Trong giai đoạn đàn hồi, cột SFE có ứng xử
cứng hơn so với cột SFC. Đối với cột SFE, lõi bê
tông và ống thép được tiếp nhận tải đồng thời nên
tải trọng được phân phối ngay từ đầu cho cả ống
thép và lõi bê tông. Trong khi đó, cột SFC cho thấy
lõi bê tông chịu hầu như toàn bộ tải trọng trong giai
đoạn đầu.
Ứng xử của cột SFS, trong giai đoạn đàn hồi, là
tương tự với cột ống thép rỗng SES. Tuy nhiên, sau
khi ống thép chảy thì phần bê tông tham gia chịu lực,
khả năng chịu lực của cột được phục hồi cho đến khi
bê tông đạt được cường độ tối đa. Trong quá trình
gia tăng tải trọng, sự làm việc của cột SES và SFS
cho thấy sự khác nhau trong xu hướng mất ổn định
cục bộ của ống thép. Trong đó, đối với cột SES, sự
mất ổn định cục bộ là ống thép biến dạng lõm vào
bên trong và bắt đầu tăng kích thước cùng với sự
biến dạng thẳng đứng (hình 11a). Ngược lại, cột SFS
cho thấy sự mất ổn định cục bộ của ống thép là biến
dạng lồi ra bên ngoài do có sự ngăn cản bởi lõi bê
tông từ bên trong. Do đó, sự mất ổn định cục bộ của
ống thép trong trường hợp này là cột bị biến dạng
lượn sóng về phía bên ngoài
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 970 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô phỏng cột ngắn ống thép nhồi bê tông cường độ cao chịu tải trọng nén đúng tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 17 
MÔ PHỎNG CỘT NGẮN ỐNG THÉP NHỒI BÊ TÔNG 
CƯỜNG ĐỘ CAO CHỊU TẢI TRỌNG NÉN ĐÚNG TÂM 
ThS. PHAN ĐÌNH HÀO, KS. TRỊNH HỮU HIỆP 
Trường Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng 
 Tóm tắt: Khả năng chịu lực cực hạn (chịu nén) 
của cột ống thép nhồi bê tông (gọi tắt, theo Tiếng 
Anh, là CFST) phụ thuộc chủ yếu vào đặc tính của 
các vật liệu cấu thành. Ngoài ra, ứng xử của cột còn 
phụ thuộc vào hiệu ứng giam giữ của ống thép tác 
dụng lên lõi bê tông và đặc tính hình học của ống 
như tiết diện ngang hay tỷ số của bề rộng cột với 
chiều dày của ống thép. Nghiên cứu này sử dụng 
phần mềm ABAQUS để phân tích sự ảnh hưởng 
của cường độ bê tông đến khả năng chịu lực của 
cột CFST dưới tác dụng của tải trọng nén dọc trục. 
Nhằm nâng cao kiến thức liên quan đến ứng xử cơ 
học của cột CFST và việc sử dụng hiệu quả bê tông 
cường độ cao, các mô hình phần tử hữu hạn phi 
tuyến ba chiều đã được xây dựng và thực hiện quá 
trình phân tích số cho cột ngắn CFST. Nghiên cứu 
được thực hiện với ba trường hợp đặt tải khác nhau, 
bao gồm tải trọng chỉ tác dụng lên lõi bê tông, tải 
trọng chỉ tác dụng lên ống thép và tải trọng tác dụng 
đồng thời lên cả lõi bê tông và ống thép. Kết quả 
khảo sát cho thấy trường hợp cột CFST nén lên 
phần lõi bê tông có sức chịu nén tối đa lớn nhất, 
hơn nữa khả năng chịu tải của các cột cũng tăng khi 
tăng cường độ chịu nén của bê tông nhồi. 
 Từ khóa: Cột ống thép nhồi bê tông (CFST); 
cường độ chịu nén tối đa; bê tông cường độ cao; 
hiệu ứng giam giữ; ứng xử cơ học; tải trọng nén 
đúng tâm; mất ổn định cục bộ. 
1. Đặt vấn đề 
1.1 Xu hướng phát triển của xây dựng hiện đại 
 Nhu cầu xây dựng nhà cao tầng ở Việt Nam 
đang gia tăng mạnh mẽ. Việc tăng cường độ chịu 
nén của bê tông cho phép cột có tiết diện nhỏ hơn 
và cho phép sử dụng nhiều không gian sàn hơn. 
Tuy nhiên, khi sử dụng bê tông cường độ cao cho 
các cột có kích thước nhỏ hơn thì có thể xảy ra sự 
phá hoại dòn. Đối với cột bê tông cốt thép truyền 
thống, để ngăn chặn sự phá hoại dòn cũng như 
tăng độ dẻo cho cột, khoảng cách giữa các cốt thép 
đai thường được giảm xuống. Nói cách khác, số 
lượng thép đai sử dụng cho cột tăng lên và điều này 
sẽ tạo ra một mặt trụ tự nhiên tách biệt lõi bê tông bị 
giam giữ bên trong với lớp bê tông bảo vệ bên 
ngoài. Vì vậy, nguy cơ nứt vỡ sớm của lớp bê tông 
bảo vệ khi cột làm việc sẽ tăng cao. Trên cơ sở đó, 
cột ống thép nhồi bê tông (Concrete Filled Steel 
Tube - CFST) là một giải pháp thay thế hiệu quả 
cho các cột bê tông cốt thép truyền thống. Ở các 
quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Úc, Nhật Bản, 
Trung Quốc, Thụy Điển, việc sử dụng cột CFST 
trong hệ kết cấu đã tăng lên đáng kể, đặc biệt là các 
vùng thường xảy ra động đất. Các cột CFST có khả 
năng chống động đất tốt nhờ các tính năng ưu việt 
như có cường độ nén lớn và độ dẻo cao cũng như 
khả năng tiêu tán năng lượng rất tốt. 
1.2 Tình hình nghiên cứu và ứng dụng kết cấu CFST 
 Cột CFST được nghiên cứu và ứng dụng trong 
việc xây dựng nhà cao tầng và cầu vượt nhịp tại 
một số quốc gia tiên tiến trên Thế giới như đã đề 
cập ở trên. Do vậy, cột CFST có tiết diện vuông và 
tròn đã được phân tích mô hình và thí nghiệm về 
cường độ chịu lực, khả năng ổn định cục bộ của 
ống thép, ứng xử chịu uốn, bởi một số tác giả 
như: Ge và Usami (1992, 1994); Uy (1998); Han 
(2004); Fujimoto và cộng sự (2004); Yu và cộng sự 
(2007); Han và cộng sự (2008). Trong các nghiên 
cứu trên, phần lớn được thực hiện bằng phương 
pháp thí nghiệm các mẫu thử và phân tích kết quả 
ứng xử thu được từ thí nghiệm. Các nghiên cứu 
dựa trên mô phỏng số còn hạn chế về số lượng và 
việc phân tích vẫn chưa sâu sắc do tính chất phức 
tạp của loại kết cấu liên hợp này. 
 Tại Việt Nam, có một số nghiên cứu về lý thuyết 
và mô hình tính toán dùng để phân tích ứng xử phi 
tuyến kết cấu CFST (Phan Đình Hào và cộng sự, 
2012); đánh giá khả năng chịu tải của cột CFST 
(Chu Thị Bình, 2011); nghiên cứu thực nghiệm nén 
cột ngắn CFST tiết diện tròn mẫu lớn (Ngô Hữu 
Cường và cộng sự, 2016) nghiên cứu gia cường 
chống trượt giữa lõi bê tông và bề mặt ống thép đối 
với cột mảnh CFST chịu nén lệch tâm (Lê Xuân 
Dũng và Phạm Mỹ, 2016). Tuy nhiên, các nghiên 
cứu trên vẫn còn rời rạc, đồng thời việc ứng dụng 
loại kết cấu này ở nước ta chưa được triển khai 
rộng rãi. Hơn nữa, đến nay chưa có Tiêu chuẩn Việt 
Nam dành cho việc thiết kế và thi công kết cấu 
CFST. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn về khả năng 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
18 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
chịu lực của cột CFST là thực sự cần thiết, đặc biệt 
là trong trường hợp sử dụng bê tông cường độ cao. 
1.3 Nhiệm vụ nghiên cứu 
 Mục đích chính của bài báo là phân tích và đánh 
giá khả năng chịu tải trọng nén đúng tâm của cột 
CFST khi sử dụng bê tông cường độ cao lần lượt là 
65, 75 và 85 MPa. Đồng thời, nghiên cứu cũng khảo 
sát về sự phân phối lực dọc giữa lõi bê tông và ống 
thép khi chịu tải trọng nén đúng tâm; đánh giá sự 
gia tăng cường độ chịu nén của lõi bê tông do hiệu 
ứng giam giữ được tạo ra bởi ống thép. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1 Mô hình hóa phần tử hữu hạn 
2.1.1 Yêu cầu của việc mô phỏng 
 Xây dựng mô hình phần tử hữu hạn (PTHH) 
bằng phần mềm Abaqus nhằm để mô phỏng sự làm 
việc của cột ống thép nhồi bê tông dưới tác dụng 
của tải trọng nén. Từ kết quả phân tích số, các 
thông tin chi tiết về sự phân bố của ứng suất và 
biến dạng trong cột sẽ được cung cấp giúp tăng 
cường sự hiểu biết tốt hơn về ứng xử cơ học của 
loại kết cấu liên hợp này. Yêu cầu đặt ra là mô hình 
PTHH cần được xây dựng sao cho mô phỏng sự 
làm việc của cột một cách thực tế nhất. Đặc biệt, 
tính chất cơ học của các vật liệu thành phần, sự làm 
việc tương tác giữa ống thép và lõi bê tông cũng 
như sự gia tăng cường độ chịu nén của bê tông do 
hiệu ứng giam giữ cần được quan tâm đúng mức 
trong quá trình mô phỏng. 
2.1.2 Mô hình hóa phần tử hữu hạn 
 Ống thép, lõi bê tông và các tấm gia tải là những 
vật thể tách biệt có sự tương tác với nhau trong quá 
trình làm việc. Để mô phỏng chính xác ứng xử thực 
tế của cột liên hợp CFST, các thành phần của cột 
phải được mô hình với những loại phần tử phù hợp. 
Một mô hình PTHH 3 chiều dựa trên các phần tử 
khối được thành lập. Bề mặt tiếp xúc chung giữa 
ống thép, lõi bê tông và tấm tải được mô phỏng 
bằng cách áp dụng tương tác bề mặt dựa trên mô 
hình ma sát Coulomb. Để mô hình ống thép, phần 
tử khối 8 nút (C3D8) với đầy đủ các điểm tích hợp 
được sử dụng. Trong khi đó, lõi bê tông sử dụng 
đồng thời phần tử khối 8 nút và 6 nút (C3D6) với việc 
giảm số điểm tích hợp (hình 1 và hình 2). Đối với 
các tấm gia tải, phần tử cứng 4 nút (R3D4) được sử 
dụng như trên hình 3. Việc chia lưới ống thép và lõi 
bê tông được thực hiện một cách khá đơn giản 
nhưng cần phải đảm bảo độ chính xác của lời giải 
khi phân tích (hình 4). 
Hình 1. Phần tử C3D8 Hình 2. Phần tử C3D6 Hình 3. Phần tử R3D4 
Hình 4. Chia lưới ống thép và lõi bê tông 
Face 6
Face 2 Face 5
Face 4
Face 3Face 1
1
5
4
8 7
3
2
6
8-node element
Z Y
X
1
2
3
4
5
6
Face 3
Face 1
Face 2 Face 5
Face 4
n
Face SPOS
Face SNEG
1 2
34
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 19 
2.1.3 Mô hình vật liệu 
a. Vật liệu bê tông 
 Mô hình phá hoại dẻo, Damage Plasticity Model, 
trong phần mềm Abaqus được sử dụng để mô 
phỏng ứng xử của bê tông trong cột liên hợp CFST. 
Mô hình này có khả năng dự đoán cả ứng xử nén 
và kéo của bê tông dưới áp lực giam giữ. Đường 
cong quan hệ giữa ứng suất và biến dạng khi nén 
đơn trục của bê tông sử dụng cho việc phân tích là 
kết quả thu được từ các thí nghiệm nén mẫu hình 
trụ tiêu chuẩn với bê tông được trộn từ cùng một 
mẻ cho các cột. Trong các thí nghiệm này, mối quan 
hệ ứng suất biến dạng chỉ được ghi đến ứng suất 
lớn nhất (Ultimate Strength), do vậy phần còn lại 
của mối quan hệ giữa ứng suất và biến dạng được 
lấy tương ứng với một đường thẳng chỉ với độ dốc 
nhỏ. Mô hình độ cứng kéo được sử dụng để xác 
định các thuộc tính nứt và sau nứt của bê tông. Mô 
hình này giả định rằng ứng suất trực tiếp qua một 
vết nứt giảm dần về không khi vết nứt mở ra. Hệ số 
Poisson của bê tông trong miền biến dạng đàn hồi 
được lấy là c = 0.2. 
b. Vật liệu thép 
 Một mô hình đàn hồi dẻo với tiêu chí chảy dẻo 
Von-Mises liên quan đến quy tắc dòng chảy và biến 
dạng cứng đẳng hướng được sử dụng để mô tả 
ứng xử cơ bản của ống thép (HKS 1997). Mối quan 
hệ giữa ứng suất và biến dạng đầy đủ thu được từ 
các thí nghiệm kéo đơn trục trên các mẫu được sử 
dụng trong quá trình phân tích mô hình PTHH. Hệ 
số Poisson của thép trong miền biến dạng đàn hồi 
được lấy là a = 0.3. 
2.2 Tính chất của các loại vật liệu 
2.2.1 Bê tông 
 Tất cả các mẫu được đúc theo phương thẳng 
đứng với bê tông cùng một mẻ trộn để đảm bảo 
tính đồng nhất về chất lượng của bê tông giữa 
các cột. Các thí nghiệm về vật liệu của bê tông 
được thực hiện để xác định cường độ chịu nén ở 
tuổi 28 ngày, bao gồm các mẫu bê tông được đúc 
thành mẫu hình trụ và mẫu hình lập phương, theo 
Tiêu chuẩn Thụy Điển [18]. Đối với các mẫu hình 
trụ có đường kính D = 150 mm, chiều cao H = 
300 mm thì cường độ chịu nén của mẫu là fc,cyl = 
65 MPa, mô đun đàn hồi là Ec = 38.5 GPa. Đối 
với các mẫu hình lập phương 150x150x150 mm, 
cường độ chịu nén của mẫu là fc,cube = 79.4 MPa. 
Năng lượng khi xảy ra nứt của bê tông, GF = 157 
N/m, được xác định là năng lượng yêu cầu để mở 
ra một đơn vị diện tích của bề mặt vết nứt, theo 
RILEM (1985). Đây là một thuộc tính của vật liệu 
và không phụ thuộc vào kích thước của kết cấu. 
Các kết quả về đặc tính của bê tông được thể 
hiện như ở bảng 1 và hình 5. 
Bảng 1. Đặc tính vật liệu bê tông [18] 
Khối lượng riêng 
(kg/m3) 
Cường độ chịu nén (MPa) Mô đun 
đàn hồi (MPa) 
2400 
65 38500 
75 40800 
85 43332 
Hình 5. Đường cong ứng suất - biến dạng của bê tông [18] 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
20 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
2.2.2 Ống thép 
 Các thí nghiệm kéo mẫu thép được tiến hành 
theo Tiêu chuẩn Thụy Điển [18]. Tính chất trung 
bình của 5 mẫu kéo bao gồm: ứng suất chảy fy = 
433 MPa, ứng suất bền fu = 568 MPa, biến dạng tại 
điểm bắt đầu hóa cứng là εah = 0.029, biến dạng 
tương ứng với ứng suất bền là εau = 0.136, mô đun 
đàn hồi là Ea = 206 GPa. Đường cong quan hệ ứng 
suất - biến dạng khi kéo của ống thép được thể hiện 
như trên hình 6. 
 Hình 6. Đường cong ứng suất - biến dạng của ống thép [18] 
2.2.3 Tính toán sức chịu tải tối đa của cột theo 
Eurocode 4 
 Giả thiết xảy ra sự tương tác đầy đủ giữa ống 
thép và lõi bê tông, khi đó sức chịu tải tối đa của cột 
CFST có thể được tính toán theo Tiêu chuẩn 
Eurocode 4 (EC4) như sau: 
 Pu,cal = Pa,cal + Pc,cal (1) 
trong đó: 
 - Pa,cal - sức kháng dẻo danh nghĩa của tiết diện 
ống thép. 
 Pa,cal= fyAa (2) 
 - Pc,cal - sức kháng dẻo danh nghĩa của tiết diện 
bê tông. 
 Pc,cal = fc,cylAc (3) 
 - fy - ứng suất chảy của ống thép, thu được từ 
kết quả của các thí nghiệm vật liệu; 
 - fc,cyl - cường độ chịu nén của mẫu bê tông hình 
trụ, thu được từ các thí nghiệm vật liệu; 
 - Aa, Ac lần lượt là diện tích mặt cắt ngang của 
ống thép và lõi bê tông. 
 Sức kháng dẻo danh nghĩa của tiết diện ống 
thép: 
2 2 3
, 433 (159 149.4 ) 10 1007( )4a cal y a
P f A kN
       
Sức kháng dẻo danh nghĩa của tiết diện bê tông: 
2 3
, , 65 149.4 10 1139( )4c cal c cyl c
P f A kN
     
Sức chịu tải tối đa của cột theo EC4: 
 , , ,
1007 1139 2146( )u cal a cal c calP P P kN     
Bảng 2. Sức chịu tải của các cột CFST theo EC4 
Sức chịu tải tính toán (kN) 
Cường độ bê tông (MPa) 
65 75 85 
Pa,cal 1007 1007 1007 
Pc,cal 1139 1315 1490 
Pu,cal 2146 2322 2497 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 21 
2.3 Các dạng cột được mô phỏng 
2.3.1 Các trường hợp đặt tải trọng 
 Điều kiện chịu tải cơ bản là cột chịu lực nén 
đúng tâm, phần ống thép và lõi bê tông chịu tải 
đồng thời. Tuy nhiên, với mục đích phân tích, đánh 
giá ứng xử cơ học khác nhau của các cột CFST và 
hiệu ứng giam giữ của ống thép đối với lõi bê tông, 
mô hình được xây dựng thêm dành cho hai điều 
kiện tải trọng khác là tải trọng chỉ áp dụng lên riêng 
phần lõi bê tông và tải trọng chỉ áp dụng lên riêng 
phần ống thép. Để áp dụng tải cho hai trường hợp 
nén trên phần lõi bê tông và nén trên phần ống thép 
thì trong khoảng 10 mm cuối cùng ở đầu cột không 
được đổ đầy bê tông. Ngoài ra, trường hợp đặt tải 
trọng nén đúng tâm lên ống thép rỗng cũng được 
thực hiện để lấy kết quả làm tham chiếu cho các 
trường hợp được nghiên cứu nêu trên. Do đó, toàn 
bộ các trường hợp đặt tải trọng được tóm tắt như 
sau: 
- SES: cột ống thép thuần túy, tải trọng tác 
dụng lên ống thép rỗng; 
- SFC: cột CFST, tải trọng chỉ tác dụng lên 
phần lõi bê tông; 
- SFS: cột CFST, tải trọng chỉ tác dụng lên 
phần ống thép; 
- SFE: cột CFST, tải trọng tác dụng lên toàn 
bộ tiết diện ống thép và lõi bê tông. 
2.3.2 Đặc trưng hình học của các cột CFST 
 Cột có chiều cao 650 mm, tiết diện ngang có 
đường kính ngoài là 159 mm và chiều dày ống thép 
là 4.8 mm (hình 7). Trong đó: 
Hình 7. Các trường hợp tải trọng tác dụng 
a. Tải trọng tác dụng chỉ trên phần lõi bê tông; 
b. Tải trọng tác dụng chỉ trên phần ống thép; 
c. Tải trọng tác dụng lên cả phần lõi bê tông và 
ống thép; 
d. Tiết diện ngang của các cột CFST. 
2.4 Sự tương tác giữa ống thép và lõi bê tông 
 Trong quá trình mô phỏng các cột CFST, sự 
tương tác giữa ống thép và lõi bê tông cần được 
xem xét. Sử dụng các tiếp xúc bề mặt để khai báo 
cho sự tương tác giữa bề mặt trong của ống thép và 
bề mặt ngoài của lõi bê tông. 
 Khi bề mặt trong của ống thép và lõi bê tông tiếp 
xúc với nhau dưới tác dụng của tải trọng nén, chúng 
truyền lực cắt và các lực theo phương vuông góc 
trên bề mặt chung của chúng. Độ ôm chặt giữa ống 
thép và lõi bê tông được mô phỏng dựa trên sự 
tương tác bề mặt với mô hình tiếp xúc pressure-
overclosure theo phương vuông góc và mô hình ma 
sát Coulomb theo hướng tiếp tuyến với bề mặt tiếp 
xúc. Với việc sử dụng các mô hình này, các bề mặt 
có thể tách biệt và trượt tương đối với nhau cũng 
như là truyền áp lực tiếp xúc và ứng suất cắt giữa 
lõi bê tông và ống thép. 
 Trong các hình thức cơ bản của mô hình ma sát 
Coulomb, hai bề mặt tiếp xúc có thể cùng chịu ứng 
suất cắt trên bề mặt chung của chúng đến một 
cường độ nhất định trước khi chúng bắt đầu trượt 
tương đối với nhau. Mô hình ma sát Coulomb định 
nghĩa ứng suất cắt quan trọng này là τcrit mà tại đó 
sự trượt giữa các bề mặt bắt đầu. Ứng suất cắt 
quan trọng Tcrit được định nghĩa như là một phần 
của áp lực tiếp xúc p giữa các bề mặt. 
 crit p  (4) 
 trong đó: μ là hệ số ma sát giữa lõi bê tông và 
ống thép. Theo Baltay và Gjelsvik (1990), hệ số ma 
sát giữa bê tông và thép có giá trị từ 0.2 đến 0.6. Ở 
đây, hệ số ma sát được lấy bằng 0.2 đối với tất cả 
các trường hợp phân tích mô hình PTHH. 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
22 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
 Khi bề mặt bê tông và ống thép tiếp xúc với nhau 
thì áp lực tiếp xúc được truyền giữa chúng. Ngược 
lại, áp lực tiếp xúc sẽ giảm về giá trị không (0) khi 
các bề mặt tách biệt với nhau. 
2.5 Điều kiện biên và cách áp dụng tải trọng 
2.5.1 Điều kiện biên 
 Hình 8 cho thấy hai tấm gia tải được sử dụng tại 
các đầu cột trong quá trình thí nghiệm nén. Trong 
mô hình PTHH, sử dụng phần tử tấm cứng để mô 
hình cho các tấm gia tải này. Trong cả thí nghiệm và 
mô hình PTHH, tải trọng được áp dụng cho các cột 
thông qua tấm gia tải phía trên. Do đó, tấm gia tải 
phía trên được ngăn cản chuyển vị theo 5 bậc tự 
do, chỉ cho phép sự dịch chuyển theo phương dọc 
trục cột. Trong khi đó, tấm gia tải phía dưới được 
ngăn cản chuyển vị theo cả 6 bậc tự do. 
 Trong các thí nghiệm, sự tiếp xúc trực tiếp giữa 
các tấm gia tải và các bề mặt của cột được thực 
hiện để thu được các kết quả chính xác. Do đó, sự 
tương tác giữa tấm gia tải và các bề mặt cột trong 
phần mềm Abaqus được sử dụng để mô hình sự 
làm việc đúng với thực tế. 
2.5.2 Cách áp dụng tải trọng 
 Trong nghiên cứu này, mục tiêu cần đạt được là 
theo dõi đến cuối cùng các ứng xử cơ học của cột 
nên tải trọng được áp dụng theo phương pháp gia 
tải bằng cách tăng dần chuyển vị tại nút trung tâm 
của tấm tải phía trên. Nhằm đạt mục tiêu phân phối 
đều tải trọng lên đầu cột, tất cả các nút khác ở trên 
bề mặt của tấm gia tải buộc phải có sự tịnh tiến 
thẳng đứng giống như nút trung tâm. Ngoài ra, 
phương pháp Newton-Raphson đã được ứng dụng 
để tìm sự cân bằng trong mỗi cấp gia tải. 
3. Kết quả nghiên cứu và khảo sát 
3.1 Quan hệ lực và chuyển vị dọc trục của các 
cột CFST 
 Kết quả mô phỏng thu được có thể xem trên 
hình 8-10 như bên dưới. 
Hình 8. Quan hệ lực - chuyển vị Hình 9. Quan hệ lực - chuyển vị Hình 10. Quan hệ lực - chuyển vị 
dọc trục tại đỉnh các cột CFST dọc trục tại đỉnh các cột CFST dọc trục tại đỉnh các cột CFST 
với bê tông nhồi 65 MPa với bê tông nhồi 75 MPa với bê tông nhồi 85 MPa 
3.2 Khả năng chịu lực của các cột CFST 
Bảng 3. Sức chịu tải tối đa của các cột CFST theo mô hình PTHH (kN) 
Trường hợp tải Cường độ bê tông (MPa) 
65 75 85 
SES 1008 1008 1008 
SFC 2914 3159 3280 
SFS 994-2692 994-2951 994-3065 
SFE 2334 2580 2688 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 23 
3.3 Các dạng phá hoại của cột CFST - 65 MPa- PTHH 
a. Cột SES b. Cột SFC c. Cột SFS d. Cột SFE 
Hình 11. Biến dạng của cột SES và cột SFC Hình 12. Biến dạng của cột SFS và cột SFE 
3.4 Ứng suất trong ống thép và lõi bê tông của các cột CFST - 65 MPa – PTHH 
a. Ứng suất pháp b. Ứng suất tiếp a. Ứng suất pháp b. Ứng suất tiếp 
Hình 13. Ứng suất pháp và ứng suất tiếp Hình 14. Ứng suất pháp và ứng suất tiếp 
trong ống thép của cột SES trong lõi bê tông cột SFC 
a. Ứng suất pháp b. Ứng suất tiếp a. Ứng suất pháp b. Ứng suất tiếp 
Hình 15. Ứng suất pháp và ứng suất tiếp Hình 16. Ứng suất pháp và ứng suất tiếp 
trong lõi bê tông cột SFS trong lõi bê tông cột SFE 
3.5 Sự phân phối lực dọc trục trong lõi bê tông và ống thép (tiết diện giữa cột CFST - 65 MPa - PTHH) 
Hình 17. Phân phối lực dọc trục trong lõi bê tông Hình 18. Phân phối lực dọc trục trong lõi bê tông 
và ống thép tại tiết diện giữa cột SFE và ống thép tại tiết diện giữa cột SFC 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
24 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
4. Phân tích kết quả mô phỏng 
4.1 So sánh các kết quả mô phỏng với các kết quả thực nghiệm đã có và tính toán lý thuyết 
 Kết quả mô phỏng được so sánh với kết quả thí nghiệm của Johansson và Gylltoft [18] được thể hiện ở 
bảng 4. 
Bảng 4. So sánh kết quả mô phỏng với thực nghiệm [18] và tính toán lý thuyết theo EC4 
Loại cột, 
trường hợp 
tải 
Cường độ 
bê tông 
(MPa) 
Pmax 
thí nghiệm 
[18] (kN) 
Pu,cal 
theo EC4 
(kN) 
PFEA 
mô phỏng 
(kN) 
SES - 920 - 1008 - 1.1 - 
SFC 65 2220 2138 2914 1.03 1.31 1.36 
SFS 65 950 2138 994-2692 0.44 1.05-2.83 0.46-1.25 
SFE 65 2150 2138 2334 1 1.09 1.09 
SFC 75 - 2322 3159 - - 1.36 
SFS 75 - 2322 994-2951 - - 0.43-1.27 
SFE 75 - 2322 2580 - - 1.11 
SFC 85 - 2497 3280 - - 1.31 
SFS 85 - 2497 994-3065 - - 0.40-1.23 
SFE 85 - 2497 2688 - - 1.08 
 Từ bảng 4, các số liệu cho thấy sự thống nhất 
cao giữa kết quả thu được trong thí nghiệm và phân 
tích PTHH đối với các cột CFST có cường độ bê 
tông 65 MPa, bao gồm SES, SFS và SFE với tỉ số 
lực nén lần lượt là: 1.1, 1.05 và 1.09. Tuy nhiên, kết 
quả mô phỏng cho trường hợp cột SFC chưa đạt 
được sự thống nhất cao với kết quả từ các thí 
nghiệm (tỉ số lực nén: 1.31). Nguyên nhân có thể là 
do mô hình vật liệu sử dụng cho bê tông chưa được 
mô phỏng tốt cho trạng thái ứng suất ba trục của lõi 
bê tông. Sự tăng cường độ chịu nén của bê tông 
trong mô hình vật liệu là lớn hơn so với thực tế. 
Ngoài ra, sự khác nhau giữa sơ đồ thí nghiệm [18] 
và mô hình PTHH cũng có thể dẫn đến sự khác 
nhau này. Cụ thể là, với thí nghiệm nén mẫu, tải 
trọng được áp dụng đúng tâm lên cả phần bê tông 
ở hai đầu cột. Trong khi đó, với mô hình PTHH, tải 
trọng được áp dụng đúng tâm lên phần bê tông ở 
một đầu cột, đầu còn lại được ngăn cản chuyển vị 
theo cả 6 bậc tự do. 
4.2 Ứng xử cơ học của các cột tương ứng 
 Từ các đường cong quan hệ lực nén – chuyển vị 
dọc trục của các cột CFST trong phân tích mô hình 
PTHH (hình 8-10), có thể nhận xét rằng: khi tăng 
cường độ của bê tông, quy luật gia tăng lực – 
chuyển vị của các cột CFST là tương tự nhau cho 
cùng trường hợp gia tải. Việc tăng cường độ chịu 
nén của bê tông theo các cấp độ làm tăng đáng kể 
khả năng chịu lực của các cột CFST. 
 Trong giai đoạn đàn hồi, cột SFE có ứng xử 
cứng hơn so với cột SFC. Đối với cột SFE, lõi bê 
tông và ống thép được tiếp nhận tải đồng thời nên 
tải trọng được phân phối ngay từ đầu cho cả ống 
thép và lõi bê tông. Trong khi đó, cột SFC cho thấy 
lõi bê tông chịu hầu như toàn bộ tải trọng trong giai 
đoạn đầu. 
 Ứng xử của cột SFS, trong giai đoạn đàn hồi, là 
tương tự với cột ống thép rỗng SES. Tuy nhiên, sau 
khi ống thép chảy thì phần bê tông tham gia chịu lực, 
khả năng chịu lực của cột được phục hồi cho đến khi 
bê tông đạt được cường độ tối đa. Trong quá trình 
gia tăng tải trọng, sự làm việc của cột SES và SFS 
cho thấy sự khác nhau trong xu hướng mất ổn định 
cục bộ của ống thép. Trong đó, đối với cột SES, sự 
mất ổn định cục bộ là ống thép biến dạng lõm vào 
bên trong và bắt đầu tăng kích thước cùng với sự 
biến dạng thẳng đứng (hình 11a). Ngược lại, cột SFS 
cho thấy sự mất ổn định cục bộ của ống thép là biến 
dạng lồi ra bên ngoài do có sự ngăn cản bởi lõi bê 
tông từ bên trong. Do đó, sự mất ổn định cục bộ của 
ống thép trong trường hợp này là cột bị biến dạng 
lượn sóng về phía bên ngoài (hình 12a). 
 Tải trọng do lõi bê tông chịu đối với hai trường 
hợp cột SFE và SFC đạt giá trị cao hơn so với sức 
max
,u cal
P
P max
FEAP
P ,
FEA
u cal
P
P
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 25 
chịu tải danh nghĩa của bê tông tính theo Tiêu 
chuẩn Eurocode 4. Điều này cho thấy hiệu ứng 
giam giữ mà ống thép tác dụng lên lõi bê tông làm 
tăng sức chịu tải của lõi bê tông và hiệu ứng này 
được thể hiện rõ hơn đối với cột SFC. Đối với cột 
SFE, lõi bê tông đóng góp khoảng 60% (hình 17) 
khả năng chịu lực của cột. Trong khi đó, lõi bê tông 
của cột SFC đóng góp cao hơn cho khả năng chịu 
lực của cột, là khoảng 80% (hình 18). 
5. Kết luận 
 Kết quả nghiên cứu từ phân tích mô hình PTHH 
được so sánh với các kết quả tính toán theo EC4 và 
kết quả thí nghiệm của các tác giả khác [18] cho 
phép rút ra một số kết luận sau: 
- Ứng xử cơ học và khả năng chịu lực cực hạn 
(chịu nén) của cột CFST phụ thuộc vào cách gia tải 
được áp dụng khi nén lên cột. Trường hợp nén vào 
lõi bê tông cho kết quả cường độ chịu nén tối đa 
của cột lớn nhất so với hai cách đặt tải còn lại; 
- Cường độ chịu nén của bê tông nhồi có ảnh 
hưởng trực tiếp đến khả năng chịu lực tối đa của 
các cột CFST, quan hệ giữa chúng là tỉ lệ thuận. 
Đồng thời, quy luật của đường cong quan hệ lực 
nén – chuyển vị là tương tự nhau đối với các cột có 
cùng cách đặt tải khi thay đổi cường độ của bê tông 
nhồi; 
- Hiệu ứng giam giữ của ống thép đối với lõi bê 
tông tạo ra ứng suất nén ba trục và làm tăng cường 
độ chịu nén của lõi bê tông một cách đáng kể. Cột 
CFST áp dụng tải trọng nén lên phần lõi bê tông có 
hiệu ứng giam giữ tốt nhất; 
- Các số liệu về kết quả mô phỏng số của nghiên 
cứu này có thể sẽ cung cấp một phần cơ sở dữ liệu 
cho việc phân tích nhằm góp phần xây dựng Tiêu 
chuẩn hay hướng dẫn tính toán và thiết kế kết cấu 
CFST ở nước ta trong tương lai gần. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ge, H., and Usami, T. (1992), Strength of concrete-filled 
thin-walled steel box columns- experiment. Journal of 
Structural Engineering, 118(11): p. 3036-3054. 
[2] Ge, H., and Usami, T. (1994), Strength analysis of 
concrete-filled thin-walled steel box columns. Journal 
of Constructional Steel Research, 30: p.259-281. 
[3] Uy, B. (1998), Concrete-filled fabricated steel box 
columns for multi-storey buildings: behaviour and 
design. Progress in Structural Engineering and 
Materials, 1(2): p. 150-158. 
[4] Han, L.-H. (2004), Flexural behaviour of concrete-
filled steel tubes. Journal of Constructional Steel 
Research, 60: p.313-337. 
[5] Fujimoto, T., Mukai, A., Nishiyama, I. and Sakino, K. 
(2004), Behavior of Eccentrically Loaded Concrete-
Filled Steel Tubular Columns. Journal of Structural 
Engineering, 130(2): p. 203-212. 
[6] Yu, Z. (2007), Experimental behavior of circular 
concrete-filled steel tube stub columns. Journal of 
Constructional Steel Research, 63: p.165-174. 
[7] Han, L.-H., Liu, W. and Yang, Y-F. (2008), Behaviour 
of concrete-filled steel tubular stub columns subjected 
to axially local compression. Journal of Constructional 
Steel Research, 64: p.377-387. 
[8] Chu Thị Bình (2011), Khả năng chịu tải của cột thép 
ống nhồi bê tông, Tạp chí Kết cấu và Công nghệ 
Xây dựng, tháng 6. 
[9] Phan Đình Hào, Ngô Hữu Cường, Ngô Trường Lâm 
Vũ và Trần Hữu Huy (2012), Phân tích ứng xử phi 
tuyến kết cấu ống thép nhồi bê tông. Đề tài Nghiên 
cứu Khoa học cấp Bộ - Mã số: B2010-TDA01-23-
TRIG. Hoàn thành tháng 6. 
[10] Ngo-Huu, C., Nguyen-Minh, L., Ho-Huu, C., Kamura, 
H., Nanba, T. and Nakagawa, K. (2016), 
Experimental study of circular stub CFT columns 
under axial compression loads. Proceedings of 
EASEC-14, p. 994-1002. 
[11] Lê Xuân Dũng và Phạm Mỹ (2016), Nghiên cứu ảnh 
hưởng trượt tương đối giữa ống thép và lõi bê tông 
đến khả năng chịu lực nén lệch tâm của cột ống 
thép nhồi bê tông. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 
Đại học Đà Nẵng, số 1(98), trang: 15-21. 
[12] ABAQUS Documentation. Version 6.14-4. 
[13] Eurocode 4. Design of composite steel and concrete 
structure. Part 1.1, General rules and rules for 
buildings. 
[14] Starossek, U., Falah, N. and Lohning, T. (2008), 
Numerical Analyses of the Force Transfer in 
Concrete-Filled Steel Tube Columns. The 4th 
International Conference on Advances in Structural 
Engineering and Mechanics, (ASEM’08). 
[15] HKS (1997). ABAQUS/Standard User’s Manual, version 
5.7, Hibbit, Karlsson & Sorensen, Pawtucket, R.I. 
[16] RILEM 50-FMC Committee. (1985). “Determination 
of the fracture energy of mortar and concrete by 
means of three-point bend tests on notched beams.” 
Mater. Struct., 18(106), 285-290. 
[17] Baltay, P., and Gjelsvik, A. (1990). “Coefficient of 
friction for steel on concrete at high normal stress.” 
J. Mater. Civ. Eng., 2(1), 46-49. 
[18] Johansson, M., and Gylltoft, K. (2002), Mechanical 
Behavior of Circular Steel-Concrete Composite Stub 
Columns. Journal of Structural Engineering. Vol 128. 
No. 8, August 1, p.1073-1081. 
Ngày nhận bài: 07/11/2016. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 09/12/2016. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1488352299phandinhhao_4786.pdf 1488352299phandinhhao_4786.pdf