kinh nghiệm đã
được rút ra trong triết học Mác - Lênin và Đảng ta lấy đó làm “kim chỉ nam’ cho hoạt
động của mình. Triết học là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ
rõ; triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác không dừng lại ở chủ
nghĩa duy vật thế kỷ XVIII mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu
hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. C.Mác và F.Enghen đã khắc phục
những thiếu sót ấy, đẩy triết học tiến lên hơn nữa bằng cách tiếp thu một cách có phê
phán và có chọn lọc những thành quả của triết hoc cổ điển Đức và nhất là của hệ thống
triết học Hêghen. Trong những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng,
tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức toàn diện nhất, sâu sắc nhất và thoát
hẳn được tính phiến diện. Nhưng phép biện chứng của Heeghen là phép biện chứng
duy tâm nên Mác và Enghen đã cải tạo nó. Chính trong quá trình cải tạo này, Mác và
Enghen đã gắn phép biện chứng Hêghen với thực tiễn, phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy
vật cũ, đẩy nó lên thành chủ nghĩa duy vật bịên chứng.Vì vậy chính Mác và Enghen đã
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 5
xây dựng một triết học mới với thế giới quan duy vật nhất quán trong việc nhận thức
xã hội. Cơ sở của những lí luận trong học thuyết đó là những quy luật khách quan và
thực tiễn xã hội (“Triết học Mác- Lênin”- Chương trình cao cấp. Tập I;Tập san triết
học).
Vậy trong quá trình xây dựng nên triết học Mác, C.Mác và Enghen đã luôn đi từ
thực tiễn và những quy luật khách quan để định hướng lý luận nghiên cứu. Những lý
luận đó vì thế có cơ sở khoa học vững chắc, không sa vào siêu hình hay nhị nguyên
luận như các nhà triết học đi trước.
Để chỉ đạo hoạt động được đúng đắn, triết học Mác- Lênin chính là nền tảng bền
vững cho mọi mục tiêu, phương hướng phát triển mọi mặt của Đảng và Nhà nước ta.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 6
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I. THỰC TIỄN
1. Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực quan
trọng đó là: hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật
chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi
nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang
tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ
sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
3. Tính chất lịch sử xã hội
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác nhau,
thay đổi về phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn
vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá
trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con
người.
4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 7
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới,
một ”thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều
kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được giới tự nhiên
mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng phát triển và
hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn là
cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con
người không thích nghi một cách thụ động mà thông qua hoạt động của mình, tác động
một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực
tiễn.
a,Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là
tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với thế
giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật.
b.Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển
và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt
động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người
bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c. Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho
thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
II, THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn của nhận thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các
sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật
của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 8
con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động
thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho
nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các
giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
1,Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước
phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy
nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra
những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần,
các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là
mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận
động và phát triển của sự vật.
2,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải
tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình
thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động
thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của
con người mới có ý nghĩa.
3,Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 9
4,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a.Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng
định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý
tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá
trình nhận thức của nhân loại.
b.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt
động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện
thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh
giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được
kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng
minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn
tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có
khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c.Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng,
bình đẳng, tién bộ.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 10
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh
cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh
tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu
to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những
hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của
giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói
riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể
hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những
quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên
bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và
thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng
đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội
để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 11
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức
sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của
thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được
hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu
cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu
sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng
đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở
để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống
nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ
và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng
cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những
nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn
nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối,
chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý
luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 12
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của
con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận
nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận,
đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với
hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho
chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với
nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện
nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội,
mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ
chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau
đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói
riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn
nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận
vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là
vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự
quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 13
không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận
không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được
bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người
cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động,
phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại
khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình
nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành
thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận
thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với
thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về
chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì
vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu
là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực
tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 14
của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật
của thế giới khách quan.
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I,VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
-Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông
Nam Á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.
-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể dễ
dàng giao lưu với các nước trên thế giới.
+Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các tuyến
giao thông (đường bộ, đường sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam có thể liên
hệ với nhiều nước trên thế giới.
+ Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển, có thể
quan hệ với nhiều quốc gia.
+Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.
-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần
làm giàu bản sắc văn hoá.
-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của
thế giới. Từ đó cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm thành công
cũng như thất bại về phát triển kinh tế của các nước và vận dụng vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nước ta.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 15
II, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.Tình hình:
- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã
hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và
dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức
rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở hữu
tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc doanh,
hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế của
Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được những
tính ưu việt đó.
- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ
kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền
vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về
kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với
nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu
trong chiến tranh lúc đó.
- Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng
kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:
+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
+Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 16
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục
xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó là
sự áp đặt rất bất lợi.
2. Hậu quả:
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các
nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô
nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho
nền kinh tế.
+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.
+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong
nước.
+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và
không có khả năng cho chi trả.
+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không
có.
+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nước
ngoài.
- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.
- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó
khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị
tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của
các thành phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của
nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên
mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng,
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 17
dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao
nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố
định chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta
tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ sở
để phát triển vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ
nước ngoài.
- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung
nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc
doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất không được
giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.
3.Nguyên nhân
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững
và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta.
Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xoá
bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chưa
được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô
tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là
những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống
dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức,
bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về lý
luận và thực tiễn.
4. Tư tưởng chỉ đạo
Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là
bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 18
nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI-1986). Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế,
chưa thừa nhận thật sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả
kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông nghiệp
và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
- Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào những năm
cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trường truyền thống,
nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống.
- Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản động
cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào những
năm 1979 - 1980 đã đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ tăng
0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986 : 74%
Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “ Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt
động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó khăn trên
đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh
dấu một mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước.
III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải
thay đổi nhận thức , đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra
những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các
quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát
triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế gây tác động
ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa
đổi hoặc huỷ bỏ.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 19
- Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác
động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với
các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo,
được vận dụng trong một thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng hoá, đặc
biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh... Kế hoạch hoá phải luôn
luôn gắn liền với việc sử dụng các đòn bảy kinh tế.
- Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan điểm,
đường lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước . Công cuộc đổi mới của
Đảng từ sau Đại hội VI đến nay ở nước ta không nằm ngoài những quy luật phổ biến
của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận thức hiện thực
xã hội, phân tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu
thuẫn đó và tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.
Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó khăn
phức tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực
tiễn có khoảng cách xa. Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan
liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối bởi quy luật
mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã tiến hành đổi mới và
cải cách kinh tế.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để làm đủ
ăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý,
trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các
ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu
kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định.
Phải thông qua việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm cơ cấu kinh tế
hợp lý.
- Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng, xuất khẩu.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 20
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích hợp, sử dụng
mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ
đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước
ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ
chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập trung
quan liêu, chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ
tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 21
CHƯƠNG III
ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HIỆN
NAY
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm
chủ quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và
phải sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự
giải phóng và mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương đồng
về hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin”
(NEP). Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng ta đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ
thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
I. LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ HIỆN NAY.
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung
hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng
cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa
nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh
với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần
kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài
học về quán triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất
mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về
lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 22
động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ
chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở
để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề
khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm
vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá
trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể
nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như
vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm...
Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết
điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất
quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta
hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống
ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi
nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý
luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước
chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong
những hoàn cảnh và điều kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xã hội
(Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát
triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất... sang tư
duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 23
hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ
yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy
luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất
cho phù hợp .
2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch
hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với
phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời
sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.
4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một
nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận
thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nó cũng đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch
định đường lối chính sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những
nhận thức mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách
mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những
khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 24
xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần
chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực
hiện vai trò tích cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi
phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời,
đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã
hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ
phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã
hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có
thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám
phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực
tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục
ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn
chế sự sai sót và thiệt hại.
II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN :
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ
nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII Đảng cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp... Quán triệt
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 25
nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó
khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan và tính năng
động chủ quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học bởi tri thức khoa học có được hay không là nhờ ở lòng ham hiểu biết, trí thông
minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì
nó lại trở thành động lực tăng thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế
khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự
phát triển nhận thức mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để hoạt
động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ đạo trong công
cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với tri thức khoa học được
trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy
luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương
hướng`và mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được
trình độ phát triển kinh tế chung của khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập
toàn cầu hoá hiện nay, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ
thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.
III, ĐỀ XUẤT NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHO TƯƠNG LAI:
Tương lai đất nước nằm trong tay mỗi sinh viên chúng ta, việc cải tạo nó, biến
đổi nó làm cho nó ngày càng đẹp đẽ hơn là nhiệm vụ của bất cứ người dân nào. Hiện
nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước nghèo trên thế giới, việc
đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của mỗi người đặc
biệt là phát triển kinh tế . Mục tiêu của chúng ta là phát triển kinh tế đi kèm với công
bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đổi mới một cách toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này phải đồng bộ,
tuân theo quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn đất nước. Phát triển một nền kinh
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 26
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhưng phải dưới sự quản lý của
Nhà nước là theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì những mục tiêu trên đây, cần thiết
phải có một số giải pháp cho phát triển kinh tế tương lai.
- Tập trung phát triển kinh tế về chất và lượng. Đầu tư có trọng điểm cho nông
nghiệp, phát triển hình thức nông trại sản xuất của tư nhân hoặc tổ chức nhỏ. Tạo
nguồn vốn cho công nghiệp nhẹ, hiện đại hoá dây chuyền thiết bị. Phát triển mạnh
công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm đưa công nghệ thông tin vào đời sống sản
xuất.
- Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính cho đất nước bằng các đầu tư cho
xuất khẩu thu lợi nhuận cao và nguồn vốn nhanh. Phát triển công tác thu và nộp thuế,
phổ biến bằng mọi phương tiện thông tin đại chúng. Phát hành trái phiếu Nhà nước
theo định kỳ, làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, gọi vốn đầu tư nước ngoài
bằng cách mở rộng, nới lỏng chính sách về đầu tư, hệ thống hoá luật đầu tư nước
ngoài, tạo cơ sở kinh tế thuận lợi và những dự án nhiều tiềm năng.
- Giải quyết tốt mọi vấn đề kinh tế xã hội như vấn đề tạo việc làm. Có thể phát
triển nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả nông thôn và thành thị để thu hút lao động.
Sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh trên thị trường
và nhà nước bảo hộ sản xuất trong nước ở một bộ phận nào đó .
- Cần đề ra những mục tiêu cho mười, hai mươi năm tới . Những chính sách,
chủ trương lớn phù hợp với thực tiện hoàn cảnh đất nước và xu thế phát triển của thế
giới. Điều hành đúng, có tổ chức cao và chặt chẽ nền kinh tế thị trường, chống mọi
biểu hiện nhận thức sai lầm, lệch lạc làm đi không đúng con đường đã chọn. Vận dụng
các quy luật khách quan trong việc chỉ đạo, tổ chức đề ra những phương hướng, giải
pháp kinh tế táo bạo, có cơ sở vứng chắc.
- Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, hỗ
trợ vốn cho người nghèo không lấy lãi.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 27
- Hạ trần lãi suất tiết kiệm để kích cầu, tiêu thụ trên thị trường mới tăng mạnh,
sản xuất trong nước mới có nhiều điều kiện cạnh tranh, phát triển.
- Tạo nguồn cán bộ kinh tế tương lai với những tri thức khoa học và lý luận
vững chắc. Gắn đào tạo với thực hành, đầu tư thiết bị quản lý kinh tế hiện đại để giảng
dạy và thực hành trong các trường kinh tế, xã hội hoá giáo dục và đào tạo .
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 28
KẾT LUẬN
Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước thềm
thiên niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chăng vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại ? Tất nhiên, những câu trả lời cho vấn đề ấy còn
đang nằm ở phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn
quyết đoán của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới.
Nhà nước sử dụng các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa
gián tiếp để đảm bảo thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế
quốc dân. Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng
Tháng Tám, một lần nữa ta lại càng cần khẳng định vai trò không thể thiếu được của
quá trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn chi
phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ
không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ
một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có
cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế
giới.
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình triết học Mác - Lênin (I,II)
2.Triết học Mác - Lênin - Chương trình cao cấp (I,II,III)
3. Kinh tế chính trị Mác - Lênin ( Phần kinh tế xã hội chủ nghĩa )
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI của Đảng cộng sản Việt Nam.
5. Tạp chí: nghiên cứu lý luận
6. Tạp chí triết học
7. Địa lý Việt Nam
8. C.Mác - F.Engghen - tuyển tập - 1981
9. Hồ Chí Minh - tuyển tập - 1996
10. V.I.Lênin-toàn tập – 1980
tiÓu luËn triÕt häc -
Trang 30
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 2
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN
CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
5
I. Thực tiễn 5
II. Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với quá trình nhận thức 6
III. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 8
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT
NAM
12
I. Vị trí địa lý 12
II. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam 12
III. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế 15
CHƯƠNG III:
ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI HIỆN NAY
18
I.Lý luận thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới
hiện nay
18
II.Ý nghĩa thực tiễn 21
III. Đề xuất nhiệm vụ và giải pháp cho tương lai 21
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
MỤC LỤC 26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- t007_731.pdf