Bên cạnh những thoả thuận hợp tác
nghề cá đã được ký kết, cho đến nay, Việt
Nam đang có năm vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa chồng lấn với các quốc
gia trong khu vực nhưng chưa phân định,
gồm: (i) vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa chồng lấn giữa Việt Nam và Trung
Quốc khu vực cửa Nam của Vịnh Bắc
Bộ, (ii) vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn
giữa Việt Nam và Indonesia, (iii) vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn
giữa Việt Nam và Malaysia trong Vịnh Thái
Lan, (iv) vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn
giữa Việt Nam và Philippines và (v) vùng
biển chồng lấn, chưa được phân định giữa
Việt Nam và Cambodia43. Với những vùng
chồng lấn chưa được phân định này, chúng
tôi cho rằng, Việt Nam và các quốc gia
liên quan cần thỏa thuận để lựa chọn “giải
pháp tạm thời” theo quy định tại Điều 74
và 83 của UNCLOS năm 1982 để thiết lập
các mô hình Vùng Trắng, Vùng Xám hay
Vùng Xám Nhạt để khai thác hiệu quả tài
nguyên biển nói chung và tài nguyên cá nói
riêng; góp phần làm “loãng”, “mềm hóa”
các tranh chấp biển, loại trừ nguy cơ xung
đột giữa các bên liên quan, góp phần gìn
giữ và bảo vệ môi trường an ninh trên biển.
Mặt khác, hợp tác đánh bắt cá trên các vùng
biển chồng lấn chưa được phân định là biện
pháp “tạm gác tranh chấp, cùng khai thác”,
vừa đáp ứng được nhu cầu về khai thác tài
nguyên thủy hải sản phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội, vừa duy trì mối quan hệ
chính trị, ngoại giao tốt đẹp giữa các quốc
gia. Việc thiết lập các khu vực đánh bắt cá
chung có thể là tiền đề, là cơ sở pháp lý quan
trọng để các bên tranh chấp tiến tới thỏa
thuận cuối cùng để xác định đường biên giới
trên biển hoặc đường phân định biển trong
tương lai. Tuy nhiên, về phương diện pháp
lý, các thỏa thuận khai thác chung không
ảnh hưởng đến việc phân định biển cuối
cùng giữa các bên liên quan
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình hợp tác nghề cá ở các vùng biển chồng lấn, đang tranh chấp của một số quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Hữu Phước*
Ngô Nguyễn Thảo Vy**
* TS. Phó Trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trưởng Bộ môn Công pháp Quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
** GV. Bộ môn Luật Thương mại quốc tế, Khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Tóm tắt:
Bài viết nghiên cứu các mô hình hợp tác về đánh bắt cá trên
các vùng biển chồng lấn, đang tranh chấp giữa các quốc gia
trên thế giới, đúc rút các kinh nghiệm cho Việt Nam và các
quốc gia trong khu vực cùng khai thác hiệu quả tài nguyên
cá, quản lý tranh chấp và tiến tới phân định hòa bình các vùng
biển chồng lấn, có tranh chấp.
Abstract:
This article provides its focus on the fishery cooperation
modalities in the disputed, overlapping sea areas of a
number of countries in the world as the lessons learnt for
Vietnam and other regional disputant states to establish
effective fishing and dispute management mechanisms,
aiming to resolve the issue of delimitation in disputed,
overlapping sea areas in peace.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: hợp tác đánh bắt cá; vùng biển
chồng lấn, có tranh chấp; khu vực biển Đông;
mô hình Vùng Trắng và Vùng Xám.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 14/06/2017
Biên tập: 02/10/2017
Duyệt bài: 09/10/2017
Article Infomation:
Keywords: fishery cooperation; disputed,
overlapping sea areas; South China Sea; the
White Zone and the Grey Zone.
Article History:
Received: 14 Jun 2017
Edited: 02 Oct. 2017
Appproved: 09 Oct. 2017
MÔ HÌNH HỢP TÁC NGHỀ CÁ Ở CÁC VÙNG BIỂN CHỒNG
LẤN, ĐANG TRANH CHẤP CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
Tranh chấp về khai thác tài nguyên
biển, trong đó có các vùng biển thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền của quốc gia và
biển cả đã phát sinh giữa các quốc gia trên
thế giới từ rất lâu trong lịch sử khai thác và
sử dụng biển và đại dương của nhân loại.
1 Vào năm 1583, nữ hoàng Elizabeth tuyên bố Newfoundland chính thức thuộc quyền sở hữu của Anh Quốc và cũng là
một trong những vùng thuộc địa sớm nhất của Anh. Dù các tàu cá của Anh đã tới Newfoundland để khai thác liên tục từ
khi Cabot đặt chân đến vùng đất này, nhiều con tàu và trạm đánh cá theo mùa của Basque, Pháp và Bồ Đào Nha cũng
tiến hành những hoạt động tương tự. Các tranh chấp về quyền khai thác cá lần lượt nổ ra giữa Anh và Pháp, lần thứ nhất
vào những năm 1600 và lần thứ hai từ năm 1756-1763.
Xem: Thomas Wemyss Fulton (1911), The Sovereignty of the Sea: An Historical Account of the Claims of England to
the Dominion of the British Seas, and of the Evolution of the Territorial Waters, with Special Reference to the Rights
of Fishing and the Naval Salute, The Lawbook Exchange, tr. 1.
Thực tiễn này bắt đầu từ khi các cường quốc
ở Châu Âu tiến hành khám phá các vùng đất
mới để mở rộng lãnh thổ từ thế kỷ XIV-XV1.
Trong bối cảnh đó, những cuộc chiến tranh
giành giật tài nguyên biển xảy ra rất căng
thẳng giữa các quốc gia. Về phương diện
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 24(352) T12/2017
pháp luật quốc tế, trong thời kỳ này nguyên
tắc “tự do đánh cá trên biển cả” được Hugo
Grotius2 khởi xướng đã góp phần làm giảm
căng thẳng và xung đột trên biển cả. Theo
nguyên tắc này, mọi quốc gia đều có quyền
khai thác nguồn tài nguyên sinh vật biển cả
và tài nguyên ở đó là vô tận3. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật,
công nghệ đánh bắt cá ngày càng hiện đại
thì việc áp dụng nguyên tắc này đã dẫn đến
hệ quả tất yếu là việc đánh bắt quá mức đối
với tài nguyên cá, làm phát sinh các tranh
chấp quốc tế về đánh bắt cá4. Chính vì lẽ
đó, mà “các cuộc tranh chấp về quyền đánh
cá trong ba phần tư đầu thế kỷ XX, thực
chất là cuộc đấu tranh để thay đổi căn bản
luật quốc tế về đánh cá truyền thống, thay
đổi chế độ tự do đánh cá đã tỏ ra lỗi thời”5.
Thực tiễn đó đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải
thiết lập một chuẩn mực pháp luật quốc tế để
giải quyết hòa bình các tranh chấp về đánh
cá. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Công
ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS 1982) với các quy định liên quan
đến hợp tác để “dàn xếp tạm thời” các tranh
chấp biển, trong đó có các tranh chấp về
đánh bắt cá, tuy chưa thật hoàn chỉnh nhưng
đã góp phần làm giảm căng thẳng, xung đột
giữa các quốc gia. Cụ thể, tại khoản 3 Điều
74 của UNCLOS 1982 chỉ nhắc đến nghĩa
vụ hợp tác của các quốc gia đang trong khi
đàm phán để thỏa thuận phân định cuối cùng
2 Hugo Grotius, sinh năm 1583 mất năm 1645 là một luật gia người Hà Lan. Cùng với Alberico Gentili và Francisco
de Vitoria, ông đã đặt nền móng cho Luật quốc tế dựa trên Luật tự nhiên. Ông đã viết tác phẩm tự do biển cả “Mare
Liberum” vào năm 1609.
3 Hugo Grotius (1608), The Freedom of the Seas (Latin and English version, Magoffin trans.), The Online Library of
Liberty, truy cập ngày 12/07/2017 tại: tr. 49.
4 Xem: Smith H.D (1992), "The British Isles and the Age of Exploration - A Maritime Perspective", GeoJournal, Vol 26,
No. 4, tr.483–487.
5 Nguyễn Trường Giang (2010), Luật quốc tế về đánh cá trên biển, NXB Chính trị quốc gia, H., tr. 39.
6 Theo sáng kiến của ông Manner - Chủ tịch nhóm Đàm phán 7 tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về Luật Biển lần 3 vào
năm 1973, có hai lựa chọn được giới thiệu cho các quốc gia mong muốn thiết lập vùng khai thác chung trong khi chờ
phân định, đó là “Vùng Trắng” (White Zone) và “Vùng Xám” (Grey Zone). Tại Vùng Trắng, mọi quốc gia đều có thể
đánh bắt cá dựa trên nguyên tắc tự do biển cả. “Vùng Xám” là một phương thức để quản lý các nguồn tài nguyên sinh
vật biển trong khu vực tranh chấp, có phạm vi điều chỉnh bao trùm toàn bộ hoặc một phần khu vực tranh chấp, và loại
trừ hay giới hạn hoạt động đánh bắt cá của tàu cá một nước thứ ba. “Vùng Xám Nhạt” mang hai tính chất của “Vùng
Trắng” và “Vùng Xám”. Có nghĩa là, (i) thoả thuận này áp dụng cho bất kỳ vùng nào lớn hơn vùng biển đang tranh
chấp hoặc vùng biển không được xác định cụ thể; và (ii) quy định về nghề cá tại vùng biển đang tranh chấp không phải
là nguyên nhân chính dẫn đến thoả thuận phân định cuối cùng của các bên.
tại các khu vực chồng lấn trong vùng đặc
quyền kinh tế.
Chính vì vậy, ở các vùng đặc
quyền kinh tế đang có tranh chấp, theo quy
định của UNCLOS 1982 thì hợp tác nghề
cá là một nghĩa vụ quan trọng đối với các
quốc gia có liên quan. Khoản 3 Điều 83 của
UNCLOS 1982 cũng quy định tương tự về
nghĩa vụ hợp tác nhằm đi đến các dàn xếp
tạm thời nhưng áp dụng đối với các quốc gia
đang trong giai đoạn đàm phán để đạt được
thỏa thuận phân định cuối cùng tại các khu
vực chồng lấn trong vùng thềm lục địa.
Từ thực tiễn pháp lý đó, nghiên cứu
các mô hình hợp tác về đánh bắt cá tại các
vùng đặc quyền kinh tế đang tranh chấp từ
thực tiễn thiết lập thoả thuận “Vùng Trắng”
giữa Liên Xô và Thụy Điển tại vùng Biển
Baltic; thỏa thuận “Vùng Xám” giữa Liên
Xô và Na Uy” tại vùng biển Barents và thoả
thuận “Vùng Xám Nhạt” về hợp tác nghề cá
giữa Canada và Hoa Kỳ tại Vịnh Maine là
rất cần thiết6, là kinh nghiệm quý cho Việt
Nam và các quốc gia trong khu vực biển
Đông đang có tranh chấp biển nói chung và
tranh chấp về đánh bắt cá nói riêng nghiên
cứu để áp dụng.
1. Thoả thuận Vùng Trắng giữa Liên Xô
và Thụy Điển tại biển Baltic
Ở vùng biển Baltic, trong khi chờ đợi
để phân định ranh giới biển với Liên Xô,
Thụy Điển đã từ chối đề nghị của Liên Xô
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 24(352) T12/2017
về việc thiết lập một vùng đánh bắt cá chung
giữa hai nước. Tuy nhiên, hai bên đều đồng
ý sẽ tìm kiếm một biện pháp tạm thời. Trên
cơ sở đó, ngày 22/12/1977, hai nước đã ký
Nghị định thư bổ sung Thoả thuận nghề cá.
Trong Nghị định thư, hai bên thoả thuận
không áp dụng bất kỳ biện pháp nào gây ảnh
hưởng đến việc phân định ranh giới biển
trong tương lai. Do đó, vùng biển chồng
lấn mà hai bên đang tranh chấp không được
xem là vùng đánh cá của riêng Thụy Điển
hay Liên Xô, mà vẫn giữ nguyên quy chế
của vùng biển quốc tế. Hay nói cách khác,
hai nước đồng ý thiết lập Vùng Trắng rộng
13.000 km2 tại khu vực bị tranh chấp7. Hoạt
động đánh bắt cá tại khu vực này chịu sự điều
chỉnh của Uỷ ban Nghề cá quốc tế tại Biển
Baltic (International Baltic Sea Fisheries
Commission) được thiết lập từ năm 1973
bởi các quốc gia khu vực Biển Baltic là Đan
Mạch, Phần Lan, Tây Đức, Đông Đức, Thụy
Điển, Ba Lan và Liên Xô8. Tuy nhiên, giữa
Liên Xô và Thụy Điển lại không có cơ chế
phối hợp để quản lý việc đánh bắt cá trong
khi khu vực này hoàn toàn mở cho tàu cá
của các quốc gia thứ ba vào đánh bắt với sản
lượng lớn (25.000 tấn cá tuyết và 450 tấn cá
hồi một năm). Do vậy, vào thập niên 80, tài
nguyên các khu vực này đã sụt giảm đáng
kể9. Điều này khiến Liên Xô quan ngại và cố
gắng ký kết các hiệp định song phương về
đánh bắt cá tại vùng này với các quốc gia thứ
ba. Mặc dù Thụy Điển cũng bị ảnh hưởng
nặng nề bởi sự cạn kiệt nguồn tài nguyên
do hoạt động đánh bắt quá mức tại khu vực
này, nhưng khi Liên Xô cố gắng đơn phương
ngăn chặn việc đánh bắt cá của các quốc gia
thứ ba thì Thụy Điển vẫn ủng hộ nhằm tạo
7 Alex G. Oude Elferink (1993), The Influence of Provisional Arrangements on Negotiations on the Delimitation of
Maritime Boundaries, BRU Boundary and Security Bulletin, tr.1.
8 R.R. Churchill (1993), chú thích 12, tr. 49.
9 Renate Platzöder, Philomène A. Verlaan (1996), The Baltic Sea: New Developments in National Policies and
International Cooperation, Martinus Nijhoff Publishers, tr. 260.
10 Alex G. Oude Elferink (1993), chú thích 13, tr.2.
11 Renate Platzöder, Philomène A. Verlaan (1996), chú thích 15, tr. 259.
12 Renate Platzöder, Philomène A. Verlaan (1996), chú thích 15, tr. 260
13 Renate Platzöder, Philomène A. Verlaan (1996), chú thích 15, tr. 262
thế đối đầu với Liên Xô và buộc nước này
phải đưa ra một thoả thuận giải quyết triệt để
vấn đề tại vùng biển đang tranh chấp10.
Vào năm 1985, Thụy Điển và Liên Xô
tái đàm phán việc phân định biển và sau đó
chính thức ký kết hiệp định phân định vào
năm 1988. Theo đó, 75% vùng chồng lấn
thuộc về Thụy Điển và 25% thuộc về Liên
Xô11. Ngoài ra, hai quốc gia này cũng trao
đổi hạn ngạch đánh bắt cá cho nhau, theo
đó Thụy Điển được phép đánh bắt 6.000 tấn
cá tuyết và 80 tấn cá hồi tại khu vực thuộc
Liên Xô và Liên Xô nhận hạn mức đánh bắt
18.000 tấn cá minh thái và 240 tấn cá hồi tại
vùng biển phía Thụy Điển12. Các quốc gia
thứ ba thuộc Cộng đồng Châu Âu tham gia
đánh bắt tại khu vực này cũng được phân bổ
hạn ngạch chung cao hơn so với sản lượng
truyền thống của họ, cụ thể là thêm 6.000
tấn cá tuyết và 170 tấn cá hồi trong khu vực
Vùng Trắng trước đây13.
Tuy nhiên, thỏa thuận với Liên Xô về
đánh cá lại chứa nhiều rủi ro, đặc biệt tại
những khu vực bị tranh chấp có nguồn tài
nguyên sinh vật biển đang dần cạn kiệt. Với
hạn chế đáng kể trong việc bảo vệ tài nguyên
môi trường, sau thoả thuận giữa Liên Xô và
Thụy Điển, khu vực Biển Baltic chỉ chứng
kiến thêm sự thành lập Vùng Trắng xung
quanh quần đảo Bogskar vào năm 1980 giữa
Liên Xô và Phần Lan (sau đó được thay thế
bằng Vùng Trắng giữa Phần Lan và Estonia
sau khi Liên Xô tan rã), và giữa Phần Lan và
Thụy Điển.
2. Thỏa thuận Vùng Xám giữa Liên Xô và
Na Uy tại vùng biển Barents
Khu vực biển Barents, một trong
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 24(352) T12/2017
những ngư trường hàng đầu thế giới, trong
đó Na Uy chiếm 50% và Liên Xô chiếm
12% tổng sản lượng cá được đánh bắt từ
vùng biển này14. Đặc biệt, vùng biển Barents
có diện tích khoảng 155.000 km2, tức là gấp
hơn 10 lần diện tích của vùng Biển Baltic,
được xem là đầu mối giao thông quan trọng
đối với Liên Xô và các tàu cá ở vùng biển
Bắc đi đến Đại Tây Dương. Na Uy đã đưa
ra Tuyên bố về Thềm lục địa vào năm 1963
và Liên Xô cũng đưa ra một tuyên bố tương
tự vào năm 1968. Trong quá trình đàm phán
phân định thềm lục địa giữa hai nước, Na Uy
đã đưa ra yêu sách về một đường cách đều
dựa trên Công ước Geneva năm 1958, trong
khi Liên Xô lại ủng hộ cho việc sử dụng
một đường hình rẻ quạt làm ranh giới phân
định15. Sự mâu thuẫn này giữa hai nước đã
tạo ra một vùng chồng lấn trong khu vực.
Trong quá trình thảo luận, cả hai nước đều
nhận ra tính cấp bách trong việc quản lý và
bảo tồn nguồn cá ở biển Barents liên quan
đến việc các nước thứ ba vào đánh bắt cá tại
khu vực này. Do vậy, hai nước đã thỏa thuận
thiết lập Vùng Xám để khai thác chung vào
ngày 11/11/197816.
Diện tích Vùng Xám này bao trùm
một phần lớn vùng biển đang bị tranh chấp ở
phía nam và một phần vùng đặc quyền kinh
tế mà Na Uy lẫn Liên Xô đều không có tranh
chấp17. Hai bên đồng ý hợp tác nhằm và đảm
bảo sự ổn định của các hoạt động đánh bắt
cá đối với từng loại cá riêng biệt theo Chính
sách Nghề cá chung của Liên minh Châu
14 W. Ostreng (1986), “Delimitation arrangements in Arctic Seas, Cases of precedence or securing of stategic/economic
interests?”, Marine Policy Journal, April, tr. 133-134.
15 Kristoffer Stabrun (2009), “The Grey Zone Agreement of 1978 Fishery Concerns, Security Challenges and Territorial
Interests”, Fridtjof Nansen Institute, tr. 2-3, truy cập ngày 12/07/2017 tại:
16 Alex G. Oude Elferink (1994), The Law of Maritime Boundary Delimitation: A Case Study of the Russian Federation,
Martinus Nijhoff Publishers, tr. 246.
17 Henriksen Tore and Ulfstein Geir (2011), “Maritime Delimitation in the Arctic: The Barents Sea Treaty”, Ocean
Development & International Law, Vol. 42 (1), tr. 2.
18 Điều III Hiệp định giữa Chính phủ Vương quốc Na Uy và Chính phủ Cộng hoà XHCN Liên bang Xô viết về hợp tác
nghề cá vào ngày 11/04/1975 (The Agreement between the Government of the Kingdom of Norway and the Government
of the Union of Soviet Socialist Republics on co-operation in the fishing industry of 11 April 1975).
19 Điều IV Hiệp định giữa Chính phủ Vương quốc Na Uy và Chính phủ Cộng hoà XHCN Liên bang Xô viết năm 1975.
20 Điều 2 Hiệp định giữa Chính phủ Vương quốc Na Uy và Chính phủ Cộng hoà XHCN Liên bang Xô viết về hợp tác nghề
cá vào ngày 15/10/1976 (The Agreement between the Government of the Kingdom of Norway and the Government of
the Union of Soviet Socialist Republics concerning mutual relations in the field of fisheries of 15 October 1976).
Âu, bằng cách lập ra Ủy ban liên hợp chung
về nghề cá giữa Liên Xô và Na Uy thông
qua Hiệp định hợp tác được ký kết vào năm
197518. Địa vị pháp lý của Uỷ ban này được
quy định cụ thể tại Điều 1 Phụ lục I Hiệp
định giữa Na Uy và Liên Xô về hợp tác
nghề cá vào ngày 1/10/1976 và duy trì hoạt
động trong vòng 15 năm. Ủy ban có thẩm
quyền đối với các vấn đề liên quan đến việc
thực thi các điều khoản của Hiệp định hợp
tác giữa các bên, lên kế hoạch phát triển sự
hợp tác trong các lĩnh vực được quy định tại
Hiệp định, tổ chức các buổi tham vấn và nếu
cần thiết, soạn thảo các đề nghị và khuyến
nghị cho Chính phủ hai nước, cũng như các
vấn đề được hai bên yêu cầu giải quyết19. Uỷ
ban được phép áp dụng các biện pháp mang
tính phòng ngừa để bảo tồn môi trường biển,
quản lý và khai thác các nguồn cá chung
nhằm mục tiêu bền vững. Cụ thể, qua việc
phân bố hạn ngạch nguồn cá chung và tổng
khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được
(total allowable catch - TAC) cho các quốc
gia có liên quan20. Tổng khối lượng đánh bắt
có thể chấp nhận được không chỉ dành cho
Liên Xô và Na Uy mà có thể được phân bổ
cho những nước thứ ba sau khi có sự tham
vấn chung giữa hai nước.
Cả hai bên đều ghi nhận sự cần thiết
phải có những quy định chung dành cho tàu
cá của hai nước và của nước thứ ba. Bất cứ
bên nào cũng có thể cho phép tàu cá của một
nước thứ ba đi vào Vùng Xám, nhưng trong
trường hợp đó, quốc gia cho phép phải thông
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 24(352) T12/2017
báo cho quốc gia kia biết trước. Mỗi bên đều
có thẩm quyền riêng biệt đối với hoạt động
đánh bắt quá mức của các tàu cá mang cờ
của mình và tàu cá mang cờ của quốc gia
thứ ba được cho phép hoạt động tại khu vực
này21. Hơn 30 năm sau, tháng 9/2010, Liên
bang Nga và Na Uy mới có thể ký kết một
hiệp định phân định biển cuối cùng22. Các
thoả thuận hợp tác về nghề cá và Ủy ban
liên hợp chung điều phối hoạt động nghề cá
giữa Liên Xô trước đây và Na Uy vẫn tiếp
tục duy trì và có hiệu lực thêm 15 năm kể từ
khi Hiệp định phân định biển năm 2010 giữa
Liên bang Nga và Na Uy có hiệu lực, và hết
thời hạn này sẽ được tự động gia hạn thêm
6 năm, sau đó mỗi lần, trừ khi một trong các
bên thông báo cho bên còn lại ý định chấm
dứt thoả thuận này ít nhất 6 tháng trước khi
khoảng thời gian gia hạn kết thúc23.
Có thể nói rằng, thoả thuận hợp tác
nghề cá giữa Liên Xô và Na Uy là một trong
những dàn xếp thiết lập Vùng Xám thành
công tiêu biểu về phương diện quản lý hiệu
quả hoạt động đánh bắt cá trong khi chờ
kết quả cuối cùng của quá trình phân định
biển. Về vấn đề quản lý môi trường biển nói
chung, có thể thấy hướng tiếp cận mang tính
phòng ngừa là nguyên tắc hoạt động của Uỷ
ban liên hợp nghề cá giữa hai quốc gia. Thay
thế cho cách tiếp cận truyền thống trước đó
là các biện pháp quản lý chỉ được áp dụng
trong trường hợp với mức độ chắc chắn cao
rằng môi trường hoặc nguồn tài nguyên sẽ
không bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nguyên
21 Điều 1 và 3 Hiệp định giữa Chính phủ Vương quốc Na Uy và Chính phủ Cộng hoà XHCN Liên bang Xô viết năm 1976.
Xem thêm: Henriksen Tore and Ulfstein Geir (2011), chú thích 33.
22 Hiệp định giữa Chính phủ Vương quốc Na Uy và Chính phủ Liên bang Nga về Phân định biển và Hợp tác tại Biển
Barents và Bắc Băng Dương vào ngày 15/09/2010. (Treaty between the Kingdom of Norway and the Russian Federation
concerning Maritime Delimitation and Cooperation in the Barents Sea and the Arctic Ocean on 15 September 2010)
Xem thêm: Nguyen Dang Thang (2012), “Fisheries Co-operation in the South China Sea and the (Ir)relevance of the
Sovereignty Question”, Asian Journal of International Law 2, tr. 82.
23 Điều 1 Phụ lục I Hiệp định giữa Chính phủ Vương quốc Na Uy và Chính phủ Liên bang Nga về Phân định biển và Hợp
tác tại Biển Barents và Bắc Băng Dương vào ngày 15/09/2010.
24 Trong Nghị định thư tại cuộc họp năm 1997, Uỷ ban này lưu ý: “Các bên đồng ý về nhu cầu phát triển các chiến lược
trong tương lai xa hơn liên quan đến hoạt động quản lý các đàn cá chung tại Biển Barents. Cho tới khi một chiến lược
như vậy được áp dụng đối với loài cá tuyết, các bên đồng ý tổng hạn ngạch hằng năm sẽ được thực hiện...”
Xem: Protokoll for den 26. sesjon i Den blandete norsk-russiske skerikommisjon, Oslo: Ministry norway and russia of
Fisheries, 1997, tr. 2.
tắc phòng ngừa này đã đảo ngược trách
nhiệm chứng minh lại. Theo đó, các biện
pháp phòng ngừa sẽ chỉ bị tạm dừng hay loại
trừ khi có bằng chứng khoa học chắc chắn
và đầy đủ rằng chúng không cần thiết. Do
đó, biện pháp phòng ngừa chính là nghĩa vụ
mà các quốc gia phải áp dụng.
Trong vụ tranh chấp giữa Liên Xô và
Na Uy, tuy Uỷ ban liên hợp nghề cá giữa
Liên Xô và Na Uy không thừa nhận nguyên
tắc này một cách rõ ràng, nhưng áp dụng
các khuyến nghị và thuật ngữ mang tính kỹ
thuật của Uỷ ban Nghề cá quốc tế (ICES),
vốn là cơ quan quy định chặt chẽ việc thực
hiện các biện pháp quản lý theo nguyên tắc
phòng ngừa24. Với những kết quả tích cực
trong việc hợp tác quản lý chung, Uỷ ban
liên hợp chung về nghề cá giữa Liên Xô và
Na Uy vẫn tiếp tục hoạt động ngay cả sau
khi các bên đã ký kết thoả thuận phân định
biển cuối cùng.
Bên cạnh những thành công về quản
lý và bảo tồn nguồn tài nguyên biển thì thỏa
thuận về Vùng Xám lại là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng các bên trì
trệ trong việc tiến tới thoả thuận phân định
cuối cùng. Thực tế, Na Uy tỏ vẻ không hài
lòng với cơ chế dàn xếp này vì cho rằng đây
là thoả thuận có lợi hơn cho phía Liên Xô
vì căn cứ vào bản đồ, phạm vi Vùng Trắng
mở rộng hơn rất nhiều về phía biển của Na
Uy không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế
bị chồng lấn theo yêu sách của hai bên. Với
Liên Xô, đây là một hiệp định với nhiều nội
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 24(352) T12/2017
dung có lợi cho nghề cá của nước này. Do
vậy, Liên Xô luôn muốn duy trì tình trạng
chưa phân định cuối cùng càng lâu càng tốt.
Bên cạnh đó, việc thiết lập Vùng Xám tạo ra
một tình huống tiến thoát lưỡng nan khi “các
mục tiêu mang tính chính trị dài hạn nhằm
xác định thẩm quyền và ảnh hưởng đối với
khu vực phía bắc mâu thuẫn với các mục tiêu
cấp thiết liên quan đến quy định về việc tiếp
cận nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt”25.
Minh chứng rõ ràng nhất là sau khi thiết lập
Vùng Xám, quá trình đàm phán phân định
giữa Liên Xô và Na Uy diễn ra khá chậm và
không có nhiều tiến triển tích cực.
Như vậy, có thể thấy rằng, đối với mục
đích đạt được thoả thuận phân định biển
nhanh nhất có thể, đặc biệt là đối với các
tranh chấp phức tạp thì cơ chế Vùng Xám
không đảm bảo được điều này. Liên quan
đến mục tiêu quản lý môi trường biển và tài
nguyên hiệu quả, dàn xếp tạm thời này tỏ ra
hữu ích một khi các quốc gia ý thức rõ ràng
nhiệm vụ của mình, cũng như quy định một
cơ chế giám sát - phối hợp chặt chẽ, và thực
hiện một cách thiện chí các thoả thuận đã
cam kết trên thực tế. Mặc dù vẫn còn nhiều
hạn chế nhưng dàn xếp Vùng Xám giữa
Liên Xô và Na Uy là ví dụ điển hình cho
thoả thuận tạm thời thành công trong thời
gian chờ giải quyết tranh chấp về phân định
biển26. Thực tiễn cho thấy, căng thẳng trong
khu vực tranh chấp được duy trì ở mức thấp
và hoạt động hợp tác nghề cá được đánh giá
khả quan, đặc biệt là việc thành lập Uỷ ban
Liên hợp nghề cá Na Uy - Liên Xô đã đạt
những thành quả nhất định mà tiêu biểu là
hiện nay đàn cá tuyết ở Bắc Băng Dương
25 Johan Jørgen Holst (1981), “Norway’s Search for a Nordpolitik”, Foreign Affairs Journal, Vol.60, tr. 83.
26 Kristoffer Stabrun (2009), The Grey Zone Agreement of 1978: Fishery Concerns, Security Challenges and Territorial
Interests, Fridtjof Nansens Institue, tr. 39.
27 Hønneland (2006), Kvotekamp og kyststatssolidaritet: Norsk-russisk fiskeriforvaltning gjennom 30 år, Fagbokforlaget,
tr. 142.
28 Rhee (1981), Equitable Solutions to the Mari- time Boundary Dispute Between the United States and Canada in the
Gulf of Maine, Journal of International Law, Vol. 75, tr. 593.
Xem thêm: Johnson (1977), “Canadian Foreign Policy and Fisheries”, Canadian Foreign Policy and The Law of the
Sea, Vol. 52.
được xem là một trong những đàn cá được
quản lý tốt nhất trên thế giới27.
3. Thoả thuận Vùng Xám Nhạt về hợp tác
nghề cá giữa Canada và Hoa Kỳ tại Vịnh
Maine
Thoả thuận thiết lập Vùng Xám Nhạt,
dù được định nghĩa không thật sự rõ ràng
như đã phân tích ở phần mở đầu, vẫn được
các quốc gia có tranh chấp về phân định
biển áp dụng trên thực tế, tiêu biểu qua Thoả
thuận nghề cá song phương giữa Canada và
Hoa Kỳ năm 1977.
Vấn đề mở rộng ranh giới trên biển ra
hướng vùng biển quốc tế không phải là vấn
đề gây mâu thuẫn nghiêm trọng giữa Hoa Kỳ
và Canada cho đến cuối những năm 1970.
Vào ngày 13/4/1976, Quốc hội Hoa Kỳ đã
ban hành Đạo luật Bảo tồn và Quản lý Nghề
cá (Fishery Conservation and Management
Act of 1976), theo đó mở rộng vùng đặc
quyền đánh bắt cá từ 12 lên 200 hải lý theo
quy định của vùng đặc quyền kinh tế, có hiệu
lực vào ngày 1/3/1977. Trước đó, năm 1976,
Canada cũng đưa ra tuyên bố tương tự và có
hiệu lực vào năm 197728. Do đó, tuyên bố
của hai bên đã tạo ra vùng đặc quyền kinh
tế chồng lấn. Hai bên vẫn tiếp tục đàm phán
cho đến tháng 10/1978, Canada và Hoa Kỳ
đều công nhận rằng, họ đã đạt được hầu hết
các thoả thuận về các vấn đề hoạt động nghề
cá nhưng chưa thể giải quyết việc phân định
biển, và cần có một bên thứ ba có thẩm quyền
đứng ra hoà giải. Vào ngày 29/3/1979, hai
nước đã ký kết các thoả thuận riêng nhưng
có mối liên hệ mật thiết với nhau gồm: Thoả
thuận về Nghề cá và Thoả thuận giải quyết
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 24(352) T12/2017
vấn đề biên giới29. Đối với Thoả thuận Nghề
cá, các bên thiết lập khu vực mà thoả thuận
này điều chỉnh lớn hơn vùng đặc quyền kinh
tế bị chồng lấn, đưa ra những quy định chi
tiết về việc chia sẻ các nguồn tài nguyên cụ
thể được liệt kê tại Phụ lục A, B và C Thoả
thuận, cũng như cho phép nhau vào khai thác
tại khu vực và tạo cơ chế hợp tác quản lý tài
nguyên biển. Cụ thể, hai quốc gia đã thiết
lập ba hình thức quản lý: (i) quản lý chung
đối với các đàn cá di cư, (ii) quản lý chính
yếu đối với các đàn cá mà hai bên có lợi ích
đặc biệt, và (iii) quản lý độc lập đối với các
đàn cá không thuộc khu vực tranh chấp30.
Các bên cũng thoả thuận phương thức giải
quyết tranh chấp và uỷ ban nghề cá chung để
việc thực thi thoả thuận diễn ra hiệu quả trên
thực tế31. Hiệu lực của thoả thuận này là vô
thời hạn và sẽ được xem xét lại căn cứ theo
tình hình của đối tượng đàn cá thuộc phạm
vi áp dụng32.
Tuy nhiên, tháng 3/1981, với lý do các
điều khoản được quy định theo hướng bất
lợi cho Hoa Kỳ, cũng như việc buộc phải ký
kết quy định thoả thuận này cùng với Thoả
thuận giải quyết vấn đề phân định là không
hợp lý, Tổng thống Mỹ Reagan đã tuyên bố
rút khỏi Thoả thuận về Nghề cá. Hai bên
quyết định đưa tranh chấp này ra giải quyết
tại Toà án Công lý quốc tế (ICJ) để yêu cầu
phân định ranh giới trên biển chia thềm lục
địa và vùng đánh cá của hai nước33. Trong
phán quyết vào năm 1984, ICJ đã phủ nhận
các luận điểm của Canada và Hoa Kỳ đồng
29 Agreement Between the Government of the United States and the Government of Canada on East Coast Fishery
Resources, S. EXEC. Doc. V, 96th Cong., 1st Sess. (1979); Treaty Between the Government of the United States and
the Government of Canada to Submit to Binding Dispute Settlement the Delimitation of the Maritime Boundary in the
ulf of Maine Area, Mar. 29, 1979, United States-Canada, 80 Stat. 271, T.I.A.S. No. 10204.
30 Điều II-XVII Thoả thuận về Nghề cá năm 1979.
31 Điều II, IV, VII, IX, XII, XIII, XVIII và XIX Thoả thuận về Nghề cá 1979.
32 Điều IX Thoả thuận về Nghề cá 1979.
33 Nora T. Terres (1985), “United States/Canada Gulf of Maine Maritime Boundary Delimitation”, Maryland Journal of
International Law, Vol. 9 (1), tr. 146.
34 Theo đó, đường biên giới này chia cho Canada một phần nguồn cá dồi dào tại Georges Bank nhưng không nhiều như
Canada yêu cầu, cũng như phân chia trách nhiệm quản lý nhiều đàn cá tại khu vực Vịnh Maine giữa Canada và Hoa Kỳ.
Xem: Gulf of Maine Area (Can. v. U.S.),1984 C.J. 246 (Judgment of Oct. 12), tr. 285, 289, 346.
35 Gulf of Maine Area (Can. v. U.S.), chú thích 45, tr. 343-344.
36 John Lavers & Ian Stewart (1992), “Fisheries Surveillance and Enforcement”, Canadian Ocean Law and Policy Jounal,
tr. 173, 182, 183.
thời quyết định một đường phân định biển
hoàn toàn khác so với yêu cầu của hai bên34.
ICJ cũng nhấn mạnh “truyền thống hợp tác
giải quyết các vấn đề về biển hữu nghị và
thành công” giữa Canada và Hoa Kỳ, và cho
rằng hoạt động hợp tác này “đã trở nên thật
sự cần thiết... trong lĩnh vực nghề cá” và yêu
cầu hai nước chung tay một lần nữa35. Tuy
nhiên, hai bên đã không tiến hành thêm bất
cứ động thái hợp tác song phương nào về
chiến lược quản lý hoạt động đánh bắt liên
quan tới các đàn cá di cư xuyên biên giới vì
không muốn lặp lại vết xe đổ của thoả thuận
hợp tác không thành trước đó. Bên cạnh đó,
thực tiễn cho thấy hành vi đánh bắt bất hợp
pháp của ngư dân hai nước diễn ra liên tục
và sự việc lên tới đỉnh điểm vào năm 1989,
tàu cá Hoa Kỳ khi đang đánh bắt ở Vịnh
Maine đã bị bắn qua mạn bởi đạn canon của
tàu Canada36.
Từ sự kiện này, các bên đã nhận thức
những hoạt động đánh bắt bất hợp pháp
xuyên biên giới ngày càng trầm trọng và cần
thiết phải tái thiết lập cơ chế hợp tác quản lý
hiệu quả hơn. Thoả thuận thực thi về nghề
cá năm 1990 quy định nghĩa vụ của Hoa Kỳ
và Canada là phải tham vấn với nhau về việc
thực hiện cam kết được ghi nhận, bao gồm
“thực tiễn thực thi luật pháp về nghề cá với
sự tôn trọng tuyệt đối biên giới trên biển”,
“nhằm đảm bảo sự tôn trọng toàn vẹn đường
biên giới trên biển giữa hai bên vốn đã được
phân định thông qua thoả thuận với nhau hay
được giải quyết tranh chấp bởi bên thứ ba,
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 24(352) T12/2017
bao gồm cả Toà án công lý quốc tế”37. Bên
cạnh đó, hai quốc gia cũng tiến hành trao đổi
về các thông tin khoa học và quản lý để thành
lập Uỷ ban Đánh giá tài nguyên xuyên biên
giới (Transboundary Resource Assessment
Committee), nhằm hợp tác đánh giá số lượng
đàn cá và đảm bảo việc sử dụng các khuyến
nghị khoa học trong quyết định quản lý giữa
hai quốc gia trên cơ sở “kết hợp tốt nhất các
nguồn thông tin sẵn có”38. Ngoài ra, hàng
năm, Uỷ ban Hướng dẫn quản lý Xuyên biên
giới (Transboundary Management Guidance
Committee) đều đề xuất TAC và phân chia
sản lượng đánh bắt giữa Canada và Hoa
Kỳ trong phần khu vực Georges Bank mà
đường phân định biên giới trên biển đi qua.
Điều đáng chú ý là hoạt động của Uỷ ban
Hướng dẫn này không dựa trên cơ sở điều
ước song phương nên có thể xem là không
mang tính chính thức về mặt pháp lý nhưng
kết quả hợp tác nghề cá xuyên biên giới giữa
hai bên vẫn đạt được trong một thời gian dài.
Qua tranh chấp này đã cho thấy, cả
Canada và Hoa Kỳ đều nhận thức được rằng
cá là nguồn tài nguyên quan trọng với chiến
lược phát triển của quốc gia, minh chứng
bằng việc lập luận của hai bên trước ICJ đều
khẳng định hoạt động đánh cá truyền thống
tại khu vực bị tranh chấp39, nhưng trong một
số thời điểm lại không được xem trọng trong
chính sách song phương40. Cốt lõi thành
công hay thất bại của việc hợp tác nghề cá
giữa Canada và Hoa Kỳ tuỳ thuộc vào sự
cân bằng giữa yêu sách về vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý theo pháp luật quốc tế và
nhiệm vụ quản lý nguồn tài nguyên biển.
Việc ký kết Thoả thuận năm 1979 nhằm bỏ
qua vấn đề phân định biển để quản lý nghề
cá chung đã bị phản đối bởi những người có
lợi ích liên quan và mong muốn cách giải
37 Điều 1, 2(c) và 5 Hiệp định về thực thi Hợp tác nghề cá giữa Hoa Kỳ và Canada vào ngày 26/9/1990.
38 Emily Pudden & David Vander Zwaag (2007), “Canada-USA Bilateral Fisheries Management in the Gulf of Maine:
Under the Radar Screen”, Rev. Eur. Community & Int'l Envtl L., Vol. 36, tr. 37.
39 Bản biện luận của Hoa Kỳ, đoạn 104-113; Bản biện luận của Canada, tr. 90-94, 200.
40 Ted L. McDorman (2009), “Canada -United States Cooperative Approaches to Shared Marine Fishery Resources:
Territorial Subversion?”, Michigan Journal of International Law, Vol. 30 (3), tr. 686.
41 Ted L. McDorman (2009), chú thích 51, tr. 686.
quyết mang tính lãnh thổ hơn bằng việc định
đoạt một đường biên giới rõ ràng. Tương tự,
nỗ lực hợp tác song phương giữa hai nước
đối với cá hồi đại dương những năm 90 cũng
bị ảnh hưởng bởi Hiệp hội nghề cá và người
có lợi ích liên quan lên tiếng yêu cầu một
phương pháp giải quyết khác ưu tiên vấn đề
lãnh thổ41. Dù phía Canada và Hoa Kỳ đã cố
gắng đạt được vấn đề này bằng cách song
song ký kết và duy trì hiệu lực hai thoả thuận
về nghề cá và biên giới nhưng đều bất thành.
Do đó, liên hệ thực tiễn giải quyết tranh
chấp này với Thoả thuận Vùng Xám của
Liên Xô và Na Uy, một lần nữa có thể khẳng
định, việc thiết lập cơ chế hợp tác nghề cá
chung bằng thoả thuận Vùng Xám hay Vùng
Xám Nhạt là khó cân bằng được giữa việc
phân định biển với việc quản lý, khai thác
hiệu quả nguồn tài nguyên tại khu vực đang
tranh chấp.
Ngoài ra, việc phân định trên biển
thông qua phán quyết của một bên thứ ba
trung lập, cũng không có nghĩa là hoạt động
hợp tác sẽ đương nhiên trở nên dễ dàng
hơn. Trong trường hợp này, giữa Hoa Kỳ
và Canada tồn tại những bất đồng khó giải
quyết, cũng như cả hai bên không thực sự
chấp thuận phán quyết của ICJ, từ đó xảy
ra tình trạng đánh bắt bất hợp pháp và gây
ra hậu quả nghiêm trọng ngay cả sau khi
có phán quyết cuối cùng của ICJ. Có thể
nói, việc hợp tác nghề cá trước và sau khi
tranh chấp phân định biển được giải quyết
phụ thuộc rất lớn vào thiện chí của các bên.
Ngoài ra, không phải bất kỳ cơ chế hợp tác
nào cũng đều tỏ ra hiệu quả. Điều này có
thể thấy qua sự thất bại của Thoả thuận năm
1979 và thành công của Thoả thuận năm
1990. Tuy nhiên, bỏ qua những yếu tố chính
trị, có thể nói, Thoả thuận năm 1979 thực
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 24(352) T12/2017
sự là ví dụ điển hình về cơ chế hợp tác quản
lý chặt chẽ, đặc biệt đối với các đàn cá sinh
sống ở vùng biên giới, là điểm tiến bộ hơn
hẳn so với thoả thuận giữa Liên Xô và Na
Uy lẫn Liên Xô và Thụy Điển. Dù vậy, cơ
chế không ràng buộc của Thoả thuận năm
1990 cũng đáng học hỏi khi tạo cơ sở cho
các bên thực hiện cam kết của mình trên cơ
sở thiện chí, mang tính đối thoại cao và tin
tưởng lẫn nhau. Do đó, sau những thất bại
ban đầu, thoả thuận giữa Canada và Hoa
Kỳ đối với khu vực tranh chấp trong Vịnh
Maine được xem là bài học tiêu biểu về cơ
chế hợp tác nghề cá chung thành công.
4. Thực tiễn thỏa thuận khai đánh bắt cá
chung giữa Việt Nam với Cambodia và
Trung Quốc
a. Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa
Việt Nam và Cambodia tại Vịnh Thái Lan
Việc phân định biển đối với khu vực
Vịnh Thái Lan vô cùng phức tạp và tốn
nhiều thời gian để đàm phán, thương lượng.
Bốn quốc gia hữu quan gồm Việt Nam, Thái
Lan, Malaysia và Cambodia đã lần lượt ký
kết các thỏa thuận nhằm hợp tác khai thác
chung, đặc biệt là đối với tài nguyên cá, để
đảm bảo lợi ích tạm thời trong khi chờ một
quyết định phân định chính thức. Cho đến
nay, đã có ba thỏa thuận được ký kết gồm:
Thoả thuận giữa Thái Lan - Malaysia (1979),
Việt Nam - Cambodia (1982) và Việt Nam -
Malaysia (1991). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng,
các Bản ghi nhớ về khai thác chung giữa
Thái Lan - Malaysia (1979) và Việt Nam -
Malaysia (1991) chỉ điều chỉnh hoạt động
thăm dò và khai thác dầu khí chung giữa các
nước tại khu vực chồng lấn thềm lục địa, chứ
không hề nhắc đến hoạt động nghề cá hoặc
chỉ đề cập mà không có quy định cụ thể. Do
đó, tại khu vực vịnh Thái Lan, chỉ có Hiệp
định về Vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và
Cambodia năm 1982 quy định về hoạt động
đánh bắt cá chung. Tuy nhiên, nội dung thỏa
thuận rất mờ nhạt, không rõ ràng và có vẻ
nghiêng về thỏa thuận mang tính chính trị
nhiều hơn. Cụ thể, Điều 3 của Hiệp định
quy định “Việc đánh bắt hải sản của nhân
dân địa phương trong vùng này vẫn tiếp
tục theo tập quán làm ăn từ trước tới nay”.
Trên thực tế, việc thiếu vắng cơ chế quản
lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên trong
khi cuộc chạy đua đánh bắt cá vẫn diễn ra
giữa các quốc gia tất yếu sẽ dẫn đến việc cạn
kiệt nguồn cá và ảnh hưởng đến môi trường
lẫn kinh tế của các quốc gia ven biển trong
dài hạn. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều
123 UNCLOS năm 1982, hợp tác trong việc
quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các
tài nguyên sinh vật biển còn là nghĩa vụ đặt
ra đối với các quốc gia ven biển nửa kín
thuộc Vịnh Thái Lan. Do đó, hai nước Việt
Nam và Cambodia cần nhanh chóng đàm
phán để giải quyết hiệu quả vấn đề lãnh thổ
trên biển cũng như thiết lập cơ chế quản lý
và bảo tồn nguồn tài nguyên biển tốt nhất
trong vùng biển chung của hai nước chưa
được phân định. Trước mắt, giữa hai nước,
nếu chưa thể sớm phân định biển cuối cùng
thì chúng tôi cho rằng, thỏa thuận thiết lập
Vùng Xám trên vùng biển còn tranh chấp,
chưa được phân định giữa hai nước là một
cách giải quyết khả quan. Để triển khai mô
hình này, hai nước cần thành lập một Ủy ban
hợp tác nghề cá với đại diện của các quốc
gia liên quan nhằm thống nhất ý kiến của
các bên đối với những vấn đề phát sinh trong
quá trình thực thi thỏa thuận, cũng như trao
quyền cho Ủy ban đưa ra quyết định mang
tính ràng buộc như trong các thỏa thuận hợp
tác chung giữa Liên Xô - Na Uy. Nếu cần
thiết, việc mở rộng thoả thuận áp dụng đối
với một số đàn cá đặc thù như thoả thuận
giữa Canada và Hoa Kỳ tại Vịnh Maine là
điều cần thiết giúp cho quá trình bảo tồn
và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
bền vững.
b. Thoả thuận Vùng Xám của Hiệp
định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và
Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ
Đến tháng 4/2000, việc đàm phán
nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ mới được tiến
hành. Qua 6 vòng đàm phán, hai bên nhất
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 24(352) T12/2017
trí lập vùng đánh cá chung có tính chất như
một Vùng Xám trong Vịnh Bắc Bộ, có bề
rộng là 30,5 hải lý kể từ đường phân định
về mỗi phía và có tổng diện tích là 33.500
km2, tức là khoảng 27,9% diện tích Vịnh.
Thời hạn của vùng đánh cá chung là 12 năm,
kể từ khi Hiệp định có hiệu lực và 3 năm
mặc nhiên gia hạn. Cần lưu ý rằng trong
quá trình đàm phán hoạch định, Trung Quốc
kiên trì đề nghị dàn xếp nghề cá bằng việc
lập Vùng đánh cá chung đồng thời với việc
phân định Vịnh Bắc Bộ và nhấn mạnh việc
gắn thoả thuận này với vấn đề hoạch định
Vịnh Bắc Bộ42. Có thể thấy cách tiếp cận
của Trung Quốc tương tự như Canada trong
Thoả thuận tại Vịnh Maine với Hoa Kỳ là bỏ
qua việc phân định biển dứt khoát, kéo dài
thời gian đàm phán nhằm đạt được những
lợi ích nhất định về hợp tác nghề cá trong
khoảng thời gian lên đến 15 năm. Phía Việt
Nam đã nhận thức được viễn cảnh này và
chủ trương tách vấn đề nghề cá ra khỏi vấn
đề hoạch định. Điều này được xem là tầm
nhìn và quyết định chiến lược của nước ta,
khắc phục được nhược điểm của một thoả
thuận Vùng Xám trong vấn đề phân định
biên giới, dù khoảng thời gian hợp tác nghề
cá vẫn là khá dài.
Về nội dung, Hiệp định hợp tác nghề
cá giữa Việt Nam và Trung Quốc quy định
vùng đánh cá chung thuộc vùng đặc quyền
kinh tế của bên nào thì bên đó có quyền
kiểm tra, kiểm soát các tàu thuyền đánh cá,
xử lý các vi phạm theo luật pháp của nước
mình và tuân thủ theo thỏa thuận chung của
hai nước trong khuôn khổ Ủy ban liên hợp.
Hiệp định cũng quy định cụ thể về phạm vi,
số lượng tầu cá đánh bắt cá, tiêu chí của máy
tàu của mỗi bên ở vùng đánh cá chung cùng
với vùng Dàn xếp quá độ và vùng Đệm cho
các tàu cá loại nhỏ. Mỗi bên đều có quyền
hợp tác, liên doanh với nước thứ ba trong
vùng nước của vùng đánh cá chung thuộc
42 Lê Công Phụng (2001), “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá giữa Việt Nam - Trung Quốc
trong Vịnh Bắc Bộ”,
Truy cập ngày 12/07/2017 tại:
vùng đặc quyền kinh tế của nước mình.
Ngoài Hiệp định Hợp tác nghề cá trong Vịnh
Bắc Bộ và Nghị định thư bổ sung Hiệp định
Hợp tác nghề cá, hai nước còn ký kết Quy
định về bảo tồn và quản lý nguồn thủy sản
trong vùng đánh cá chung; tạo cơ sở pháp
lý cho việc bảo tồn, quản lý, khai thác bền
vững nguồn thủy sản và giữ gìn an ninh trật
tự trong vùng đánh cá chung.
Nhìn chung, các quy định của Hiệp
định đã vận dụng tối đa kinh nghiệm từ các
dàn xếp tạm thời trước đây của các quốc gia
trên thế giới. Tuy nhiên, Hiệp định hợp tác
nghề cá cũng như Nghị định thư bổ sung và
Quy định về bảo tồn và quản lý nguồn lợi
thủy sản trong vùng đánh cá chung Vịnh
Bắc Bộ chưa quy định việc bảo tồn các đàn
cá di cư xa hoặc các đàn cá vào sông sinh
sản theo Điều 64 và Điều 66 của UNCLOS
1982, cũng như mùa đánh bắt cá nhằm mục
tiêu phát triển bền vững (như Thỏa thuận
Vùng Xám giữa Canada và Hoa Kỳ tại Vịnh
Maine) không được ấn định cụ thể. Mặt khác,
Hiệp định này cũng không quy định các vấn
đề liên quan đến xử lý đối với tàu thuyền
của nước thứ ba được quyền hoạt động trong
vùng đặc quyền kinh tế của nước khác theo
quy định của UNCLOS năm 1982.
Bên cạnh đó, vấn đề thực thi Hiệp
định này cũng đáng quan ngại. Với việc thực
thi trái với những điều khoản song phương
đã cam kết của Trung Quốc mà điển hình là
lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm từ ngày 16/5
đến 1/8 hàng năm, Việt Nam cần nghiên cứu
để đàm phán nhằm ký kết thoả thuận mới
công bằng và hợp lý hơn với Trung Quốc
như mô hình hợp tác giữa Canada và Hoa
Kỳ ở vịnh Maine.
5. Kết luận
Nghiên cứu các các thoả thuận tạm
thời phù hợp với Điều 74(3) UNCLOS 1982
giữa Liên Xô và Thụy Điển, Liên Xô và Na
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
65Số 24(352) T12/2017
Uy, Mỹ và Canada, Việt Nam với Cambodia
và Trung Quốc thông qua việc thiết lập Vùng
Trắng, Vùng Xám hay Vùng Xám Nhạt cho
thấy, việc thiết lập các vùng đánh cá chung
hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của
các quốc gia hữu quan. Dĩ nhiên, với các mô
hình thỏa thuận khác nhau sẽ dẫn tới các hệ
quả pháp lý và thực tiễn khác nhau. Nếu các
quốc gia là các bên tranh chấp thỏa thuận
lựa chọn Vùng Trắng để khai thác chung, thì
các bên tranh chấp lẫn bên thứ ba đều có
thể được vào khu vực này để đánh bắt cá
và vùng này sẽ có quy chế pháp lý như biển
quốc tế. Trong trường hợp này, nếu không
có sự quản lý chặt chẽ và hiệu quả nguồn
tài nguyên cá thì tất yếu sẽ dẫn đến việc
khai thác quá mức làm ảnh hưởng đến môi
trường biển chung và suy kiệt tài nguyên
các nói riêng. Nếu các quốc gia là các bên
tranh chấp lựa chọn thiết lập Vùng Xám hay
Vùng Xám Nhạt để hợp tác đánh bắt cá thì
việc khai thác chỉ giới hạn đối với các quốc
gia thỏa thuận thiết lập Vùng Xám. Điểm
ưu việt của của thỏa thuận Vùng Xám hay
Vùng Xám Nhạt là sẽ bảo tồn được nguồn
tài nguyên cá, tránh nguy cơ đánh bắt cạn
kiệt do khai thác quá mức.
Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết một
số thoả thuận hợp tác nghề cá với các quốc
gia có quyền lợi liên quan tại các vùng biển
đang tranh chấp ở khu vực biển Đông mà
điển hình là thoả thuận về Vùng nước lịch sử
giữa Việt Nam và Cambodia tại Vịnh Thái
Lan năm 1982 và Hiệp định hợp tác nghề cá
Việt Nam - Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ năm
2000. Tuy nhiên, về nội dung và các biện
pháp thực thi các thỏa thuận này chưa thật
sự hiệu quả, đặc biệt là thỏa thuận về vùng
nước lịch sử giữa Việt Nam và Cambodia
trong Vịnh Thái Lan năm 1982. Thực tiễn
này đòi hỏi Việt Nam, Cambodia và Trung
Quốc cần phải đàm phán để sửa đổi, bổ sung
trong tương lai.
43 Ngô Hữu Phước (2017), “Thực tiễn hợp tác đánh bắt cá trên các vùng biển tranh chấp và bài học kinh nghiệm cho các
nước trong khu vực biển Đông”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, Số 03(106)/2017, tr. 61-70.
Bên cạnh những thoả thuận hợp tác
nghề cá đã được ký kết, cho đến nay, Việt
Nam đang có năm vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa chồng lấn với các quốc
gia trong khu vực nhưng chưa phân định,
gồm: (i) vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa chồng lấn giữa Việt Nam và Trung
Quốc khu vực cửa Nam của Vịnh Bắc
Bộ, (ii) vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn
giữa Việt Nam và Indonesia, (iii) vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn
giữa Việt Nam và Malaysia trong Vịnh Thái
Lan, (iv) vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn
giữa Việt Nam và Philippines và (v) vùng
biển chồng lấn, chưa được phân định giữa
Việt Nam và Cambodia43. Với những vùng
chồng lấn chưa được phân định này, chúng
tôi cho rằng, Việt Nam và các quốc gia
liên quan cần thỏa thuận để lựa chọn “giải
pháp tạm thời” theo quy định tại Điều 74
và 83 của UNCLOS năm 1982 để thiết lập
các mô hình Vùng Trắng, Vùng Xám hay
Vùng Xám Nhạt để khai thác hiệu quả tài
nguyên biển nói chung và tài nguyên cá nói
riêng; góp phần làm “loãng”, “mềm hóa”
các tranh chấp biển, loại trừ nguy cơ xung
đột giữa các bên liên quan, góp phần gìn
giữ và bảo vệ môi trường an ninh trên biển.
Mặt khác, hợp tác đánh bắt cá trên các vùng
biển chồng lấn chưa được phân định là biện
pháp “tạm gác tranh chấp, cùng khai thác”,
vừa đáp ứng được nhu cầu về khai thác tài
nguyên thủy hải sản phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội, vừa duy trì mối quan hệ
chính trị, ngoại giao tốt đẹp giữa các quốc
gia. Việc thiết lập các khu vực đánh bắt cá
chung có thể là tiền đề, là cơ sở pháp lý quan
trọng để các bên tranh chấp tiến tới thỏa
thuận cuối cùng để xác định đường biên giới
trên biển hoặc đường phân định biển trong
tương lai. Tuy nhiên, về phương diện pháp
lý, các thỏa thuận khai thác chung không
ảnh hưởng đến việc phân định biển cuối
cùng giữa các bên liên quan
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
66 Số 24(352) T12/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_hop_tac_nghe_ca_o_cac_vung_bien_chong_lan_dang_tranh.pdf