Tất cả các bệnh nhân (16/16) trong nhóm
Alzheimer đều có giảm chuyển hóa tại hồi khuy hai bên
và vùng hải mã trái, trong khi giảm chuyển hóa ở hồi
hải mã bên phải gặp ít hơn (87.5%). Giảm chuyển hóa
ở vùng thái dương đỉnh trái trong 93.8%, còn bên bán
cầu đối diện là 81,3%, chung cho cả nam và nữ. Nhìn
chung, giảm chuyển hóa ở bán cầu trái hay gặp hơn so
với bên phải, phù hợp với tính chất thuận tay phải ở hầu
hết các bệnh nhân trong nghiên cứu. Khoảng 50% có
giảm chuyển hóa ở vùng trán, thường ở các bệnh nhân
Alzheimer giai đoạn vừa và nặng.
Nếu lấy đặc tính giảm chuyển hóa vùng thái dương
đỉnh và hồi khuy sau trên hình ảnh chụp 18F-FDG PET/
CT não làm tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Alzheimer trong
nghiên cứu này thì phương pháp có độ nhạy đạt trên
93,8%, phù hợp với kết quả của Herholz và cộng sự
khi nghiên cứu 395 bệnh nhân Alzheimer và 110 người
nhóm chứng (lão hóa bình thường) cũng cho kết quả
độ nhạy của FDG PET/CT ở nhóm Alzheimer là 93% và
độ đặc hiệu là 93% [17].
Vùng chẩm phải được bảo tồn trong tất cả các
trường hợp trong nghiên cứu này, trong khi vùng chẩm
trái cũng chỉ bị giảm chuyển hóa lan đến với một tỷ lệ
thấp (12,5%), điều này phù hợp với các tài liệu trong y
văn rằng chuyển hóa vùng chẩm cơ bản được bảo toàn
trong bệnh Alzheimer [16].
Về mặt an toàn của kỹ thuật, cộng hưởng từ đã
được biết đến là một phương pháp chẩn đoán hình
ảnh rất an toàn, vô hại và không xâm lấn. Còn đối với
phương pháp chẩn đoán hình ảnh chuyển hóa 18F-FDG
PET/CT não, mặc dù đây là lần đầu tiên kỹ thuật này
được ứng dụng trong lĩnh vực sa sút trí tuệ và bệnh
Alzheimer ở Việt Nam nhưng tất cả 32 bệnh nhân nhóm
bệnh và nhóm chứng đều đã được chụp thành công một
cách an toàn, không có trường hợp nào có biểu hiện bị
biến chứng hay tác dụng phụ. Điều này cũng phù hợp
với các nghiên cứu trên thế giới, trong đó một thống kê
với gần hai triệu ghi hình lâm sàng bằng PET cho thấy
không có một biến chứng hay tác dụng phụ nhỏ nào xảy
ra. Đó là vì khi chụp PET thì các dược chất đánh dấu
phóng xạ chỉ được sử dụng với nồng độ rất nhỏ (chỉ cỡ
femtomole/g mô sống), nên không gây ra hiệu ứng sinh
học nào đáng kể qua khối lượng các chất mang [9].
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ và hình ảnh ¹⁸F-FDG PET/CT não ở các bệnh nhân mắc bệnh alzheimer tại bệnh viện lão khoa trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201658
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ
VÀ HÌNH ẢNH 18F-FDG PET/CT NÃO Ở
CÁC BỆNH NHÂN MẮC BỆNH ALZHEIMER TẠI
BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG
Description of MR and brain 18F-FDG PET/CT
imaging characteristics in Alzheimer’s Disease patients
in National Hospital of Geriatrics
Dư Đức Chiến*, Phạm Thắng*, Mai Trọng Khoa**, Nguyễn Thị Thanh Bình*,
Nguyễn Thanh Bình*, Nguyễn Trọng Hưng*, Hồ Thị Kim Thanh*,
Trần Đình Hà**, Trần Hải Bình**, Nguyễn Thị The**
Purpose: Study realised is aimed to describe MRI features
as well as brain 18F-FDG PET/CT characteristics of Alzheimer’s
Disease patients in the National Hospital of Geriatrics.
Methods: From 2014 to 2015, it is the first time in Vietnam,
brain 18F-FDG PET/CT scan applied in studying Alzheimer
disease with 32 cases including 16 Aalzheimer patients in
pathologic group and 16 non-demential elderly individuals
(“Normals” or NLs) in control group, brain 18F-FDG PET/CT scans
performed at the Center of Nuclear Medicine and Oncology -
Bach Mai Hospital. Brain MRI investigation was also realized for
all Alzheimer patients. 18F-FDG PET/CT data in Alzheimer group
was confronted to Nls group.
Results: Mean age in AD patients is 65.1± 8.2 years old.
Most of AD patients examined at moderate to severe stage (90%).
Brain MRI shows 93% AD patients with brain atrophy (mild to
severe level), 75% with pathological medial temporal lobe atrophy
(abnormal MTA scale) and 81.3% having parietal cortical atrophy.
Evan index is higher than normal in 65% of cases. No abnormal
regional cortical glucose hypometabolism on brain 18F-FDG PET/
CT imaging seen in all persons in Nls group. On the other hand,
in Alzheimer group, 93,8% of cases having a hypometabolism
occurred in temporo-parietal association region and 81.3% of
cases on right side, meanwhile all Alzheimer patients suffering
from a glucose hypometabolism affecting bilateral posterior
cingulate gyrus as well as left hippocampus. Occipital glucose
metabolism in Alzheimer group is principally well reserved and
hypometabolism extending to frontal regions in about a half of all
cases.
Conclusion: Most of Alzheimer patients having cerebral
degenerative abnormalities on brain MRI presented by multi-grade
cerebral parenchymal atrophy. Characteristic atrophic regions in
Alzheimer patients include medial temporal and parietal lobes.
Glucose hypometabolisme imaging in 18F-FDG PET/CT scans
in Alzheimer group is quite specific with anatomically regional
* Bệnh viện Lão khoa Trung
ương
** Trung tâm YHHN và Ung
Bướu – Bệnh viện Bạch Mai
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Alzheimer là nguyên nhân thường gặp nhất
trong hội chứng sa sút trí tuệ, chiếm từ 50% đến 70%.
Tỷ lệ mắc Alzheimer ở nhóm người trên 65 tuổi là 10%
cứ sau 5 năm thì số người mắc Alzheimer trong nhóm
tuổi 65 đến 85 lại tăng gấp đôi và sau 80 tuổi là 50%.
Cho đến nay bệnh vẫn không thể chữa khỏi được và
đây cũng là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ
tư ở người cao tuổi [1]. Năm 2012, theo Tổ chức Y tế
Thế giới ước tính có khoảng 18 triệu người trên toàn
thế giới đang sống với căn bệnh Alzheimer và số bệnh
nhân này sẽ tăng lên gấp đôi vào năm 2025.
Ở Việt Nam, tốc độ già hóa dân số tăng nhanh
những năm gần đây đã và đang làm thay đổi mô hình
bệnh tật với sự bùng phát của các bệnh thoái hóa trong
đó có bệnh Alzheimer. Theo kết quả số liệu điều tra tính
đến thời điểm 1/4/2012 của Tổng cục Thống kê cho
thấy Việt Nam đã chính thức bước vào thời kỳ già hóa
dân số với tỷ lệ người 60 tuổi trở lên của Việt Nam là
10,2% tổng số dân, tỷ người 65 tuổi trở lên là 7,1% [5].
Tỷ lệ mắc bệnh Alzheimer ở người trên 65 tuổi trong
cộng đồng ước tính khoảng 3%-11%, tần suất mắc
bệnh tăng nhanh theo tuổi [1], [6].
Để giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực của
bệnh Alzheimer đối với bệnh nhân, gia đình và xã hội,
một trong các xu hướng hiện nay là phát hiện sớm và
kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ của bệnh. Theo một
số nghiên cứu, nếu làm chậm khởi phát được năm năm
thì có thể làm giảm tới 50% tỷ lệ hiện mắc của bệnh [7].
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy chẩn đoán
lâm sàng AD dựa trên tiêu chuẩn NINCDS-ADRDA chỉ
đạt độ nhạy 65% và độ đặc hiệu 75%, chẩn đoán với
SPECT giúp cải thiện được độ nhạy lên 71% và độ đặc
hiệu thì tương tự (76%), còn nếu sử dụng FDG-PET/CT
thì có thể đạt được độ nhạy chẩn đoán tới 90-95%, độ
đặc hiệu 65-75% và độ chính xác đạt 82% [8]. Kỹ thuật
chẩn đoán hình ảnh bằng FDG-PET giúp giảm được
62% các chăm sóc tại nhà và giảm 48% những điều trị
không cần thiết [9].
Trong lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh, cộng hưởng
từ có nhiều ưu thế trong đánh giá bệnh lý sa sút trí tuệ,
cho phép thu được hình ảnh não trên cả ba bình diện
và quan sát rõ hơn các cấu trúc nhỏ của não, rất quan
trọng trong đánh giá nhận thức [5], [6].
Ở Việt Nam, trong khoảng mười năm trở lại đây,
ngày càng nhiều hệ thống cộng hưởng từ đã được trang
bị cho các cơ sở y tế từ tuyến trung ương đến tuyến tỉnh
và đã được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực lâm
sàng, nhất là thần kinh. Đặc biệt, các năm gần đây một
số cơ sở bệnh viện lớn tuyến trung ương đã được trang
bị hệ thống PET/CT nhưng chủ yếu cũng chỉ ứng dụng
trong lĩnh vực ung bướu (trên 90% các trường hợp). Đến
nay, vẫn còn rất ít công trình nghiên cứu về ứng dụng
cộng hưởng từ trong bệnh lý Alzheimer và chưa có công
trình nào nghiên cứu ứng dụng 18F FDG-PET/CT trong
hỗ trợ chẩn đoán sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer. Vì
vậy, nhằm tìm hiểu đặc điểm tổn thương não trong bệnh
Azhiemer trên hình ảnh cộng hưởng từ và PET/CT não
trong chẩn đoán bệnh Alzheimer, chúng tôi nghiên cứu
đề tài này với mục tiêu: “Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng
hưởng từ và 18F-FDG PET/CT não ở các bệnh nhân mắc
bệnh Alzheimer tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương”.
hypometabolism patterns seen in temporo-parietal association
regions as well as in posterior cingulate gyri, with dominance on left
side. Brain MRI and brain 18F-FDG PET/CT scan are wellknown as
imaging technics with a high sensibility, high medical safety which
are objective valued imaging technics and applied more and more
in clinical and recherch Alzheimer disease in particular as well as in
dementia in general, helping and taking part in to improve definitive
and discriminative diagnostic ability of Alzheimer disease and other
dementia.
Key words: Alzheimer’s Disease (AD), MRI, Brain 18F-FDG
PET/CT, dementia.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201660
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
16 bệnh nhân Alzheimer được lâm sàng chẩn đoán
“rất có thể là Alzheimer” (Probable AD) theo tiêu chuẩn
chẩn đoán DSM-IV và 16 bệnh nhân nhóm chứng cùng
độ tuổi và không bị sa sút trí tuệ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả bệnh
- chứng.
2.3. Quy trình nghiên cứu
Các bệnh nhân nhóm Alzheimer đều được khai
thác hồ sơ bệnh án trên các lĩnh vực gồm hỏi bệnh,
khám bệnh, các trắc nghiệm (test) thần kinh tâm lý, xét
nghiệm máu, chụp cộng hưởng từ sọ não tại Bệnh viện
Lão khoa Trung ương. Các bệnh nhân nhóm chứng
đều được làm test Mini-Cog để loại trừ sa sút trí tuệ. Tất
cả các bệnh nhân nhóm Alzheimer và nhóm chứng đều
được chụp 18F-FDG PET/CT não tại Trung tâm YHHN
và Ung Bướu – Bệnh viện Bạch Mai.
2.4. Phương tiện nghiên cứu
Hệ thống máy chụp cộng hưởng từ mở từ lực 0.35
Tesla - Somatome Spirit của hãng Siemens, máy phân
tích hóa sinh tự động HITACHI 717 của Nhật Bản và hệ
thống máy PET/CT TRUE POINT Siemens Biograph 6
Syngo CT 2006A của Siemens lắp đặt tại Trung tâm
YHHN và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai.
2.5. Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 16.0.
2.6. Đạo đức nghiên cứu
- Đề tài được thông qua Hội đồng Y đức của Bệnh
viện Lão khoa Trung ương.
- Thông tin của các bệnh nhân Alzheimer và nhóm
chứng đều được bảo mật.
- Các bệnh nhân cam đoan đồng ý tự nguyện tham
gia nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
3.1. Một số đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm ở
nhóm bệnh và nhóm chứng
3.1.1. Phân bố theo tuổi và giới
Tuổi trung bình ở nhóm bệnh là 65.1± 8.2 tuổi, ở
nhóm chứng là 62.3± 7.7 tuổi, không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về tuổi giữa hai nhóm (P=0.329,
t-test). Trong nghiên cứu, tỷ lệ nữ mắc bệnh Alzheimer
nhiều hơn nam với nữ/nam = 1.3 ở nhóm bệnh.
3.1.2. Trình độ học vấn
2/3 số bệnh nhân Alzheimer (68,8%) thuộc nhóm
những người có trình độ học vấn thấp dưới bậc đại học.
3.1.3. Lý do vào viện
Tất cả các bệnh nhân Alzheimer đều đến khám với
lý do giảm trí nhớ từ từ, tăng dần.
3.1.4. Chỉ số trắc nghiệm thần kinh tâm lý
81.6% bệnh nhân Alzheimer đến khám với điểm
trung bình MMSE 11.75 ± 5.84, trong đó điểm trung
bình MMSE ở nam là 14.85 ± 3.97 và ở nữ là 9.33 ±
6.10. Như vậy, bệnh nhân nam đi khám bệnh ở giai
đoạn sớm hơn bệnh nhân nữ.
3.1.5. Phân loại mức độ Alzheimer trên lâm sàng
Nhẹ (6.3%), vừa (50%) và nặng (43,8%). Như vậy,
hầu hết bệnh nhân đến khám khá muộn khi bệnh đã
tiến triển đến giai đoạn vừa - nặng (chiếm 93,8%).
3.2. Một số đặc điểm trên hình ảnh cộng hưởng từ
ở nhóm Alzheimer
3.2.1. Hình ảnh các tổn thương não trên cộng hưởng
từ ở nhóm Alzheimer
a. Teo vỏ não: Đánh giá teo vỏ não toàn thể qua
thang điểm GCA (Global Cortical Atrophy scale hay
Pasquier scale, độ 0-3). Đại đa số bệnh nhân Alzheimer
có teo vỏ não toàn thể từ mức độ nhẹ đến mức độ nặng
(chiếm 93.75%).
b. Teo hồi thái dương trong (hình 1a): Đánh giá
bằng thang điểm MTA (Medial Temporal Lobe Atrophy
hay MTA scale, độ 0-4): Phần lớn các bệnh nhân
Alzheimer có tổn thương teo hồi thái dương trong với
nhiều mức độ, từ mở rộng sừng thái dương và khe rãnh
mạch mạc đến mất thể tích hải mã mức độ nặng (chiếm
tới 87.5%).
c. Tổn thương chất trắng (hình 1b): Đánh giá
các tổn thương chất trắng qua thang điểm Fazekas
(Fazekas scale, độ 0-3): Chỉ có 37.5% bệnh nhân
Alzheimer có tổn thương chất trắng bệnh lý.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 1. Chỉ số MTA từ 0 đến 4 Hình 1b. Các mức độ tổn thương chất trắng
theo Fazekas
d. Teo não vùng đỉnh (hình 2a, 2b): Đánh giá qua chỉ số Koedam (Koedam score, độ 0-3): Đa số các trường
hợp bệnh nhân Alzheimer có teo não vùng đỉnh, chiếm 81.25%.
Hình 2a. Koedam độ 0 và 1 Hình 2b. Koedam độ 2 và 3
3.2.2. Tính chỉ số Evans
Bảng 1. So sánh chỉ số Evan ở nhóm AD và nhóm chứng
Chỉ số Evans (EI) Nhóm AD Nhóm chứng
N= 16 Tỷ lệ % N = 16 Tỷ lệ %
EI <0.3 5 31.25 14 87.5
EI ≥ 0.3 11 68.75 02 12.5
Tổng 16 100.0 16 100.0
3.3. Đặc điểm hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở nhóm nghiên cứu
Giảm chuyển hóa biểu hiện bằng giảm hấp thu Glucose, tức là giảm giá trị SUV mean (Standardised Uptake
Value) và có thể được mã hóa bằng các màu sắc khác nhau theo quy ước.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201662
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.3.1. Giá trị SUV trung bình của những vùng não đặc trưng trong Alzheimer so với cầu não (lấy cầu não
làm chuẩn)
Bảng 2. Xác định tỷ lệ giảm chuyển hóa ở hồi khuy sau và thái dương đỉnh
Vùng não
Giảm hai bên
(n, tỷ lệ %)
Giảm 1 bên
(n, tỷ lệ %)
Không giảm
(n, tỷ lệ%)
Hồi khuy sau 16 (100%) 0(0) 0(0)
Vùng thái dương đỉnh 13 (81.25) 2 (12.5) 1 (6.25)
Nhận xét: 16/16 bệnh nhân Alzheirmer đều có giảm chuyển hóa đường ở hồi khuy sau.
3.3.2. So sánh giá trị SUV trung bình ở nhóm bệnh và nhóm chứng theo một số phân vùng đặc biệt của não
trong Alzheimer.
Bảng 3. Giá trị SUV trung bình ở nhóm bệnh và nhóm chứng theo một số phân vùng đặc biệt của não
Vùng não Nhóm AD (±SD) Nhóm chứng (±SD) P (<0.05)
Hồi khuy sau P 4.27 ± 1.30 6.80 ± 1.61 P< 0.01
Hồi khuy sau T 4.05 ± 1.02 6.95 ± 1.32 P< 0.01
Thái dương đỉnh P 4.38 ± 1.28 7.56 ± 1.73 P< 0.01
Thái dương đỉnh T 4.01 ± 1.25 7.32 ± 1.90 P< 0.01
Hải mã P 3.97 ± 0.98 5.76 ± 1.34 P< 0.01
Hải mã T 3.88 ± 0.84 5.72 ± 1.17 P< 0.01
Vỏ não trán P 5.81 ± 1.70 8.21 ± 2.31 0.002
Vỏ não trán T 5.11 ± 1.38 7.55 ± 2.30 0.001
Chẩm P 7.09 ± 2.18 7.69 ± 2.74 0.818
Chẩm T 7.48 ± 1.94 8.30 ± 3.19 0.387
Cầu não 4.90 ± 1.36 5.60 ± 1.17 0.130
3.3.3. Xác định tần suất của các vùng giảm chuyển hóa ở nhóm bệnh Alzheimer
Bảng 4. Xác định tỷ lệ giảm chuyển hóa một số vùng hay gặp trong Alzheimer
Vùng não Theo giới (%) Chung cả hai giới (%)
Nam Nữ
Hồi khuy sau P 100.0 100.0 100.0
Hồi khuy sau T 100.0 100.0 100.0
Thái dương đỉnh P 57.1 100.0 81.3
Thái dương đỉnh T 85.7 100.0 93.8
Hải mã P 85.7 88.9 87.5
Hải mã T 100.0 100.0 100.0
Vỏ não trán P 42.9 55.6 50.0
Vỏ não trán T 42.9 66.7 56.3
Chẩm P 0 0 0
Chẩm T 14.3 11.1 12.5
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
- Về đặc điểm lâm sàng: 100% bệnh nhân
Alzheimer vào viện do giảm trí nhớ từ từ và tăng dần,
đơn thuần (90%) hoặc kèm với một số có các biểu hiện
khác như: ảo giác, ảo thị, hoang tưởng (10%). Tuổi
trung bình mắc bệnh là 65.1± 8.2 tuổi, chung cho cả hai
giới. Nữ gặp nhiều hơn nam, có thể do tuổi thọ của nữ
thường cao hơn nam và bệnh lại hay gặp ở người cao
tuổi, phù hợp với các kết quả nghiên cứu khác trong y
văn [10].
Người có học vấn cao từ bậc đại học trở lên ít
có nguy cơ mắc bệnh hơn những người có trình độ
học vấn thấp, phù hợp với các nghiên cứu trước đây
theo giả thuyết về “dự trữ nhận thức” (Cognitive reserve
hypothesis) [11].
Trên 90% bệnh nhân Alzheimer đến khám ở giai
đoạn vừa hoặc nặng, kết quả này cũng tương tự như
trong các nghiên cứu về bệnh nhân sa sút trí tuệ nói
chung ở nước ta [12]. Bệnh nhân được chẩn đoán và
phát hiện trên lâm sàng ở giai đoạn nhẹ còn ít, như vậy
công tác chăm sóc, phát hiện và quản lý bệnh Alzheimer
ở cộng đồng còn nhiều bất cập, cũng như hiểu biết của
bệnh nhân và người thân về bệnh Alzheimer còn nhiều
hạn chế, một phần có thể do hoàn cảnh điều kiện kinh
tế của các bệnh nhân và gia đình còn nhiều khó khăn,
mặt khác người cao tuổi chưa nhận được sự quan tâm
đúng mức của xã hội và ngành y tế trong lĩnh vực sa sút
trí tuệ nói chung và bệnh Alzheimer nói riêng.
- Về đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ ở nhóm
bệnh nhân Alzheimer: Trên 93% các bệnh nhân có teo
vỏ não toàn thể từ mức độ nhẹ đến nặng và đa số bệnh
nhân có teo hồi thái dương trong (87.5%). Đối chiếu
với chỉ số sinh lý bình thường theo tuổi (người dưới 75
tuổi có chỉ số MTA dưới 2 và dưới 3 ở người trên 75
tuổi) thì trong nhóm bệnh nhân Alzheimer có tới 12/16
trường hợp có teo hồi thái dương trong tính chất bệnh
lý (chiếm 75%). Chỉ số MTA là một test chẩn đoán sàng
lọc tốt để lọc tách nhóm chứng khỏi nhóm bệnh nhân
Alzheimer, tuy nhiên chỉ số MTA không hoàn toàn đặc
hiệu cho Alzheimer vì có thể dương tính trong các thể
sa sút trí tuệ khác [13].
Tổn thương chất trắng bệnh lý gặp trong 37.5%
bệnh nhân Alzheimer trong nghiên cứu này. Chỉ số
Fazekas có giá trị tiên lượng khả năng bị bệnh, trong
nhóm Fazekas 3 có tới 25% tiến triển thành bệnh
Alzheimer trong vòng một năm [14]. Teo não vùng
đỉnh gặp ở tỷ lệ cao trong nghiên cứu (81,25%), teo
não vùng đỉnh ở trước khe cựa là hình ảnh đặc trưng
của Alzheimer. Rộng não thất (biểu hiện của tràn dịch
não thất thể lưu thông) với chỉ số Evans lớn hơn bình
thường trong 2/3 các trường hợp Alzheimer (68,8%).
Ngược lại, hầu hết các bệnh nhân nhóm chứng đều
có chỉ số này trong giới hạn bình thường (87.5%), tỷ lệ
này phù hợp với các nghiên cứu trong nước và trên thế
giới [14], [15].
- Về đặc điểm hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở
nhóm bệnh nhân Alzheimer:
Trong bệnh Alzheimer, đầu tiên giảm chuyển hóa
được nhìn thấy ở cuộn não bó khuy sau [16]. Tiếp đó,
lan tới phần liên kết vỏ não ở thùy đỉnh và các hồi
thái dương sau (tức vùng thái dương đỉnh). Cuối cùng,
giảm chuyển hóa lan tới phần vỏ trán và hầu hết não
(hình 3a, 3b).
Hình 3a. PET-FDG ở một bệnh nhân Alzheimer.
Hình 3b. so sánh giữa người lão hóa sinh lý bình thường và người mắc bệnh Alzheimer.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201664
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Chuyển hóa glucose trong não được thể hiện bằng
thang nhiệt mã hóa màu. Màu cam là chuyển hóa bình
thường, màu xanh lá cây thể hiện giảm chuyển hóa
nhẹ và màu xanh nước biển thể hiện giảm chuyển hóa
nặng. Ở người lão hóa sinh lý bình thường, chuyển hóa
đường glucose ở khá đồng đều ở các vùng khác nhau
của vỏ não, trong khi giảm chuyển hóa rõ rệt ở khu vực
thái dương và đỉnh ở bệnh nhân Alzheimer.
Tất cả 16 bệnh nhân nhóm chứng trong nghiên
cứu này đều không thấy có vùng giảm chuyển hóa khu
trú ở não, trong khi ở nhóm Alzheimer hiện tượng giảm
chuyển hóa với tính chất định khu và phân vùng giải
phẫu xuất hiện với tính chất phổ biến và rõ rệt ở một
số vùng não đặc trưng. Trong đó, hồi hải mã, hồi khuy
sau, vùng thái dương đỉnh và vỏ não trán hai bên ở
nhóm Alzheimer là những vùng giảm chuyển hóa hay
gặp rõ rệt (giảm giá trị SUV trung bình) so với nhóm
chứng (khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0.05).
Ngược lại, không có sự khác biệt về giảm chuyển hóa
ở vùng chẩm hai bên cũng như ở cầu não giữa nhóm
Alzheimer và nhóm chứng. Điều này cũng phù hợp với
các nghiên cứu trong y văn [16].
Hình 4a Hình 4b
Hình 4a, 4b. Nữ, 67 tuổi, giảm trí nhớ từ từ, tăng dần, MMSE = 14, Alzheimer giai đoạn trung bình.
Giảm chuyển hóa điển hình vùng thái dương đỉnh và hồi khuy sau hai bên, chưa lan ra vùng trán.
Chuyển hóa vỏ não ở vùng chẩm cơ bản được bảo tồn.
100% các bệnh nhân trong nhóm Alzheimer có
giảm chuyển hóa ở hồi khuy sau (cả hai bên), trong
khi tỷ lệ này ở vùng thái dương đỉnh là 81.25%. Chỉ có
một trường hợp không có giảm chuyển hóa ở vùng thái
dương đỉnh.
Tất cả các bệnh nhân (16/16) trong nhóm
Alzheimer đều có giảm chuyển hóa tại hồi khuy hai bên
và vùng hải mã trái, trong khi giảm chuyển hóa ở hồi
hải mã bên phải gặp ít hơn (87.5%). Giảm chuyển hóa
ở vùng thái dương đỉnh trái trong 93.8%, còn bên bán
cầu đối diện là 81,3%, chung cho cả nam và nữ. Nhìn
chung, giảm chuyển hóa ở bán cầu trái hay gặp hơn so
với bên phải, phù hợp với tính chất thuận tay phải ở hầu
hết các bệnh nhân trong nghiên cứu. Khoảng 50% có
giảm chuyển hóa ở vùng trán, thường ở các bệnh nhân
Alzheimer giai đoạn vừa và nặng.
Nếu lấy đặc tính giảm chuyển hóa vùng thái dương
đỉnh và hồi khuy sau trên hình ảnh chụp 18F-FDG PET/
CT não làm tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Alzheimer trong
nghiên cứu này thì phương pháp có độ nhạy đạt trên
93,8%, phù hợp với kết quả của Herholz và cộng sự
khi nghiên cứu 395 bệnh nhân Alzheimer và 110 người
nhóm chứng (lão hóa bình thường) cũng cho kết quả
độ nhạy của FDG PET/CT ở nhóm Alzheimer là 93% và
độ đặc hiệu là 93% [17].
Vùng chẩm phải được bảo tồn trong tất cả các
trường hợp trong nghiên cứu này, trong khi vùng chẩm
trái cũng chỉ bị giảm chuyển hóa lan đến với một tỷ lệ
thấp (12,5%), điều này phù hợp với các tài liệu trong y
văn rằng chuyển hóa vùng chẩm cơ bản được bảo toàn
trong bệnh Alzheimer [16].
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 65
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Về mặt an toàn của kỹ thuật, cộng hưởng từ đã
được biết đến là một phương pháp chẩn đoán hình
ảnh rất an toàn, vô hại và không xâm lấn. Còn đối với
phương pháp chẩn đoán hình ảnh chuyển hóa 18F-FDG
PET/CT não, mặc dù đây là lần đầu tiên kỹ thuật này
được ứng dụng trong lĩnh vực sa sút trí tuệ và bệnh
Alzheimer ở Việt Nam nhưng tất cả 32 bệnh nhân nhóm
bệnh và nhóm chứng đều đã được chụp thành công một
cách an toàn, không có trường hợp nào có biểu hiện bị
biến chứng hay tác dụng phụ. Điều này cũng phù hợp
với các nghiên cứu trên thế giới, trong đó một thống kê
với gần hai triệu ghi hình lâm sàng bằng PET cho thấy
không có một biến chứng hay tác dụng phụ nhỏ nào xảy
ra. Đó là vì khi chụp PET thì các dược chất đánh dấu
phóng xạ chỉ được sử dụng với nồng độ rất nhỏ (chỉ cỡ
femtomole/g mô sống), nên không gây ra hiệu ứng sinh
học nào đáng kể qua khối lượng các chất mang [9].
V. KẾT LUẬN
18F-FDG PET/CT não và cộng hưởng từ não là
những phương pháp hình ảnh có độ nhậy cao trong lâm
sàng và nghiên cứu bệnh Alzheimer (trong nghiên cứu
này độ nhậy của PET/CT là 93,8%, phù hợp với các tác
giả khác). Đây là các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
an toàn, không xâm phạm, cung cấp nhiều thông tin về
giải phẫu và chức năng não với tính khách quan và độ tin
cậy cao, có vai trò quan trọng trong hỗ trợ chẩn đoán bệnh
Alzheimer. 18F-FDG PET/CT được khuyến cáo chỉ định
trong những trường hợp lâm sàng khó chẩn đoán hoặc
cần chẩn đoán phân biệt với các thể sa sút trí tuệ khác.
Hình 5. Nam, 71 tuổi, giảm trí nhớ từ từ, tăng dần, rối loạn định hướng không gian – thời gian),
MMSE = 10, AD giai đoạn nặng. Teo vỏ não mạnh và khu trú vùng đỉnh phải. Giảm chuyển hóa điển hình
vùng thái dương đỉnh hai bên, lan ra trán và tiểu não, chuyển hóa vùng chẩm cơ bản được bảo tồn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thắng., Tạ Thành Văn., Dư Đức Chiến và
cs: Bệnh Alzheimer và các thể sa sút trí tuệ khác. Nhà
xuất bản Y học, Hà nội 2010:3-335.
2. Evans D.A. GF, Loewenstein D., et al (2011),
“Reducing case ascertainment costs in US population
studies of Alzheimer’s disease, dementia cand cognitive
impairment-Part II. “Alzheimer’s & Dementia, 7pp. 110-123.
3. Kalaria RN, Maestre GE, Arizaga R, Friedland
RP, Galasko D, Hall K, Luchsinger JA, Ogunniyi A, Perry
EK, Potocnik F et al (2008), “Alzheimer’s disease and
vascular dementia in developing countries: prevalence,
management, and risk factors. , “Lancet Neurol, 7(9),
pp. 812-826.
4. Weir D.R. WRB, Langa K.M, et al (2011),
“Reducing case ascertainment costs in US population
studies of Alzheimer’s disease, dementia cand cognitive
impairment-Part I”, Alzheimer’s & Dementia, 7pp. 94-109.
5. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra biến động
dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/2012:
Các kết quả chủ yếu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
6. Nguyễn Kim Việt (2008), “Nghiên cứu đặc điểm
sa sút trí tuệ tại cộng đồng”, Tạp chí Y Học Thực Hành,
10pp. 16-19.
7. Perry G. AJ, Kinosita J., et al (2006), “Alzheimer’s
disease: A century of scientific and clinical reseach. “
IOS Press, pp. 29-447.
8. Silverman DH (2002), “Assessment of dementia
risk in aging adults using both FDG-PET and FDDNP-
PET imaging. “ Mol Imaging Biol, 4(4), pp. 283-293.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201666
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
9. Simon JH, et al (2010), “PET imaging in
dementia”, Lancet Neurol August 2010.
10. Brookmeyer R., Evans D.A., Hebert L., et
al (2011), “National estimates the prevalence of
Alzheimer’s disease in the United States”, Alzheimer’s
& Dementia, 7: 61-73.
11. Stern Y. (2006), “Cognitive Reserve and
Alzheimer disease”, Alzheimer Dis Assoc Disor, 20: 69-74.
12. Dư Đức Chiến., Phạm Thắng., Nguyễn Trọng
Hưng và cs (2012), “Bước đầu nghiên cứu một số đặc
điểm lâm sàng và hình ảnh cộng hưởng từ của các bệnh
nhân Alzheimer ở bệnh viện Lão khoa trung ương”, Tạp
chí Y Học Thực Hành, Bộ Y Tế, 824 (6/2012): 8-11.
13. Barber R, et al (1999), “Medial temporal
lobe atrophy on MRI in dementia with Lewy bodies”,
Neurology 1999, 52:1153.
14. Fazekas F, Kleinert R, Offenbacher H et al (1993):
Pathologic correlates of incidental MRI white matter signal
hyperintensities. Neurology, 43(9):1683-1689.
15. Longstreth WT, Jr., Bernick C, Manolio TA et al
(1998): Lacunar infarcts defined by magnetic resonance
imaging of 3660 elderly people: the Cardiovascular
Health Study. Arch Neurol, 55(9):1217-1225.
16. Minoshima S GB, Berent S, et al (1997),
“Metabolic reduction in the posterior cingulate cortex in
very early Alzheimer’s disease”, Ann Neurol, 42pp. 85–94.
17. Herholz K, Salmon E, Perani D, et al (2002),
“Discrimination between Alzheimer dementia and
controls by automated analysis of multicenter FDG
PET”, Neuroimage, 17: 302–316.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ não và hình ảnh 18F-FDG
PET/CT não ở các bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
Phương pháp: Trong thời gian từ năm 2014 đến 2015, lần đầu tiên ở Việt Nam, phương pháp chụp cắt lớp vi
tính não phát điện tử dương (PET/CT) sử dụng 18F-FDG đã được áp dụng trong nghiên cứu bệnh Alzheimer với 32
trường hợp bao gồm 16 bệnh nhân Alzheimer và 16 bệnh nhân nhóm chứng cùng độ tuổi được xác định không bị
sa sút trí tuệ, các thăm khám 18F-FDG PET/CT não đã được thực hiện tại Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu
Bệnh viện Bạch Mai. Thăm khám cộng hưởng từ sọ não cũng được thực hiện cho tất cả các bệnh nhân Alzheimer.
Số liệu 18F-FDG PET/CT não ở nhóm Alzheimer được so sánh đối chiếu với nhóm chứng.
Kết quả: Tuổi trung bình mắc bệnh ở bệnh nhân Alzheimer là 65.1± 8.2. Đa số bệnh nhân Alzheimer đến khám
ở giai đoạn vừa hoặc nặng (90%). Trên hình ảnh cộng hưởng từ, 93% các bệnh nhân có teo vỏ não toàn thể từ mức
độ nhẹ đến nặng, 75% trường hợp có teo hồi thái dương trong tính chất bệnh lý, teo não vùng đỉnh cũng gặp ở tỷ
lệ cao trong nghiên cứu (81,3%). Chỉ số Evan lớn hơn bình thường trong 68.8% các trường hợp. Không thấy hiện
tượng giảm chuyển hóa đường Glucose khu trú ở não trên hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở tất cả các bệnh nhân
nhóm chứng. Ngược lại, ở nhóm bệnh nhân Alzheimer, 93.8 các trường hợp có giảm chuyển hóa ở vùng thái dương
đỉnh trái và 81.3% ở bên phải, trong khi 100% các bệnh nhân đều có giảm chuyển hóa đường Glucose ở hồi khuy
sau hai bên và hải mã trái, chuyển hóa vùng chẩm cơ bản được bảo tồn trong hầu hết các trường hợp và hơn 50%
các trường hợp bệnh nhân Alzheimer có giảm chuyển hóa lan ra vùng trán.
Kết luận: Hầu hết các bệnh nhân Alzheimer đều có các hình ảnh bất thường về tổn thương thoái hóa não trên
hình ảnh cộng hưởng từ thể hiện bằng teo não toàn thể với nhiều mức độ. Những vùng teo não đặc trưng hay gặp
trong Alzheimer là teo hồi thái dương trong và teo não vùng đỉnh. Hình ảnh giảm chuyển hóa đường Glucose não hay
gặp trên 18F-FDG PET/CT trong bệnh Alzheimer có tính đặc trưng với giảm chuyển hóa có tính chất phân vùng giải
phẫu ở vùng thái dương đỉnh và hồi khuy sau, ưu thế bên trái. Cộng hưởng từ não và 18F-FDG PET/CT não được biết
đến là những kỹ thuật hình ảnh y học có độ nhậy và độ an toàn cao, có giá trị khách quan và ngày càng được ứng
dụng nhiều trong lâm sàng và nghiên cứu về bệnh Alzheimer nói riêng và hội chứng sa sút trí tuệ nói chung, góp phần
cải thiện đáng kể khả năng chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt bệnh Alzheimer và các thể sa sút trí tuệ khác.
Từ khóa: Bệnh Alzheimer (Alzheimer’s Disease, AD), cộng hưởng từ, 18F-FDG PET/CT não, sa sút trí tuệ.
Người liên hệ: Dư Đức Chiến Email: chduduc@gmail.com
Ngày nhận bài: 1.2.2016 Ngày chấp nhận đăng: 5.3.2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mo_ta_dac_diem_hinh_anh_cong_huong_tu_va_hinh_anh_f_fdg_petc.pdf