Đánh giá
Nhận thực được những hạn chế trong mô
hình tố tụng của mình, Trung Quốc đã có những
chiến lược rõ ràng nhằm thay đổi minh bạch tư
pháp bên trong lẫn bên ngoài. Mặc dù vẫn đi
theo mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng Trung
Quốc đang dùng nhiều cách thức, từng bước
cân bằng quyền lực giữa hai bên truy tố lẫn bên
gỡ tội để phù hợp với mô hình tố tụng mà
Trung Quốc đang theo đuổi. Hiểu được minh
bạch hóa là một trong những phương thức để
đạt được mục tiêu đó cũng như lấy lại niềm tin
của công chúng vào công lý, sửa đổi, bổ sung
luật tố tụng hình sự cũng như ban hành một loạt
các quy định nhằm củng cố quyền lợi cho bị
cáo và người bào chữa; thúc đẩy công khai các
thông tin về quá trình xét xử, hồ sơ vụ án điện
tử trên internet; cải thiện hơn nữa phạm vi công
khai các thông tin về tòa án và nỗ lực công bố
thông tin một cách kịp thời, toàn diện là những
chiến lược chính được Trung Quốc đặt ra nhằm
tăng minh bạch tư pháp nói chung và minh bạch
trong xét xử vụ án hình sự nói riêng.
Nghiên cứu về minh bạch tư pháp trong lĩnh
vực hình sự ở ba quốc gia: Anh, Hoa kỳ, Trung
quốc có thể sẽ rút ra những kinh nghiệm cho
Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp
hướng tới công khai, minh bạch trong hoạt
động xét xử hình sự.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Minh bạch tư pháp trong lĩnh vực hình sự ở một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”[2], bài viết này sẽ đề cập đến minh bạch tư pháp trong
lĩnh vực hình sự và giới thiệu kinh nghiệm của một số quốc gia: Vương quốc Anh, Hoa kỳ và
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về minh bạch tư pháp trong lĩnh vực hình sự mà Việt Nam có thể
tiếp thu.
Từ khóa: Minh bạch tư pháp, đánh giá minh bạch tư pháp, tố tụng hình sự, kinh nghiệm minh bạch
tư pháp. tư pháp hình sự.
1. Minh bạch và đánh giá minh bạch tư pháp
trong lĩnh vực hình sự *
1.1. Minh bạch tư pháp trong lĩnh vực hình sự
Theo quan niệm phổ quát trên thế giới thì tư
pháp là một nhánh quyền lực nhà nước, độc lập,
đối trọng với quyền lập pháp và hành pháp tạo
thành thế chân kiềng trong việc thực hiện hiện
quyền lực nhà nước. Đại diện cho quyền tư
pháp là tòa án với chức năng chủ yếu, quan
trọng nhất là xét xử, trong cuốn "Tinh thần
pháp luật", Montesquieu nhận định: “Quyền tư
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: nguyenngocchi57@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4320
pháp bao gồm xét xử hành vi vi phạm pháp luật
để bảo đảm quyền tự do và quyền con người và
do đó phải được trao cho một thiết chế riêng rẽ
đó là Tòa án” [3]. Chia sẻ cách tiếp cận này,
GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Quyền tư
pháp được hiểu là khả năng và năng lực riêng
có của Tòa án trong việc thực hiện thẩm quyền
xét xử và các thẩm quyền khác theo phương
thức nhất định để tác động đến hành vi của con
người và các quá trình phát triển xã hội” [4].
Do đó, khi đề cập đến minh bạch tư pháp sẽ
được hiểu là minh bạch đối với hoạt động xét
xử của tòa án, chứ không đề cập đến hoạt động
điều tra, truy tố hay hoạt động thi hành án như
quan niệm của Việt Nam. Với cách tiếp cận thì
minh bạch trong xét xử vụ án hình sự sẽ bao
gồm các nội hàm sau: i) Minh bạch trong xét xử
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
18
vụ án hình sự đòi hỏi hình thành hệ thống quy
phạm rõ ràng, chặt chẽ về quy trình xét xử với
các nguyên tắc, trình tự, thủ tục xét xử, quyền
và nghĩa vụ của Hội đồng xét xử và các chủ thể
có liên quan... dựa trên các chuẩn mực quốc tế
được thừa nhận chung và phù hợp với thực tiễn.
Đây là yếu tố có tính chất tiền đề của minh bạch
tư pháp, là sự bảo đảm pháp lý về tính minh
bạch tư pháp trong xét xử vụ án hình sự, nó tạo
ra hành lang pháp lý cũng như làm cơ sở cho
việc đánh giá tính minh bạch trong xét xử vụ án
hình sự; ii) Hoạt động xét xử được tiến hành
công khai. Đây là yếu tố cốt lõi, tức là mọi hoạt
động trong quá trình xét xử của Tòa án phải
được tiến hành với sự tham dự của công dân, tổ
chức, trừ trường hợp đặc biệt do luật định; mọi
người đều có thể tham dự phiên tòa, xem trực
tiếp những diễn biến tại phiên tòa và tiếp cận
thông tin một cách bình đẳng, kịp thời, đáng tin
cậy, chính xác. Ở đây, tính minh bạch trong xét
xử vụ án hình sự không những được bảo đảm ở
sự rõ ràng mà còn đòi đòi hỏi phải công khai
đối với mọi hoạt động xét xử của tòa án, bảo
đảm khả năng tiếp cận thông tin liên quan đến
quá trình xét xử vụ án hình sự của mọi công
dân, tổ chức, xã hội; iii) Tính minh bạch trong
xét xử vụ án hình sự có mối quan hệ và là một
bảo đảm cho các nguyên tắc của TTHS được
thực thi, nhất là đối với các nguyên tắc như:
Tranh tụng, độc lập trong xét xử, bảo đảm sự vô
tư, khách quan trong trong hoạt động xét xử
hình sự, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào
chữa...; iv) Minh bạch trong xét xử vụ án hình
sự không chỉ đề cập đến sự sẵn có thông tin về
quá trình xét xử vụ án hình sự mà còn về kết
quả của quả trình đó. Việc công khai bản án,
quyết định của Tòa án ngoài lúc tuyên án công
khai thì còn phải được công khai trên các kênh
thông tin chính thống của Tòa án để người dân
dễ dàng tiếp cận và chấp nhận sự giám sát xã
hội. Với các nội hàm nêu trên, có thể hiểu:
Minh bạch trong xét xử vụ án hình sự là sự rõ
ràng, công khai các hoạt động xét xử và thông
tin liên quan một cách kịp thời, chính xác, đáng
tin cậy, bình đẳng cho các bên và công chúng
trừ những vấn đề thuộc danh mục bí mật của
nhà nước do pháp luật quy định nhằm bảo đảm
cho phiên tòa diễn ra vô tư, công bằng, khách
quan cũng như quyền, lợi ích của các bên tham
gia tố tụng và công chúng.
1.2. Đánh giá minh bạch tư pháp
Tính minh bạch trong hoạt động xét xử vụ
án hình sự cần phải được đánh giá, do vậy, bên
cạnh việc quy định trong pháp luật các quốc gia
còn thiết lập cơ chế đánh giá với các căn cứ và
tiêu chí đánh giá tính minh bạch trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự. Tính minh bạch
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự là việc xác
định mức độ minh bạch được thể hiện trong quy
định của pháp luật và thực tiễn hoạt động xét xử
của tòa án thông qua các căn cứ, tiêu chí nhất
định của cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành
đánh giá. Đánh giá tính minh bạch trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự là đòi hỏi khách quan
của thực tiễn giải quyết vụ án cũng như đòi hỏi
của việc kiểm soát thực hiện quyền lực tư pháp
thông qua hoạt động xét xử vụ án án hình sự
của toàn án. Nếu như tính minh bạch trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự đã được thể hiện
trong hệ thống pháp luật thì sẽ đòi hỏi sự kiểm
tra, đánh giá mức độ minh bạch được thể hiện
như thế nào trong thực tiễn xét xử, đồng thời
thông qua đó cũng đánh giá được mức độ thỏa
mãn các yêu cầu về tính minh bạch trong hoạt
động xét xử của xã hội đối với hệ thống pháp
luật. Nói cách khác, việc đánh giá tính minh
bạch trong hoạt động xét xử vụ án hình sự cần
phải được tiến hành trên hai phương diện, đó là
mức độ minh bạch được thể hiện trong các hệ
thống pháp luật TTHS và mức độ đạt được về
tính minh bạch trong thực tiễn hoạt động xét xử
của tòa án. Trên cả hai phương diện này, khi
tiến hành đánh giá cần phải dựa trên các căn cứ,
tiêu chí nhất định làm cơ sở sở và lập luận cho
việc đánh giá. Theo tiếp cận của Liên Hợp
Quốc thì: “Minh bạch xét xử là một giá trị quan
trọng thường được nói gọn là “không những
công lý phải được thực thi, mà công lý phải
được nhìn thấy là đã được thực thi”. Minh bạch
xét xử cũng được công nhận là một nguyên tắc
quan trọng trong các tài liệu nhân quyền quốc
tế, trong đó xác định quyền được xét xử công
khai và thông báo công khai về bản án là một
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
19
trong những nền tảng của quyền được xét xử
công bằng” [5].
2. Minh bạch tư pháp trong lĩnh vực hình sự
ở một số quốc gia trên thế giới
2.1. Minh bạch tư pháp trong xét xử vụ án hình
sự theo pháp luật tố tụng hình sự Anh
2.1.1. Những quy định pháp luật trong tố
tụng hình sự Anh
Ở Vương quốc Anh, khác với các quốc gia
lớn khác trên thế giới là không có một bản hiến
pháp thành văn và cũng không có những bộ luật
chứa đựng những quy phạm pháp luật để điều
chỉnh lĩnh vực quan hệ xã hội đặc thù nào mà
án lệ - đặc trưng của hệ thống pháp luật Thông
luật nói chung và của pháp luật nước Anh nói
riêng, là nguồn chủ yếu và quan trọng, được
dẫn chiếu khi xét xử. Bên cạnh án lệ còn có các
nguồn khác trong hệ thống pháp luật ở Anh như
pháp luật thành văn, tập quán pháp luật, các học
thuyết pháp lý, các nguyên tắc công bình và luật
hợp lý. Với điểm đặc thù như vậy đã góp phần
làm tăng tính minh bạch trong nền tư pháp của
Anh nói chung và trong xét xử vụ án hình sự
của Anh nói riêng. Là một nước điển hình cho
mô hình tố tụng tranh tụng với tinh thần cốt lõi
là tính công bằng, các yếu tố như xét xử bằng
lời nói, thẩm tra chéo nhân chứng, nguyên tắc
đối tụng công bằng, nguyên tắc suy đoán vô tội,
xét xử với bồi thẩm đoàn rất được coi trọng ở
Anh góp phần giúp phiên tòa hình sự được xét
xử minh bạch, công khai, nhanh chóng hơn.
Minh bạch trong xét xử vụ án hình sự trong
pháp luật TTHS Anh chủ yếu được thể hiện
bằng cơ chế công bố thông tin. Tuy nhiên,
nghĩa vụ công bố thông tin trước đây không
thực sự ăn sâu vào truyền thống pháp lý của
Anh. Cách đây vài thế kỉ, người bị buộc tội ở
Anh bị giam giữ cho tới khi phiên tòa được mở
mà không có cơ hội để chuẩn bị cho việc biện
hộ cho mình trước tòa, người bị buộc tội không
thể gọi nhân chứng làm chứng cho mình và
phải xuất hiện trước tòa mà không có luật sư
bào chữa khi bị buộc tội phản quốc hay tội
nghiêm trọng như giết người. Cho đến giữ thế
kỉ XIX, những thay đổi trong thủ tục TTHS mới
diễn ra theo chiều hướng có lợi cho người bị
buộc tội [6, 256]. Đến năm 1996, nghĩa vụ công
bố thông tin mới bắt đầu được đưa vào luật
định, được quy định tại Luật điều tra và tố tụng
hình sự của Anh và được hướng dẫn sửa đổi, bổ
sung trong một số văn bản như: Quy định
chuyên môn (the Code of Practice), được ban
hành theo Phần II của Đạo luật Điều tra và Tố
tụng Hình sự năm 1996; Nghị định thư tư
pháp về việc tiết lộ tài liệu không sử dụng
trong các vụ án hình sự (Judicial Protocol on
the Disclosure of Unused Material in
Criminal Cases); Hướng dẫn chung về tiết lộ
của luật sư 2013 (Attorney General’s
guidelines on disclosure 2013); Quy tắc tố
tụng hình sự phần 15 (Criminal Procedure
Rules Part 15) [7], Theo các văn bản này
thì minh bạch trong xét xử vụ án hình sự có
thể khái quát trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, tiết lộ của công tố viên: Ở Anh,
trước đây, việc tiết lộ thông tin được áp dụng
trong xét xử nhưng chỉ được tiến hành trên cơ
sở tiết lộ tất cả các tài liệu, chứng cứ có liên
quan đến vụ án của bên công tố. Theo tiến trình
phát triển tư pháp, nghĩa vụ này đã được phát
triển rộng hơn, ngoài những chứng cứ được sử
dụng, bên công tố phải công bố tất cả các tài
liệu có lợi cho đối phương dù không có ý định
sử dụng nhưng có thể hỗ trợ cho việc bào chữa
và được quy định rải rác trong Luật điều tra và
tố tụng hình sự của Anh năm 1996. Công tố
viên và luật sư sẽ tiết lộ, trao đổi, thảo luận với
nhau về các chứng cứ mình có được. Bên công
tố sẽ phải công bố danh mục các chứng cứ hay
nhân chứng mà các bên dự kiến đưa ra tại phiên
xét xử sơ bộ. Các chứng cứ có thể được sử dụng
tại phiên tòa trong Luật điều tra và tố tụng hình
sự của Anh năm 1996 được quy định rất chặt
chẽ. Tòa án sẽ xem xét các tiêu chí để đánh giá
các tài liệu, chứng cứ đó có được công bố hay
không. Công tố viên sẽ phải có trách nhiệm
chứng minh bị cáo là có tội khi không có cơ sở
nào để nghi ngờ, nếu không, Thẩm phán sẽ
tuyên bị cáo là vô tội chứ không có quyền yêu
cầu điều tra tiếp hoặc trả hồ sơ yêu cầu điều tra
bổ sung. Cụ thể tại Điều 3, Điều 4, Điều 7, Điều
9 đạo luật này đã quy định một loạt nghĩa vụ
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
20
tiết lộ của công tố viên, trong đó nêu rõ công tố
viên phải “tiết lộ cho bị can biết bất kì tài liệu
truy tố nào mà trước đó chưa tiết lộ cho bị can
và theo quan điểm của công tố viên có thể làm
giảm nhẹ việc truy tố bị can”. Bên cạnh đó, hậu
quả pháp lý của việc không thực hiện nghĩa vụ
tiết lộ thông tin cũng được quy định rõ ràng.
Điều này có ý nghĩa rất lớn đến các hoạt động
bào chữa của bị cáo, không chỉ đảm bảo rằng
việc truy tố và hoạt động bào chữa của luật sư,
bị cáo được chuẩn bị tốt hơn cho giai đoạn tiền
xét xử, mà còn rút ngắn thời gian xét xử của
phiên tòa, đồng thời góp phần giúp phiên tòa
được diễn ra hiệu quả, thuận lợi.
Thứ hai, tiết lộ của bị can: Trước năm
1996, không có quy định rõ ràng nào về nghĩa
vụ tiết lộ trước khi xét xử của bị can. Bị can có
quyền im lặng và không có nghĩa vụ phải thông
báo trước cho công tố viên về các chứng cứ liên
quan đến việc gỡ tội, trừ trường hợp có chứng
cứ ngoại phạm hoặc khi có chứng cứ được cung
cấp bởi các chuyên gia (giám định). Lần đầu
tiên, tại Luật điều tra và tố tụng hình sự của
Anh năm 1996 quy định về tiết lộ bắt buộc và
tình nguyện tiết lộ của bị can được ra đời. Điều
5, Điều 6 Đạo luật này nêu rõ trình tự thủ tục và
các trường hợp bị can phải đưa hoặc có thể đưa
lời bào chữa cho toà án và công tố viên. Tất cả
những gì họ cần tiết lộ là thông tin về bản chất
vụ án của bị cáo. So với bên công tố, phạm vi
tiết lộ của bị cáo hẹp hơn nhiều. Tất cả những
gì họ cần tiết lộ là thông tin về liên quan vụ án
được trình bày trong bản bào chữa. Nội dung cụ
thể của bản bào chữa bao gồm: diễn đạt bằng
ngôn ngữ thông thường bản chất của lời bào
chữa của bị can, các vấn đề mà bên bào chữa và
công tố viên có sự khác biệt, lý do cho sự khác
biệt giữa bào chữa và công tố viên. Nếu bị can
tiết lộ một bằng chứng ngoại phạm thì phải giải
thích cặn kẽ chứng cứ ngoại phạm trong lời bào
chữa, chẳng hạn như tên và địa chỉ của bất kì
nhân chứng nào mà bị can tin rằng có thể đưa ra
chứng cứ hỗ trợ cho lời bào chữa ngoại phạm,
nếu bị can biết tên và địa chỉ của nhân chứng
khi đưa ra lời bào chữa hoặc thông tin có thể hỗ
trợ để tìm ra nhân chứng đó trong trường hợp bị
can không biết tên hoặc địa chỉ. Tuy nhiên,
không có quy định nào yêu cầu bên bào chữa
phải đưa ra những bằng chứng mà họ không có
ý định sử dụng trong phiên tòa cho công tố
viên. Việc này xuất phát từ tính bình đẳng giữa
các bên trong hoạt động tố tụng hình sự cũng
như yêu cầu hợp tác để hoạt động tranh tụng
được diễn ra bình thường bởi khả năng thu thấp
chứng cứ của công tố viên và người bào chữa là
không giống nhau. Như vậy, Đạo luật Điều tra
và Tố tụng Hình sự năm 1996 ra đời đã tăng
nghĩa vụ của bị can về hoạt động tiết lộ bằng
chứng cho bên công tố và cũng đưa ra các
quy định rõ ràng về hậu quả bất lợi mà bên
bào chữa gặp phải khi vi phạm nghĩa vụ này.
Theo cách này, hoạt động công bố bằng
chứng trong tố tụng hình sự của Anh đã thay
đổi từ một bên sang cả hai bên và được quy
định rõ ràng trong luật.
2.1.2. Thực tiễn thi hành luật tố tụng hình
sự Anh về minh bạch trong xét xử vụ án hình sự
Mô hình tố tụng tranh tụng với sự đảm bảo
bên buộc tội và bên bào chữa có địa vị pháp lý
ngang bằng nhau trong quá trình đi tìm sự thật
khách quan của vụ án ở Anh là yếu tố đầu tiên
và đóng vai trò quan trọng trong con đường tìm
kiếm tính minh bạch tư pháp ở Anh. Bởi sự
ràng buộc về sự tham gia của luật sư bào chữa,
cơ chế tiết lộ thông tin, sự tự do trong việc thu
thập chứng cứ và tranh tụng trực tiếp của các
bên đã làm tăng sự vô tư, khách quan khi Tòa
án đưa ra phán quyết. Lịch sử tư pháp Anh cũng
cho thấy đất nước này đã không ngừng nỗ lực
đưa sự tự chủ và tạo sự cạnh tranh công bằng
giữa bên truy tố và bên bào chữa, hạn chế mức
thấp nhất sự can thiệp của những người có
quyền quyết định đến mục đích đi tìm sự thật
khách quan của vụ án và chính sự công khai
toàn diện này đã tạo điều kiện cho minh bạch tư
pháp bên trong ở Anh. Bởi vậy, Anh tập trung
cải thiện minh bạch bên ngoài như một lẽ tự
nhiên trong tiến trình phát triển tư pháp. Xã hội
phát triển cùng với nhu cầu giao tiếp ngày càng
lớn, dẫn đến phương tiện phổ biến thông tin và
phương tiện trao đổi thông tin cũng thay đổi so
với xã hội truyền thống. Mong muốn minh bạch
về hoạt động của luật pháp cũng đã thúc đẩy
nhu cầu ngày càng tăng của công dân trong việc
truy cập tự do các tài liệu pháp lý. Tháng 7 năm
2010, Anh đã cung cấp một số lượng lớn các dữ
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
21
liệu thông qua các trang web data.gov.uk và
Police.uk và thành lập một Hội đồng minh bạch
về tội phạm và tư pháp được tổ chức độc lập
gồm các chuyên gia để hỗ trợ tư vấn về tăng
tính minh bạch trong lĩnh vực tội phạm và tư
pháp. Ngày 13/7/2012 Bộ Tư pháp Anh đã công
bố tài liệu mang tên “Công lý nhanh chóng và
chắc chắn: Kế hoạch của chính phủ về cải cách
hệ thống tư pháp hình sự” trong đó có các cam
kết nhằm giúp hệ thống tư pháp hình sự công
chúng tiếp cận dễ dàng hơn.[8] Bên cạnh đó,
các trang web có thể truy cập công khai, miễn
phí như Viện Thông tin Pháp lý Anh và Ailen
(BAILII), tài khoản Twitter của Tòa án tối cao
Vương quốc Anh hay trang chủ của Tòa án tối
cao Vương quốc Anh được coi như là một
thành phần thiết yếu của công lý hiện đại, làm
tăng tính minh bạch cho nền tư pháp của Anh.
Đặc biệt trang web của Tòa án tối cao Vương
quốc Anh được chia thành các phần rõ ràng :
phần thủ tục tố tụng chủ yếu tiết lộ các thủ tục
liên quan đến tranh tụng và cung cấp hướng dẫn
tranh tụng cho công chúng; phần vụ án đã được
giải quyết tiết lộ các vụ án mà Tòa án tối cao đã
kết luận và công dân có thể tham khảo các tài
liệu; phần vụ án nổi bật tiết lộ tình hình của các
vụ án đang chờ xử lý để tạo điều kiện cho công
chúng hiểu được tình hình của các vụ án đang
được tòa án xét xử và phần thông cáo báo chí
tập trung vào những diễn biến mới nhất của tòa
án những trường hợp mới nhất và báo cáo công
việc hàng năm của tòa án đã giúp công dân có
thể thu thập thông tin một cách dễ dàng.[9,
tr.113] Có thể thấy, sự ra đời của phương tiện
truyền thông xã hội đã chứng kiến một sự thay
đổi lớn trong nền tư pháp của Anh cũng như thể
hiện nhu cầu minh bạch tư pháp như một điều
tất yếu. Phương tiện truyền thông xã hội đã cho
phép thông tin được phổ biến nhanh chóng,
rộng rãi và công khai giúp cho những người
liên quan đến vụ án hay công dân quan tâm đến
công lý được tiếp cận thông tin linh hoạt.
2.1.3. Đánh giá
Minh bạch tư pháp ở Anh được đánh dấu
với tư cách là đất nước đầu tiên sử dụng mô
hình tố tụng tranh tụng. Trải qua quá trình lịch
sử tư pháp lâu đời với nhiều thay đổi lớn, đặc
biệt là trong cơ chế tiết lộ thông tin - một trong
những biểu hiện của minh bạch trong xét xử vụ
án hình sự ở Anh. Những quy định về tiết lộ
thông tin lần đầu tiên được ghi nhận trong Luật
điều tra và tố tụng hình sự của Anh đánh dấu
một bước ngoặt lớn trong sự thay đổi trình tự,
thủ tục xét xử vụ án hình sự ở Anh, trở thành
một công cụ giúp cân bằng “cuộc chơi” giữa
bên công tố và bên gỡ tội, đảm bảo thêm quyền
cho bị cáo và người bào chữa, giảm thiểu sự bất
bình đẳng trong vụ án hình sự và những quy
định này đã trở thành một nhiệm vụ, nghĩa vụ
mà bên truy tố phải thực hiện. Nghĩa vụ này đã
góp phần tạo nên minh bạch trong tố tụng hình
sự cũng như nhấn mạnh hiệu quả của mô hình
tố tụng tranh tụng mà Anh đang sử dụng. Bên
cạnh đó, Anh thúc đẩy minh bạch bên ngoài
như là phương tiện giúp Anh lấy lại niềm tin
vào công lý của công chúng bằng một loạt cách
thức sử dụng internet là công cụ hỗ trợ tối ưu.
2.2. Minh bạch trong xét xử vụ án hình sự theo
pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ
2.2.1. Những quy định pháp luật trong tố
tụng hình sự Hoa Kỳ
Hệ thống luật pháp Hoa Kỳ bao gồm có hệ
thống liên bang và hệ thống luật pháp các tiểu
bang, có nghĩa là ngoài hệ thống tư pháp quốc
gia riêng biệt, Hoa Kỳ còn có hệ thống tư pháp
độc lập cho mỗi tiểu bang. Ngoài ra, một số
vùng lãnh thổ liên bang không thuộc tiểu bang,
chẳng hạn như là đặc khu Columbia và các khu
dành riêng cho người bản thổ Mỹ (American
Indian reservation) có hệ thống tòa án riêng.
Nói chung, ở Mỹ, không có một trình tự tố tụng
hình sự thống nhất mà mỗi bang đều có hệ
thống pháp luật riêng nhưng không được trái
với Hiến pháp liên bang. Trong trường hợp có
sự mâu thuẫn giữa luật liên bang và luật bang
hoặc luật địa phương, thì luật liên bang sẽ có
hiệu lực. Không có BLTTHS riêng, nhưng pháp
luật của liên bang Hoa Kỳ điều chỉnh về TTHS
bằng nhiều văn bản như Quy tắc TTHS Liên
bang, Quy tắc tố tụng phúc thẩm liên bang, Quy
tắc của tòa án tối cao.... Có thể thấy, thủ tục tố
tụng hình sự ở Hoa Kỳ đã phát triển rất nhiều
trên cơ sở kế thừa mô hình tố tụng tranh tụng ở
Anh, theo đó, thủ tục tố tụng tại phiên toà phải
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
22
được thực hiện công khai, bằng miệng và tuân
thủ triệt để nguyên tắc tranh tụng, mọi chứng cứ
viết, hồ sơ vụ án của bên buộc tội và bên gỡ tội
đều không được công nhận là chứng cứ. Trong
mô hình này, vai trò của hai bên công tố và luật
sư là bình đẳng, mỗi bên đều quyền và nghĩa vụ
trước pháp luật, bên buộc tội và bên bào chữa
tham gia phiên tòa với tư cách là hai đối thủ có
trách nhiệm chứng minh về sự có tội hay vô tội
của bị cáo, Tòa án giữ vai trò trọng tài trung lập
và có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện cần
thiết để các bên thực hiện chức năng của mình.
Với nét đặc trưng như vậy, mô hình này là biểu
hiện đầu tiên trong việc bảo đảm sự công bằng,
minh bạch trong các hoạt động tố tụng hình sự.
Vì vậy để có cái nhìn bao quát hơn về minh
bạch trong xét xử vụ án hình sự theo pháp luật
THHS Hoa Kỳ, có thể đi từ phân tích các quy
định trong Hiến pháp Mỹ đến các nguyên tắc
liên bang tố tụng hình sự của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ bởi đây là hai văn bản pháp lý quan
trọng, là cơ sở để xây dựng TTHS Hoa Kỳ.
Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ: Hiến
pháp Mỹ năm 1787 gồm lời nói đầu, 7 điều và
27 điều bổ sung sửa đổi, được coi là đạo luật cơ
bản của quốc gia nhằm bảo đảm cho mọi công
dân sinh sống trên lãnh thổ Hoa Kỳ quyền tự do
và những quyền cơ bản khác. Với tinh thần đó,
Tu chính án số 5 trong bản Hiến pháp đã quy
định: “Không một ai bị buộc phải chịu trách
nhiệm về một tội nghiêm trọng hay một tội xấu
xa khác nếu không có sự tường trình và cáo
trạng của Bồi thẩm đoàn, trừ những trường hợp
xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực
lượng dân quân, khi đang thi hành công vụ
trong thời chiến hoặc trong tình trạng cộng
đồng gặp hiểm nguy. Không một ai bị kết án hai
lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng
và thân thể; không một ai bị ép buộc phải làm
chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án
hình sự và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc
tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử
theo đúng luật; không một tài sản tư hữu nào bị
trưng dụng vào việc công mà không được bồi
thường thích đáng” và được khẳng định một
lần nữa tại Tu chính án số 14: “không bang nào
tước bỏ tính mạng, tự do và tài sản của bất kỳ
ai mà không dựa trên trình tự pháp luật công
bằng”. Thủ tục tố tụng hình sự theo Hiến pháp
Mỹ cũng bao gồm quyền được xét xử công
bằng tại Tu chính án số 6 quy định “bị cáo có
quyền được xét xử một cách nhanh chóng và
công khai bởi một Bồi thẩm đoàn công bằng
của bang và khu vực nơi xảy ra hành vi phạm
tội theo cách phân chia khu vực đã được xác
định trước bởi các đạo luật; bị cáo phải được
thông báo về tính chất và lý do buộc tội, được
đối chất với các nhân chứng chống lại mình,
được quyền triệu tập những nhân chứng để biện
minh và được sự giúp đỡ của luật sư bào
chữa”. Quy định này một lần nữa nhấn mạnh
đến chức năng, vai trò bảo vệ quyền con người,
quyền công dân của Hiến pháp. Theo đó, bị cáo
có quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền mời
luật sư bào chữa và được xét xử nhanh chóng;
công bằng; mọi thủ tục tố tụng phải được thông
báo rõ ràng, công khai, mới được coi là chính
đáng. Công khai và minh bạch là những đòi hỏi
thiết yếu của công bằng. Một phiên toà công
bằng là yếu tố cần thiết để bảo đảm các quyền
cơ bản khác của con người như quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
Quy tắc tố tụng hình sự liên bang của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ
Từng là thuộc địa của Anh, Hoa Kỳ là quốc
gia ngày nay vẫn thừa hưởng một số nguyên tắc
pháp lí truyền thống của luật án lệ của Anh.
Không có bộ luật tố tụng hình sự được viết một
cách có hệ thống nên từ năm 1945, Hoa Kỳ đã
xây dựng một bộ "Quy tắc tố tụng hình sự liên
bang", đã được sửa đổi nhiều lần kể từ đó. Quy
tắc liên bang về tố tụng hình sự của Mỹ quy
định các quy tắc cơ bản định hướng các hoạt
động tố tụng cho tất cả phiên tòa xét xử các vụ
án hình sự tại tất cả Tòa án Quận Liên bang.
Một số tiểu bang đã thiết lập các quy tắc tố tụng
hình sự của riêng mình theo các quy tắc liên
bang. Cũng giống như Anh, quy tắc tố tụng
hình sự của Hoa Kỳ rất chú trọng đến việc bảo
vệ quyền của các bị cáo như quyền có được sự
bào chữa của luật sư, quyền được xét xử nhanh
chóng và công khai, quyền được xét xử bởi bồi
thẩm đoàn, quyền được xét xử công bằng,
quyền được suy đoán vô tộimặc dù không trở
thành các nguyên tắc được quy định rõ ràng
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
23
trong luật nhưng những quyền này được quy
định đan xen trong các điều luật khác nhau. Tuy
nhiên, minh bạch trong xét xử vụ án hình sự
được thể hiện rõ ràng nhất trong Quy tắc tố
tụng hình sự liên bang chủ yếu ở hoạt động yêu
cầu công khai bắt buộc hoặc thông tin cần thiết
cho vụ án trước khi xét xử (Pre-trial discovery).
Khi bị bắt, người phạm tội phải được thông báo
công khai và đầy đủ về hành vi phạm tội và
toàn bộ các quyền tố tụng của họ. Luật sư bào
chữa sẽ được tham gia ngay từ giai đoạn đầu
của vụ án. Nếu không có tiền thuê luật sư thì
Tòa án sẽ chỉ định một luật sư cho họ. Ở giai
đoạn tiền xét xử, cả bên bào chữa và bên buộc
tội đều có quyền điều tra như nhau. Thủ tục này
được quy định chặt chẽ trong Quy tắc tố tụng
tụng hình sự liên bang đối với cả bên gỡ tội lẫn
bên buộc tội. Cụ thể tại Nguyên tắc 16 và
Nguyên tắc 12 đã liệt kê một loạt các loại thông
tin được công bố và không được công bố cho
các bên cũng như các trình tự, thủ tục liên quan
đến hoạt động đề nghị trước khi xét xử; hoạt
động điều tra, thẩm tra tài liệu, chứng cứ trước
khi xét xử. Theo đó bị can và luật sư sẽ có một
khoảng thời gian nhất định để làm bản kiến
nghị tiền xét xử về việc không thừa nhận tính
hợp pháp của chứng cứ hay bản cáo trạng, yêu
cầu bỏ qua chứng cứ... Ngoài ra, trong giới hạn
nhất định hai bên cũng có thể đề nghị được
cung cấp một số chứng cứ nào đó có thể được
sử dụng tại phiên tòa, việc này giúp các bên
chuẩn bị tốt hơn cho những lập luận liên quan
đến vụ kiện và tránh những bất ngờ phát sinh có
thể xảy ra trong phiên tòa từ thông tin bị chiếm
giữ. Tại nguyên tắc 16(a)(1)(C) Quy tắc liên
bang quy định cũng quy định về quyền và nghĩa
vụ tương tự đối với bị can là pháp nhân. Các
quy định này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc
trình tự công bằng của pháp luật (due process of
law) - một nguyên tắc cốt lõi được quy định
trong hiến pháp, được ra đời cũng nhằm đảm
bảo sự công bằng cho cả hai bên. Cụ thể, bởi do
có lợi thế nghề nghiệp hơn trong việc thu thập
chứng cứ nên hoạt động này ngoài việc cung
cấp các thông tin cần thiết cho bên công tố và
các bằng chứng hỗ trợ có liên quan cho bên bào
chữa thì còn cung cấp cho người bào chữa các
chứng cứ thuộc sở hữu của công tố viên - người
mà có thể giữ các manh mối tiềm năng để làm
bằng chứng chứng minh cho bị cáo vô tội. Bên
cạnh đó, trong nguyên tắc này cũng quy định
những chế tài đối với trường hợp một bên
không tuân thủ nghĩa vụ công bố các thông tin,
tài liệu, chứng cứ mà bên kia yêu cầu theo quy
định. Như vậy, trước khi xét xử, các bên có
quyền được tiếp cận toàn bộ chứng cứ, tài liệu
có liên quan tới vụ án và Quy tắc tố tụng hình
sự liên bang cũng có cơ chế đảm bảo sự tiếp
cận đó. Ngoài ra, Tòa án cũng có thể tổ chức
nhiều phiên họp như phiên điều trần sơ bộ,
phiên tuyên bố tội danh, phiên xem xét các đơn
kiến nghị trước khi xét xử giúp chuẩn bị tốt
nhất cho các bên để phiên tòa xét xử chính thức
diễn ra một cách công bằng, công khai, minh
bạch và nhanh chóng. Nguyên tắc 17.1 cũng
nêu rõ về phiên họp trước khi xét xử như sau
“Toà án có thể tự mình hoặc dựa vào đơn của
một bên để tổ chức một hoặc nhiều phiên họp
nhằm tạo điều kiện cho việc xét xử được khẩn
trương và công bằng”. Bên cạnh đó, bằng cách
yêu cầu sự có mặt của bồi thẩm đoàn trong các
phiên tòa hình sự được quy định tại các nguyên
tắc 6, nguyên tắc 23, nguyên tắc 30 và nguyên
tắc 31 là sự cụ thể hóa của Hiến pháp được coi
như một điều gián tiếp của yếu tố công khai,
minh bạch trong xét xử vụ án hình sự. Các
nguyên tắc nêu trên là những nguyên tắc làm
nổi bật lên tính minh bạch trong giai đoạn tiền
xét xử vụ án hình sự ở Hoa Kỳ, theo đó các
thông tin về vụ án sẽ được công bố cho các bên
biết một cách bình đẳng và chính xác theo quy
định pháp luật.
2.2.2. Thực tiễn thi hành luật tố tụng hình
sự Hoa Kỳ về minh bạch trong xét xử vụ án
hình sự
Hoa Kỳ là đất nước luôn nỗ lực lớn nhất
trong vấn đề cải cách minh bạch trong chính
phủ nói chung và trong tư pháp nói riêng.
Giống như Anh, Mỹ tập trung vào minh bạch
bên ngoài với những nỗ lực giành lấy niềm tin
của công dân vào tòa án bằng cách cho dân
chúng xem hoạt động tư pháp và tìm hiểu tận
mắt hệ thống tư pháp hoạt động như thế nào.
Đạo luật Thông tin Quốc gia Hoa Kỳ quy định
rằng tất cả các cơ quan của chính phủ liên bang
có nghĩa vụ đảm bảo rằng mọi người đều có
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
24
quyền được biết, truy cập và sử dụng tất cả các
tài liệu của chính phủ, hệ thống tư pháp ở Hoa
Kỳ cũng không ngoại lệ, chỉ trừ các vụ án liên
quan đến an ninh quốc gia, bí mật thương mại
và giết người chưa thành niên, bất kỳ ai cũng có
thể tự do nghe tòa án xét xử vụ án. Tất cả các
tòa án của Tòa án Tối cao Liên bang và Tòa án
tiểu bang đều có các ghế đặc biệt để tạo điều
kiện cho các phương tiện truyền thông đưa tin
về phiên tòa kịp thời. Hoa Kỳ là quốc gia phát
triển nhất trong hoạt động xây dựng Tòa án
điện tử cho đến nay và là nơi đầu tiên thiết lập
hệ thống nộp đơn điện tử của Tòa án. Hệ thống
điện tử của các tòa án Hoa Kỳ bao gồm hai hệ
thống: thứ nhất là hệ thống truy cập công khai
hồ sơ vụ án (PACER) cho phép người dùng có
được thông tin về vụ án và sổ ghi chép từ các
tòa án quận của Hoa Kỳ, các tòa phúc thẩm Hoa
Kỳ và các tòa án phá sản của Hoa Kỳ, thứ hai là
quản lý hồ sơ vụ án điện tử (CM/ECF) được tòa
án thiết lập để thuận tiện cho việc quản lý hồ sơ
và tòa án điện tử cho hầu hết các Tòa án Liên
bang Hoa Kỳ và cho phép truy cập vào các tài
liệu vụ án, như lời bào chữa, bản kiến nghị và
các tài liệu khác do các bên và luật sư đệ trình
lên tòa án trực tuyến cũng như cho phép nộp hồ
sơ điện tử các tài liệu vụ án qua Internet [10].
Bên cạnh đó, mỗi tiểu bang đều có trang web
riêng chứa các thông tin liên quan đến tòa án và
danh sách các thẩm phán được cập nhật liên
tục. Theo đó, công dân Mỹ có quyền tiếp cận
các thủ tục tố tụng của tòa án và mọi thông tin
pháp lý sẽ được công khai trên internet. Cũng
giống như Anh, Mỹ tập trung minh bạch bên
ngoài là công cụ để kéo gần khoảng cách giữa
người dân và Tòa án.
2.2.3. Đánh giá
Sự độc lập của ngành tòa án là một yếu tố
đảm bảo cho chất lượng của hệ thống pháp luật
nước Mỹ. Là một nhánh quyền lực, ngành tư
pháp hoạt động ngoài sự kiểm soát của ngành
hành pháp và lập pháp, giải quyết các vụ án một
cách công bằng, không bị tác động bởi ý kiến
của bên ngoài. Hoa Kỳ được coi là đất nước
nước điển hình có mô hình tố tụng với sự minh
bạch rõ ràng nhất. Sự minh bạch đầu tiên thể
hiện trong sự linh hoạt trong việc ban hành và
áp dụng pháp luật tại Mỹ, chỉ cần không mâu
thuẫn với luật liên bang, các tiểu bang của Mỹ
có thể tự do lựa chọn luật và hệ thống tòa án
đáp ứng các điều kiện của tiểu bang mà không
phải duy trì giống như tòa án liên bang hoặc các
tiểu bang khác. Kế thừa và phát huy từ những
tinh hoa trong nền từ pháp của Anh, mô hình tố
tụng tranh tụng được Mỹ áp dụng một cách
năng động hơn. Khác với Anh như là một nghĩa
vụ, tiết lộ thông tin ở Mỹ quy định được coi là
quyền của của bên gỡ tội nhằm giảm mức độ
chênh lệch giữa quyền lực công tố và bên bào
chữa, một cuộc tranh luận tự do, cởi mở và
công bằng giữa hai bên được diễn ra và sự thật
sẽ được hé lộ. Tính minh bạch nội bộ của thủ tục
tố tụng hình sự ở Mỹ đã trở thành một yếu tố
quan trọng cho sự công bằng. Bên cạnh đó, minh
bạch bên ngoài cũng được Mỹ quan tâm khi trở
thành quốc gia có mạng lưới pháp lý điện tử hiện
đại đầu tiên trên thế giới - công cụ giúp công dân
Mỹ gần hơn với công lý.
2.3. Minh bạch trong xét xử vụ án hình sự trong
pháp luật tố tụng hình sự Trung Quốc
2.3.1. Những quy định pháp luật trong luật
tố tụng hình sự Trung Quốc
Bộ luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa được ban hành năm 1979, có
hiệu lực ngày 01/01/1980. Lần đầu tiên,
BLTTHS Trung Quốc ra đời, hệ thống tố tụng
hình sự của Trung Quốc cơ bản được xác định
một cách có hệ thống, mở ra cánh cổng mới cho
quá trình hợp pháp hóa thủ tục tố tụng hình sự ở
Trung Quốc đương đại. Qua ba lần sửa đổi lớn
năm 1996, năm 2012 và năm 2018, tất cả đều
nhấn mạnh đến bình đẳng trong việc trừng trị
tội phạm cũng như bảo đảm quyền con người,
bảo vệ công lý, cho đến nay, hệ thống tố tụng
hình sự của Trung Quốc đã cơ bản đáp ứng
được nhu cầu của người dân, đóng một vai trò
quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và cũng cho thấy sự
quan tâm đến tính công khai, minh bạch tư pháp
của các nhà làm luật ở Trung Quốc. Biểu hiện
đầu tiên là tại các nguyên tắc cơ bản của
BLTTHS Trung Quốc quy định từ Điều 3 đến
Điều 18, những nguyên tắc này có ý nghĩa rất
quan trọng bởi nó được coi là “xương sống” của
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
25
tố tụng hình sự. Đơn cử như Điều 11 BLTTHS
Trung Quốc năm 1979 sửa đổi, bổ sung 2018
quy định: “Tòa án nhân dân khi xét xử vụ án,
trừ khi Luật này có quy định khác, đều phải xét
xử công khai. Bị cáo có quyền được bào chữa;
Toà án nhân dân có nghĩa vụ đảm bảo cho bị
cáo được bào chữa”. Nguyên tắc này bảo đảm
cho các hoạt động xét xử của tòa án phải được
công khai cho công chúng từ hình thức đến nội
dung, để các hoạt động xét xử được công chúng
giám sát rộng rãi giúp hoạt động xét xử công
bằng, khách quan. Bên cạnh đó một số nguyên
tắc quan trọng khác là căn cứ đảm bảo cho
minh bạch trong xét xử vụ án hình sự như:
nguyên tắc Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện độc lập chức năng và quyền
hạn của mình theo pháp luật (Điều 5); Nguyên
tắc dựa vào quần chúng (Điều 6); Nguyên tắc
mọi công dân bình đẳng trong việc áp dụng
pháp luật (Điều 7); Nguyên tắc bảo vệ quyền
tranh tụng của người tham gia tố tụng (Điều
14),... [11]. Minh bạch xét xử vụ án hình sự
trong pháp luật TTHS Trung Quốc không chỉ
được thể hiện ở các nguyên tắc chung mà còn ở
các quy định cụ thể trong BLTTHS:
i) Chuẩn bị xét xử
Luật tố tụng hình sự Trung Quốc sửa đổi,
bổ sung 2018 đã ban hành nhiều quy định tiến
bộ hơn trong việc nâng cao vai trò, vị thế của
luật sư. Theo đó, điều 34 bộ luật này cho phép
luật sư được tham gia với tư cách bào chữa cho
bị can sớm hơn so với quy định cũ “nghi can có
quyền ủy thác cho một người bào chữa kể từ
ngày thẩm vấn đầu tiên của cơ quan điều tra”
và “ khi điều tra nghi can lần đầu tiên hoặc
thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với nghi
can, cơ quan điều tra sẽ thông báo cho nghi
can rằng anh ta có quyền ủy thác cho một
người bảo vệ”. Bên cạnh đó, BLTTHS Trung
Quốc đã tăng một loạt quyền cho luật sư khi
dành hẳn chương IV và quy định một cách rõ
ràng, chặt chẽ về hoạt động bào chữa nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. Sự
minh bạch trong pháp luật tố tụng hình sự
Trung Quốc còn được thể hiện trong những quy
định liên quan đến nhân chứng. Nhân chứng
trong các vụ án hình sự được yêu cầu phải đưa
ra tòa án và lời khai của nhân chứng cũng được
xem là bằng chứng vì vậy để đảm bảo tính minh
bạch và khách quan trong việc nộp bằng chứng,
hoạt động kiểm tra chéo và xác minh bởi công
tố viên, nạn nhân, bị cáo tại tòa được ra đời và
quy định tại Điều 61 Bộ luật này. Sau khi nhận
được bản cáo trạng cùng hồ sơ và các tài liệu,
chứng cứ liên quan từ viện kiểm sát, nếu xét
thấy các hành vi phạm tội do Viện Kiểm sát
truy tố nêu trong bản cáo trạng là rõ ràng thì
phải ra quyết định mở phiên toà xét xử. Điều
187 BLTTHS Trung Quốc quy định về việc
thẩm phán có thể làm việc với Kiểm sát viên,
đương sự và người bào chữa, người đại diện tố
tụng để tìm hiểu tình hình và lấy ý kiến về những
vấn đề có liên quan đến công tác xét xử như vấn
đề người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị
thay đổi tiến hành tố tụng, danh sách người làm
chứng tại phiên toà, vấn đề loại trừ chứng cứ
không hợp pháp, ... trước khi mở phiên toà.
Sau khi xác định được thời gian mở phiên
toà, Toà án phải thông báo thời gian, địa điểm
tổ chức phiên toà cho Viện Kiểm sát, triệu tập
các đương sự tới phiên toà, thông báo cho
người bào chữa, người đại diện tố tụng, người
làm chứng, người giám định và người phiên
dịch, thông báo triệu tập và thông báo thời gian,
địa điểm tổ chức phiên toà phải được tống đạt
chậm nhất 03 ngày trước khi phiên toà diễn ra.
Đối với những vụ án xét xử công khai, 03 ngày
trước khi phiên toà diễn ra, tên vụ án, họ tên bị
cáo, thời gian và địa điểm tổ chức phiên toà
phải được công bố rộng rãi. Tất cả những hoạt
động nêu trên đều phải được ghi vào biên bản
có chữ ký của thẩm phán và thư ký. [11, Điều
187]. Những quy định trên là sự thể hiện nỗ lực
để tăng mức độ minh bạch ngay từ giai đoạn
đầu tiên trong chuỗi hoạt động của Tòa án ở
Trung Quốc cũng như nhấn mạnh sự quan trọng
của giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án bởi nó là cơ
sở cho việc định hướng xét xử vụ án, là tiền đề
cho một phán quyết khách quan, toàn diện.
ii) Bắt đầu phiên tòa và tranh tụng tại phiên tòa
Phiên tòa tại Trung Quốc được bắt đầu khi
Thẩm phán làm các thủ tục ban đầu như xác
định xem các bên đương sự có tới tham dự
phiên tòa hay không, sau đó tuyên bố tên vụ án;
tuyên bố danh sách các thành viên của Hội
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
26
đồng xét xử, thư ký Tòa, Kiểm sát viên, người
bào chữa, người đại diện tố tụng, người giám
định và người phiên dịch; thông báo quyền của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng, Công tố viên đọc to bản cáo trạng. Bị
cáo và người bị hại có thể trình bày ý kiến về
những tội danh bị truy tố trong bản cáo trạng,
Kiểm sát viên có thể thẩm vấn bị cáo. Người bị
hại, nguyên đơn dân sự và người bào chữa,
người đại diện tố tụng có thể đặt câu hỏi đối với
bị cáo khi được chủ tọa phiên tòa cho phép.
Thẩm phán có thể xét hỏi bị cáo [11, Điều 191].
Một cuộc tranh tụng tại phòng xử án sau đó sẽ
được diễn. Các bên sẽ được trình bày ý kiến,
lập luận của mình để làm rõ những tình tiết,
chứng cứ ra nhằm đi tìm sự thật khách quan của
vụ án. Toàn bộ sẽ thư ký tòa án được ghi lại
bằng biên bản. Điều 188 BLTTHS Trung Quốc
quy định các phiên tòa sẽ được tiến hành công
khai, trừ khi Luật này có quy định khác và nếu
không được xét xử công khai thì phải tuyên bố
trước Toà lý do không xử công khai, quy định
này có ý nghĩa rất quan trọng thể hiện đầy đủ
tinh thần Hiến pháp Trung Quốc tại Điều 125:
"Trừ những trường hợp đặc biệt theo luật định,
tòa án nhân dân sẽ tiến hành xét xử công khai”
đánh dấu một bước quan trọng hướng tới một
hệ thống tư pháp hình sự công bằng, minh bạch
và hiệu quả hơn ở Trung Quốc.
iii) Tuyên án
Sau khi bị cáo nói lời sau cùng, Chủ toạ
phiên toà tuyên bố phiên toà tạm nghỉ, hội đồng
xét xử tiến hành nghị án và lần lượt đưa ra các
quyết định sau đây: 1) Sự thật vụ án đã rõ ràng,
chứng cứ chính xác, đầy đủ, đủ căn cứ pháp
luật để nhận định bị cáo có tội, thì phải tuyên bị
cáo có tội; 2) Có căn cứ pháp luật để nhận định
bị cáo không có tội, thì phải tuyên bị cáo không
có tội; 3) Chứng cứ không đủ nên không thể
nhận định bị cáo có tội, thì phải tuyên bị cáo
không có tội do chứng cứ không đủ để kết tội bị
cáo [11, Điều 200]. Điều 202 BLTTHS Trung
Quốc 1979 cũng quy định rõ ràng về việc tuyên
án phải tiến hành công khai tại Tòa án và được
tống đạt cho các bên theo quy định pháp luật
[11]. Theo đó, toàn bộ hoạt động xét xử của
Tòa án phải được Thư ký ghi chép vào biên bản
phiên tòa và được đọc cho các bên nghe. Có thể
hiểu, quy định về việc tuyên án công khai này
nhằm đảm bảo phán quyết của Tòa án phải
được công khai để từ đó giúp nhân dân giám sát
và kiểm tra tính khách quan, minh bạch của
phán quyết, qua đó cũng giáo dục ý thức, tuyên
truyền pháp luật cho nhân dân
2.3.2. Thực tiễn thi hành luật tố tụng hình
sự Trung Quốc về minh bạch trong xét xử vụ án
hình sự
Trước đây, Trung Quốc đi theo mô hình tố
tụng thẩm vấn điển hình và cũng đối mặt với
nhiều áp lực trong minh bạch tư pháp hình sự.
Bởi có một thực tế không thể phủ nhận rằng,
một mô hình tố tụng với hoạt động xét xử tập
trung vào hồ sơ vụ án được lập từ giai đoạn
điều tra và là nơi chứa đựng chứng cứ xác định
tội phạm, cơ quan tiến hành tố tụng là chủ thể
đóng vai trò chính trong toàn bộ quá trình tố
tụng và chi phối toàn bộ mô hình tố tụng, vai
trò của người bào chữa không được coi trọng và
quyền của bị cáo bị hạn chế, thì dần dần phiên
tòa sẽ trở thành chỉ là một quá trình xem xét và
khẳng định hồ sơ vụ án, ý nghĩa của tố tụng
hình sự sẽ dần mất đi, tạo tiền đề cho sự lạm
dụng quyền lực nhà nước, ảnh hưởng đến quyền
lợi của công dân. Một cuộc cải cách tư pháp đã
ra đời nhằm hạn chế quyền lực của viện kiểm
sát và tăng cường vai trò bào chữa của luật sư
cũng như quyền cho bị cáo. Kể từ năm 2009,
các tòa án ở Trung Quốc đã tích cực khám phá
những cách thức mới để thúc đẩy sự minh bạch
tư pháp. Trong lần cải cách tư pháp mới nhất
của Trung Quốc đã cam kết xây dựng một nền
tư pháp cởi mở, năng động, minh bạch và thuận
tiện. Thúc đẩy minh bạch nội bộ là bước đi đầu
tiên mà Trung Quốc hướng tới trong công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền. Cải cách về
minh bạch bên trong tư pháp hình sự Trung
Quốc dựa trên trên Hiến pháp, luật tố tụng hình
sự và Luật Tòa án nhân dân. Đấy là lý do mà
Bộ luật tố tụng hình sự được sửa đổi theo
hướng tăng quyền cho người bào chữa cũng
như bị can. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử hoạt động tranh tụng
công khai trên tòa được đề cao hơn. Để cải
thiện hơn nữa hệ thống công bố tư pháp, xét xử
công khai và giám sát dư luận, Tòa án Nhân
dân Tối cao đã ban hành “Sáu quy định về công
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
27
khai tư pháp của Tòa án nhân dân tối cao
(最高人民法院关于司法公开的六项规定
(全文)” và “Các quy định của Tòa án nhân
dân tối cao về việc tiết lộ thông tin về quá trình
xét xử của Tòa án nhân dân thông qua Internet”
nhằm bảo đảm quyền của người dân được biết
về công việc của tòa án cũng như bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
tố tụng. Các điều khoản này yêu cầu tòa án
nhân dân các cấp công khai cho các bên tham
gia tố tụng và công chúng về công tác nộp đơn,
thông tin về xét xử, tài liệu xét xử, tiến độ của
vụ án, thông tin quá trình xét xử của tòa án, dữ
liệu thống kê và kết quả nghiên cứu quan trọng
khác... Bên cạnh đó, cải cách quy trình tuyển
chọn hội thẩm nhân dân cũng được chú ý.
Trung quốc đã tập trung cải thiện cơ chế tham
gia của hội thẩm nhân dân, tiến hành lựa chọn
ngẫu nhiên thông qua Internet và thúc đẩy các
biện pháp khác để phát huy tốt hơn vai trò của
hội thẩm nhân dân [12]. Hoạt động này có ý
nghĩa rất lớn bởi hội thẩm nhân dân là đại diện
của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp khác nhau; hội thẩm nhân dân có
thể phản ánh một cách khách quan suy nghĩ,
tâm tư của công chúng đồng thời giúp tăng tính
thuyết phục phán quyết của Tòa án bởi đây
không phải là sự áp đặt của nhà nước mà còn là
sự nhìn nhận của xã hội, của đại diện cho số
đông người dân trong xã hội. Cùng với sự phát
triển của khoa học - công nghệ, Tòa án Trung
Quốc đã tận dụng triệt để Internet và các công
nghệ thông tin hiện đại, lấy việc xây dựng “tòa
án thông minh” và “tòa án điện tử” làm cơ hội
để thúc đẩy minh bạch tư pháp bằng cách liên
tục mở rộng các kênh và nhiều cách thức khác
nhau để công chúng có được thông tin tư pháp
như phát triển trang web riêng của Tòa án và
trang mạng xã hội như Weibo, WeChat của tòa
án để đăng tải các thông tin hoạt động của tòa
án, xuất bản các ấn phẩm, tạp chí của Tòa án
nhân dân,... Cách thức tiếp cận này phù hợp với
thực tiễn và là xu hướng phát triển của phương
tiện truyền thông mới từ đó tăng tác giữa người
dân và tòa án, thúc đẩy sự giám sát của xã hội,
xây dựng một môi trường tư pháp minh bạch và
cởi mở hơn. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn ban
hành “Một số quy định đối với các tòa án nhân
dân chấp nhận sự giám sát của các phương tiện
truyền thông” nhằm thiết lập một cơ chế truyền
thông cố định giữa tòa án và các cơ quan truyền
thông, bảo vệ quyền được biết, tham gia, bày tỏ
và giám sát của các phương tiện truyền thông.
Dựa trên công nghệ kỹ thuật số, tòa án nhân
dân đã tiến hành mã hóa, số hóa các tài liệu
trong quá trình xét xử và thiết lập các tệp điện
tử, video và các tài liệu kỹ thuật số khác để
công khai, kịp thời và thuận tiện cho các bên
liên quan và xã hội. Trung Quốc cũng đã cho ra
đời Trung tâm nghiên cứu chỉ số pháp luật quốc
gia thuộc Viện luật Viện hàn lâm khoa học xã
hội Trung Quốc chuyên nghiên cứu và phát
triển chỉ số luật pháp, trong đó đã thực hiện
đánh giá sự cởi mở tư pháp của các Tòa án ở
Trung Quốc và xây dựng thành công chỉ số
minh bạch tư pháp. Việc nghiên cứu chỉ số
minh bạch tư pháp giống như một chất xúc tác,
giúp thúc đẩy tòa án cải thiện minh bạch tư
pháp, hỗ trợ hiệu quả việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2.3.3. Đánh giá
Nhận thực được những hạn chế trong mô
hình tố tụng của mình, Trung Quốc đã có những
chiến lược rõ ràng nhằm thay đổi minh bạch tư
pháp bên trong lẫn bên ngoài. Mặc dù vẫn đi
theo mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng Trung
Quốc đang dùng nhiều cách thức, từng bước
cân bằng quyền lực giữa hai bên truy tố lẫn bên
gỡ tội để phù hợp với mô hình tố tụng mà
Trung Quốc đang theo đuổi. Hiểu được minh
bạch hóa là một trong những phương thức để
đạt được mục tiêu đó cũng như lấy lại niềm tin
của công chúng vào công lý, sửa đổi, bổ sung
luật tố tụng hình sự cũng như ban hành một loạt
các quy định nhằm củng cố quyền lợi cho bị
cáo và người bào chữa; thúc đẩy công khai các
thông tin về quá trình xét xử, hồ sơ vụ án điện
tử trên internet; cải thiện hơn nữa phạm vi công
khai các thông tin về tòa án và nỗ lực công bố
thông tin một cách kịp thời, toàn diện là những
chiến lược chính được Trung Quốc đặt ra nhằm
tăng minh bạch tư pháp nói chung và minh bạch
trong xét xử vụ án hình sự nói riêng.
Nghiên cứu về minh bạch tư pháp trong lĩnh
vực hình sự ở ba quốc gia: Anh, Hoa kỳ, Trung
N.N. Chi, N.N. Mai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 16-28
28
quốc có thể sẽ rút ra những kinh nghiệm cho
Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp
hướng tới công khai, minh bạch trong hoạt
động xét xử hình sự.
Lời cảm ơn
Bài viết này phản ánh kết quả nghiên cứu
của đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội về “Cơ
chế đánh giá tính công khai, minh bạch trong
hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của
Tòa án Việt Nam”. Mã số: QG.19.55.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TƯ ngày
24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Link tham khảo:
van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-48-
nqtw-ngay-2452005-cua-bo-chinh-tri-ve-chien-
luoc-xay-dung-va-hoan-thien-he-thong-phap-luat-
viet-nam-den-273 (truy cập lần cuối: 24/6/2020).
[2] Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TƯ ngày 02
tháng 6 năm 2005 về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 của Bộ chính trị năm 2005, Link
tham khảo:
so-49-nqtw-ngay-02-thang-06-nam-2005-cua-bo-
chinh-tri-ve-chien-luoc-cai-cach-tu-phap-den-
nam-2020-d563.html (truy cập lần cuối:
24/6/2020).
[3] Phạm Thị Hồng Đào, Quyền tư pháp và thực hiện
quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013, Link
tham khảo:
https://moj.gov.vn/qt/cacchuyenmuc/ctv/news/Pag
es/tin-hoat-dong.aspx?ItemId=152 (ngày đăng:
28/7/2016, truy cập lần cuối: 03/8/2020).
[4] Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp và chế độ tư
pháp ở Việt Nam , Tạp chí Tòa án (điện tử):
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ve-
quyen-tu-phap-va-che-do-tu-phap-o-nuoc-ta (truy
cập lần cuối: 31/7/2020).
[5] Liên Hợp quốc (2011), Hướng dẫn tăng cường năng
lực và liêm chính tư pháp, New York. Link bản tiếng
Việt:
https://www.unodc.org/documents/southeastasiaa
ndpacific/2014/04/judicial-vietnam/UNODC_-
_Judicial_Integrtiy_Vietnamese.pdf (truy cập lần
cuối: 02/7/2020).
[6] Nguyễn Quốc Hoàn (2014), Giáo trình luật so
sánh, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.
[7] Disclosure Manual (2018), page 4, Link
https://www.cps.gov.uk/sites/default/files/docume
nts/legal_guidance/Disclosure%20Manual_0.pdf
(02/7/2020).
[8] Website:
https://www.gov.uk/government/publications/201
0-to-2015-government-policy-justice-system-
transparency/2010-to-2015-government-policy-
justice-system-transparency (updated 8 May
2015).
[9] Tian He (2013), Comparative Study on the
Judicial Transparency, Beijing: Social Sciences
Academic Press.
[10] The U.S. Bankruptcy Court, District of
Minnesota, What is the difference between
PACER and CM/ECF?, Link:
https://www.mnb.uscourts.gov/content/what-
difference-between-pacer-and-cmecf (22/7/2020).
[11] Toà án nhân dân tối cao nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa, BLTTHS Trung Quốc 1979 (sửa đổi,
bổ sung 2018), người dịch: Nguyễn Vĩnh Long,
Nguyễn Xuân Hà, Lê Tiến, Thông tin khoa học
kiểm sát - Viện khoa học kiểm sát, Số 3-4/2007.
[12] Website: (22/7/2020).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- minh_bach_tu_phap_trong_linh_vuc_hinh_su_o_mot_so_quoc_gia_t.pdf