Trong thanh toán quốc tế, lợi ích cá nhân thường mâu thuẫn với lợi ích chung, tuy vậy, nếu dung hoà được hai điểm mâu thuẫn này, khi mà hai bên đều có lợi thì quan hệ bạn hàng sẽ được phát triển, đây là một điều vô cùng quan trọng trong điều kiện kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Hoạt động thanh toán quốc tế còn là thước đo hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh tế. Có thể nói như vậy, vì hoạt động thanh toán quốc tế phản ánh cán cân xuất nhập khẩu, từ đó nhà nước có thể quản lý được lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, chủng loại và giá trị của hàng hoá, xác định được mặt hàng chủ lực của quốc gia, tình hình cán cân đang xuất siêu hay nhập siêu, từ đó sẽ có những chính sách ngoại thương phù hợp.
Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng trong hoạt động xuất nhập khẩu, khép lại chu trình quan hệ giao dịch hàng hoá. Hoạt động thanh toán quốc tế ngoài phụ thuộc vào thoả thuận của các bên còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố của thị trường trong và ngoài nước như chính sách về xuất nhập khẩu, về ngoại hối. Không những thế, tỷ giá và thuế là đại lượng luôn biến đổi, luôn tác động vào hoạt động này, nên yếu tố an toàn luôn được đặt lên hàng đầu để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thuận lợi. Cũng qua hoạt động thanh toán quốc tế mà ta có thể dánh giá được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nắm bắt được thông tin về thị trường trong và ngoài nước, cũng như hiểu rõ hơn về đối tác kinh doanh. Từ việc nắm bắt được các thông tin cần thiết trên thị trường và cân đối với khả năng của mình, các doanh nghiệp sẽ có những quyết định đúng đắn, phòng ngừa rủi ro một cách hữu hiệu.
59 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 971 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận và thực tiễn áp dụng thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15 tháng 06 năm 2004.
Cơ sở của hoạt động quản trị và điều hành ngân hàng là các văn bản pháp luật của Nhà nước và Điều lệ được hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương ban hành kèm theo quyết định số 62/QĐ-HĐQT ngày 08 tháng 11 năm 2001, có hiệu lực thi hành kể từ khi được thồng đốc ngân hàng Nhà nước chuẩn y ngày 26 tháng 11 năm 2001 tại Quyết định số 1476/2001/QĐ-NHNN.
*) Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất của NHNT. Hội đồng quản trị quản lý NHNT theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, các quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại và các quy định khác có lien quan của pháp luật.
Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị là 05 năm. Các thành viên của Hội đồng quản trị có thể được bổ nhiệm lại. Hội đồng quản trị có 07 thành viên, trong đó có Chủ tịch Hội đồng quản trị, 01 thành viên Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc, 01 thành viên Hội đồng quản trị kiêm Trưởng Ban kiểm soát.
*) Ban kiểm soát
Ban kiểm soát NHNT thực thi chức năng kiểm soát/kiểm toán nội bộ theo quy định hiện hành và điều lệ công ty.
Ban kiểm soát có 06 thành viên, trong đó có 01 Trưởng ban, 03 thành viên chuyên trách và 02 thành viên kiêm nhiệm (Một thành viên do Bộ trưởng Bộ Tài chính giới thiệu, một thành viên do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giới thiệu). Số lượng thành viên Ban kiểm soát do Hội đồng quản trị quyết định.
*) Tổng giám đốc, Ban điều hành và bộ máy giúp việc.
Tổng giám đốc NHNT là đại diện theo pháp luật của NHNT, là người chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước pháp luật về việc điều hành hoạt động hang ngày theo nhiệm vụ, quyền hạn quy định. Giúp việc cho Tổng giám đốc là các Phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy các phòng, ban chuyên môn, nghiệp vụ.
1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh
1.3.1 Phạm vi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
1..3.1.1 Ngành nghề kinh doanh
Theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 105922 do Trọng tài kinh tế Nhà nước cấp ngày 03 tháng 04 năm 1993, cấp bổ sung lần thứ nhất ngày 25 tháng 11 năm 1997 và cấp bổ sung lần thứ hai ngaỳ 08 tháng 05 năm 2003, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đăng ký hoạt động các ngành nghề lĩnh vực kinh doanh chủ yếu:
*) Huy động vốn
Bao gồm nhận tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trài phiếu, ký phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn; vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, vay vốn của Ngân hàng Nhà nước và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
*)Hoạt động tín dụng
Bao gồm cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
*)Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Bao gồm mở tài khoản, cung ứng các phương tiện thanh toán trong nước và quốc tế, thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ, thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt, ngân phiếu thanh toán cho khách hàng.
*)Các hoạt động khác
Bao gồm hoạt động góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, thực hiện các nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và VND, kinh doanh ngoại hối và vàng, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, kinh doanh các nghiệp vụ chuéng khoán thông qua công ty trực thuộc, cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ, cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ.
1.3.1.2 Sản phẩm cung ứng dịch vụ
1. Dịch vụ tài khoản
2. Dịch vụ huy động vốn (tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu, kỳ phiếu)
3. Dịch vụ cho vay (ngắn, trung, dài hạn)
4. Dịch vụ bảo lãnh
5. Dịch vụ chiết khấu chứng từ
6. Dịch vụ thanh toán quốc tế
7. Dịch vụ chuyển tiền
8. Dịch vụ thẻ
9. Dịch vụ nhờ thu
10. Dịch vụ mua bán ngoại tệ
11. Dịch vụ ngân hàng đại lý
Dịch vụ bao thanh toán
Các dịch vụ khác theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
1.3.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của NHNT các năm 2004-2007
Do Sở giao dịch NHNT bắt đầu tách ra hoạt động và hạch toán độc lập với trung ương từ tháng 7 năm 2007 nên không có báo cáo kết quả hoạt động sản xuất riêng của Sở giao dịch. Vì vậy, dưới đây là báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của NHNT từ năm 2004 đến 2007, trong đó bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở giao dịch NHNT.
Bảng 1.1: Báo cáo thu nhập, chi phí 2004-2007
Đơn vị:triệu đồng
Chi tiêu
2004
2005
2006
2007
Tổng tài sản
120.066.267
136.456.412
166.952.020
200.914.606
Vốn tự có
7.180.787
8.415.901
11.127.248
12.981.202
Thu nhập lãi và các
khoản tương đương
4.337.112
6.344.256
9.156.930
10.327.305
Chi phí lãi và các
khoản tương đương
(2.440.5510)
(3.034.139)
(5.272.632)
(6.975.267)
Thu nhập lãi
thuần và các khoản tương đương
1.896.561
3.310.117
3.884.298
3.352.038
Thu phí dịch vụ
548.252
622.805
723.498
646.937
Chi phí dịch vụ
(129.722)
(175.246)
(175.246)
Lãi thuần từ hoạt
động kinh doanh
ngoại hối
207.382
192.780
274.052
323.381
Lãi thuần từ hoạt
động kinh doanh
chứng khoán
33.473
18.921
100.776
118.916
Lãi /(lỗ) thuần từ
đầu tư góp, vốn
mua cổ phần
(26.549)
30.590
108.099
-
Thu nhập cổ tức
13.790
14.546
52.027
-
Thu nhập khác
300.791
270.856
313.899
559.350
Tổng thu nhập từ
hoạt động kinh
doanh
2.843.978
4.285.369
5.281.403
5.000.622
Lương và các chi
phí nhân viên khác
(226.010)
(394.430)
(448.882)
(487.172)
Chi phí khấu hao
(157.544)
231.729)
(314.495)
(334.410)
Chi phí khác cho
hoạt động kinh
doanh
(499.273)
(340.781)
(450.180)
(488.581)
Tổng chi phí hoạt
động kinh doanh
(882.827)
(966.940)
(1.213.557)
(1.310.163)
Thu nhập hoạt
động kinh doanh
thuần
1.961.151
3.318.429
4.067.846
3.690.459
Chi phí dự phòng
rủi ro tín dụng
(462.566)
(1.337.685)
(168.227)
(1.115.523)
Chi phí dự phòng
cho tài sản xiết nợ
-
-
(1.590)
-
Chi phí dự phòng
chung cho cam kết
ngoại bảng
-
(220.861)
(4.361)
-
Lợi nhuận trước
thuế
1.498.585
1.759.883
3.893.668
2.574.936
Thuế thu nhập
doanh nghiệp
(398.772)
(467.330)
(1.016.647)
(720.982)
Lợi nhuận sau
thuế
1.103.813
1.292.553
2.877.021
1.853.954
Lợi ích của cổ đông
thiểu số
(1.040)
(2.344)
(1.858)
-
Lợi nhuận thuần
trong năm
1.102.773
1.290.209
2.875.163
3.690.459
Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Ghi chú:
Kết quả kinh doanh 2004, 2005, 2006 theo Báo cáo kiểm toán.
Dự báo kết quả kinh doanh năm 2007 dựa trên số thực hiện đến 30/09/2007 và ước thực hiện đến 31/12/2007 .
Nhận xét:
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nhìn chung có tốc độ tăng trưởng tương đối đồng đều qua các năm 2004, 2005, 2006, 2007:
- Lợi nhuận thuần năm 2007 tăng 1,28 lần so với năm 2006 và xấp xỉ 3 lần so với các năm 2004, 2005.
- Tỷ suất lợi nhuận / tổng tài sản năm 2004 đạt 0,92%;đến năm 2005 đạt 0,95%; đặc biệt năm 2006 đạt 1,72%.
- Hệ số an toàn vốn cũng tăng qua các năm: tăng từ 9,45% năm 2004 lên 11,87% năm 2006; năm 2007 ước tính đạt 11,1%.
- Thu nhập bình quân đầu người: năm 2004 đạt 3,03 triệu VND, đến năm 2006 là 4,62 triệu VND; năm 2007 đạt 5,41 triệu VND.
2. Vai trò của Ngân hàng Ngoại thương trong lĩnh vực thanh toán quốc tế
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với tư cách là ngân hàng đối ngoại chủ lực của nước ta, một trung tâm thanh toán lớn nhất Việt Nam, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Với vai trò trung gian thanh toán, NHNT tiến hành thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong giao dịch thanh toán, tư vấn, hướng dẫn khách hàng những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế nhằm hạn chế rủi ro, tạo sự tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với nước ngoài. Mặt khác trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ năng lực về vốn sẽ cần đến sự tài trợ của ngân hàng , NHNT sẽ thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu cho khách hàng một cách chủ động và tích cực.
Nhìn chung, NHNT là ngân hàng cung cấp hoàn hảo các loại hình dịch vụ kỹ thuật và tài chính nhằm hỗ trợ cho khách hàng thực hiện hoạt động thương mại quốc tế. NHNT cung cấp các phương án lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, đảm bảo an toàn và quyền lợi cho cả hai bên mua và bán, thông qua đó thúc đẩy ngoại thương phát triển và mở rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giới.
II.Thực tiễn áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
1. Vài nét về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây
Nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đà tăng trưởng cao, ổn định, bền vững. Riêng năm 2006 mức tăng GDP trên 8,17%, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 40 tỷ đô la Mỹ; môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện đã khiến luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng trở lại từ năm 2004 và hiện đang xuất hiện một làn sóng đầu tư mới vào nước ta, tiếp tục tạo đà cho sự tăng trưởng cao trong những năm tới.
Với các sự kiện Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tổ chức thành công Hội nghị APEC 14, Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam, thành công của các chuyến thăm làm việc song phương, đa phương của lãnh đạo cấp cao nước ta thời gian qua, đã tạo ra tầm ảnh hưởng lớn hơn của Việt Nam trên trường quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng được tập trung xây dựng và hoàn thiện, trong đó hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến môi trường đầu tư, kinh doanh đã có những bước tiến quan trọng, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, ngày càng thông thoáng, minh bạch và thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư kinh doanh một cách có hiệu quả tại Việt Nam. Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán, ngoài ra còn ban hành các chỉ thị 15/2007/CT-TTg ngày 22/06/2007 của Thủ tướng chính phủ về một số giải pháp nhằm thúc đấy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Quyết định 109/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ban hành ngày 17/7/2007 về việc ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010,Vì có những minh bạch hơn về pháp luật như vậy cho nên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục khởi sắc, doanh thu đạt 34,9 tỷ USD (tăng 28,6% so với cùng kỳ năm trước), giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 17,78 tỷ USD (tăng 36,5% so với cùng kỳ năm trước).
Về cơ bản chúng ta cơ bản đã thực hiện đầy đủ các cam kết gia nhập WTO theo đúng lộ trình, đã tạo ra một hệ thống chính sách minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài, từ đó góp phần phát triển kinh tế nhanh hơn, mạnh hơn và có hiệu quả hơn.
2. Thực tiễn thực hiện thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
2.1 Quy định về mở L/C
Quy trình thanh toán xuất nhập khẩu theo hình thức tín dụng chứng từ và nhờ thu chứng từ trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 40/QĐ/NHNT-THTT ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có quy định về điều kiện mở L/C, tại Điều 45 chỉ rõ:
- NHNT phát hành L/C khi người yêu cầu mở L/C đáp ứng được các điều kiện:
(a) Có mã số khách hàng (CIF) tại NHNT;
(b) Ký quỹ 100% trị giá giao dịch để phát hành L/C; hoặc
(c) Được NHNT cấp hạn mức miễn/giảm ký quỹ để phát hành L/C hoặc được NHNT cho vay thanh toán L/C; hoặc
(d) Được bảo lãnh thanh toán bởi một bên thứ ba và bảo lãnh này được Chi nhánh
- Khách hàng yêu cầu NHNT phát hành L/C cần xuất trình các giấy tờ:
(a) Thư yêu cầu phát hành L/C theo mẫu của NHNT;
(b) Các cam kết về ký quỹ đối với các đối tượng quy định tại Điều 45.1 (b,c)
(c) 02 bản sao Hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc giấy tờ có giá trị tương đương như hợp đồng.
(d) Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương mại hoặc bộ quản lý chuyên ngành đối với hàng nhập khẩu cần có giấy phép.
(e) Văn bản xác nhận của NHNN về việc đăng ký vay và trả nợ nước ngoài đối với L/C nhập khẩu có thời hạn trả chậm.
- Nội dung yêu cầu phát hành L/C phải rõ ràng, các điều kiện, chỉ thị phải đầy đủ, không mâu thuẫn nhau và phù hợp với hợp đồng mua bán.
- Thư yêu cầu phát hành L/C là cơ sở pháp lý cuối cùng để NHNT phát hành L/C vì vậy thư yêu cầu phát hành phải có đầy đủ chữ ký của Chủ tài khoản và kế toán trưởng (nếu có). Nếu thư yêu cầu có sự sửa đổi thì phải có chữ ký xác nhận của chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản uỷ quyền.
2.2 Quy trình thực hiện
Tín dụng chứng từ (Letter of Credit) là phương thức thanh toán phổ biến và hiệu quả trong các giao dịch thương mại quốc tế. Trong hơn 70 năm qua, phương thức thanh toán này được các doanh nghiệp trên toàn cầu áp dụng theo các quy định tại Quy tắc Thực hành thống nhất về Tín dụng thư chứng từ (UCP) do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành. Do vậy, UCP được coi là cẩm nang cho các doanh nghiệp trong hoạt động thanh toán quốc tế. Tuỳ theo phiên bản nào có lợi cho mình, các doanh nghiệp lựa chọn phiên bản áp dụng và đưa vào hợp đồng.
Theo thông lệ quốc tế, Sở Giao Dịch NHNT cũng áp dụng theo nguyên tắc này. Tuy nhiên, do để đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động thanh toán của ngân hàng, đồng thời để hạn chế rủi ro, NHNT đưa ra quy trình cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu trong toàn hệ thống ngân hàng. Từ tháng 1 năm 1994, NHNT đã áp dụng thanh toán theo các quy định tại Quy tắc thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ theo UCP 500 ngay khi phiên bản này có hiệu lực, và được cụ thể hoá tại “Quy trình thanh toán xuất nhập khẩu theo hình thức tín dụng chứng từ và nhờ thu chứng từ trong hệ thống NHNT Việt Nam” ban hành kèm theo quyết định số 29/2001/QĐ/NHNT-THTT ngày 16 tháng 4 năm 2001 của NHNT Việt Nam. Với phương trâm luôn làm mới mình và theo kịp thế giới, từ ngày 3 tháng 3 năm 2008, “Quy trình thanh toán xuất nhập khẩu theo hình thức tín dụng chứng từ và nhờ thu chứng từ trong hệ thống NHNT Việt Nam” có hiệu lực cùng với Quyết định số 40/QĐ/NHNT-THTT ngày 28 tháng 1 năm 2008 của Tổng giám đốc NHNT Việt Nam, áp dụng UCP 600.
Cũng theo quy định này, hoạt động thanh toán quốc tế phải tuân thủ các quy tắc do ICC ban hành như UCP 600, URC522, URR525; các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế, các quy định của Chính phủ, NHNN về quản lý ngoại hối; các văn bản liên quan đến thanh toán quốc tế và không trái với pháp luật Việt Nam. Việc nhận điện, chuyển điện, kiểm tra mã hoá, mã điện phải được thực hiện theo quy định số 342/QĐ/NHNT/QHQT ngày 03/09/1999 và Quy định bổ sung số 415 ngày 25/10/1999 của Tổng giám đốc NHNT và Hướng dẫn số 4752/QHQT ngày 28/10/1999 của Phòng quan hệ quốc tế NHNT Trung ương.
2.3 Thực trạng hiệu quả hoạt động thanh toán tại Sở Giao dịch NHNT
2.3.1 Hoạt động thanh toán XNK của SGD NHNT
Với uy tín và thương hiệu bền vững đã tạo dựng, Sở Giao Dịch NHNT thực sự trở thành địa chỉ đáng tin cậy cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trên cả nước. Dưới đây là số liệu về tình hình thanh toán xuất nhập khẩu qua Sở Giao dịch những năm gần đây.
*) Hoạt động thanh toán nhập khẩu
Trong thanh toán hàng nhập khẩu tại Sở giao dịch NHNT Việt Nam, phương thức tín dụng chứng từ luôn chiếm một tỷ trọng rất cao. Dưới đây là doanh số thanh toán nhập khẩu tại Sở giao dịch NHNT Việt Nam từ 2003 đến 2007:
Bảng 2.1: Doanh số thanh toán nhập khẩu của SGD NHNT
Đơn vị: triệu USD
L/C
Số món
Trị giá mở
Thanh toán
2003
2.850
1.199
1.670
2004
2.870
1.203
1.687
2005
2.930
1.665
1.713
2006
2.575
1.032
1.127
2007
2.830
1.193
1.109
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD NHNT từ năm 2003 đến 2007)
Tại Sở giao dịch NHNT Hà Nội, doanh số thanh toán L/C tăng đều qua các năm 2003, 2004, 2005, nhưng giảm trong 2 năm gần đây, đặc biệt là năm 2007: Nếu so với năm 2003, giá trị thanh toán L/C năm 2004 là 1.687 triệu USD, tăng 1%; năm 2005, giá trị thanh toán L/C đạt 1.713 triệu USD, tăng 2,6%; năm 2006 đạt 1.127 triệu USD, giảm32,5%; năm 2007 đạt 1.109 triệu USD giảm 33,6%.
Các L/C được mở chủ yếu là L/C không huỷ ngang (Irevocable Credit), trong đó loại trả ngay chiếm tỷ lệ lớn. Đối với những L/C không thể huỷ huỷ ngang trả ngay, người nhập khẩu có thể trả theo một tỷ lệ nhất định giá trị của L/C tuỳ thuộc vào mỗi lần giao hàng (Nếu L/C cho phép giao hàng từng phần) hoặc cũng có khi trả ngay tới 100% giá trị của L/C. Các loại L/C khác như xác nhận, L/C chuyển nhượng rất ít khi được sử dụng.
*) Hoạt động thanh toán xuất khẩu
Bảng 2.2: Doanh số thanh toán xuất khẩu tại SGD NHNT
Đơn vị: triệu USD
2003
2004
2005
2006
2007
Thông báo L/C
520.175
409.47
339.64
332.05
234.55
Thanh toán L/C và nhờ thu
498.178
294.19
215.05
425.20
258.87
Trị giá chứng từ xuất trình
-
402.39
407.20
230.05
237.77
Chiết khấu chứng từ
-
13.63
12.94
18.00
24.60
Năm 2007 là năm chứng kiến sự tăng trưởng khá ngoạn mục của kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam, giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 17,78 tỷ USD (tăng 36,5% so với cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, năm 2007 lại là năm đánh dấu sự khó khăn trong hoạt động thanh toán hàng xuất khẩu của Sở giao dịch NHNT. Doanh số thông báo, thanh toán và nhờ thu đều giảm so với cùng ký năm trước.
Về doanh số thông báo số tiền chỉ đạt 234.55 triệu USD, giảm 29,36% so với năm 2006, giảm 30,94% so với năm 2005, giảm 42,72% so với năm 2004 và chỉ bằng 45% của năm 2003.
Về thanh toán L/C và nhờ thu số tiền chỉ đạt 258.87 triệu USD, tăng 18,98% so với năm 2005 nhưng giảm 39,11% so với năm 2006, giảm 12% so với năm 2004 và chỉ bằng 51,96% của năm 2003.
Về trị giá chứng từ xuất trình đạt 237.77 triệu USD, tăng 3,35% so với năm 2006 nhưng chỉ đạt khoảng 60% so với các năm 2003, 2004, 2005.
Như vậy, nhìn chung doanh số thanh toán xuất khẩu năm 2007 của Sở Giao Dịch NHNT đều giảm, chỉ có chiết khấu chứng từ có tăng qua các năm. Chiết khấu chứng từ năm 2007 đạt 24.06 triệu USD, tăng 33,66% so với năm 2006, tăng 90% so với năm 2005,tăng 76,67% so với năm 2004.
2.4 Vướng mắc và tồn tại
Có thể nói sau khi tách Sở giao dịch, công việc của Phòng thanh toán xuất khẩu và phòng thanh toán nhập khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Các khách hàng có doanh thu lớn đều chuyển sang phòng Tài trợ thương mại trung ương, các khách hàng còn lại thường là khách hàng nhỏ, doanh số chứng từ ít. Điện chứng từ là không chuyên nên tác nghiệp của phòng nhiều mà doanh số không cao. Do tách Sở và trung ương nên Sở giao dịch chuyển địa điểm cách xa phòng quan hệ đại lý xác nhận chữ ký khiến mất thời gian của khách hàng trong thông báo L/C. Cũng do tách Sở nên đầu điện của Sở giao dịch thay đổi (thêm đuôi “001”), vì không thể báo hết cho khách hàng biết nên cũng làm chậm quá trình thanh toán L/C gây khó khăn cho Sở giao dịch NHNT.
Trong những năm gần đây, sức cạnh tranh trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu được đẩy lên rất cao, đặc biệt là thanh toán xuất khẩu. Đây không còn là lĩnh vực của riêng NHNT nữa mà còn có sự tham gia tích cực của các ngân hàng thương mại cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có các chính sách thông thoáng hơn, có các điều kiện marketing năng động lôi kéo được khách hàng từ NHNT. Trên địa bàn Hà Nội sự cạnh tranh gay gắt cũng được thể hiện rõ. Ngay trong cùng hệ thống, chi nhánh NHNT Hà Nội cũng thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế với mức phí thấp hơn, lãi suất thấp hơn so với Sở giao dịch. Điều này đôi khi tạo nên sự cạnh tranh nội bộ NHNT, tạo tâm lý không tốt cho khách hàng.
Hiện tại công tác khách hàng chưa được quan tâm nhiều, sự phối kết hợp giữa các phòng chưa thật sự nhuần nhuyễn nên công tác khách hàng chưa đạt hiệu quả cao. Thanh toán xuất nhập khẩu là khâu cuối cùng của quá trình mua bán hàng hoá. Chính vì thế việc lôi kéo khách hàng được trong khâu này là không đơn giản. Ngay từ khi các doanh nghiệp cần vay vốn để sản xuất hàng, các ngân hàng khác đã chào mời, cho vay tín dụng dẫn đến việc xuất trình chứng từ hàng xuất cũng tại ngân hàng này. Do đó việc phối kết hợp giữa các phòng ban trong công tác khách hàng là rất quan trọng. Ngay cả đối với những khách hàng đã và đang xuất trinhd chuúng từ tại phòng thanh toán xuất khẩu cũng có xu hướng chuyển sang các ngân hàng thương mại cổ phần khác vì không vay được vốn để sản xuất kinh doanh.
Việc xác nhận L/C, chiết khấu miễn truy đòi đã gặp rất nhiều khó khăn do không có một văn bản chính thức hướng dẫn, nay do tách sở khiến việc trình ban giám đốc xem xét (hạn mức, ký quỹ) càng khó khăn, không có sự hỗ trờ từ phía trung ương.
3. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh trong thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng phổ biến nhưng quy trình lại khá phức tạp, không chỉ chịu sự điều chỉnh của văn bản pháp luật trong nước mà còn cả những thông lệ, tập quán quốc tế. Hơn nữa, các ngân hàng là trung gian thanh toán lại xây dựng một quy trình thanh toán riêng dựa trên kinh nghiệm và thông lệ quốc tế. Cũng chính vì thế mà các bất đồng xảy ra trong quá trình thanh toán là không tránh khỏi. Để giải quyết các bất đồng, các xung này, các bên thường lựa chọn các phương thức khác nhau để có lợi cho mình nhất. Tuy nhiên, mỗi phương thức khi được sử dụng độc lập đều có những ưu nhược điểm riêng nhưng khi kết hợp với những phương thức khác theo một trình tự hợp lý thì có thể sẽ phát huy được tối đa các ưu điểm và hạn chế được các nhược điểm. Do đó, tương đối phổ biến hiện nay là việc các bên đưa vào điều khoản giải quyết tranh chấp một trình tự kết hợp các phương thức khác nhau: trước tiên các bên tự đàm phán, thương lượng lại; nếu không được thì nhờ bên thứ ba hoà giải, dàn xếp; nếu vẫn không đạt được kết quả thì đưa ra giải quyết bằng trọng tài hoặc toà án. Thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ được tiến hành theo thủ tục của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.
Tại NHNT nói chung và Sở giao dịch nói riêng, việc tranh chấp phát sinh chủ yếu được các bên giải quyết bằng thương lượng và vẫn tiếp tục hợp đồng, chỉ có rất ít là phải huỷ bỏ L/C.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
I. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Mặc dù là một phương thức thanh toán mang lại hiệu quả cao nhất so với mọi phương thức hiện hành, chiếm tới 80% doanh số thanh toán quốc tế của NHNT nhưng phương thức thanh toán bằng L/C vẫn không thể tránh khỏi những rủi ro gây thiệt hại không nhỏ cho các bên liên quan. Hơn nữa, không phải lúc nào việc thanh toán bằng L/C cũng đều diễn ra một cách dễ dàng, thuận tiện và được ưu tiên sử dụng do nó bị chi phối bởi nhiều nhân tố.
Nhân tố khách quan
Môi trường pháp lý
Hoạt động thanh toán quốc tế nói chung, hoạt động thanh toán bằng phương thức L/C nói riêng của các doanh nghiệp và tại các ngân hàng được điều chỉnh bởi nhóm các văn bản pháp lý do Nhà nước Việt Nam ban hành như: Luật thương mại; Luật doanh nghiệp, Luật các công cụ chuyển nhượng, Quyết định 711/2001/QĐ-NHNN ngày 25/05/2001 của Ngân hàng Nhà nước về Quy chế Mở thư tín dụng nhập hàng trả chậmvà nhóm các văn bản pháp lý về tập quán thương mại quốc tế như: các quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ do phòng thương mại quốc tế ban hành, phiên bản mới nhất là UCP 600; Luật thống nhất hối phiếu theo Công ước Giơnevơ 1930
Hiện tại, ngành ngân hàng chưa có riêng một văn bản hướng dẫn giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho mình. Mỗi ngân hàng đều xây dựng một quy trình thanh toán riêng dựa trên kinh ngiệm của mình và thông lệ quốc tế. Điều này gây nên sự thiếu đồng bộ trong thanh toán xuất nhập khẩu giữa các ngân hàng, nhất là khi họ có quan hệ đại lý hoặc cùng tham gia trong một thương vụ thanh toán.
1.2 Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường
Năm 2007 là năm ghi nhận kết quả đạt được sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế của đất nước và là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Tuy nhiện, việc gia nhập WTO, một sân chơi bình đẳng cho các bên, cũng mang lại những khó khăn và thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Lộ trình mở cửa cho các lĩnh vực kinh tế các ngành nghề đang ngày càng gấp rút, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải sớm nhận được nhũng cơ hội và những thách thức gay gắt của cuộc chơi để có thể cùng tham gia và cùng phát triển lớn mạnh. Sự chậm trễ, thiếu linh hoạt, kém có khả năng thích ứng sẽ khiến doanh nghiệp tự đào thải mình ra khỏi cuộc chơi đang ngày càng trở nên khốc liêt.
Tài chính ngân hàng là một trong những lĩnh vực được phép mở cửa hội nhập theo lộ trình từ nay đến năm 2010 nhằm giúp các ngân hàng và các công ty tài chính trong nước có đủ thời gian để tăng cường năng lực tài chính, năng cao trình độ kỹ thuật công nghệ, năng cao kỹ năng quản lý và khả năng cạnh tranh, đủ sức đương đầu với những thử thách do hội nhập mang lại. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tài chính, tín dụng cần phải biết tận dụng triệt để quãng thời gian này, khi mà sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước chưa thực sự bình đẳng.
Cơ hội mở ra cho NHNT là rất lớn nhưng thử thách trong thời gian tới cũng thực sự đáng lo ngại. Sắp tới NHNT không chỉ đối phó với sự cạnh tranh gay gắt từ phía các ngân hàng nước ngoài, các đối thủ nặng ký hơn NHNT về mọi mặt, kể cả về năng lực tài chính, trình độ quản lý, công nghệ, sản phẩm mà còn phải chịu sự giành giật khách hàng từ phía các ngân hàng cổ phần và liên doanh trong nước. Áp lực cạnh tranh thật sự là rất lớn và sự giảm sút về thị phần đang diễn ra ngày càng nhanh, đòi hỏi NHNT cần phải cố gắng nhiều hơn để có thể duy trì được vị trí hiện tại và phát triển vững chắc.
Chính sách của Nhà nước
Nhà nước sử dụng chính sách của mình để điều tiết nền kinh tế một cách linh hoạt và có hiệu quả. Và các chính sách này, đặc biệt là các chính sách kinh tế đối ngoại đang ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động thanh toán quốc tế.
Chính sách về tỷ giá: Tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu, do đó tác động đến hoạt động thanh toán quốc tế. Hiện nay nước tư đang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước rất phù hợp với nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Chính sách ngoại hối: Luồng tiền vận động ra vào nền kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế. Những quyết định của Nhà nước có thể mang đến sự thuận lợi hoặc những hạn chế nhất định cho hoạt động thanh toán quốc tế hiện nay và mục tiêu cao nhất là hướng đến sự ổn định của thanh toán ngoại hối, tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế.
- Chính sách ngoại thương: Nhà nước điều chỉnh các hoạt động kinh tế có lợi cho nền kinh tế, mà thanh toán quốc tế hình thành từ hoạt động ngoại thương, do đó chính sách ngoại thương ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế.
Một điều có thể nhận thấy là đóng góp cho doanh số thanh toán xuất khẩu của Sở giao dịch có tới 64% là của mặt hàng than đá. Đây là một loại hàng đặc biệt, một tài nguyên thiên nhiên đang trở nên khan hiếm và cạn kiệt. Vì thế chủ chương của Đảng và Chính phủ là trong thời gian tới sẽ ngừng xuất khẩu mặt hàng than. Đây là một điều hết sức khó khăn đối với ban lãnh đạo các phòng ban liên quan của Sở giao dịch. Bởi nếu không có biện pháp chuyển hướng kịp thời, thu hút thêm các khách hàng là các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng khác thì thanh toán xuất khẩu của Sở giao dịch sẽ tụt giảm nghiêm trọng, thậm chí có thể không duy trì được doanh số bằng một nửa con số hiện tại.
1.4 Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn yếu kém về trình độ, hạn chế về kinh nghiệm ngoại thương và thanh toán quốc tế
Trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay có rất nhiều các doanh nghiệp chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về ngoại thương. Một số doanh nghiệp chưa nắm vững luật kinh tế, sơ hở về mặt pháp lý khi ký hợp đồng nên khi xảy ra tranh chấp không có sơ sở để khiếu nại. Một số doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nhưng chưa am hiểu về kỹ thuật buôn bán ngoại thương, không nắm chắc các thông lệ quốc tế nên dễ dàng chấp nhận các phương thức thanh toán và điều kiện thanh toán bất lợi cho mình, chấp nhận những bất lợi trong nội dung L/C, lập chứng từ hàng xuất theo L/C còn nhiều sai sót
Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung thường có nhiều loại sổ sách dùng vào những mục đích khác nhau, trong đó có cả mục đích tạo nên tình hình tài chính có lợi khi đến giao dịch tại ngân hàng . Hoạt động kinh doanh của khách hàng không minh bạch, sự cố tình vi phạm các cam kết với ngân hàng cũng gây những rủi ro cho ngân hàng, giảm hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế.
Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng kinh tế, thiên tai bão lụtcũng tác động không nhỏ đến hoạt động thanh toán quốc tế.
2. Nhân tố chủ quan
2.1 Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là thành phần cơ bản góp phần thúc đẩy các hoạt động liên hệ nối các nền kinh tế với nhau qua mạng toàn cầu thì công nghệ ngân hàng ngày càng cần hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nếu hạ tầng công nghệ ngân hàng, tức toàn bộ cơ sở vật chất và hệ thống máy móc phục vụ công tác quản lý điều hành, thực hiện thanh toán quốc tế tốt sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, ngược lại sẽ làm giảm hiệu quả thanh toán quốc tế của ngân hàng.
2.2 Đội ngũ cán bộ
Thị trường thanh toán quốc tế là thị trường tham gia với nhiều biến động khó lường, với sự thay đổi liên tục của ngoại tệ do sự thay đổi của tỷ giá. Không những thế, thông lệ quốc tế phức tạp luôn là một rào cản lớn cho hoạt động thanh toán quốc tế. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán cán bộ thanh toán phải am hiểu nghiệp vụ, thông lệ quốc tế cũng như thị trường kinh tế nói chung.
2.3 Các hoạt động liên quan
- Hoạt động ngân hàng đại lý: Hoạt động ngân hàng đại lý có quan hệ trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng. Trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, các ngân hàng đại lý đại diện cho ngân hàng tại nước ngoài để thực hiện một số khâu trong quá trình thanh toán quốc tế, các ngân hàng đại lý có thể là ngân hàng thu hộ, ngân hàng hoàn tiền, ngân hàng xác nhận và ngân hàng thông báo.
Nếu mạng lưới ngân hàng đại lý rộng thì hoạt động thanh toán diễn ra nhanh, dễ dàng, đảm bảo giảm thiể rủi ro và chi phí phát sinh.
- Hoạt động tín dụng- xuất nhập khẩu
Hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động tín dụng- xuất nhập khẩu có mối quan hệ chặt chẽ và là tiền đề phát triển của nhau.
- Hoạt động kinh doanh ngoại tê
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ hỗ trợ vô cùng hiệu quả cho hoạt động thanh toán quốc tế, vì qua hoạt động này nguồn vốn ngoại tệ đáp ứng cho hoạt động thanh toán quốc tế được cung cấp đầy đủ và góp phần bình ổn giá trị cho thị trường trong nước, tạo điều kiện cho hạot động kinh tế trong đó có hoạt động thanh toán quốc tế phát triển, hạn chế được rủi ro xảy ra do tỷ giá.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch NHNT
1. Về phía khách hàng
Như đã trình bày ở trên, một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ, chủ yếu tới thanh toán bằng L/C tại các doanh nghiệp cũng như tại các ngân hàng đó là trình độ năng lực thấp kém của bản thân các doanh nghiệp. Nâng cao nghiệp vụ ngoại thương, đây là một vấn đề luôn được bàn tới khi mà các doanh nghiệp Việt Nam vẫn yếu kém trong các nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán quốc tế. Nếu nâng cao được các nghiệp vụ này thì khả năng hoàn thành tốt hợp đồng và thu được lợi nhuận là rất rõ ràng và có thể nâng cao được uy tín của chính các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này. Mục đích kinh doanh chính là lợi nhuận, tuy nhiên lời khuyên cho các doanh nghiệp là nên lựa chọn kỹ càng các hợp đồng làm ăn, sao cho phù hợp với khả năng của họ, phải có đủ thông tin về hợp đồng, tránh những rủi ro bất thường, không nên mạo hiểm đánh đổi lợi nhuận với rủi ro cao, nên đưa yếu tố an toàn lên hàng đầu, có thể xin phép ý kiến đóng góp từ phía ngân hàng để có những quyết định hợp lý.
Ngoài ra, thận trọng lựa chọn đối tác phù hợp luôn là điều kiện tiên quyết cho các giao dịch thành công, và ngân hàng luôn khuyến cáo các khách hàng như vậy. Các thông tin về đối tác cần thu thập cho đầy đủ, giảm giao dịch trung gian, tăng cường công tác tìm hiểu thị trường để có kế hoạch kinh doanh hợp lý.
Các doanh nghiệp dù có kinh nghiệm trong buôn bán thì vẫn phải cần đến tư vấn của các tổ chức có liên quan để tránh gian lận, lừa đảo có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu.
Thông qua các ngân hàng đại lý, đại diện của Việt Nam ở nước ngoài để tìm hiểu sâu về đối tác nhất là các thông tin về khả năng tài chính, tư cách đạo đức trong kinh doanhđể lựa chọn được các đối tác kinh doanh tốt, mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cũng có thể thông qua hệ thống ngân hàng để biết được nên lựa chọn phương thức thanh toán như thế nào cho phù hợp với mình và với đối tác sao cho có lợi cho mình hơn, nên lựa chọn giao hàng như thế nào, điều kiện bảo hiểmCó như vậy doanh nghiệp sẽ hoạt động hiệu quả hơn, việc thanh toán L/C cũng an toàn hơn.
Về phía ngân hàng
Bên cạnh những đổi mới mang tính tất yếu của NHNT, Sở giao dịch cũng cần có những động thái tích cực hơn nữa nhằm hỗ trợ và thu hút khách hàng đến với mình, xin đưa ra một số ý kiến như sau:
Đầu tư công nghệ tiên tiến
Công nghệ luôn là chìa khoá mở ra những thành công mới, và trong hoạt động ngân hàng cũng vậy, việc áp dụng những công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển. Sở giao dịch NHNT cần tăng cường hoàn thiện, củng cố, xây dựng hệ thống máy móc kỹ thuật, phần mềm vi tính, công nghệ hiện đại hướng đến tự động hoá, đạt chuẩn thế giới. Đồng thời nâng cao trình độ áp dụng công nghệ cho cán bộ hoạt động chủ chốt trong hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và các bộ phận chức năng nói chung. Nếu đạt được như vậy thì có thể tin chắc rằng hoạt động thanh toán bằng L/C sẽ diễn ra trôi chảy, dễ dàng.
Nâng cao chất lượng nghiệp vụ trong thanh toán
Cán bộ thanh toán cần liên tục trau dồi nghiệp vụ, nắm vững các quy định cụ thể như UCP 600 và bám sát quy trình thanh toán mà NHNT đề ra. Sở giao dịch nên tổ chức các buổi thảo luận, học tập, rút kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng và ngân hàng bạn để có thể nâng cao các nghiệp vụ liên quan như các nghiệp vụ vận tải, bảo hiểmChú trọng cập nhật các thông tin và quy định cuả pháp luật về xuất nhập khẩu. Có như vậy, ngân hàng mới có thể phát triển được nghiệp vụ thanh toán, hạn chế rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu.
Phát triển bộ phận quản lý rủi ro
Bộ phận quản lý rủi ro là bộ phận lưu trữ, khai thác, cung cấp thông tin về các vụ lừa đảo, tranh chấp trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam. Cần phát triển hơn nữa bộ phận này, với việc hoàn thiện mạng thông tin đầy đủ, chính xác với các bộ, ban ngành, với các ngân hàng Việt Nam, với các doanh nghiệp. Từ đó, có thể hướng dẫn và tư vấn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, việc cung cấp thông tin này không chỉ hạn chế rủi ro mà còn đem lại cho NHNT nguồn thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng.
Trang bị mạng thông tin khách hàng đầy đủ
Mạng thông tin khách hàng là một yếu tố quan trọng quyết định cách thức đáp ứng nhu cầu của mỗi nhóm khách hàng, và hoạt động này đã và đang được thực hiện tại NHNT. Các thông tin về tình hình kinh doanh của khách hàng, tình hình tài chính, công nợ, mua bán ngoại tệ, chiết khấu, và cả các thông tin về hàng hoá, giá cả sẽ cung cấp cho ngân hàng một cơ sở để tiến hành hoạt động thanh toán quốc tế có hiệu quả.
Kết hợp các nghiệp vụ ngân hàng
Nên kết hợp chặt chẽ các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ để tạo ra một chu trình khép kín, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp lại giúp ngân hàng đẩy mạnh tín dụng, tăng doanh số thanh toán và mua bán ngoại tệ. Thực hiện tốt công tác này, NHNT sẽ phát huy được thế mạnh trong thanh toán quốc tế, phát triển các loại hình kinh doanh như SWAP, hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn
III. Một số kiến nghị
Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan chức năng
- Ổn định môi trường kinh tế và các chính sách vĩ mô
Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật thiết với thị trường tài chính, chỉ khi kinh tế phát triển, lạm phát được kiềm chế, giá trị đồng nội tệ được ổn định thì doanh nghiệp mới an tâm, tin tưởng tham gia vào đầu tư trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác. Quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp càng phát triển thì hoạt động thanh toán quốc tế sẽ càng sôi động hơn.
Hiện nay, hệ thống chính sách của Việt Nam vẫn chưa ổn định và hàng năm vẫn còn phải sửa đổi, bổ sung. Tuy những sửa đổi bổ sung đó không tạo ra những biến động lớn nhưng lại gây tâm lý hoang mang đối với ngân hàng và các doanh nghiệp. Như vậy, hoạt động kinh doanh của ngân hàng và các doanh nghiệp mất đi tính ổn định và khó định hướng trước. Nếu hệ thống chính sách, chế độ pháp lý của Việt Nam được hoàn thiện và ổn định sẽ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện và ổn định của nền kinh tế nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng.
- Hoàn thiện hành lang pháp lý về hoạt động thanh toán quốc tê
Hiện nay trong thanh toán quốc tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn đang áp dụng các quy tắc chung về thanh toán quốc tế của thế giới mà chưa xây dựng được hệ thống luật cho riêng mình. Do vậy, việc nghiên cứu, ban hành các văn bản pháp lý quy định, hướng dẫn thanh toán quốc tế đối với Việt Nam là rất cần thiết không chỉ đối với ngân hàng mà còn là cơ sở pháp lý để toà án, trọng tài làm căn cứ khi xét xử các vụ tranh chấp trong thương mại quốc tế.
Rõ ràng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động thanh toán quốc tế, như các điều luật và quy định thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, cũng như các văn bản quy định thông thoáng hơn hoạt động của ngân hàng và các doanh nghiệp. Các văn bản này cần phù hợp với đường lối phát triển của đất nước và thúc đẩy sự tham gia hoạt động thanh toán quốc tế của các thành phần kinh tế, đặc biệt phải đảm bảo được quyền lợi của các chủ thể này cũng như tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính hoạt động có hiệu quả hơn.
Đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và quan hệ với rất nhiều nước thành viên sẽ vô cùng phát triển, điều này đặt ra nhu cầu đa dạng hoá các loại ngoại tệ và các phương thức thanh toán quốc tế trong thị trường và đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước ban hành các quy định phù hợp.
- Hỗ trợ hiện đại hoá công nghệ thanh toán ngân hàng
Đây là kế hoạch mang tính dài hạn, một chiến lược phát triển tổng quát nên chỉ riêng ngành ngân hàng không thể thực hiện được mà cần phải có sự đầu tư hỗ trợ của Chính phủ. Chính phủ cần phải quản lý, giám sát chặt chẽ, thẩm định chính xác các chương trình đầu tư cũng như các hợp đồng mua bán công nghệ trang thiết bị với nước ngoài để tránh gây lãng phí nguồn ngoại tệ của quốc gia.
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là một kế hoạch lâu dài nên yêu cầu đặt ra phải có đội ngũ các nhà khoa học có khả năng tự thiết kế, cải toạ các hệ thống công nghệ hợp lý. Để làm được như vậy, ngay từ bây giờ Chính phủ cần phải có kế hoạch điều chỉnh cơ cấu đào tạo các chuyên ngành khoa học cơ bản cũng như các chính sách hỗ trợ khuyến khích các đề án nghiên cứu khoa học mang tính khả thi cao.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
- Ngân hàng nhà nước cần có chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt
Những biến động về tỷ giá hối đoái có tác đôngh trực tiếp tới hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại. Những năm gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã có sự đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng sát với diễn biến cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, góp phần thu hẹp chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống văn bản dưới luật
Vì là cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nên việc ban hành các văn bản dưới luật của Ngân hàng Nhà nước cần phải nhanh chóng, kịp thời để triển khai thực hiện có hiệu quả Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng. Nội dung của các văn bản này phải đảm bảo sự rõ ràng, linh hoạt, sát với tình hình thực tế để tạo thuận lợi cho việc áp dụng, nếu không trong quá trình thực thi sẽ gây khó khăn cho các đối tượng chịu sự điều chỉnh của chúng.
Ngân hàng nhà nước cần ban hành thêm một số văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể về thực hiện L/C trong toàn hệ thống, về chiết khấu chứng từđặc biệt là UCP có phiên bản mới UCP 600. Chẳng hạn, đối với nghiệp vụ chiết khấu, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định 1325/2004/QĐ-NHNN về quy chế chiết khấu và tái chiết khấu chứng từ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Tuy nhiên Quyết định này chỉ đề cập tới chứng từ có giá, còn chiết khấu chứng từ hàng hoá vẫn là khoản trống trong các văn bản của Ngân hàng Nhà nước.
Tổ chức hội thảo, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm giữa các ngân hàng trong và ngoài nước
Trong nền kinh tế phát triển năng động và hiện đậingỳ nay, thông tin và kinh ngiệm là những nhân tố rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, đặc biệt là thanh toán L/C. Ngân hàng nhà nước nên tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo cho đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế giữa các ngân hàng với nhau, đặc biệt là với các ngân hàng nước ngoài để cùng trao đổi, rút ra những bài học kinh nghiệm và giải quyết những vấn đề còn vướng mắc trong hoạt động thanh toán quốc tế. Ngoài ra, thông qua các buổi hội thảo, tập huấn đội ngũ cán bộ sẽ có thêm những thông tin hữu ích phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ của mình.
Nâng cao vai trò quản lý đối với toàn hệ thống ngân hàng thương mại
Để thực hiện có hiệu quả quy chế hiện hành về quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường những văn bản quy định trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát chứng từ đối với việc chuyển tiền ra nước ngoài. Tuy nhiên, không nên để ra những quy định quá cụ thể trong quy chế quản lý ngoại hối vì không thể liệt kê đầy đủ các giao dịch phát sinh để đưa vào quy chế. Chẳng hạn, ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc thanh toán đối với nhũng hàng hoá đặt mua qua mạng Internet vì mua theo hình thức này thường không có hợp đồng thương mại, hoá đơn, tờ khai hải quan
Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ cảu ngân hàng thương mại, trong đó có hoạt động thanh toán L/C, từ đó có thể phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những nguy cơ rủi ro trong hoạt động thanh toán L/C của các ngân hàng thươngmại.
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
- Hoàn thiện các chương trình ứng dụng công nghệ ngân hàng trong thanh toán quốc tế
NHNT là ngân hàng luôn đi đầu trong việc áp dụng các công nghệ ngân hàng tiên tiến ở Việt Nam. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập quốc tế về ngân hàng hiện nay - đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập sân chơi lớn WTO, việc ứng dụng công nghệ ngân hàng càng trở nên quan trọng.
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đòi hỏi NHNT phải có một nguồn vốn quỹ phát triển công nghệ đủ lớn; sự năng động của ban lãnh đạo ngân hàng trong đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại; đào tạo chuyên gia tin học và đội ngũ cán bộ chuyên môn thành thạo về tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ.
Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới
Trong thời gian tới, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, NHNT cần phải mở rộng thêm nhiều mối quan hệ đại lý và tiến tới thiết lập các văn phòng đại diện, các chi nhánh tại những nước có quan hệ thương mại lớn. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến các khu vực thị trường mới, nhiều tiềm năng như Bắc Phi
Tuy nhiên, NHNT Việt Nam cũng cần phải chú ý đến thay đổi hệ thống ngân hàng đại lý theo xu hướng cắt giảm số lượng ngân hàng có quan hệ tài khoản. Việc cắt giảm này sẽ giúp NHNT tránh được tình trạng dàn trải vốn, quản lý tập trung và xử lý hoạt động dễ dàng hơn.
4. Kiến nghị với Sở giao dịch NHNT
Nhằm nâng cao tỷ trọng dịch vụ trong tổng thu của Sở giao dịch nói chung của hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt là thanh toán L/C đang được sử dụng rộng rãi, xác định các khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
Phòng quan hệ khách hàng của Sở giao dịch cần xây dựng chính sách khách hàng năng động, bài bản để củng cố, duy trì lượng khách hàng cũ và lôi kéo thêm các khách hàng mới. Đối với khách hàng có giao dịch thanh toán L/C mang lại nguồn thu ngoại tệ cho ngân hàng cần có chế độ chăm sóc đặc biệt hơn, tạo điều kiện cho vay vốn hàng xuất khẩu.
Đa dạng hoá các sản phẩm tài trợ thương mại để cung cấp cho khách hàng, tạo sự gắn kết giữa khách hàng và ngân hàng.
Tổ chức các hội thảo chuyên đề với khách hàng để có dịp trao đổi kinh nghiệm, giúp khách hàng hiểu hơn về các dịch vụ ngân hàng và ngân hàng có thể phục vụ khách hàng tốt hơn.
Cán bộ thanh toán quốc tế cần được đào tạo thêm về công tác thẩm định khách hàng để thực thi được các Quyết định của Ngân hàng Nhà nước và NHNT về mở L/C và chiết khấu chứng từ
Việc xây dựng biểu phí dịch vụ ngân hàng cần mang tính cập nhật đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Hoàn thiện hệ thống chương trình phần mềm công nghệ, để chương trình hỗ trợ thanh toán viên hơn nữa trong việc thực hiện các giao dịch, hạn chế tối đa trường hợp phải nhập số liệu bằng tay vừa tiết kiệm thời gian, vừa tránh sai sót
5. Kiến nghị đối với khách hàng
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chính là những khách hàng thường xuyên của ngân hàng, đặc biệt là trong quan hệ thanh toán quốc tế. Vì vậy để hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch nói riêng, tại NHNT nói chung diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả cao, các doanh nghiệp cũng cần phải có sự quan tâm thích đáng đối với hoạt động này.
Doanh nghiệp nên thường xuyên cử cán bộ của mình tới các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, tham gia các hội thảo nghiên cứu về luật và các thông lệ quốc tế liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế, trong đó có thanh toán L/C. Ngoài ra có thể tự tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia thanh toán quốc tế có trình độ chuyên môn cao nhằm giúp đỡ, giải đáp những thắc mắc, nâng cao inh nghiệm thực tế của nhân viên.
Có chính sách đãi ngộ với các cán bộ có năng lực, có chế độ thưởng phạt công bằng hợp lý nhằm khuyến khích, động viên cán bộ học hỏi, trao đổi kiến thức, hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ bản thân.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng cần có biện pháp khắc phục tình trạng thiếu thông tin về các đối tác nước ngoài khi tham gia vào thương mại quốc tế bằng cách tích cực thu nhập thông tin từ nhiều nguồn như: báo, mạng internet, qua các mối quan hệ của doanh nghiệp với đối tác. Ngoài ra các doanh nghiệp có thể tóong qua các ngân hàng phục vụ mình, qua phòng thương mại, công ty tư vấnđể tìm kiếm, bổ sung thông tin về tình hình tài chính, uy tín trong kinh doanh, tính hợp pháp trong hoạt động của đối tác, đặc biệt là những đối tác có quan hệ lần đầu.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng phải nghiên cứu kỹ những tư vấn của ngân hàng để yêu cầu phía đối tác tu chỉnh ngay những điều khoản bất lợi cho mình trong thanh toán L/C. Khi xảy ra tranh chấp hay bất đồng, doanh nghiệp nên phối hợp với ngân hàng để tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
Kết luận:
Với hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Ngân hàng Ngoại thương đã vươn lên và trở thành một trong những ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất tại Việt Nam. Thương hiệu và uy tín đã giúp cho Ngân hàng Ngoại thương cung cấp được các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đạt được thị phần lớn trong các mảng như kinh doanh thẻ, thanh toán xuất nhập khẩu, tín dụng, kinh doanh ngoại tệcho các doanh nghiệp ngân hàng chủ chốt và hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để luôn khẳng định vị thế và đạt đựơc những kết quả trên, Ngân hàng Ngoại thương đã đưa ra các mục tiêu phương hướng rõ rang qua từng năm và luôn phấn đấu để đạt được những mục tiêu đó. Ngân hàng Ngoại thương luôn tạo nguồn lực vững mạnh, chuyên môn giỏi; ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại; nâmg cao năng lực tài chínhvà tham gia các hoạt động kinh tế xã hội; luôn quan tâm đến đội ngũ cán bộ, nhân viên, hướng cho họ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Phát huy truyền thống của NHNT Việt Nam cũng như giữ vững, nâng cao uy tín chất lượng phục vụ tại Sở giao dịch trong hoạt động ngân hàng nói chung, công tác thanh toán nói riêng mà đặc biệt là phương thức thanh toán L/C, Sở giao dịch NHNT đề ra những phương hướng phát triển như sau:
Tiếp tục bám sát định hướng phát triển của NHNT Việt Nam cũng như định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong những năm tiếp theo.
Duy trì thế mạnh trong thanh toán xuất nhập khẩu, phấn đấu giữ vững thị phần và nâng cao hơn nữa.
Thúc đẩy nhanh tiến trình áp dụng Quy trình thanh toán xuất nhập khẩu theo hình thức tín dụng chứng từ và nhờ thu chứng từ trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 40/QĐ/NHNT-THTT ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Cùng với lỗ lực của Sở giao dịch NHNT, đồng thời với sự hỗ trợ từ phía NHNT và Chính phủ hy vọng Sở giao dịch NHNT Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu đề ra.
Trên đây là bài viết: “Lý luận và thực tiễn áp dụng thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch NHNT”. Do thời gian tìm hiểu thực tế, điều kiện thực tế và dung lượng có hạn, lại do sự hạn chế về trình độ lý luận, kinh nghiệm thực tiễn của bản thân nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7695.doc