Nhận xét: về cơ bản, pháp luật bầu cử
đã quy định khá rõ ràng mối quan hệ giữa
cử tri và ứng cử viên trong giai đoạn bỏ
phiếu. Cử tri là chủ thể quyết định ai là
người trúng cử thông qua lá phiếu của mình.
Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy có một số hạn
chế sau: thông thường, đơn vị bầu cử được
bầu ba đại biểu thì chỉ để năm ứng cử viên,
đơn vị được bầu năm đại biểu thì chỉ để lại
bảy ứng cử viên. Bởi vì tại vòng hiệp
thương, cử tri không phải là chủ thể quyết
định đến việc chọn ứng cử viên, nên quyền
chọn lựa của cử tri được thực hiện chính tại
giai đoạn này, nhưng với tỷ lệ người ứng cử
trên số đại biểu được bầu quá thấp như vậy,
nên có thể thấy cử tri chỉ có quyền chọn
28% đến 40%11. Đó có thể là một trong
những nguyên nhân khiến việc bỏ phiếu của
cử tri còn mang tính hình thức, nhiều cử tri
khá “hời hợt” trong việc lựa chọn ứng cử
viên, hiện tượng bỏ phiếu hộ còn nhiều, việc
kiểm phiếu nhiều nơi cũng chưa được thực
hiện nghiêm túc Những hạn chế này ảnh
hưởng ít nhiều đến mối quan hệ giữa cử tri
và ứng cử viên.
Kiến nghị: Cần phải có những quy định
về số lượng ứng cử viên chính thức theo
hướng tăng số lượng ứng cử viên chính thức
trên mỗi đơn vị bầu cử lên, có các quy định
chặt chẽ hơn trong việc kiểm soát hoạt động
bỏ phiếu của cử tri, tránh tình trạng bỏ phiếu
hộ, hoặc bỏ phiếu cảm tính
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa cử tri và ứng cứ viên trong bầu cử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÖËI QUAN HÏå GIÛÄA CÛÃ TRI VAÂ ÛÁNG CÛÃ VIÏN
TRONG BÊÌU CÛÃ
THái THị THU TraNG*
Bầu cử, dù theo quy trình nào thì trọng tâm vẫn là mối quan hệ giữa người
đi bầu và người được bầu, hay nói cách khác là giữa cử tri và các ứng cử viên.
Trong một cuộc bầu cử dân chủ, việc lựa chọn ai phải do cử tri quyết định, quy
trình đặt ra cho cuộc bầu cử suy cho cùng là để người dân thực hiện tốt hơn
quyền lựa chọn của mình chứ không phải làm hạn chế quyền này của họ.
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1. Bản chất mối quan hệ giữa cử tri và
ứng cử viên
Nhà nước dân chủ là nhà nước mà
quyền lực thuộc về nhân dân, nhưng nói như
vậy không có nghĩa là cần phải có một
“chính phủ toàn dân”1 vì đó là một điều lý
tưởng. Còn thực tế, người dân phải lựa chọn
những người mà họ tin tưởng rằng, những
người đó có thể sử dụng quyền lực nhà nước
để phục vụ cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân. Bầu cử dân chủ chính là cơ sở đầu tiên
để nhân dân thực hiện hình thức dân chủ đại
diện. Như vậy, bản chất mối quan hệ giữa
cử tri và ứng cử viên trong chế độ bầu cử
dân chủ chính là sự lựa chọn và trao quyền
của người dân cho người mà nhân dân tín
nhiệm. Muốn được như vậy, trong suốt quá
trình bầu cử, quan hệ giữa cử tri và ứng cử
viên phải thực sự gắn bó, liên hệ chặt chẽ để
cử tri thực sự hiểu rõ người mình muốn lựa
chọn và trao quyền là ai. Còn từ phía ứng cử
viên, họ sẽ có cơ hội để vận động cử tri bỏ
phiếu cho mình.
2. Quy định của pháp luật hiện hành về
mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên
Thứ nhất, mối quan hệ giữa cử tri và
ứng cử viên trong quá trình hiệp thương
Theo Nghị quyết liên tịch số
1 1 / 2 0 1 6 / N Q L T / U B T V Q H - C P -
ĐCTUBTWMTTQVN ngày 01/02/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), Chính phủ và Đoàn Chủ tịch
Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) Việt Nam về hướng dẫn quy trình
hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại
biểu Quốc hội (ĐBQH) nhiệm kỳ XIV, đại
biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) nhiệm kỳ
2016 - 2021, sau khi hội nghị hiệp thương
lần thứ nhất kết thúc, các cơ quan, tổ chức,
đơn vị vũ trang đã xác định được số lượng
* ThS, Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội.
1 Jonh Stuart Mill, Chính thể đại diện, nguồn: “Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới”, tr. 79.
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
người ứng cử được phép giới thiệu, sẽ tổ
chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét của cử tri
về những người được dự kiến giới thiệu ứng
cử ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp. Mặc dù
giai đoạn này, những người dự kiến được
giới thiệu chưa chính thức là ứng cử viên,
nhưng đây là tiền đề cho mối quan hệ giữa
cử tri và ứng cử viên. Sự tham gia của cử tri
ngay từ giai đoạn dự kiến người được giới
thiệu sẽ đảm bảo người được giới thiệu phải
dựa trên sự tín nhiệm của cử tri, tránh việc
giới thiệu mang tính chủ quan, duy ý chí của
những chủ thể có thẩm quyền giới thiệu.
Theo Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu
HĐND năm 2015 (Luật Bầu cử năm 2015),
mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên được
hình thành chính thức là giữa vòng hội nghị
hiệp thương lần thứ hai và hội nghị hiệp
thương lần thứ ba, thông qua Hội nghị cử tri
để lấy ý kiến của cử tri đối với các ứng cử
viên được giới thiệu hoặc tự ứng cử làm căn
cứ lên danh sách ứng cử viên chính thức.
Căn cứ các Điều 45, Điều 46, Điều 54, Điều
55 Luật Bầu cử năm 2015, Hội nghị cử tri
được tiến hành tại thôn, tổ dân phố nơi
người ứng cử cư trú do Ban thường trực
MTTQ Việt Nam cấp xã phối hợp với Ủy
ban nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì.
Bên cạnh đó, đối với những ứng cử viên cần
phải lấy ý kiến của cử tri nơi người đó công
tác thì được tổ chức tại chính tổ chức, đơn
vị nơi người đó làm việc và do người đứng
đầu tổ chức, đơn vị phối hợp với Ban chấp
hành Công đoàn triệu tập và chủ trì.
Như vậy, trong quá trình hiệp thương,
mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên
không được thực hiện rộng rãi mà chỉ giới
hạn giữa cử tri ở địa phương nơi người ứng
cử cư trú hoặc có thể cả nơi người ứng cử
công tác. Cụ thể:
- Người ứng cử ĐBQH ở trung ương:
gửi lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú (Khoản 2
Điều 43 Luật Bầu cử năm 2015); người ứng
cử ĐBQH ở cấp tỉnh: gửi lấy ý kiến cử tri
nơi cư trú, đối với người tự ứng cử thì còn
được gửi lấy ý kiến của cử tri nơi người đó
công tác (Khoản 2 Điều 44 Luật Bầu cử năm
2015).
- Người ứng cử đại biểu HĐND các cấp:
lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, đối với người tự
ứng cử hoặc được thôn, tổ dân phố giới thiệu
ứng cử đại biểu HĐND cấp xã thì còn lấy ý
kiến cử tri nơi người đó công tác (Khoản 2
Điều 53 Luật Bầu cử năm 2015).
Số lượng cử tri tham dự Hội nghị được
quy định chi tiết tại Nghị quyết số
1134/2016/UBTVQH132 của UBTVQH.
- Số lượng cử tri nơi công tác: Số lượng
cử tri tham dự hội nghị cử tri nơi công tác
hoặc nơi làm việc để lấy ý kiến về người
ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND ở những nơi
có dưới một trăm cử tri thì tổ chức Hội nghị
toàn thể, nhưng phải bảo đảm ít nhất là hai
phần ba tổng số cử tri tham dự. Nơi có từ
một trăm cử tri trở lên thì có thể tổ chức Hội
nghị đại diện cử tri nhưng phải bảo đảm ít
nhất là bảy mươi cử tri tham dự. Tùy đặc
điểm, tình hình thực tế của cơ quan, tổ chức,
đơn vị, Ban chấp hành Công đoàn phối hợp
với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị phân bổ số lượng người để các tổ chức
công đoàn trực thuộc cử đại diện tham dự;
trường hợp không có tổ chức Công đoàn thì
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
phân bổ số lượng người để các đơn vị trực
thuộc cử đại diện tham dự (khoản 3 Điều 1).
2 Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 quy định chi tiết, hướng dẫn về việc tổ chức hội nghị cử tri; việc giới thiệu người
ứng cử đại biểu HĐND cấp xã ở thôn, tổ dân phố; việc hiệp thương, giới thiệu người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND trong
bầu cử bổ sung.
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
- Số lượng cử tri nơi cư trú: Số lượng cử
tri tham dự Hội nghị cử tri nơi cư trú để lấy ý
kiến về người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND
nơi có dưới một trăm cử tri thì tổ chức Hội
nghị toàn thể, nhưng phải bảo đảm trên 50%
số cử tri tham dự. Nơi có từ một trăm cử tri
trở lên thì phải bảo đảm ít nhất là năm mươi
lăm cử tri tham dự (khoản 3 Điều 2).
Tại Hội nghị, cử tri nghe người tổ chức
đọc tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử
và có quyền phát biểu ý kiến đối với từng
người ứng cử (Điều 4 Nghị quyết số
1134/2016/UBTVQH13).
Nhận xét: Như vậy, trong quá trình hiệp
thương, mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử
viên đã được hình thành, cử tri có cơ hội để
nắm bắt những điểm cơ bản của ứng cử
viên, ý kiến của cử tri chính là căn cứ để
đánh giá phẩm chất, năng lực của người
ứng cử, kiểm tra tính đúng đắn của việc giới
thiệu người ra ứng cử của cơ quan, tổ chức,
đơn vị trên cơ sở đảm bảo phù hợp với ý
chí, nguyện vọng của cử tri. Thế nhưng, quy
định về nội dung này đang thể hiện sự bất
cập, cụ thể:
Một là, quy định chưa đảm bảo sự thống
nhất trong tiêu chuẩn tỷ lệ cử tri có mặt tại
Hội nghị: Đối với nơi số lượng cử tri ít hơn
một trăm thì sự tham gia của cử tri căn cứ tỷ
lệ phần trăm, còn đối với nơi có số lượng cử
tri trên một trăm người thì lại quy định số
lượng cử tri tối thiểu cụ thể (bảy mươi cử tri,
năm lăm cử tri). Sẽ là không tương thích, khi
ví dụ, Trường Đại học Luật Hà Nội, số
lượng cử tri là khoảng năm trăm người, nên
nếu lấy số lượng cử tri tối thiểu thì chỉ cần
bảy mươi cử tri. Số cử tri này chỉ bằng
khoảng 14% tổng số cử tri.
Hai là, về tính quyết định của cử tri
trong việc hình thành danh sách ứng cử viên
chính thức. Theo quy định, về cơ bản, kết
quả biểu quyết của cử tri tại Hội nghị cử tri
dành cho các ứng cử viên không trực tiếp
quyết định việc người ứng cử có được ghi
tên trong danh sách ứng cử viên chính thức
hay không, mà đây chỉ là một trong những
yếu tố để cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phối hợp với tổ chức MTTQ lấy làm cơ sở
lập danh sách ứng cử viên chính thức3.
Ngoại trừ trường hợp bầu cử đại biểu
HĐND cấp xã, thì tỷ lệ biểu quyết của cử tri
mang tính quyết định: “Người được giới
thiệu ứng cử là người được trên 50% cử tri
có mặt tín nhiệm” (điểm đ, khoản 2, Điều 6
Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13).
Kiến nghị: Để đảm bảo tính dân chủ
trong bầu cử, cần thiết phải có những quy
định đảm bảo cho cử tri đóng vai trò quan
trọng hơn nữa trong giai đoạn này, ví dụ:
tăng cường tỷ lệ cử tri tham gia Hội nghị cử
tri, kết quả biểu quyết của cử tri phải có tính
quyết định trong vấn đề lập danh sách ứng
cử viên chính thức. Trong một tương lai xa
hơn, có thể thay thế chế độ hiệp thương bằng
chế độ bầu cử hai vòng4.
Thứ hai, mối quan hệ giữa cử tri và ứng
cử viên trong giai đoạn vận động bầu cử
Thời gian vận động bầu cử được thực
hiện từ ngày công bố danh sách chính thức
và kết thúc trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu
24 giờ (Điều 64 Luật Bầu cử năm 2015).
Đây là giai đoạn giúp cử tri hiểu rõ hơn về
năng lực, phẩm chất của người ứng cử, cũng
là cơ hội để các ứng cử viên thuyết phục,
kêu gọi cử tri bỏ phiếu cho mình. Luật Bầu
cử năm 2015 đã có những quy định chi tiết,
cụ thể về mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử
viên trong giai đoạn này. Luật Bầu cử năm
3 Khoản 2 Điều 48, khoản 2 Điều 49, khoản 2 Điều 56 Luật Bầu cử năm 2015.
4 GS,TS. Thái Vĩnh Thắng, Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay, tham luận tại Hội thảo khoa học của
Đại học Quốc gia ngày 2/7/2012, tr. 33.
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Điều 65 Luật Bầu cử năm 2015.
6 Điểm d khoản 2 Điều 66 Luật Bầu cử năm 2015.
7 Khoản 2, khoản 4 Điều 68 Luật bầu cử năm 2015.
8 GS,TS. Thái Vĩnh Thắng, Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay, tlđd.
2015 quy định ứng cử viên thực hiện vận
động bầu cử qua hai hình thức5:
Một là, thông qua Hội nghị tiếp xúc cử
tri: Tại Hội nghị, cử tri địa phương sẽ được
nghe tiểu sử tóm tắt của các ứng cử viên;
từng người ứng cử báo cáo với cử tri về
chương trình hành động của mình nếu được
trúng cử. Cử tri có thể nêu ý kiến, đề đạt
nguyện vọng của mình với những người ứng
cử. Luật Bầu cử năm 2015 còn bổ sung quy
định về nguyên tắc trong việc tiếp xúc giữa
cử tri và người ứng cử tại Hội nghị: “Người
ứng cử và cử tri trao đổi dân chủ, thẳng thắn
và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm”6.
Hai là, thông qua phương tiện thông tin
đại chúng: Đây là cách thức vận động khá
hiệu quả, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay
khi việc sử dụng công nghệ thông tin khá
phổ biến trong đời sống nhân dân. Với hình
thức này, mặc dù cử tri và ứng cử viên
không trực tiếp gặp nhau như hình thức tiếp
xúc cử tri, nhưng qua phương tiện thông tin
đại chúng, phạm vi tiếp cận đến các cử tri sẽ
rộng rãi hơn.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định
một số hành động bị cấm trong giai đoạn
vận động bầu cử, giúp mối quan hệ giữa cử
tri và người ứng cử thực sự khách quan, đảm
bảo sự bình đẳng giữa các ứng cử viên trong
mối quan hệ với cử tri, đồng thời giúp cử tri
đánh giá người ứng cử một cách đúng đắn,
ví dụ: người ứng cử không được lạm dụng
chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện
thông tin đại chúng trong vận động bầu cử;
không sử dụng biện pháp hoặc hứa tặng,
cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
để lôi kéo, mua chuộc cử tri7
Nhận xét: Mọi cuộc bầu cử đều có giai
đoạn vận động bầu cử. Đây là giai đoạn rất
quan trọng với cả ứng cử viên và cử tri. Ở
một số nước trên thế giới, tính tranh cử trong
quá trình vận động bầu cử được thể hiện rất
rõ, các ứng cử viên phải bỏ ra nhiều công
sức, tài chính, chủ động tổ chức, xây dựng
chương trình vận động cử tri nhằm thuyết
phục công dân ủng hộ, bỏ phiếu cho mình.
Tại nhiều nước trên thế giới, kết quả của
cuộc bầu cử có thể được định hình ít nhiều
ở giai đoạn này mà không cần chờ đến giai
đoạn bỏ phiếu. “Vận động tranh cử có thể
coi là linh hồn của cuộc bầu cử”8 bởi nó
khiến cho cuộc bầu cử được sôi nổi hơn, gay
cấn hơn, người ứng cử sẽ thể hiện được tâm
huyết của mình, đồng thời người dân cũng
bị thu hút, quan tâm nhiều hơn đến đời sống
chính trị và quyền làm chủ của họ. Ở Việt
Nam, hiện không có tranh cử trong vận động
bầu cử, mà vận động bầu cử chủ yếu dựa
trên việc tổ chức của MTTQ và chính quyền
địa phương; chưa có sự chủ động của người
ứng cử, do đó, mối quan hệ giữa cử tri và
người ứng cử cũng khá bình lặng, khó có thể
đẩy lên tới “cao trào” như ở những nước tổ
chức bầu cử có hoạt động tranh cử.
Có thể thấy, mối quan hệ giữa cử tri và
người ứng cử ở giai đoạn này, nếu không
được chú trọng, thì người dân sẽ khó hiểu
rõ, đánh giá đúng về ứng cử viên, nên việc
bỏ phiếu ở giai đoạn sau sẽ trở nên mơ hồ
và cảm tính. Mặt khác, vận động bầu cử
không chỉ có ý nghĩa ở việc giúp cử tri hiểu
rõ hơn về những người mà mình sắp sửa bỏ
phiếu cho họ, từ đó khiến họ tin tưởng hơn
vào sự lựa chọn của mình, mà còn đảm bảo
sự ràng buộc với những ứng cử viên, buộc
họ khi trúng cử phải thực hiện đúng với
những gì đã tuyên bố với cử tri. Điều này có
ý nghĩa rất quan trọng để sau này đánh giá
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
năng lực của ĐBQH, đại biểu HĐND. Đặc
biệt là khi, các tiêu chí cụ thể để bãi nhiệm
đại biểu còn đang rất chung chung và khó
thực hiện.
Kiến nghị: Mặc dù Luật Bầu cử năm
2015 đã chú trọng hơn trong việc quy định
nội dung vận động bầu cử, nhưng để thu hút
người dân quan tâm đến hoạt động vận động
bầu cử hơn nữa, cần phải có những biện
pháp thúc đẩy hoạt động này, ví dụ: thời
gian, địa điểm tiếp xúc cử tri phải được
thông báo rộng rãi hơn, khuyến khích người
dân tham dự Hội nghị tiếp xúc cử tri, tạo cơ
chế để tăng khả năng chủ động cho người
ứng cử trong việc vận động bầu cử.
Thứ ba, mối quan hệ giữa cử tri với ứng
cử viên trong quá trình bỏ phiếu
Mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên
được thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động
bỏ phiếu của cử tri đối với ứng cử viên mà
mình tín nhiệm. Mỗi cử tri có quyền bỏ một
phiếu bầu ĐBQH và bỏ một phiếu bầu đại
biểu HĐND tương ứng với mỗi cấp HĐND.
Cử tri không muốn chọn ai thì trực tiếp gạch
tên người đó.
Với nguyên tắc bỏ phiếu trực tiếp,
người dân sẽ tự mình chọn ra người mà
mình tín nhiệm, không qua khâu trung gian.
Điều đó thể hiện mối quan hệ giữa cử tri và
ứng cử viên rất chặt chẽ. Để đảm bảo
nguyên tắc này, pháp luật quy định cử tri
phải trực tiếp đi bầu, một số trường hợp đặc
biệt do luật định có thể nhờ người khác bầu
cử thay. Việc xác định ứng cử viên trúng cử
hay không căn cứ trực tiếp ngay vào kết quả
bỏ phiếu: người trúng cử phải được quá nửa
số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu bầu
hơn. Bên cạnh đó, nếu có nhiều ứng cử viên
có số phiếu bằng nhau và nhiều hơn lượng
đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu
cử thì người nhiều tuổi hơn sẽ trúng cử9.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa cử tri với
ứng cử viên còn được thể hiện trong hoạt
động bầu cử thêm, bầu cử lại, bầu cử bổ
sung10.
Nhận xét: về cơ bản, pháp luật bầu cử
đã quy định khá rõ ràng mối quan hệ giữa
cử tri và ứng cử viên trong giai đoạn bỏ
phiếu. Cử tri là chủ thể quyết định ai là
người trúng cử thông qua lá phiếu của mình.
Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy có một số hạn
chế sau: thông thường, đơn vị bầu cử được
bầu ba đại biểu thì chỉ để năm ứng cử viên,
đơn vị được bầu năm đại biểu thì chỉ để lại
bảy ứng cử viên. Bởi vì tại vòng hiệp
thương, cử tri không phải là chủ thể quyết
định đến việc chọn ứng cử viên, nên quyền
chọn lựa của cử tri được thực hiện chính tại
giai đoạn này, nhưng với tỷ lệ người ứng cử
trên số đại biểu được bầu quá thấp như vậy,
nên có thể thấy cử tri chỉ có quyền chọn
28% đến 40%11. Đó có thể là một trong
những nguyên nhân khiến việc bỏ phiếu của
cử tri còn mang tính hình thức, nhiều cử tri
khá “hời hợt” trong việc lựa chọn ứng cử
viên, hiện tượng bỏ phiếu hộ còn nhiều, việc
kiểm phiếu nhiều nơi cũng chưa được thực
hiện nghiêm túc Những hạn chế này ảnh
hưởng ít nhiều đến mối quan hệ giữa cử tri
và ứng cử viên.
Kiến nghị: Cần phải có những quy định
về số lượng ứng cử viên chính thức theo
hướng tăng số lượng ứng cử viên chính thức
trên mỗi đơn vị bầu cử lên, có các quy định
chặt chẽ hơn trong việc kiểm soát hoạt động
bỏ phiếu của cử tri, tránh tình trạng bỏ phiếu
hộ, hoặc bỏ phiếu cảm tính n
9 Xem Điều 78 Luật Bầu cử năm 2015.
10 Xem Điều 79, Điều 80, Điều 89 Luật Bầu cử năm 2015.
11 GS,TS. Thái Vĩnh Thắng, Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay, tlđd, tr. 28.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_giua_cu_tri_va_ung_cu_vien_trong_bau_cu.pdf