Mô hình bệnh tật NCT năm 2009 chủ yếu
bệnh không lây chiếm ưu thế. Các chương bệnh
chiếm tỉ lệ cao lần lượt là: hệ tuần hoàn, nội tiết,
dinh dưỡng và chuyển hóa, hệ tiêu hóa, hệ hô
hấp, hệ niệu sinh dục, hệ cơ-xương-khớp và mô
liên kết, nhiễm khuẩn và ký sinh trùng, tai và
xương chũm, các triệu chứng, dấu hiệu và
những biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng bất
thường không phân loại ở phần khác, bướu tân
sinh. Trong đó, 5 phân nhóm bệnh hàng đầu:
THA, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bệnh ĐTĐ,
bệnh thực quản-dạ dày và tá tràng, bệnh mạch
máu não. Tỉ lệ mắc BMT của NCT chiếm 91,3%,
tỉ lệ một NCT mắc 2 BMT chiếm 25,2%, mắc 3
BMT chiếm 19,5%, mắc 4 BMT chiếm 17,9%, mắc
từ 5 BMT trở lên chiếm 7,9%.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 553 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại bệnh viện thống nhất năm 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 241
MÔ HÌNH BỆNH TẬT CỦA NGƯỜI CAO TUỔI
ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT NĂM 2009
Đỗ Chí Cường*, Phạm Hòa Bình**, Nguyễn Đức Công***
TÓM TẮT
Mở đầu: Tích tuổi là quá trình biến đổi cơ thể song song với sự tích lũy của tuổi tác. Già hoá dân số ở Việt
Nam và các nước trên thế giới diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn. Tuổi thọ ngày càng
được cải thiện rõ rệt. Những người sống đến 100 tuổi không còn hiếm. Điều này chắc chắn sẽ tác động mạnh mẽ
đến đời sống, kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việt Nam là một nước đang phát triển, mặc dù hiện tại cấu trúc dân số
vẫn thuộc loại trẻ, song số người cao tuổi (NCT) đang có xu hướng tăng nhanh.
Mục tiêu: Tìm hiểu mô hình bệnh tật của NCT điều trị nội trú tại bệnh viện Thống Nhất năm 2009.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên 1087 bệnh án của bệnh nhân điều
trị nội trú tại bệnh viện Thống Nhất năm 2009.
Kết quả: Tuổi trung bình là 73,01 tuổi với tỉ lệ nam/nữ là 1,12 và các phân nhóm bệnh hàng đầu có tỉ lệ
nam > nữ (ngoại trừ bệnh đái tháo đường cả 2 giới bằng nhau). Mười chương bệnh hàng đầu của NCT năm
2009 chiếm tỉ lệ cao lần lượt là: hệ tuần hoàn; nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa; tiêu hóa; hô hấp; niệu sinh dục;
cơ-xương-khớp và mô liên kết; bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng; bệnh tai và xương chũm; các triệu chứng,
dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng bất thường không phân loại ở phần khác; bướu tân sinh.
Năm phân nhóm bệnh hàng đầu lần lượt là: bệnh tăng huyết áp, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, đái tháo đường,
thực quản-dạ dày và tá tràng, mạch máu não. NCT mắc bệnh mạn tính (BMT) chiếm tỉ lệ 91,3%, tỉ lệ một NCT
mắc 2 BMT chiếm 25,2%, mắc 3 BMT chiếm 19,5%, mắc 4 BMT chiếm 17,9%, mắc từ 5 BMT trở lên chiếm
7,9%.
Kết luận: Mô hình bệnh tật NCT chủ yếu là bệnh không lây chiếm ưu thế, tuổi càng cao mắc BMT càng
nhiều. NCT mắc bệnh mạn tính tăng theo tuổi.
Từ khóa: Mô hình bệnh tật, người cao tuổi, bệnh mạn tính, bệnh viện Thống Nhất.
ABSTRACT
THE DISEASE PATTERNS IN ELDERLY PATIENT AT THONG NHAT HOSPITAL IN 2009
Do Chi Cuong, Nguyen Van Tan, Nguyen Duc Cong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 241 - 247
Background: Aging is the process that converts young adults into olders adults whose progressively
increasing risks of illness and death. Population aging is taking place throughout Viet Nam and the world which
rising dramatically. Life expectancy at all ages has had a major improvement. Persons who lived to 100 years are
no longer rare and will certainly have a large eco-societal impact on every country. Viet Nam is a developping
country with young population structure, but the number of older people is increasing rapidly.
Objective: Survey the disease patterns in elderly patient who had the inpatient treatment at Thong Nhat
hospital in 2009.
Methods: cross-sectional descriptive study, conducted using 1087 patients who had the inpatient treatment
* Phòng khám đa khoa khu công nghiệp Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh.
** Bộ môn Lão khoa, ĐHYD Tp. Hồ Chí Minh. *** Bệnh viện Thống Nhất, Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Đỗ Chí Cường ĐT: 0914. 084055 Email: chicuongdo2@gmail.com -
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 242
at Thong Nhat hospital, Ho Chi Minh City in 2009.
Results: The mean age of the patients was 73.01 years with male:female ratio of 1.12. The 10 most common
disease chapter were: diseases of the circulatory system; endocrine, nutritional and metabolic diseases; diseases of
the digestive system; diseases of the respiratory system; diseases of the genitourinary system; diseases of the
musculoskeletal system and connective tissue; certain infectious and parasitic diseases; diseases of the ear and
mastoid process; symptoms, signs and abnormal clinical and laboratory findings, not elsewhere classified;
neoplasms. The 5 most common diseases were: essential hypertention; chronic ischaemic heart diseases; non-
insuline dependentdiabetes melitus; diseases of oesophagus, stomach and duodenum; cerebrovascular diseases.
Some 91.3% of elderly patient have at least one chronic disease. There was a high level of co-morbidity, with two
chronic diseases experienced by 25.2%, three conditions by 19.5%, four conditions by 17.9% and five or more
conditions by 7.9% of the population.
Conclusions: The disease patterns in elderly patient is almost non-contagious diseases, chronic diseases tend
to become more common with age.
Keywords: disease patterns, the elderly, chronic disease, Thong Nhat hospital.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Già hoá dân số ở Việt Nam và các nước trên
thế giới diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, quy
mô ngày càng lớn(1). Tình hình bệnh tật của
người dân nói chung và của NCT nói riêng phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện môi trường, kinh
tế, văn hoá-xã hội, chính trị, tập quán... Nó khác
nhau theo từng giai đoạn lịch sử của mỗi
nước(7). Xác định mô hình bệnh tật là hết sức cần
thiết, giúp có kế hoạch chăm sóc sức khoẻ nhân
dân một cách toàn diện, đầu tư công tác phòng
chống bệnh có chiều sâu và có trọng điểm, có
chiến lược đầu tư kỹ thuật chuyên môn, trang
thiết bị hiện đại, nhằm đưa ra các giải pháp
chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân ngày
một hiệu quả tốt hơn. Tuy nhiên, tại thành phố
Hồ Chí Minh nói chung và bệnh viện Thống
Nhất nói riêng cho đến nay, chưa có một nghiên
cứu hệ thống về tình hình cơ cấu bệnh tật của
NCT theo phân loại bệnh quốc tế theo ICD-10.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả các bệnh nhân từ 18 tuổi (bệnh nhân
sinh từ năm 1991 về trước) nhập viện điều trị
nội trú tại Bệnh viện Thống Nhất từ ngày
01/01/2009 đến ngày 31/12/2009 có hồ sơ lưu trữ
đầy đủ các thông tin cần khảo sát.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh được chẩn đoán mà bệnh không có
trong ICD-10 theo khuyến cáo của WHO năm
1993 hoặc những bệnh nhân chuyển viện hoặc
trốn viện.
Cỡ mẫu
N =
2
2
03,0
)631,0).(369,0.(96,1
= 993,86. Chọn
ngẫu nhiên hệ thống 1:10 trên toàn bộ 10.863
bệnh án lưu trữ đầy đủ thông tin của bệnh nhân
từ 18 tuổi trở lên vào điều trị tại bệnh viện
Thống Nhất năm 2009. Số ngẫu nhiên được
chọn là 10. Mẫu thực tế được chọn là: 1087 bệnh
án (10.863/10 = 1086,3).
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
Cách tiến hành và phương pháp thu thập số
liệu
Nghiên cứu điều tra trực tiếp qua hồ sơ
bệnh án, các báo cáo thống kê tại bệnh viện
Thống Nhất theo biểu mẫu thu thập số liệu đã
thống nhất. Phân loại bệnh tật dựa vào bảng
phân loại quốc tế về bệnh tật lần thứ 10 (ICD-
10).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 243
Xử lý số liệu
Các số liệu được nhập bằng phần mềm
Excel 2003, xử lý bằng chương trình SPSS 11.5.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Trong số 1087 bệnh nhân hồi cứu, tỉ lệ
nam/nữ = 1,12. Giới tính giữa các nhóm có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,048 < 0,05);
trong đó nam > nữ trong nhóm tuổi 65-74 và 75-
84, tỉ lệ nữ > nam trong nhóm tuổi 60-64 và 85.
Nhóm tuổi từ 65-74 chiếm tỉ lệ cao nhất (41,1%),
ít nhất là nhóm 85 tuổi (10,5%). Tuổi cao nhất
là 97 (0,2%), tuổi trung bình là 73,01. Tỉ lệ bệnh
nhân tập trung cao nhất tại thành phố Hồ Chí
Minh (TP. HCM) (77,3%). Giữa các nhóm tuổi
không có khác biệt về nơi cư ngụ (p > 0,05). Thời
điểm nhập viện chủ yếu là mùa khô và mùa
mưa, nhóm tuổi 65-74 nhập viện vào mùa khô
và nhóm tuổi 75-84 có tỉ lệ cao nhất là 43,6%.
Mô hình bệnh tật (theo ICD-10)
Tỉ lệ 10 chương bệnh hàng đầu
Bảng 1. Tỉ lệ 10 chương bệnh mắc hàng đầu của NCT
Chương bệnh Tên chương bệnh Tần số Tỉ lệ %
IX
IV
XI
X
XIV
XIII
I
VIII
XVIII
II
Bệnh hệ tuần hoàn
Bệnh nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa
Bệnh hệ tiêu hóa
Bệnh hệ hô hấp
Bệnh hệ niệu sinh dục
Bệnh hệ cơ- xương- khớp và mô liên kết
Bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng
Bệnh tai và xương chũm
Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng bất thường
không phân loại ở phần khác
Bướu tân sinh
347
159
128
94
81
80
44
40
37
32
70,5
32,3
26,0
19,1
16,5
16,3
8,9
8,1
7,5
6,5
Tổng cộng 492 100
Mười chương bệnh mắc tỉ lệ cao nhất lần
lượt là chương bệnh hệ tuần hoàn (70,5%),
chương bệnh nội tiết, dinh dưỡng và chuyển
hóa (32,3%), bệnh hệ tiêu hóa (26%), chương
bệnh hệ hô hấp (19,1%), chương bệnh hệ niệu
sinh dục (16,5%), chương bệnh bướu tân sinh
chiếm tỉ lệ thấp nhất trong mười bệnh hàng đầu.
Phân bố 10 bệnh mắc hàng đầu
Bảng 2. Tỉ lệ 10 bệnh mắc hàng đầu
Xếp theo thứ tự Nhóm bệnh Tên nhóm bệnh Tần số Tỉ lệ %
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
I10–I15
I20–I25
E10–E14
K20–K31
I60–I69
E70 – E90
I30–I52
M00–M25
M40–M54
H80–H83
J20–J22
R50–R69
Bệnh tăng huyết áp
Bệnh tim do thiếu máu cục bộ
Bệnh đái tháo đường
Bệnh thực quản, dạ dày và tá tràng
Bệnh mạch máu não
Rối loạn chuyển hóa
Thể bệnh tim khác
Bệnh khớp
Bệnh lý cột sống lưng
Bệnh tai trong
Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới cấp khác
Triệu chứng và dấu chứng toàn thân
302
126
107
78
65
58
52
36
36
33
33
33
61,4
25,6
21,7
15,9
13,2
11,8
10,6
7,3
7,3
6,7
6,7
6,7
Bệnh tăng huyết áp (THA) có sự gia tăng
đáng kể so với những bệnh còn lại, tỉ lệ 5 bệnh
cao nhất lần lượt là bệnh THA, bệnh tim do
thiếu máu cục bộ, bệnh đái tháo đường (ĐTĐ),
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 244
bệnh thực quản, dạ dày-tá tràng và bệnh mạch
máu não.
Mười nguyên nhân nhập viện hàng đầu
Bảng 3. Tỉ lệ 10 nguyên nhân nhập viện hàng đầu
của NCT
Tên bệnh Tần suất Tỉ lệ %
Tăng huyết áp
Bệnh tim do thiếu máu cục bộ
Đục thủy tinh thể người cao tuổi
Rối loạn chức năng tiền đình
Viêm phế quản cấp
Viêm dạ dày và tá tràng
Nhồi máu não
ĐTĐ không phụ thuộc insulin
Suy tim
Suy thận mạn
68
29
22
21
19
17
16
10
8
8
13,8
5,9
4,5
4,3
3,9
3,5
3,3
2,0
1,6
1,6
Tỉ lệ cao nhất vượt trội là bệnh THA (13,8%);
tiếp đến là bệnh tim do thiếu máu cục bộ (5,9%),
đục thủy tinh thể NCT (4,5%)... cuối cùng là suy
tim và suy thận mạn (cùng chiếm 1,6%).
Phân bố số BMT mắc phải trên một NCT
NCT mắc bệnh mạn tính chung chiếm tỉ lệ
91,3%, không có BMT chiếm tỉ lệ 8,7%. Tỉ lệ một
NCT mắc 2 BMT chiếm 25,2%, mắc 3 BMT
chiếm 19,5%, mắc 4 BMT chiếm 17,9%, mắc ≥ 5
BMT chiếm 7,9%.
BÀN LUẬN
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Tuổi cao nhất là 97, tuổi trung bình ở
nhóm NCT là 73,01 tuổi, gần tương đương với
tuổi thọ người Việt Nam năm 2009. NCT
thường có chức năng sinh lý giảm dần, mắc
nhiều bệnh mạn tính: THA, ĐTĐ, bệnh cơ
xương khớp, bệnh viêm phế quản, xơ vữa
động mạch Đây là những bệnh mà bệnh
viện có thể chăm sóc và điều trị tốt, do đó
nhóm 65-74 tuổi chiếm đa số. Ngoài ra, bệnh
viện Thống Nhất là một trong những bệnh
viện tuyến trung ương ở phía Nam ưu tiên
khám và điều trị cho các cán bộ, đặc biệt là
các cán bộ hưu trí cũng là một lí do góp phần
chiếm tỉ lệ đa số của nhóm tuổi 65-74. Nhóm
tuổi ≥ 85 có số lượng bệnh nhân ít nhất so với
các nhóm tuổi khác. Theo số liệu thống kê của
Bộ Y tế năm 2009, tuổi thọ trung bình của
người Viêt Nam đạt 72,8 tuổi. Phải chăng do
tuổi trung bình của dân số nước ta như vậy
nên ở nhóm tuổi ≥ 85 có ít bệnh nhân nhất so
với các nhóm tuổi khác. Ngoài ra, có nghiên
cứu cho thấy những người trên 85 tuổi có tỉ lệ
sử dụng dịch vụ bệnh viện thấp hơn 2 lần so
với nhóm tuổi từ 60-64 do khả năng đi lại hạn
chế cũng có thể lí giải vấn đề này(2).
Chúng tôi nhận thấy tỉ lệ bệnh nhân nam/
nữ = 1,12. Kết quả này cũng tương tự với
nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Phú ở
bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2000- 2005(10).
Theo Đàm Viết Cương và cộng sự phụ nữ cao
tuổi có xu hướng sử dụng dịch vụ y tế tư
nhân với tỉ lệ cao hơn nam giới, trong khi
nam giới cao tuổi lại sử dụng dịch vụ bệnh
viện với tỉ lệ cao hơn. Nghiên cứu của SK Das
và cộng sự tại Ấn Độ năm 2008 trên 53,377
bệnh nhân NCT cho thấy tỉ lệ nam/ nữ =
1,12(3). Nghiên cứu của Changsu Han và cộng
sự tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên
năm 2009 trên 1391 bệnh nhân NCT có tỉ lệ
nam chiếm 42,8%(6). Điều này cho thấy tùy
theo mẫu nghiên cứu, tùy theo dân tộc, mỗi
chủng tộc, mỗi nước khác nhau mà tỉ lệ giới
tính có sự khác biệt.
Tỉ lệ bệnh nhân tập trung cao nhất tại TP.
HCM (77,3%). Giữa các nhóm tuổi không có
khác biệt về nơi cư ngụ (p > 0,05). Tỉ lệ bệnh
nhân ở các tỉnh khác cũng chiếm một tỉ lệ tương
đối do là bệnh viện tuyến Trung Ương, được
đầu tư trang thiết bị hiện đại và mang nhiệm vụ
điều trị cho các cán bộ và cả người dân.
Mô hình bệnh tật (theo ICD-10)
Tỉ lệ 10 chương bệnh hàng đầu
Chương bệnh tuần hoàn chiếm tỉ lệ cao nhất
(70,5%), tiếp theo là chương bệnh nội tiết, dinh
dưỡng và chuyển hóa (32,3%), chương bệnh hệ
tiêu hóa (26,0%), chương bệnh hô hấp (19,1%),
chương bệnh hệ niệu sinh dục (16,5%), chương
bệnh hệ cơ-xương-khớp và mô liên kết (16,3%),
chương bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng
(8,9%), chương bệnh tai và xương chũm (8,1%),
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 245
chương các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu
hiện lâm sàng, cận lâm sàng bất thường không
phân loại ở phần khác (7,5%), chương bệnh
bướu tân sinh cũng nằm trong số 10 chương
bệnh mắc cao nhất ở NCT và đứng ở vị trí cuối
cùng trong 10 chương bệnh hàng đầu (6,5%).
Sự phát triển kinh tế nhanh chóng trong thời
gian gần đây, áp lực công việc thời hội nhập,
cùng với thói quen ăn uống với những thức ăn
thấp về dinh dưỡng nhưng chứa năng lượng
cao càng làm dễ béo phì và rối loạn chuyển hóa
(12), hút thuốc và sự phối hợp các yếu tố nguy cơ
như tăng cân, béo phì đã làm gia tăng các bệnh
về huyết áp, tim mạch ở NCT. Các chương bệnh
chiếm tỉ lệ trung bình gồm: chương bệnh nội
tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa (32,3%), chương
bệnh hệ tiêu hóa (26,0%), chương bệnh hô hấp
(19,1%). Đây là những chương bệnh hay gặp ở
NCT. Đặc biệt là chương bệnh nội tiết, dinh
dưỡng và chuyển hóa, chương bệnh hệ thần
kinh, khối u sẽ ngày càng có xu hướng gia tăng
khi kinh tế ngày càng phát triển. Chương bệnh
dị tật bẩm sinh, biến dạng và bất thường về
nhiễm sắc thể có tỉ lệ thấp nhất (0,1%).
Theo thống kê của Bộ Y tế từ năm 2004-2008,
tỉ lệ bệnh do dịch lây giảm hơn nhiều so với
bệnh không lây, trong nghiên cứu của chúng tôi
tỉ lệ chương bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng
ở NCT vẫn xếp ở thứ hạng 7 trong 10 chương
bệnh nhập viện hàng đầu. Trong quá trình
chuyển đổi từ một nước đang phát triển sang
một nước phát triển, những bệnh không lây
chiếm ưu thế trong mô hình bệnh tật, nhưng các
bệnh nhiễm khuẩn và lây nhiễm vẫn còn vị trí
trong những bệnh hàng đầu. Ngoài ra, tại TP.
HCM tập trung nhiều bệnh viện đầu ngành về
chuyên khoa như bệnh viện Nhiệt đới, bệnh
viên Lao và bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch
cũng góp phần giải thích tỉ lệ thấp những bệnh
lây truyền trong nghiên cứu của chúng tôi.
Ngoài ra, chương bệnh thai nghén, sinh đẻ
và hậu sản; một số bệnh lý xuất phát trong thời
kỳ chu sinh; các nguyên nhân ngoại sinh của
bệnh và tử vong; các yếu tố ảnh hưởng đến tình
trạng sức khỏe và tiếp xúc dịch vụ y tế không có
trong nghiên cứu của chúng tôi có thể giải thích
do bệnh viện Thống Nhất không có chuyên
khoa Sản và đặc thù là bệnh viện điều trị cho các
cán bộ và NCT.
Phân bố 10 bệnh mắc hàng đầu
5 bệnh cao nhất lần lượt là bệnh THA, bệnh
tim do thiếu máu cục bộ, bệnh ĐTĐ, bệnh thực
quản-dạ dày và tá tràng, bệnh mạch máu não.
Nghiên cứu của chúng tôi THA ở NCT chiếm tỉ
lệ 61,4% cũng phù hợp với các nghiên cứu của
các tác giả Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Thành
Phương, Đoàn Anh Luân(4,10,9); trong khi đó
nghiên cứu của Lê Văn Tuấn, Nguyễn Hải Hằng
và cộng sự tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008
bệnh THA chỉ đứng hàng thứ 3, sau bệnh
TBMMN và bệnh viêm phổi ở NCT(7), có sự khác
biệt này là do trong khuôn khổ nghiên cứu của
chúng tôi sự phân bố của bệnh nhân không
đồng đều theo vùng miền, chủ yếu là NCT ở
miền Nam, còn những bệnh nhân ở miền Trung
và miền Bắc là rất ít, thời tiết(8) phải chăng là lí
do dẫn đến sự khác biệt về kết quả nghiên cứu.
Năm 2008, WHO cho biết 5 căn bệnh gây tử
vong cao nhất ở các nước giàu thì 5 căn bệnh
gây tử vong hàng đầu là bệnh tim, đột quỵ, ung
thư phổi, viêm phổi, hen và viêm phế quản;
trong đó THA được xem như là “kẻ giết người
thầm lặng” vì những tổn thương và những biến
chứng gây ra, làm cho gánh nặng xã hội và chi
phí cho y tế ngày càng tăng. Bệnh tim do thiếu
máu cục bộ trong nghiên cứu của chúng tôi
đứng hàng thứ 2 trong những bệnh hàng đầu ở
NCT, chiếm tỉ lệ 25,6%. Xã hội càng phát triển,
việc sử dụng những thức ăn nhanh chứa nhiều
chất béo, lười vận động thể lực, hút thuốc lá,
uống nhiều rượu bialàm cho bệnh mạch vành
hiện nay được xem như là một trong những
bệnh của xã hội phát triển. Kết quả của chúng
tôi cũng phù hợp với các báo cáo của WHO năm
2008, cho thấy bệnh tim là một trong 5 bệnh gây
tử vong hàng đầu ở các nước giàu. Bệnh ĐTĐ
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng chiếm tỉ lệ
đáng kể (21,7%) do quá trình phát triển nhanh
của xã hội và đứng hàng thứ 3 trong 10 bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 246
mắc hàng đầu. Bệnh thực quản-dạ dày và tá
tràng đứng hàng thứ 4 trong 10 bệnh hàng đầu,
chiếm tỉ lệ 15,9%; phải chăng ở đây là nghiên
cứu tại bệnh viện chứ không phải nghiên cứu tại
cộng đồng, mặc khác số bệnh nhân trong nhóm
nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu sống tại các
tỉnh miền Nam, chưa phân bố đồng đều trong
cả nước, khí hậu cũng khác nhau nên có sự khác
biệt với một số tác giả. Bệnh mạch máu não
chiếm 13,2% và đứng hàng thứ 5 trong 10 bệnh
hàng đầu. Theo Trung tâm Thống kê Y tế Quốc
gia Hoa Kỳ, bệnh mạch máu não cũng là một
trong những bệnh phổ biến ở NCT(5). Điều này
cho thấy trong nghiên cứu của chúng tôi những
bệnh mắc hàng đầu của NCT chủ yếu là những
BMT không lây giống như mô hình bệnh tật ở
các nước phát triển và các nước trong khu vực.
Mười nguyên nhân nhập viện hàng đầu
So với các nghiên cứu nước ngoài và nghiên
cứu trong nước cho thấy những bệnh gây nhập
viện hàng đầu trong nghiên cứu của chúng tôi
giống với các tác giả khác là: bệnh tim mạch,
ĐTĐ, đột quỵ, đục thủy tinh thể, bệnh dạ dày tá
tràng, suy thậnTrong nghiên cứu của chúng
tôi tỉ lệ bệnh COPD, viêm gân khớp, giảm thính
lực, u ác tính, gãy xương, mà thường thấy trong
các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài,
không có mặt trong mười nguyên nhân gây
nhập viện hàng đầu ở NCT. Có thể lí giải điều
này là do các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành
ở TP. HCM như: bệnh viện Tai Mũi Họng, bệnh
viện Chấn thương chỉnh hình, bệnh viện Ung
bướu và với dịch vụ bảo hiểm Y tế phổ biến và
thuận tiện, các bệnh nhân khi có bệnh tật liên
quan đến các bệnh viện chuyên khoa có thể là
nơi lựa chọn ưu tiên của họ và gia đình nên số
lượng các bệnh này trong nghiên cứu của chúng
tôi không đứng trong 10 bệnh nhập viện hàng
đầu. Để giải thích rõ hơn về vấn đề này cần có
những nghiên cứu rộng hơn.
Phân bố số BMT mắc phải trên một NCT
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhóm 85
tuổi, tỉ lệ mắc 1 BMT chiếm tỉ lệ cao nhất, nhóm
60-64 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất một NCT mắc 2
BMT, mắc 3 BMT gần bằng nhau ở 4 nhóm tuổi,
mắc 4 BMT gần bằng nhau ở 4 nhóm tuổi, nhóm
tuổi 75-84 chiếm tỉ lệ cao nhất (12,7%) khi mắc
5 BMT. Nhóm 85 tuổi có tỉ lệ giảm dần đều
mắc từ 1 đến 5 BMT, các nhóm tuổi còn lại có
tỉ lệ gần như nhau khi cùng mắc từ 1 – 4 BMT và
đều giảm nhiều khi mắc 5 BMT. Một nghiên
cứu tại Viện Lão khoa tiến hành trên 3 vùng Bắc-
Trung-Nam cho thấy trung bình một NCT có
khoảng gần 3 BMT, 70% số NCT được điều tra
cho biết có mắc BMT(2), nghiên cứu của Wolff JL.
và cộng sự cho thấy 82% một NCT mắc 1 BMT,
65% một NCT mắc từ 2 BMT trở lên(12). Điều này
cho thấy trong kết quả của chúng tôi, tỉ lệ mắc
BMT ở NCT tương đối cao gần giống với kết
quả của các tác giả nước ngoài và Viện Lão khoa
Quốc gia Việt Nam. Đây là gánh nặng cho cá
nhân, gia đình và xã hội vì chúng làm hạn chế
các hoạt động hàng ngày, thay đổi tinh thần, thể
chất, cuộc sống xã hội và nghề nghiệp của họ.
KẾT LUẬN
Mô hình bệnh tật NCT năm 2009 chủ yếu
bệnh không lây chiếm ưu thế. Các chương bệnh
chiếm tỉ lệ cao lần lượt là: hệ tuần hoàn, nội tiết,
dinh dưỡng và chuyển hóa, hệ tiêu hóa, hệ hô
hấp, hệ niệu sinh dục, hệ cơ-xương-khớp và mô
liên kết, nhiễm khuẩn và ký sinh trùng, tai và
xương chũm, các triệu chứng, dấu hiệu và
những biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng bất
thường không phân loại ở phần khác, bướu tân
sinh. Trong đó, 5 phân nhóm bệnh hàng đầu:
THA, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bệnh ĐTĐ,
bệnh thực quản-dạ dày và tá tràng, bệnh mạch
máu não. Tỉ lệ mắc BMT của NCT chiếm 91,3%,
tỉ lệ một NCT mắc 2 BMT chiếm 25,2%, mắc 3
BMT chiếm 19,5%, mắc 4 BMT chiếm 17,9%, mắc
từ 5 BMT trở lên chiếm 7,9%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2010). "Già hóa dân số và chính sách chăm sóc sức khỏe
cho người cao tuổi ở Việt Nam". Tạp chí Y học thực hành. Nhà
xuất bản Y học. Hà Nội, tr. 1.
2. Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Anh và cộng sự(2006). "Đánh
giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho NCT ở Việt Nam". Viện
chiến lược và chính sách Y tế. Hà Nội, tr. 1-2.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 247
3. Das SK., Biswas A, et al (2008). "Prevalence of Major
Neurological Disorders Among Geriatric Population in the
Metropolitan City of Kolkata". Original Article. India, pp. 1-9.
4. Đoàn Anh Luân.(2007). Khảo sát mô hình bệnh tật và thực trạng
chăm sóc sức khỏe người có tuổi tại quận Ô Môn, thành phố Cần
Thơ. Luận án tốt nghiệp chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược TP.
HCM, tr. 31-80.
5. Halter JB, Ouslander JG, et al (2009). "Demography and
Epidemiology". Hazzard’s Geriatric Medicine and Gerontology,
The McGraw-Hill Companies. USA, pp. 45-67.
6. Han C, et al (2009). "Study design and methods of the Ansan
Geriatrics study in Republic of Korea". BMC Neurology, 9 (10),
pp. 1471-2377.
7. Lê Văn Tuấn, Nguyễn Hải Hằng (2008). Mô hình bệnh tật của
người cao tuổi điều trị tại Viện lão khoa quốc gia năm 2008.
Luận án tốt nghiệp Đại học, Đại học Y Dược Hà Nội, tr. 3-74.
8. Lurie SJ, Gawinski B, et al(2006). "Seasonal Affective Disoder".
American Family Physician, University of Rochester School of
Medicine and Dentistry, Rochester, New York. USA, 74 (79), pp.
1521-1524.
9. Nguyễn Thành Phương (2009). Mô Hình Bệnh Tật Bênh Nhân
Bảo Hiểm Y Tế Khám Và Điều Trị Ngoại Trú Tại Biện Viện Đa
Khoa Khu Vực Củ Chi Từ 01/01/2008 Đến 31/3/2009. Luận văn
tốt nghiệp chuyên khoa cấp 1, Đại học Y Dược TP. HCM, tr. 29-
56.
10. Nguyễn Văn Phú (2006). Mô Hình Bệnh Tật, Tử Vong Và Kết
Quả Điều Trị Của Bệnh Nhân Nội Trú Tại Bệnh Viện Nguyễn
Trãi Từ 2000 - 2005. Luận văn tốt nghiệp chuyên khoa cấp 1 Y
Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. HCM, tr. 28-83.
11. Thailand Ministry of Public Health (2009). National Health
System Profile, 2005-2007. Thailand, pp. 11-54.
12. Wolff JL, Starfield B, Anderson G (2002). "Prevalence,
expenditures, and complications of multiple chronic conditions
in the elderly". Arch Intern Med. Department of Health Policy
and Management, The Johns Hopkins University Bloomberg
School of Public Health. USA, 2002 Nov 2011;2162 (2020), pp.
2269-2276.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_benh_tat_cua_nguoi_cao_tuoi_dieu_tri_tai_benh_vien_t.pdf