Thứ nhất, luận chứng kết cấu của
nền quản trị quốc gia hiện đại. Hành chính
công truyền thống coi hành chính nhà nước
là chủ thể duy nhất trong quản trị quốc gia,
là chủ thể duy nhất tham gia cung ứng dịch
vụ công, nó coi thị trường, xã hội và công
dân chỉ là đối tượng quản lý, “là bên bị động
tiếp nhận chính sách, hành vi, việc làm và kết
quả quản trị của chính phủ”19. Còn lý luận
quản lý công mới tuy thừa nhận vai trò của
thị trường (doanh nghiệp) trong việc cung
ứng dịch vụ công nhưng lại chưa coi trọng
đủ mức vai trò của xã hội (các tổ chức xã
hội) trong quản lý công và cung ứng dịch vụ
công. Lý luận QLGTC đã khắc phục được
thiếu sót của cả hai lý luận trên khi cho rằng,
chính phủ, thị trường (doanh nghiệp) và xã
hội (các đoàn thể xã hội) là những thực thể
cấu thành nên nền quản trị quốc gia hiện đại.
Điều này có nghĩa là, trong xã hội hiện đại,
quản trị công không phải là quá trình chính
phủ đơn phương sử dụng quyền lực công để
giải quyết vấn đề công, mà là quá trình tương
tác, hợp tác giữa chính phủ với doanh nghiệp,
xã hội và công dân. “Một chính phủ có năng
lực và trách nhiệm, một thị trường cũng như
hệ thống doanh nghiệp có hiệu quả và một
mạng lưới các tổ chức xã hội đầy sức sống là
những bộ phận cấu thành không thể thiếu của
hệ thống quản trị quốc gia”20.
Thứ hai, định vị lại chức năng cơ bản của
chính phủ và vai trò, sứ mệnh của nhà quản lý
công. Quan điểm truyền thống cho rằng, chính
phủ không phải là chủ thể sáng tạo giá trị. Trong
quan điểm của một số học giả phương Tây,
chính phủ được xem là “một cái ác cần thiết”,
chính phủ được xem là người thiết lập các loại
quy tắc và thể chế để bổ sung cho sự thất bại
của thị trường”21. Tương ứng với vai trò này của
chính phủ, vai trò của nhà quản lý công được
xác định là tuân thủ và thực thi các điều khoản
và quy định22. Đến thời kỳ quản lý công mới,
chính phủ được xem là người “cầm lái”, vai trò
của nhà quản lý công được xác định là người
ký kết hợp đồng, giám sát việc thực hiện hợp
đồng và duy trì hợp đồng (hợp đồng với khu
vực tư); đồng thời chịu trách nhiệm trước
“khách hàng”. Không đồng tình với quan
điểm truyền thống, Moore cho rằng, xác
định và sáng tạo giá trị công là sứ mệnh của
khu vực công, là cốt lõi của khu vực công,
cũng giống như sứ mệnh của khu vực tư là
sáng tạo giá trị tư nhân”23. Điều này có nghĩa,
chính phủ không chỉ là chủ thể sáng tạo giá
trị công, mà còn phải coi đây là nguyên tắc
cơ bản và mục tiêu cao nhất trong toàn bộ
hoạt động của mình.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý luận quản lý giá trị công và phương thức để hành chính công thực hiện tốt giá trị công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Từ khi thuật ngữ “giá trị công” (Public Value) được Mark H. Moore1
nêu lên trong tác phẩm “Sáng tạo giá trị công: quản lý chiến lược trong
chính phủ”, xuất bản năm 1995, cho đến nay, quản lý giá trị công
(Public Value Management) đã trở thành tiêu điểm nghiên cứu của
giới khoa học hành chính công ở các nước phương Tây. Nghiên cứu
vấn đề quản lý giá trị công chính là để trả lời câu hỏi về một vấn đề cốt
lõi, đó là làm thế nào để hành chính công tối đa hóa lợi ích công, đáp
ứng tốt nhu cầu và kỳ vọng của công dân, qua đó tăng cường niềm tin
của công dân đối với hành chính nhà nước. Bài viết nêu các quan niệm
khác nhau về giá trị công và con đường, phương thức để hành chính
công thực hiện tốt giá trị công.
1 Giáo sư Mark H. Moore là một nhà nghiên cứu về quản lý công, hiện đang công tác tại Đại học Học viện Chính phủ,
Đại học Harvard, Hoa Kỳ.
LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁ TRỊ CÔNG VÀ PHƯƠNG THỨC
Nguyễn Trọng Bình*
Abstract:
Since the term “public value” was mentioned in “Creating Public
Value: Strategic Management in Government” (published in 1995),
the public value management has so far been as focal point to study
of scholars in the field of public administration in Western countries.
Studying public value management is to answer the core matter which
is in what way public administration maximines public benefit, meets
the public demand and expect. That can help enhance citizens’ belief in
state administration. This article presents different conceptions about
public value and the way, mode public administration executes public
value well.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giá trị công; quản lý giá
trị công; hợp tác quản trị; chính phủ
mở.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 17/01/2017
Biên tập: 15/06/2017
Duyệt bài: 21/06/2017
Article Infomation:
Keywords: public value, public
value management; cooperative
governance; open government.
Article History:
Received: 17 Jan. 2017
Edited: 15 Jun. 2017
Appproved: 21 Jun. 2017
* TS, Học viện Chính trị Khu vực IV.
ĐỂ HÀNH CHÍNH CÔNG THỰC HIỆN TỐT GIÁ TRỊ CÔNG
Cuối thế kỷ XX, giới lý luận hành chính công mà điển hình là lý luận phục vụ công mới (PVCM) đã nghi ngờ về tính hiệu quả của lý luận quản lý công mới. Trong tác
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 16(344) T8/2017
phẩm “Phục vụ công mới: phục vụ mà không
phải là cầm lái”, Robert B. Denhardt2 cho
rằng, lý luận quản lý công mới chưa quan
tâm đúng mức đến các phương diện quan
trọng của hành chính công như công bằng
và sự tham gia của công dân. Tuy nhiên, lý
luận PVCM hầu như mới chỉ dừng lại ở việc
đề ra nguyên lý, mà chưa đưa ra được các
giải pháp cụ thể, khả thi để chỉ dẫn quá trình
đổi mới và cải cách khu vực công. Từ năm
1995 đến nay, kế thừa thành quả của lý luận
PVCM và lý luận quản trị công, nhiều học
giả ở các nước Anh, Mỹ đã rất quan tâm đến
việc nghiên cứu lý luận quản lý giá trị công
(QLGTC). Có ý kiến cho rằng, QLGTC là
lý luận mới có khả năng thay thế cho lý luận
quản lý công mới để chỉ dẫn cho tiến trình
cải cách chính phủ ở các nước phát triển;
đồng thời nó là bước phát triển mới nhất của
khoa học hành chính công ở phương Tây.
1. Cơ sở lý luận quản lý giá trị công
Thứ nhất, lý luận QLGTC được hình
thành dựa trên cơ sở kế thừa những yếu tố
hợp lý của lý luận PVCM. Đầu thế kỷ XX,
trên cơ sở phê phán đối với lý luận quản lý
công mới, Robert B. Denhardt đã đề xuất nên
lý luận PVCM. Denhardt cho rằng, PVCM
là lý luận chỉ ra vai trò mà hành chính công
cần đảm nhận trong hệ thống quản trị lấy
công dân làm trung tâm3. Nếu hành chính
2 Robert B.Denhardt là một nhà khoa học về hành chính công, hiện đang công tác tại Học viện Quản lý công, Đại học
bang Arizona, Hoa Kỳ. Đến nay, ông đã xuất bản 16 tác phẩm về hành chính công, trong đó điển hình hai cuốn sách
“Phục vụ công mới” và “Lý luận tổ chức công”.
3 Robert B.Denhardt & Janet V.Denhardt (2003), The New Public Service: Serving, not Steering, M.E.Sharpe Press,
p. 184.
4 Lý luận lựa chọn công hay còn gọi là lý thuyết về sự thất bại của nhà nước do James Buchanan và Gordon Tullock nêu
lên vào thập niên 70 của thế kỷ XX. Kế thừa giả thiết của kinh tế học vi mô, lý thuyết này cho rằng, không chỉ trong hoạt
động kinh tế con người mới theo đuổi tối đa hóa lợi ích cá nhân, mà ngay cả trong hoạt động chính trị và quản lý công,
công truyền thống lấy chính phủ làm trung
tâm, từ đó đề ra khung khổ lý luận để cải
cách và hoàn thiện hệ thống hành chính nhà
nước, thì lý luận PVCM đặt công dân ở vị
trí trung tâm của hệ thống quản trị. Bản chất
của hành chính công là phục vụ, nhiệm vụ
đầu tiên của chính phủ và nhà quản lý công
là giúp đỡ công dân thể hiện và thực hiện
lợi ích công, mà không phải là cai trị xã hội
và đứng trên xã hội. Theo quan điểm của lý
luận PVCM, khi quản lý tổ chức công và
thực thi chính sách, nhà quản lý công cần
tích cực phục vụ công dân và trao nhiều
quyền hơn cho công dân. Lý luận PVCM
nhấn mạnh tinh thần phục vụ công, coi trọng
địa vị chủ thể của công dân và vai trò của tổ
chức xã hội trong quản lý công; coi trọng sự
tương tác, hợp tác, đối thoại giữa chính phủ
với công dân và các tổ chức của công dân.
Lý luận QLGTC đã kế thừa những nội dung
hợp lý nói trên của lý luận PVCM; đồng
thời, bổ sung, phát triển đối với lý luận này
trên một số phương diện.
Thứ hai, lý luận QLGTC còn kế thừa
và phát triển lý luận quản trị công. Hiệu quả
thấp của quản trị chính phủ, sự thất bại của
thị trường và việc xuất hiện của nhiều vấn đề
xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đã thúc
đẩy sự ra đời của lý luận quản trị công. Dưới
sự ảnh hưởng của lý luận lựa chọn công
(public choice)4 và chủ nghĩa tự do mới, lý
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 16(344) T8/2017
luận quản trị công nhấn mạnh sự hợp tác và
bình đẳng giữa nhà nước với thị trường và
xã hội trong quản lý công, nhấn mạnh trách
nhiệm và lợi ích công5. Nội dung cốt lõi
của lý luận quản trị công chính là luận giải
tính tất yếu, vai trò của việc hợp tác giữa
nhà nước với thị trường (doanh nghiệp) và
tổ chức xã hội trong giải quyết vấn đề công,
cung ứng dịch vụ công và thực hiện lợi ích
công. Theo sự kiến giải của lý luận quản
trị công, trong xã hội hiện đại, với tư cách
một chủ thể quản trị rất quan trọng, chính
phủ cần là chính phủ “mở”, tức chính phủ
cần thông qua việc thực hiện tốt thể chế công
khai thông tin, thể chế tư vấn, cơ chế tham gia
của công dân, cơ chế hợp tác quản trị, cơ chế tự
quản xã hội để làm cho chính phủ thể hiện đầy
đủ hơn tính dân chủ, tính công khai, tính tham
gia, tính bình đẳng, tính hợp tác, tính tích hợp
và tính đổi mới của nó. Lý luận QLGTC đã kế
thừa những nội dung hợp lý của lý luận quản trị
công; đồng thời đã có một số bổ sung và phát
triển quan trọng đối với lý luận quản trị công.
2. Giá trị công: quan niệm và đặc trưng
của nó
Hiện nay, mặc dù chủ đề quản lý giá
trị công đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu, nhưng thế nào là giá trị
công thì vẫn chưa có một quan niệm thống
hành vi và sự lựa chọn của nhà quản lý công cũng mang đầy đủ đặc tính của con người kinh tế. Dựa trên giả thiết về
“con người lý tính”, lý thuyết này đã chỉ ra hình thức biểu hiện, nguyên nhân của những khiếm khuyết của nhân tố phi
thị trường (khiếm khuyết trong sự can thiệp của nhà nước), từ đó đề xuất ra một số biện pháp nhằm hạn chế hoặc khắc
phục những khiếm khuyết này.
5 Nguyễn Trọng Bình (2006), Bối cảnh ra đời và nội dung chủ yếu của lý luận quản trị công, Tạp chí Sinh hoạt lý luận,
số 5/2016, tr. 48-49.
6 Kelly G, Muers S, Mulgan G (2002), Creating Public Value: An Analytical Framework for Public Service Reform.
London: Cabinet Office, UK Government, 2002.
7 Stoker G (2006), Public Value Management: A New Narrative for Networked Governance?.The American Review of
Public Administration, 2006, 36(1): 41-57.
8 Horner L, Hazel L (2005), Adding Public Value. London: The Work Foundation, 2005.
nhất. Có thể liệt kê một số quan niệm về giá
trị công như sau:
Kelly, một nhà nghiên cứu về quản lý
công người (Anh) và một số học giả khác
cho rằng: “Giá trị công là giá trị được tạo ra
thông qua hoạt động phục vụ của chính phủ,
quy định pháp luật và các hoạt động khác”;
“giá trị do sở thích của công dân quyết định,
được thể hiện thông qua nhiều phương thức
khác nhau, đồng thời còn được thể hiện ra
thông qua quyết định của quan chức chính
phủ”6. Stoker, một nhà nghiên cứu về hành
chính công (Hoa Kỳ), cho rằng: “Giá trị
công không phải là sự kết hợp đơn giản về
sở thích cá thể của người sản xuất dịch vụ
công và người sử dụng dịch vụ công, mà
là kết quả của sự hiệp thương, đối thoại
giữa quan chức chính phủ với các chủ thể
lợi ích có liên quan”7. Horner và Hazel, hai
nhà nghiên cứu về hành chính công người
Anh, cho rằng: “Giá trị công là giá trị do
công dân quyết định”8. Hai ông quan niệm:
“Giá trị công có thể được tạo ra thông qua
sự phồn vinh về kinh tế, sự cố kết về xã hội
và sự phát triển về văn hóa..., giá trị công -
chẳng hạn như sự phục vụ tốt hơn, vốn xã
hội, giảm thiểu các vấn đề xã hội - do công
chúng quyết định. Công chúng thông qua
các phương thức dân chủ như sự tham gia,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 16(344) T8/2017
hiệp thương và biện luận - mà không phải
chỉ là thông qua hòm phiếu - để quyết định”.
Trong tác phẩm “Sáng tạo giá trị công: quản
lý chiến lược trong chính phủ”, Moore cho
rằng, giá trị công là tập hợp những kỳ vọng
của công dân đối với chính phủ9. Ông khẳng
định, sáng tạo giá trị công là nội dung hoạt
động quan trọng của nhà quản lý công. Hefetz
và Warmer chỉ ra sự khác nhau giữa khu vực
công và khu vực tư, cho rằng nhà quản lý
của khu vực tư chỉ cần nắm bắt quá trình thị
trường, còn nhà quản lý công thì cần tìm kiếm
sự cân bằng giữa chính trị và kỹ thuật. Tóm
lại, cho dù giới học giả có quan niệm khác
nhau về giá trị công, nhưng tựu chung đều
thống nhất rằng, giá trị công là giá trị hữu ích,
cần thiết đối với công chúng.
Giá trị công có một số đặc trưng cơ
bản sau đây:
Một là, tính công cộng và tính công
chúng. Giá trị công là sản phẩm và dịch vụ công
do nhà nước cung ứng và phân phối10, nó thuộc
sở hữu nhà nước và xã hội; tất cả thành viên xã
hội đều có quyền thụ hưởng và tiêu dùng những
sản phẩm và dịch vụ này. Do đó, giá trị công
cũng là sản phẩm của công chúng; cá nhân hoặc
nhóm nào đó sử dụng, tiêu dùng những hàng
hóa công này không cản trở và loại trừ việc sử
dụng và tiêu dùng của người khác và nhóm
khác. Vì thế, tính công cộng và tính công chúng
của giá trị công cũng chính là nói đến tính cùng
hưởng và tính không loại trừ của nó.
9 Moore H (1995), Creating Public Value: Strategic Management in Government.Cambridge, MA: Harvard University
Press, 1995.
10 Giá trị công liên quan đến hàng hóa công và lợi ích công, nhưng không đồng nhất với hàng hóa công và lợi ích công.
Về sự khác nhau giữa giá trị công với dịch vụ công, có thể xem: DAVIS P, WEST K: What do Public Values Mean for
Public Action?, The American Review of Public Administration, 2009, 39(6), pp. 602-618.
Hai là, tính xã hội. Giá trị công là cái
thuộc sở hữu của tất cả thành viên trong xã
hội, do đó, về thực chất, giá trị công là hệ
thống giá trị của quốc gia và toàn xã hội.
Hiển nhiên, thuộc tính xã hội của giá trị
công không phủ định tiêu chuẩn giá trị đặc
thù của các khu vực, các nhóm khác nhau.
Chẳng hạn giữa nông thôn và thành thị, giữa
người giàu và người nghèo, giữa các nhóm
nhân khẩu có độ tuổi khác nhau có thể có
tiêu chuẩn, yêu cầu khác nhau về giá trị công,
nhưng tiêu chuẩn giá trị chung là thống nhất
với nhau. Ngoài ra, khởi xướng việc xây
dựng giá trị công cũng không phủ định việc
theo đuổi giá trị cá thể của cá nhân hay nhóm
nào đó dưới tiền đề là tuân thủ giá trị công.
Trái lại, giá trị công là cái được tích hợp từ
nhiều giá trị cá thể và sự khác biệt giữa các
giá trị. Giá trị công với giá trị cá thể, giá trị
chung là thống nhất với nhau.
Ba là, tính quy mô lớn và rộng khắp.
Tính công cộng, tính công chúng và tính xã
hội của giá trị công cho thấy tính quy mô lớn
và tính bao phủ rộng khắp của giá trị công.
Chỉ có như vậy, giá trị công mới giữ tư cách
là giá trị xã hội thỏa mãn nhu cầu giống nhau
của công chúng. Vì thế, tính quy mô lớn, tính
rộng khắp của giá trị công quan hệ chặt chẽ
với tính công cộng và tính xã hội của nó.
Bốn là, tính khả thi. Giá trị công là cái
được tạo ra, thiết lập nên và duy trì thông
qua vai trò của nhà nước và sự tham gia của
công dân và xã hội. Mặt khác, việc thiết lập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 16(344) T8/2017
và củng cố giá trị công vừa phù hợp với nhu
cầu, đòi hỏi của sự phát triển xã hội, vừa phù
hợp với nhu cầu hiện thực của công chúng
và xã hội, do đó, giá trị công có tính khả thi.
Năm là, tính tham gia của công chúng.
Việc thiết lập và duy trì hệ thống giá trị công
liên quan đến vai trò của người dân, cộng
đồng và xã hội. Do đó, chỉ có thể dựa vào sức
mạnh của người dân, cộng đồng và xã hội thì
mới có thể xây dựng nên hệ thống giá trị công.
Quản lý đối với giá trị công không những cần
dựa vào sức mạnh của quyền lực nhà nước, mà
còn cần dựa vào sức mạnh của người dân, cộng
đồng và các tổ chức xã hội. Giá trị công có tính
công chúng, vì thế cần phải dựa vào sức mạnh
của bản thân công chúng để quản trị hệ thống
giá trị công này. Tóm lại, quản lý đối với giá trị
công không phải là việc của một chủ thể đơn
nhất, mà là việc của nhiều chủ thể, do đó, mô
thức quản lý đối với giá trị công cũng là mô
thức quản lý dân chủ, có sự tham gia đầy đủ và
có trách nhiệm của công chúng và xã hội.
Sáu là, tính phi thị trường. Với tư cách
là hàng hóa và dịch vụ công phục vụ cho
toàn xã hội và công chúng, việc tạo lập, phát
triển, cung ứng và sử dụng giá trị công chủ
yếu được thực hiện thông qua vai trò điều
tiết, can thiệp và giám sát của quyền lực
hành chính nhà nước, mà không phải là sản
phẩm mang tính chất hàng hóa thị trường.
3. Phương thức để hành chính công thực
hiện tốt giá trị công
Theo quan điểm của Stoker, khác với
lý luận hành chính công truyền thống và quản
11 Xem chú thích 7.
12 Xem chú thích 9.
lý công mới, lý luận QLGTC nhấn mạnh hai
phương diện quan trọng để quản trị công thực
hiện tốt giá trị công, đó chính là mạng lưới
hiệp thương và hợp tác trong quá trình tìm
kiếm giá trị công và cung ứng dịch vụ. Ông
cho rằng, việc xây dựng mạng lưới hiệp
thương, phản biện trong quá trình hoạch
định chính sách và mạng lưới hợp tác trong
cung ứng dịch vụ là điều kiện không thể
thiếu để định nghĩa và sáng tạo giá trị công.
Nhà quản lý không nên chỉ coi công dân là
những chủ thể lợi ích không liên quan, mà
cần thông qua phương thức hiệp thương và
đối thoại để tương tác và trao đổi mang tính
thường xuyên với công chúng và chia sẻ
thông tin với công chúng”11. Nói một cách
cụ thể, để tăng cường giá trị công, hành chính
công cần quan tâm đến ba phương diện chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, tìm kiếm và sáng tạo giá
trị công. Moore cho rằng, mục đích tối cao
của nhà quản lý công (bao gồm chính trị gia
và quan chức hành chính) là sáng tạo giá trị
công cho xã hội12. Với tư cách chủ thể quản
lý chiến lược, chính phủ cần phát hiện, xác
định và sáng tạo giá trị công. Trách nhiệm
của chính phủ không phải là đảm bảo tính
liên tục của tổ chức, mà là với tư cách chủ
thể sáng tạo, chính phủ phải căn cứ vào sự
thay đổi của tình hình và nhu cầu của mọi
người đối với giá trị công để thay đổi chức
năng và hành vi của tổ chức, sáng tạo ra giá
trị mới. Moore chỉ rõ: “Giá trị bắt nguồn từ kỳ
vọng và cảm nhận của cá nhân, giá trị công
là tập hợp sự kỳ vọng của công dân đối với
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 16(344) T8/2017
chính phủ”13. Còn Stoker cho rằng: phán đoán
liệu giá trị công có được tạo ra hay không cần
phải xem liệu hoạt động quản lý của nhà quản
lý công có tạo ra kết quả kinh tế và xã hội tích
cực hay không. Giá trị công là kết quả thể hiện
sự đồng thuận giữa quan chức chính phủ với
các chủ thể lợi ích có liên quan về lợi ích và
phân phối lợi ích, vì thế, quan chức chính phủ
cần tăng cường tương tác, đối thoại một cách
tích cực với các chủ thể lợi ích có liên quan, xử
lý có hiệu quả những vấn đề mà công chúng
quan tâm nhất, thay đổi chức năng và hành vi
của mình, từ đó sáng tạo ra giá trị công.
Lý luận hành chính công truyền thống
và quản lý công mới đều cho rằng, nhiệm
vụ của nhà quản lý công là thực hiện một
cách hiệu quả nhất chính sách công hay
quyết sách chính trị. Việc xác định mục tiêu
như vậy làm cho nhà quản lý công quan
tâm hơn đến việc vận hành tổ chức theo ý
nghĩa truyền thống, mà không phải là tìm
kiếm sự thay đổi của tổ chức và sáng tạo
giá trị công. So với lý luận hành chính công
truyền thống và quản lý công mới, lý luận
QLGTC nhấn mạnh, lý do cho sự can thiệp
của chính phủ không phải là xuất phát từ sự
thất bại của thị trường, mà là xuất phát từ
mục đích tìm kiếm và sáng tạo giá trị công.
Theo lý luận QLGTC, trong quản lý công,
chức trách của nhà quản lý công không còn
là thực thi một cách bị động đối với mệnh
lệnh, quyết định của cấp trên và duy trì sự
vận hành của tổ chức, mà là cần căn cứ vào
sự thay đổi của môi trường xã hội để đưa
13 Xem chú thích 9.
14 Xem chú thích 6.
15 Xem chú thích 7.
16 Xem chú thích 6.
ra sự đáp ứng tích cực đối với các đòi hỏi
và nhu cầu hợp pháp, chính đáng của công
dân, giải quyết có hiệu quả những vấn đề mà
công chúng quan tâm nhất, điều chỉnh chức
năng và hành vi của tổ chức. Từ góc độ lý
luận QLGTC, nhà quản lý công được xem là
người cùng với công chúng tìm kiếm, phát
hiện, xác định và sáng tạo giá trị công. Nhà
quản lý công là nhà quyết sách chiến lược
mà không phải là nhân viên kỹ thuật. Nhà
quản lý công cần tạo ra giá trị công, nhưng
vấn đề là ở chỗ giá trị công luôn có sự thay
đổi, do đó, họ cần có năng lực tìm kiếm giá
trị công trong môi trường không ngừng thay
đổi. Theo quan điểm của Kelly và Muers, các
bước để tìm kiếm giá trị công bao gồm: 1) xác
định những mong muốn và sở thích của các
nhóm công chúng chịu sự ảnh ảnh hưởng của
chính sách; 2) xác định vấn đề mà công chúng
muốn tham gia; 3) tổ chức diễn đàn, hội nghị
để công chúng thể hiện quan điểm, thực hiện
thảo luận và sự đối thoại với công chúng14.
Thứ hai, mở rộng sự tham gia của
công dân. Khác với lý luận hành chính
công truyền thống và lý luận quản lý công
mới khi cả hai đều coi nhẹ sự tham gia của
công dân, lý luận QLGTC cho rằng: trong
nhà nước dân chủ, duy chỉ có công chúng
mới có thể quyết định cái gì là thật sự có
giá trị đối với họ15. Vì thế, lý luận này chủ
trương mở rộng sự tham gia của công dân,
cho rằng “sở thích và mong muốn của công
dân là trung tâm của giá trị công”16. Theo lý
luận QLGTC, bên cạnh hình thức bỏ phiếu,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 16(344) T8/2017
sự tham gia của công dân còn có thể thông
qua nhiều hình thức khác nhau như hội nghị
lắng nghe ý kiến, ủy ban tư vấn của công
dân, ủy ban đánh giá của công dân... Các cơ
chế để mở rộng sự tham gia của công dân
vào quá trình quản lý công như cơ chế đối
thoại, cơ chế hiệp thương, cơ chế phản biện,
cơ chế tư vấn, cơ chế hợp tác quản trị... cũng
rất quan trọng. Đặc biệt, sự phát triển của kỹ
thuật thông tin cũng tạo điều kiện thuận lợi để
thực hiện sự tương tác một cách linh hoạt và
thuận tiện giữa khu vực công với công dân.
Cần lưu ý là, lý luận QLGTC cho dù rất coi
trọng việc mở rộng sự tham gia của công dân,
nhưng điều này không có nghĩa là phủ định
vai trò quan trọng của khu vực công cũng như
nhà quản lý công. Một mặt, lý luận QLGTC
chủ trương mở rộng sự tham gia của công dân,
mặt khác cũng nhấn mạnh đến việc phát huy
vai trò tổ chức và hướng dẫn của nhà quản lý
công đối với hoạt động tham gia của công dân
cũng như việc tích hợp nhu cầu, nguyện vọng
của công dân.
Thứ ba, thiết lập cơ chế cung ứng
dịch vụ công mở và linh hoạt. Nếu lý luận
hành chính công truyền thống cho rằng, hành
chính nhà nước là chủ thể duy nhất trong
cung ứng dịch vụ công, còn lý luận quản lý
công mới thì chủ trương thông qua phương
thức “dân doanh hóa” để có thể cung ứng
dịch vụ tốt hơn cho công chúng; thì lý luận
QLGTC cho rằng, nhà quản lý công cần có
một thái độ “mở” khi xác định đâu là đối tác
tốt nhất tham gia vào hoạt động cung ứng dịch
vụ, không cần biết đối tác ấy thuộc khu vực
17 Xem chú thích 7.
18 Aldride R,Stoker (2003), G.Advancing a New Public Service Ethos.New Local Government Network, 2003.
công, khu vực tư (doanh nghiệp) hay khu vực
tự nguyện (các tổ chức xã hội, tổ chức phi
chính phủ)17. Nói cách khác, tùy tình hình cụ
thể mà đối tác tham gia vào hoạt động cung
ứng dịch vụ công có thể là doanh nghiệp, khu
vực tự nguyện (các tổ chức xã hội) và đối tác
khác trong khu vực công.
Lý luận QLGTC cũng nhấn mạnh việc
thiết lập mối quan hệ tương đối ổn định giữa
chính phủ với các bên đối tác. Theo đó, cả
hai cần phải xem đối phương là đối tác hợp
tác lâu dài, mà không phải là chỉ tập trung
vào hợp đồng ngắn hạn và cụ thể nào đó.
Lý luận này nhấn mạnh tầm quan trọng của
đạo đức phục vụ công trong hoạt động cung
ứng dịch vụ công, trong đó, cốt lõi của đạo
đức phục vụ công là tinh thần phục vụ công.
Theo Aldridge và Stoker, tinh thần phục vụ
công thể hiện ở năm điểm cơ bản: 1) coi
trọng văn hóa hiệu quả; 2) đảm nhận trách
nhiệm công; 3) đáp ứng các nhu cầu của
công dân; 4) tố chất và kỹ năng quản lý của
nhân viên hành chính; 5) cống hiến cho phúc
lợi xã hội18.
Về cơ chế cung ứng dịch vụ công, lý
luận QLGTC đồng thời còn nhấn mạnh việc
thiết lập cơ chế phục vụ linh hoạt. Lý luận
này cho rằng, trong điều kiện có nhiều chủ
thể tham gia vào hoạt động quản lý xã hội,
thì tính thích ứng và linh hoạt của hành chính
nhà nước có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng.
Nhà quản lý công cần phải thực hiện tốt vai
trò điều tiết liên tục đối với hệ thống cung ứng
dịch vụ để làm cho hệ thống này vận hành
một cách tích cực và hiệu quả. Trọng tâm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 16(344) T8/2017
công việc của nhà quản lý công cần chuyển
từ trực tiếp cung ứng dịch vụ sang duy trì tốt
hệ thống. Nhà quản lý công lý tưởng cần là
người biết cách đánh giá liên tục và không
ngừng học tập.
4. Một số đóng góp của lý luận quản lý giá
trị công
Có thể nói, đóng góp của lý luận
QLGTC đối với sự phát triển của khoa học
hành chính công được thể hiện ở một số
phương diện sau:
Thứ nhất, luận chứng kết cấu của
nền quản trị quốc gia hiện đại. Hành chính
công truyền thống coi hành chính nhà nước
là chủ thể duy nhất trong quản trị quốc gia,
là chủ thể duy nhất tham gia cung ứng dịch
vụ công, nó coi thị trường, xã hội và công
dân chỉ là đối tượng quản lý, “là bên bị động
tiếp nhận chính sách, hành vi, việc làm và kết
quả quản trị của chính phủ”19. Còn lý luận
quản lý công mới tuy thừa nhận vai trò của
thị trường (doanh nghiệp) trong việc cung
ứng dịch vụ công nhưng lại chưa coi trọng
đủ mức vai trò của xã hội (các tổ chức xã
hội) trong quản lý công và cung ứng dịch vụ
công. Lý luận QLGTC đã khắc phục được
thiếu sót của cả hai lý luận trên khi cho rằng,
chính phủ, thị trường (doanh nghiệp) và xã
hội (các đoàn thể xã hội) là những thực thể
cấu thành nên nền quản trị quốc gia hiện đại.
Điều này có nghĩa là, trong xã hội hiện đại,
19 Zhang Cheng-fu (2014), On Open Government, Journal of Renmin University of China, No4, p.82, 84.
20 Xem chú thích 17.
21 Marangos J (2006), Contrasting Primitive Conceptions of on Basic Income Guarantee, International Journal of
Environment, Workplace and Employment, 2(1):6-20.
22 ABernach J D (1990), Keeping a Watchful Eye:the Politics of Congressional Oversight. Washington,D.C.:Brooking
Institution, 195.
quản trị công không phải là quá trình chính
phủ đơn phương sử dụng quyền lực công để
giải quyết vấn đề công, mà là quá trình tương
tác, hợp tác giữa chính phủ với doanh nghiệp,
xã hội và công dân. “Một chính phủ có năng
lực và trách nhiệm, một thị trường cũng như
hệ thống doanh nghiệp có hiệu quả và một
mạng lưới các tổ chức xã hội đầy sức sống là
những bộ phận cấu thành không thể thiếu của
hệ thống quản trị quốc gia”20.
Thứ hai, định vị lại chức năng cơ bản của
chính phủ và vai trò, sứ mệnh của nhà quản lý
công. Quan điểm truyền thống cho rằng, chính
phủ không phải là chủ thể sáng tạo giá trị. Trong
quan điểm của một số học giả phương Tây,
chính phủ được xem là “một cái ác cần thiết”,
chính phủ được xem là người thiết lập các loại
quy tắc và thể chế để bổ sung cho sự thất bại
của thị trường”21. Tương ứng với vai trò này của
chính phủ, vai trò của nhà quản lý công được
xác định là tuân thủ và thực thi các điều khoản
và quy định22. Đến thời kỳ quản lý công mới,
chính phủ được xem là người “cầm lái”, vai trò
của nhà quản lý công được xác định là người
ký kết hợp đồng, giám sát việc thực hiện hợp
đồng và duy trì hợp đồng (hợp đồng với khu
vực tư); đồng thời chịu trách nhiệm trước
“khách hàng”. Không đồng tình với quan
điểm truyền thống, Moore cho rằng, xác
định và sáng tạo giá trị công là sứ mệnh của
khu vực công, là cốt lõi của khu vực công,
cũng giống như sứ mệnh của khu vực tư là
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 16(344) T8/2017
sáng tạo giá trị tư nhân”23. Điều này có nghĩa,
chính phủ không chỉ là chủ thể sáng tạo giá
trị công, mà còn phải coi đây là nguyên tắc
cơ bản và mục tiêu cao nhất trong toàn bộ
hoạt động của mình.
Do chức năng cốt lõi của chính phủ là
sáng tạo giá trị công nên vai trò và sứ mệnh
của nhà quản lý công cũng là theo đuổi và
sáng tạo giá trị công. Nhà quản lý công được
hiểu là người cùng với công dân và các chủ
lợi ích có liên quan tìm kiếm, xác định và
sáng tạo giá trị công. Nhà quản lý công cần là
một nhà chiến lược, mà không phải là “nhân
viên kỹ thuật”, họ không chỉ cần “tập trung
sự chú ý của mình vào trong bộ máy”, chú
ý đến tính hiệu quả và trình tự ưu tiên trong
công việc, mà còn phải “nhìn ra bên ngoài”,
từ đó biết cách kết nối, liên hệ rộng rãi và
thực hiện sự tương tác, trao đổi thông tin với
công dân, các tổ chức của công dân và người
nộp thuế. Theo quan điểm của Smith, một
học giả về quản lý công người Úc, điều này
đòi hỏi nhà quản lý cần phát triển những kỹ
năng liên quan hoạt động tương tác, trao đổi
linh hoạt các chủ thể có liên quan, nhất là kỹ
năng đối thoại24.
Thứ ba, giải quyết sự mâu thuẫn giữa
hiệu quả và dân chủ của hành chính công.
Cả lý luận hành chính công truyền thống và
lý luận quản lý công mới đều không thể giải
quyết được sự mâu thuẫn giữa hiệu quả và
dân chủ, vì thế cả hai đều coi dân chủ là vấn
đề của chính trị mà không phải là vấn đề của
23 Xem chú thích 9.
24 Smith R (2004), Focusing on Public Value:Something New and Something Old. Australian Journal of Public
Administration, 63(4): 68-79.
25 Xem chú thích 7.
hành chính. Khác với hai lý luận trên, trong lý
luận QLGTC, hiệu quả và dân chủ là không thể
tách rời nhau. Dựa trên lý luận quản trị công, lý
luận QLGTC chủ trương mở rộng sự tham gia
của công dân vào quá trình hoạch định chính
sách công (chính trị), thực thi chính sách và
cung cấp dịch vụ công (hành chính), qua đó để
đảm bảo hiệu quả của sự phân phối giá trị và
hiệu quả kỹ thuật. Stoker chỉ rõ: “Để thực hiện
giá trị công, tính hiệu quả của phân phối giá trị
(chính trị) và tính hiệu quả của kỹ thuật (hành
chính) đều cần đến dân chủ. Việc thực hiện hiệu
quả kỹ thuật được thiết lập dựa trên cơ sở tính
mở của quá trình hành chính cũng như sự hợp
tác, hiệp thương và đối thoại25.
Thứ tư, góp phần phát triển lý luận
dân chủ. Lý luận hành chính công truyền
thống coi dân chủ gián tiếp (hay dân chủ
đại nghị) là hình thức chủ yếu để công dân
tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách công. Vì thế, phạm vi và hình thức
tham gia của công dân vào quá trình quản lý
công là tương đối hạn hẹp. Đến thập niên 80
của thế kỷ XX, tuy quản lý công mới cũng
chủ trương thực hiện sự đánh giá của công
dân đối với hoạt động cung ứng dịch vụ
công của các cơ quan hành chính nhà nước,
nhưng trong quan điểm của lý luận này,
công dân chỉ là “người tiêu dùng hàng hóa
và dịch vụ công”, mà không phải là “người
chủ sở hữu chính phủ” và “người tham gia
vào quá trình chính trị và quản lý”. Với việc
nhấn mạnh sự tham gia của công dân vào tất
cả các khâu của quá trình chính sách cũng
(Xem tiếp trang 33)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 16(344) T8/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_luan_quan_ly_gia_tri_cong_va_phuong_thuc_de_hanh_chinh_co.pdf