Thứ nhất, nếu giữa Tổng thống và
khối đa số trong Nghị viện (Hạ viện) là
người cùng một đảng thì đó là một may
mắn lớn cho Tổng thống. Vì Tổng thống
sẽ tự do chọn Thủ tướng, Nghị viện sẽ dễ
dàng phê chuẩn và Thủ tướng sẽ chọn các
Bộ trưởng theo ý muốn của Tổng thống
(cả Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng
và khối đa số trong Nghị viện là cùng một
đảng). Trong trường hợp này, Tổng thống có
quyền lực rất lớn, khống chế cả Nghị viện
và Chính phủ. Thủ tướng hoạt động như
một Phó Tổng thống, trợ lý, giúp việc cho
Tổng thống. Cộng hòa hỗn hợp đã bị biến
dạng thành cộng hòa tổng thống, thậm chí
là “siêu tổng thống”12. Như vậy, chính thể
cộng hòa lưỡng tính tuy mong muốn hạn chế
sự chuyên quyền của Tổng thống (như chính
thể tổng thống) nhưng lại “vô tình” tạo nên
cơ chế Tổng thống chuyên quyền hơn. Một
điểm yếu nữa trong trạng thái chính thể này
là vị Thủ tướng có vai trò mờ nhạt, trở thành
một thiết chế không cần thiết. Điều này dẫn
đến khả năng Tổng thống độc tài, vì ông có
vai trò chẳng khác nào ông vua trong chính
thể quân chủ
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể cộng hòa hỗn hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỐI QUAN HỆ GIỮA LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP
TRONG CHÍNH THỂ CỘNG HÒA HỖN HỢP
Tóm tắt:
Quy định về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp, cụ thể là mối
quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa hai nhánh
quyền lực này tùy thuộc vào chế độ chính trị, chính thể của từng
quốc gia; tùy thuộc vào những tác động của yếu tố đảng chính trị
đến mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp mà có sự tương đồng
và khác biệt nhất định.
Nguyễn Mạnh Hùng*
* ThS. GV. Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
** ThS. GV. Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Mai Anh**
Abstract
The regulations on the relationship between the legislative branch
and the executive one, particularly the relationship of their
mandates, mutual coordination and supervision between these
two powerful branches depend on the political regime and the
institutional modality of each nation; and depend on the influences
of the political parties to the relationship between legislative power
and executive one, which may lead to any certain similarities and
differences among the nations.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: mối quan hệ, lập pháp, hành
pháp, cộng hòa hỗn hợp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 19/12/2018
Biên tập : 07/01/2019
Duyệt bài : 15/01/2019
Article Infomation:
Keywords: relationship, legislative,
executive, semi-presidential regime.
Article History:
Received : 19 Dec. 2018
Edited : 07 Jan. 2019
Approved : 15 Jan. 2019
1. Mối quan hệ phân công và phối hợp
giữa lập pháp và hành pháp trong chính
thể cộng hòa hỗn hợp
1.1 Sự phân công và phối hợp trong lĩnh
vực lập pháp
Trong chính thể cộng hòa hỗn hợp,
sự phân công và phối hợp giữa Nghị viện
và Chính phủ trong lĩnh vực lập pháp được
biểu hiện thông qua những khía cạnh sau:
- Phân định phạm vi lập pháp: Hiến
pháp 1958 của Cộng hòa Pháp là một trong
những bản Hiến pháp rất hiếm hoi vạch rõ
những vấn đề nào thuộc lĩnh vực lập pháp
của Nghị viện. Điều 34 Hiến pháp 1958
Cộng hòa Pháp quy định thẩm quyền lập
pháp của Nghị viện trong phạm vi 15 lĩnh
vực sau đây: quyền công dân và những bảo
đảm cơ bản cho công dân thực hiện các
quyền, tự do, xác nhận nghĩa vụ về tài sản
hoặc nhân thân xuất phát từ yêu cầu quốc
phòng; quốc tịch, địa vị và năng lực của cá
nhân, chế độ hôn nhân, thừa kế, tặng cho;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 5(381) T3/2019
ấn định trọng tội, khinh tội và các hình phạt,
thủ tục hình sự, quy chế thẩm phán; mức
thuế và thể thức thu thuế, quy chế phát hành
tiền tệ; chế độ bầu cử Nghị viện và các Hội
đồng địa phương; thành lập các loại công sở;
đảm bảo cơ bản đối với công chức dân sự và
nhân viên quân sự nhà nước; vấn đề cơ bản
về quốc phòng; nền hành chính của các tập
thể cộng đồng và nguồn tài chính của họ;
vấn đề giáo dục; chế độ sở hữu, các quyền
và nghĩa vụ dân sự, thương mại; quyền lao
động, thành lập nghiệp đoàn; các nguồn thu
và thuế Nhà nước; mục tiêu hoạt động kinh
tế - xã hội của Nhà nước. Ngoài những lĩnh
vực trên, Chính phủ có thể thực hiện quyền
lập quy của mình thông qua việc ban hành
các sắc lệnh. Các tranh chấp thẩm quyền
giữa Nghị viện và Chính phủ trong lĩnh vực
lập pháp sẽ do Hội đồng Bảo hiến giải quyết.
- Ủy quyền lập pháp và sáng kiến lập
pháp: theo Điều 38 Hiến pháp 1958 của
Cộng hòa Pháp, Nghị viện có thể ủy quyền
lập pháp cho Chính phủ đối với một số vấn
đề nhất định. Hiến pháp 1958 của Cộng hòa
Pháp không ghi nhận Tổng thống có quyền
sáng kiến luật mà chỉ quy định quyền này
thuộc về Thủ tướng và các nghị sĩ. Vì thế,
nếu Tổng thống có quyền sáng kiến luật thì
phải thông qua Thủ tướng để Thủ tướng đệ
trình lên Nghị viện. Nhưng trên thực tế, Tổng
thống vẫn có thể can dự vào quá trình làm
luật của Nghị viện thông qua việc Tổng thống
gửi thông điệp đến Nghị viện, định hướng
cho Nghị viện thảo luận. Đó là cách thức để
Tổng thống can thiệp vào quy trình lập pháp
của Nghị viện, bởi qua thông điệp này, Tổng
thống đã thể hiện mong muốn của mình và
Nghị viện - một cách gián tiếp - phải cụ thể
hóa mong muốn của Tổng thống bằng các
đạo luật. Theo Điều 39 Hiến pháp 1958 thì cả
Thủ tướng và thành viên Chính phủ có quyền
sáng kiến lập pháp. Thủ tướng có quyền đưa
ra sáng kiến lập pháp, tự mình tham gia vào
việc xây dựng dự án luật, có thể tham gia hoạt
động của các Ủy ban thuộc Nghị viện. Điều
1 Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2007), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ - Mô hình tổ chức và hoạt động, Nxb. Lý
luận Chính trị, tr.186-187.
45 Hiến pháp 1958 quy định, Thủ tướng có
quyền triệu tập phiên họp hỗn hợp giữa các
Ủy ban của Thượng viện và Hạ viện khi hai
Viện này có sự bất đồng ý kiến về một dự
luật. Nếu hòa giải không thành thì Thủ tướng
sẽ đề nghị Hạ viện chung quyết với tỉ lệ 2/3
tổng số Hạ nghị sĩ. Riêng các luật về tổ chức
có liên quan tới Thượng viện thì phải được cả
Thượng viện và Hạ viện thông qua, có nghĩa là
Chính phủ không thể đề nghị Hạ viện nói “lời
cuối cùng” bất chấp sự phản đối của Thượng
viện. Như vậy, chỉ khi nào Chính phủ muốn
một dự luật được Nghị viện thông qua thì mới
tiến hành thủ tục đưa ra Ủy ban hỗn hợp (còn
nếu Chính phủ không muốn dự luật thông qua
thì về mặt lý thuyết, dự luật đó có thể chuyển
qua chuyển lại giữa hai Viện mà không có hồi
kết). Ngoài ra, Thủ tướng còn có thể yêu cầu
Tổng thống kiến nghị với Nghị viện xem xét
lại dự án luật. Đặc biệt, Chính phủ có thể cam
kết trách nhiệm trước Hạ viện trong trường
hợp muốn bảo vệ một dự luật nào đó thường
là do Chính phủ đưa ra sáng kiến. Nếu Chính
phủ cho là việc ban hành đạo luật đó là cấp
bách mà Hạ viện không ủng hộ thì khi đó,
văn bản luật cũng có thể được coi như là được
thông qua và có hiệu lực trong một thời hạn
nhất định. Các nhà nghiên cứu chính trị đều
thống nhất với nhận định: trong lĩnh vực lập
pháp, Thủ tướng Pháp đóng vai trò như “nhà
lập pháp thứ hai”. Sự tích cực của Chính phủ
trong lĩnh vực lập pháp là dấu hiệu đầu tiên
thể hiện sự suy yếu của Hạ viện (Nghị viện)
trước Chính phủ và cũng là của lập pháp
trước hành pháp. Có thể thấy, quá trình lập
pháp từ sáng kiến luật, thảo luận, thông qua,
ban hành, sửa đổi và thực thi trên thực tế đều
thấy vai trò rất lớn của Chính phủ. Bởi vì theo
Hiến pháp 1958, Chính phủ không chỉ chia
sẻ, mà ở những khâu quan trọng, Chính phủ
có khả năng trực tiếp như một chủ thể chính
thức và chủ yếu của việc làm luật1.
- Công bố luật và thi hành luật: khi
Nghị viện đã thông qua một dự luật thì dự
luật đó phải gửi đến cho Tổng thống ký công
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 5(381) T3/2019
bố. Hiến pháp 1958 đã tính đến hai khả năng
có thể xảy ra đối với các dự luật khi được
gửi đến cho Tổng thống. Khả năng thứ nhất,
Tổng thống có quyền yêu cầu Nghị viện thảo
luận lại về toàn bộ hoặc một số điều luật và
theo quy định của Hiến pháp, Nghị viện phải
xem xét theo yêu cầu của Tổng thống. Khả
năng thứ hai, Tổng thống yêu cầu Hội đồng
Bảo hiến xem xét lại tính hợp hiến của đạo
luật đó. Nếu Hội đồng Bảo hiến kết luận
đạo luật đó vi hiến thì Tổng thống có quyền
phủ quyết đạo luật đó2. Chính phủ Cộng hòa
Pháp không chỉ có quyền ban hành các văn
bản pháp quy để hướng dẫn thi hành các
đạo luật trong thực tế mà còn để điều chỉnh
các quan hệ xã hội mới phát sinh nhằm đáp
ứng yêu cầu tức thời trong hoạt động quản
lý. Không những thế, Tổng thống Cộng hòa
Pháp có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của
Thủ tướng ra sắc lệnh nhằm triệu tập phiên
họp bất thường của Nghị viện.
- Quyết định đưa dự luật ra trưng cầu ý
dân: Điều 11 Hiến pháp 1958 Cộng hòa Pháp
quy định: theo đề nghị của Chính phủ, trong
khi Nghị viện họp hoặc theo đề nghị chung
của hai Viện được công bố trên Công báo thì
Tổng thống có quyền đưa ra trưng cầu ý kiến
nhân dân các dự luật về tổ chức các cơ quan
công quyền, các dự luật về cải cách chính
sách kinh tế, xã hội hoặc môi trường quốc
gia và dịch vụ công cộng hoặc dự luật phê
chuẩn điều ước quốc tế không có quy định
trái với Hiến pháp nhưng có ảnh hưởng đến
hoạt động của các thiết chế nhà nước. Nếu kết
quả trưng cầu ý kiến nhân dân chuẩn y việc
thông qua dự thảo luật thì Tổng thống công
bố luật trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có
kết quả trưng cầu ý kiến nhân dân.
1.2 Sự phân công và phối hợp trong lĩnh
vực hành pháp
Về thành lập Chính phủ, chính thể
cộng hòa lưỡng tính (hỗn hợp) là sự kết hợp
những yếu tố của cộng hòa đại nghị và cộng
hòa tổng thống để tạo ra một cơ quan hành
pháp có hai người đứng đầu hay còn gọi là
“Chính phủ lưỡng đầu”: vừa có Tổng thống,
2 Nguyễn Văn Huyên, tlđd, tr.180.
vừa có Thủ tướng. Tổng thống do cử tri trực
tiếp bầu ra thông qua phổ thông đầu phiếu.
Cách thành lập này giống như Tổng thống
ở các nước theo chính thể cộng hòa Tổng
thống. Trong khi đó, Thủ tướng và các Bộ
trưởng được thành lập trên cơ sở của Nghị
viện (Hạ viện). Tổng thống buộc phải bổ
nhiệm thủ lĩnh của đảng chiếm đa số trong
Nghị viện (Hạ viện) làm Thủ tướng. Tại
Pháp, “Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng,
Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ của Thủ
tướng khi Thủ tướng đệ trình đơn từ chức
của Chính phủ. Tổng thống bổ nhiệm và
chấm dứt các thành viên của Chính phủ theo
đề nghị của Thủ tướng” (Điều 8 Hiến pháp
1958). Theo Điều 8, có thể hiểu Tổng thống
Pháp có toàn quyền trong việc bổ nhiệm Thủ
tướng. Tuy nhiên, các Điều 20, 49, 50 của
Hiến pháp cũng quy định, Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Hạ viện và phải từ chức
nếu Hạ viện bất tín nhiệm. Do đó, trên thực
tế, Tổng thống Pháp không thể bổ nhiệm
ai khác làm Thủ tướng ngoài thủ lĩnh của
đảng chiếm đa số trong Hạ viện. Như vậy, sự
thành lập Chính phủ Pháp cũng giống như
các nước theo chính thể đại nghị.
Cách thức thành lập Chính phủ ở Nga
có khác so với Pháp. Theo Điều 83 Hiến
pháp 1993 của Liên bang Nga: “Tổng thống
bổ nhiệm Thủ tướng với sự đồng ý của Đuma
Quốc gia. Tổng thống bổ nhiệm và bãi miễn
các Phó Thủ tướng và các Bộ trưởng theo đề
nghị của Thủ tướng”. Tuy nhiên, cũng theo
Hiến pháp, nếu sau ba lần Đuma Quốc gia
bác ứng cử viên Thủ tướng do Tổng thống
giới thiệu thì Tổng thống có quyền giải tán
Đuma Quốc gia. Quy định này cho phép
Tổng thống Nga giải tán Hạ viện, nếu Hạ
viện không đồng ý với ứng viên Thủ tướng.
Do vậy, trong nhiều trường hợp, Tổng thống
gần như toàn quyền quyết định trong việc
chọn ai làm Thủ tướng, bất luận ý kiến của
Đuma Quốc gia.
Trong thực hiện quyền hành pháp,
chính thể cộng hòa lưỡng tính thể hiện rõ
nét nhất tính “hành pháp hai đầu”. Tổng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 5(381) T3/2019
thống và Chính phủ cùng san sẻ quyền hành
pháp. Tổng thống chủ tọa các phiên họp
của Chính phủ và đề ra những chính sách
quan trọng về đối nội, đối ngoại. Đây là một
thẩm quyền đặc biệt, làm nổi bật vai trò của
Tổng thống trong việc thực thi quyền hành
pháp. Ở Pháp và Nga, tuy Hiến pháp không
ghi nhận quyền hành pháp của Tổng thống
nhưng việc Tổng thống có thẩm quyền chủ
tọa các phiên họp của Chính phủ chính là
đã gián tiếp ghi nhận Tổng thống đứng đầu
hành pháp (Điều 9 Hiến pháp 1958 của Pháp:
“Tổng thống chủ tọa Hội đồng Bộ trưởng”;
Điều 13: “Tổng thống ký sắc lệnh và lệnh
được biểu quyết tại Hội đồng Bộ trưởng”.
Điều 83 Hiến pháp Nga: “Tổng thống chủ
tọa các phiên họp của Chính phủ”; Điều 80:
“Tổng thống căn cứ vào Hiến pháp và luật
để xác định những phương hướng cơ bản
của chính sách đối nội và đối ngoại của Nhà
nước”). Như vậy, ở Pháp và Nga, trong lĩnh
vực hành pháp, Tổng thống đề ra các chính
sách đối nội và đối ngoại, còn Chính phủ
thực thi những chính sách đó. Đây có lẽ là
sự phân chia thẩm quyền giữa Tổng thống
và Thủ tướng trong hành pháp. Thủ tướng sẽ
điều hành hoạt động của Chính phủ để thực
thi các chính sách mà phiên họp Chính phủ
(dưới sự chủ tọa của Tổng thống) đưa ra3.
Điều 5 Hiến pháp Pháp 1958 quy
định: “Tổng thống có nhiệm vụ bảo vệ Hiến
pháp. Đóng vai trò trọng tài, Tổng thống
đảm bảo sự hoạt động và điều hòa của các cơ
quan công quyền và sự liên tục của quốc gia.
Tổng thống là người bảo đảm cho nền độc
lập quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ và việc
tôn trọng các cam kết quốc tế”. Với tư cách
là người đứng đầu Nhà nước do dân bầu ra,
Tổng thống thực hiện chức năng đại diện và
đóng vai trò trọng tài trong các công việc
nhà nước. Tổng thống là người bảo vệ Hiến
pháp, đảm bảo nền cộng hòa, độc lập dân tộc
và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đảm bảo
hoạt động thông suốt của các cơ quan nhà
nước. Là người đứng đầu và đại diện của đất
3 Bùi Tiến Đạt (2011), Chính thể “Cộng hòa lưỡng tính”: sáng tạo nhưng đầy bất trắc trong “Hiến pháp: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.172.
4 Nguyễn Văn Huyên, tlđd, tr.182.
nước trong quan hệ đối ngoại, Tổng thống
đảm bảo việc tôn trọng các hiệp định và hiệp
ước ký kết. Tổng thống điều hòa mối quan
hệ giữa Chính phủ và Nghị viện. Như vậy,
Tổng thống đứng trung gian giữa Chính phủ
và Nghị viện. Tổng thống là người đại diện
tối cao của Nhà nước trong quan hệ quốc tế.
Tổng thống ủy nhiệm cho các đại sứ khi họ
ra nước ngoài, và tiếp nhận sự ủy nhiệm của
các đại sứ nước ngoài khi họ đến Pháp (Điều
14 Hiến pháp 1958). Tổng thống có quyền
thảo luận, đàm phán và ký kết các điều ước
quốc tế. Đây là một thẩm quyền rất quan
trọng của Tổng thống khi ông thay mặt đất
nước thể hiện chính kiến của quốc gia khi
thảo luận và đàm phán, ký kết các điều ước
quốc tế. Tuy nhiên, thẩm quyền phê chuẩn
để các điều này có hiệu lực trên thực tế thì
lại thuộc về Nghị viện và có những điều ước
phải tổ chức trưng cầu ý dân. Theo quy định
tại Điều 15 Hiến pháp 1958, Tổng thống là
Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang (Chef
des armées), là người đứng đầu Hội đồng
và Ủy ban Quốc gia Tối cao về quốc phòng.
Đây là thẩm quyền vô cùng quan trọng của
Tổng thống vì các cơ quan này chính là
cơ quan xác định các nguyên tắc và chính
sách quân sự quốc gia, bổ nhiệm các chức
vụ quân sự cao cấp quyết định sử dụng vũ
khí nguyên tử. Đây là lĩnh vực rất nhạy cảm,
do đó, chỉ có Tổng thống và Ủy ban Quốc
gia Tối cao về quốc phòng mới có quyền sử
dụng vũ khí hạt nhân, và trước khi sử dụng
trên thực tế, quyết định này còn phải được
sự chấp thuận của Nghị viện Pháp4.
Hiến pháp 1958 giao cho Thủ tướng
khá nhiều quyền hạn để điều hành đất nước.
Điều 21 quy định: “Thủ tướng điều khiển
hoạt động của Chính phủ. Thủ tướng chịu
trách nhiệm về quốc phòng, bảo đảm việc
thực thi pháp luật”. Thủ tướng Pháp còn có
một số thẩm quyền đặc biệt như: là người
duy nhất có quyền thỉnh cầu Hội đồng Kinh
tế - xã hội; được Tổng thống hỏi ý kiến trong
hai trường hợp: giải tán Hạ nghị viện (Điều
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 5(381) T3/2019
12) và sử dụng quyền hạn đặc biệt (Điều
16); có thể thỉnh cầu Hội đồng Bảo hiến
trong trường hợp có sự nghi ngờ về tính hợp
hiến của đạo luật5.
Điều 113 Hiến pháp 1993 của Liên
bang Nga quy định: Thủ tướng vừa là người
lãnh đạo Chính phủ, vừa là người hoạch định
phương hướng hoạt động cơ bản của Chính
phủ. Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, Thủ
tướng phải tuân theo Hiến pháp, pháp luật
liên bang và sắc lệnh của Tổng thống liên
bang. Thủ tướng chủ trì việc soạn thảo các
dự luật hay dự án sắc lệnh của Tổng thống
khi được Tổng thống ủy quyền; báo cáo với
Tổng thống kết quả việc thực hiện nhiệm vụ
được giao. Với tư cách là ngưới đứng đầu
Chính phủ, Thủ tướng cũng đệ trình Đuma
Quốc gia phê chuẩn ngân sách quốc gia, dự
án luật, đề án, chương trình6...
2. Mối quan hệ kiểm soát giữa lập pháp
và hành pháp trong chính thể cộng hòa
hỗn hợp
2.1 Sự kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp
Như đã phân tích, hành pháp trong
chính thể cộng hòa hỗn hợp bao gồm Tổng
thống và Chính phủ. Tổng thống được thành
lập độc lập với Nghị viện, Tổng thống do
nhân dân trực tiếp bầu ra và về cơ bản không
chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Về cơ
bản, Tổng thống chỉ phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân chứ không phải chịu một
sức ép nào hay một trách nhiệm nào trước
các nhánh quyền lực khác. Thông qua cuộc
trưng cầu ý dân, Tổng thống có thể phải từ
chức. Lịch sử nước Pháp cũng đã từng chứng
kiến sự ra đi của Tổng thống De Gaulle sau
5 Bùi Tiến Đạt (2011), Chính thể “Cộng hòa lưỡng tính”: sáng tạo nhưng đầy bất trắc” trong Hiến pháp: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, tlđd, tr.172.
6 Xem cụ thể Vũ Dương Huân (chủ biên) (2002), Hệ thống chính trị Liên bang Nga: Cơ cấu và tác động đối với quá trình
hoạch định chính sách đối ngoại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 108-112.
cuộc trưng cầu ý dân vào năm 1969 (trước
3 năm so với thời điểm kết thúc nhiệm kỳ).
Điều này bảo đảm tính khách quan trong
hoạt động của Tổng thống. Tuy nhiên, căn
cứ vào Hiến pháp và thực tế chính trị, Tổng
thống luôn phải chịu sự giám sát của nhân
dân và bị kiềm chế bởi các nhánh quyền lực
khác. Nghị viện Pháp có thể không thông
qua chính sách và chiến lược phát triển đất
nước của Tổng thống, gây khó khăn cho
việc thực thi chính sách của Tổng thống.
Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, Tổng
thống được hưởng quyền miễn trừ trong mọi
lĩnh vực. Tuy nhiên, khi Tổng thống phạm
một tội đặc biệt nghiêm trọng thì Nghị viện
có thể nêu vấn đề phế truất. Điều 68 Hiến
pháp Pháp quy định: “Tổng thống không
phải chịu trách nhiệm trước những hành
động nhằm thực thi nhiệm vụ, trừ trường
hợp phạm tội phản quốc”. Trong trường
hợp đó, tuy không có quyền phế truất Tổng
thống nhưng Nghị viện đóng một vai trò
quan trọng trong quy trình dẫn đến việc phế
truất Tổng thống. Cũng theo Điều 68 Hiến
pháp 1958 của Pháp: “Tổng thống bị truy
tố bởi hai Viện bằng hai cuộc bỏ phiếu theo
nguyên tắc đa số tuyệt đối. Tổng thống bị
Tòa án tối cao xét xử”. Tòa án tối cao là cơ
quan duy nhất có quyền xét xử Tổng thống
bao gồm các thành viên là nghị sĩ do hai
viện bầu lên. Nếu Tòa án tối cao quyết định
Tổng thống có tội thì Tổng thống sẽ lập tức
bị đình chỉ nhiệm vụ bằng một quyết định
của Hội đồng Bảo hiến.
Vấn đề phế truất Tổng thống Liên
bang Nga do Nghị viện đặt ra và Nghị viện
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 5(381) T3/2019
quyết định7. Nghị viện Nga có quyền đưa
ra sự buộc tội và quyết định phế truất Tổng
thống. Còn Nghị viện Pháp chỉ có quyền
đưa ra sự buộc tội còn quyết định phế truất
Tổng thống thuộc về Tòa án tối cao8.
Thủ tướng và các Bộ trưởng vì được
thành lập trên cơ sở Nghị viện (Hạ viện) nên
phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện (Hạ
viện). Điều 20 Hiến pháp Pháp quy định:
“Chính phủ chịu trách nhiệm trước Hạ viện
theo các điều kiện và thủ tục quy định trong
các Điều 49, 50”. Các Nghị sĩ có thể chất
vấn Chính phủ, Nghị viện có thể thành lập
các Ủy ban điều tra nhằm tìm kiếm thông tin
về hoạt động của Chính phủ trong một vụ
việc nhất định. Theo quy định của Điều 50,
“Nếu Hạ viện thông qua một sự chỉ trích hay
không chấp nhận chương trình hoạt động
của Chính phủ, thì Thủ tướng phải đệ đơn từ
chức lên Tổng thống”. Tổng thống chấm dứt
nhiệm vụ của Thủ tướng và theo đề nghị của
Thủ tướng, Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ
của các Bộ trưởng.
Ở Nga, Đuma Quốc gia có thể bỏ
phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. Vấn đề bỏ
phiếu tín nhiệm hoặc do Chính phủ yêu
cầu hoặc do Đuma Quốc gia nêu ra (Điều
113 Hiến pháp Liên bang Nga). Khi Đuma
Quốc gia biểu quyết bất tín nhiệm Chính
phủ, Chính phủ không bị giải tán ngay mà
Tổng thống sẽ cân nhắc và quyết định giải
tán Đuma Quốc gia hay Chính phủ. Việc
7 Thủ tục phế truất được quy định tại Điều 93 của Hiến pháp: “1. Tổng thống Liên bang Nga bị Hội đồng Liên bang Nga
buộc tội khi phản bội tổ quốc hay phạm tội nghiêm trọng khác, đã được Tòa án Tối cao định tội và được Tòa án Hiến
pháp xác nhận thủ tục buộc tội đã được giám sát. 2. Quyết định của Đuma Quốc gia về việc đưa ra sự buộc tội và quyết
định của Hội đồng Liên bang về việc phế truất Tổng thống khỏi chức vụ phải được bởi 2/3 số phiếu trong mỗi Viện theo
sáng kiến của ít nhất 1/3 Hạ nghị sĩ và khi có kết luận của một Ủy ban đặc biệt do Đuma Quốc gia thành lập. 3. Quyết
định của Hội đồng Liên bang Nga về việc phế truất Tổng thống khỏi chức vụ phải được thông qua trong thời hạn 03
tháng sau khi Đuma Quốc gia đưa ra sự buộc tội Tổng thống. Nếu trong thời hạn này, quyết định của Hội đồng Liên
bang không được đưa ra thì sự buộc tội đó coi như bị bác bỏ”.
8 Bùi Tiến Đạt (2011), Chính thể “Cộng hòa lưỡng tính”: sáng tạo nhưng đầy bất trắc” trong Hiến pháp: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, tlđd, tr. 174-175.
Chính phủ có bị giải tán hay không hoàn
toàn do Tổng thống quyết định chứ không
phải do Đuma Quốc gia. Theo Điều 83 Hiến
pháp Nga 1993, “Tổng thống quyết định sự
từ chức của Chính phủ”. Đây là một thẩm
quyền rất lớn của Tổng thống. Theo đó, một
khi Chính phủ không còn sự tin tưởng của
Tổng thống nữa thì Tổng thống có quyền
giải tán Chính phủ. Quyền hạn này của Tổng
thống Nga không khác gì Tổng thống Mỹ,
người có toàn quyền cách chức các thành
viên Chính phủ.
2.2 Sự kiểm soát của hành pháp đối với lập pháp
Trong chính thể cộng hòa hỗn hợp,
quyền phủ quyết luật của Nghị viện và quyền
giải tán Nghị viện trước thời hạn là hai công
cụ quan trọng mà hành pháp được trang bị
để kiểm soát lại lập pháp. Theo quy định của
Hiến pháp 1958, khi Tổng thống nhận một
dự luật đã được hai Viện thông qua thì Tổng
thống có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận
lại về toàn bộ hoặc một số điều luật. Trong
trường hợp này, Nghị viện phải xem xét theo
yêu cầu của Tổng thống. Bên cạnh đó, Tổng
thống có quyền yêu cầu Hội đồng Bảo hiến
xem xét lại tính hợp hiến của đạo luật. Nếu
Hội đồng Bảo hiến kết luận đạo luật đó vi
hiến thì Tổng thống có quyền phủ quyết đạo
luật đó.
Theo quy định của Điều 12 Hiến pháp
Pháp, “Sau khi tham khảo ý kiến Thủ tướng
và Chủ tịch hai Viện, Tổng thống có thể giải
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 5(381) T3/2019
tán Hạ viện. Tổng tuyển cử sẽ tổ chức ít nhất
20 ngày và nhiều nhất 40 ngày sau khi bị giải
tán”. Điều 12 cũng quy định những trường
hợp không được giải tán Hạ viện nhằm hạn
chế bớt sự lạm quyền của Tổng thống trong
việc giải tán Hạ viện: “Tổng thống không
thể giải tán Hạ nghị viện trong một năm sau
khi cuộc tổng tuyển cử được tổ chức”. Ngoài
ra, Điều 16 Hiến pháp 1958 cũng quy định:
“Hạ nghị viện không thể bị giải tán khi Tổng
thống sử dụng những biện pháp đặc biệt”9.
Những quy định trên cho thấy, Hiến
pháp của các quốc gia theo chính thể cộng
hòa hỗn hợp đều cho Tổng thống có quyền
quyết định việc giải tán Hạ nghị viện trước
thời hạn (trong khi đó, nguyên thủ quốc gia
trong chính thể đại nghị thì chỉ giải tán Nghị
viện theo yêu cầu của Thủ tướng). Đây là
một thẩm quyền khá đặc biệt mà rất ít Hiến
pháp cho phép. Ở Pháp, Tổng thống có thể
tự quyết định giải tán Hạ viện khi xét thấy
cần thiết. Việc hỏi ý kiến Thủ tướng và Chủ
tịch mỗi Viện chỉ mang tính chất tham khảo.
Hơn nữa, việc Tổng thống ra quyết định giải
tán Hạ viện có thể vì lý do khác, ví dụ, Tổng
thống có thể tuyên bố giải tán Hạ viện nhằm
củng cố một số ghế vững chắc cho đảng
mình trong Hạ viện. Thực tế cho thấy, các
Tổng thống Pháp đã bốn lần sử dụng quyền
này nhằm tạo số ghế vững chắc hơn cho đảng
mình ở Hạ viện10. Nhà nghiên cứu chính trị
học người Pháp Pierre Pactet cho rằng, hoạt
9 Hiến pháp Liên bang Nga 1993 quy định ba trường hợp mà Tổng thống có quyền giải tán Đuma Quốc gia, bao gồm:
i). Sau ba lần Đuma Quốc gia bác bỏ ứng cử viên Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga do Tổng thống Liên bang Nga giới
thiệu, thì Tổng thống Liên bang Nga tự bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga, giải tán Đuma Quốc gia và quyết
định cuộc bầu cử mới (Khoản 4 Điều 111 Hiến pháp); ii). Đuma Quốc gia có thể tuyên bố bất tín nhiệm Chính phủ Liên
bang Nga bằng một nghị quyết được thông qua bởi đa số Nghị sĩ trong Đuma Quốc gia. Sau ba tháng nếu Đuma Quốc
gia vẫn giữ quyết định này, Tổng thống Liên bang Nga phải tuyên bố về việc từ chức của Chính phủ hoặc giải tán Đuma
Quốc gia” (Khoản 3 Điều 17 Hiến pháp); iii). Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga có thể đặt vấn đề tín nhiệm Chính phủ
ra trước Đuma Quốc gia. Nếu Đuma Quốc gia bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ thì trong vòng bảy ngày Tổng thống phải
tuyên bố việc từ chức của Chính phủ hoặc giải tán Đuma Quốc gia” (Khoản 4 Điều 117 Hiến pháp). Hiến pháp Liên bang
Nga 1993 (Khoản 3, 4, 5 Điều 109) cũng quy định các trường hợp mà Đuma Quốc gia không thể bị giải tán, đó là: i) Đuma
Quốc gia không thể bị giải tán theo căn cứ quy định tại Điều 117 trong thời hạn một năm sau khi nó được bầu; ii) Đuma
Quốc gia không thể bị giải tán từ thời điểm đưa ra sự buộc tội Tổng thống đến trước khi Hội đồng Liên bang Nga thông
qua quyết định tương ứng; iii) Đuma Quốc gia không thể bị giải tán trong thời gian có tình trạng chiến tranh hoặc tình hình
đặc biệt trên toàn bộ lãnh thổ Liên bang Nga.
10 Bùi Tiến Đạt (2011), Chính thể “Cộng hòa lưỡng tính”: sáng tạo nhưng đầy bất trắc” trong Hiến pháp: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, tlđd, tr. 174.
11 Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2007), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ - Mô hình tổ chức và hoạt động, tlđd, tr. 179.
động của Nghị viện, mà dấu ấn quan trọng
là đảm bảo dân chủ qua lá phiếu, trong nhiều
tình huống, trở nên hình thức, trở thành một
loại “dịch vụ bỏ phiếu” cho Chính phủ mà
thôi. Cán cân quyền lực đã không còn cân
bằng và ở góc độ nào đó, có thể nói cơ chế
kiểm soát quyền lực không đạt được. Thậm
chí, cơ quan hành pháp từ chỗ tham gia vào
quyền lập pháp, ở mức độ nhất định, đã thâu
tóm, tiếm quyền lập pháp. Điều đó cũng cho
thấy một quy luật bất thành văn là con lắc
quyền lực luôn nghiêng về phía hành pháp,
cho dù nhân loại đã mất bao công sức nhằm
làm cho nó ở trạng thái cân bằng11.
3. Những tác động của đảng chính trị đến
mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp
trong chính thể cộng hòa hỗn hợp
Mục đích ban đầu của Tổng thống
De Gaulle khi sáng tạo ra cộng hòa hỗn hợp là
nhằm tăng cường quyền lực cho Tổng thống
nhưng Đảng chính trị đã làm sai lệch mục
đích ban đầu của các nhà lập hiến và làm cho
chính thể cộng hòa hỗn hợp luôn tiềm ẩn nguy
cơ bất trắc. Vai trò của các Đảng phái chính
trị trong hệ thống chính trị Pháp được ghi
nhận trong Điều 4 của Hiến pháp: “Các đảng
và các nhóm chính trị thúc đẩy việc thể hiện
ý kiến thông qua biểu quyết. Chúng được tự
do hình thành và tiến hành các hoạt động của
mình. Chúng phải tôn trọng các nguyên tắc
về chủ quyền quốc gia và dân chủ”. Và chính
các Đảng phái chính trị đã làm cho thực tiễn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 5(381) T3/2019
chính trị ở các nước hoàn toàn khác so với
tinh thần của Hiến pháp và nó đã làm sai lệch,
biến dạng những đại chính thể. Trên thực tế,
dưới sự ảnh hưởng của Đảng chính trị, chính
thể cộng hòa hỗn hợp đã bị biến dạng theo
hai hướng:
Thứ nhất, nếu giữa Tổng thống và
khối đa số trong Nghị viện (Hạ viện) là
người cùng một đảng thì đó là một may
mắn lớn cho Tổng thống. Vì Tổng thống
sẽ tự do chọn Thủ tướng, Nghị viện sẽ dễ
dàng phê chuẩn và Thủ tướng sẽ chọn các
Bộ trưởng theo ý muốn của Tổng thống
(cả Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng
và khối đa số trong Nghị viện là cùng một
đảng). Trong trường hợp này, Tổng thống có
quyền lực rất lớn, khống chế cả Nghị viện
và Chính phủ. Thủ tướng hoạt động như
một Phó Tổng thống, trợ lý, giúp việc cho
Tổng thống. Cộng hòa hỗn hợp đã bị biến
dạng thành cộng hòa tổng thống, thậm chí
là “siêu tổng thống”12. Như vậy, chính thể
cộng hòa lưỡng tính tuy mong muốn hạn chế
sự chuyên quyền của Tổng thống (như chính
thể tổng thống) nhưng lại “vô tình” tạo nên
cơ chế Tổng thống chuyên quyền hơn. Một
điểm yếu nữa trong trạng thái chính thể này
là vị Thủ tướng có vai trò mờ nhạt, trở thành
một thiết chế không cần thiết. Điều này dẫn
đến khả năng Tổng thống độc tài, vì ông có
vai trò chẳng khác nào ông vua trong chính
12 Vì Tổng thống Pháp và Nga còn quyền lực hơn Tổng thống Hoa Kỳ ở hai điểm sau đây: i). Trong lĩnh vực lập pháp,
Tổng thống Pháp và Nga ngoài quyền kiến nghị lập pháp và phủ quyết giống Tổng thống Mỹ còn có quyền chỉ đạo xây
dựng các dự luật. Bởi vì yếu tố đại nghị cho phép Chính phủ soạn thảo phần lớn các dự luật để trình Nghị viện thông
qua. ii). Quyền giải tán Hạ viện: Tổng thống Pháp và Nga từng nhiều lần giải tán Hạ viện không phải vì hoạt động của
Hạ viện yếu kém mà vì lợi ích riêng (chẳng hạn bầu cử lại một Hạ viện mới ủng hộ Tổng thống hơn).
13 Bùi Tiến Đạt (2011), Chính thể “Cộng hòa lưỡng tính”: “sáng tạo nhưng đầy bất trắc” trong Hiến pháp: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, tlđd, tr.178.
14 Điển hình nhất là vụ Tổng thống Sirắc của Pháp giải tán Hạ viện vào ngày 21/4/1997, do có mâu thuẫn giữa nội bộ hành
pháp với nhau. Lúc bấy giờ, Tổng thống Sirắc thấy rằng Giôxpanh đang giữ chức Thủ tướng không phải là người của
đảng mình, thế nên mặc dù là nguyên thủ quốc gia nhưng ông chỉ có quyền hoạch định chính sách và phụ trách các lĩnh
vực liên quan đến hoạt động đối ngoại, xã hội, giáo dục và an ninh quốc phòng, người thực hiện các chính sách này và
nắm trong tay thực quyền là Thủ tướng. Từ nhận định này, ông đã có một quyết định táo bạo là giải tán Hạ viện để Nhân
dân bầu cử lại với mong muốn người của đảng ông ta sẽ giành được đa số phiếu trong cuộc bầu cử. Nhưng đây lại là
quyết định sai lầm vì đa số dân chúng Pháp đã không chọn đảng của ông là đảng đại diện cho ý chí của họ. Đảng Xã
hội (PS), cùng với nhiều đảng cánh tả khác, đã đánh bại liên minh bảo thủ của Sirắc với thắng lợi vang dội, buộc Sirắc
bước vào một giai đoạn sống chung mới với Jospin là Thủ tướng. Tình trạng này kéo dài trong suốt 5 năm, từ năm 1997
đến năm 2002 mới có thể chấm dứt bằng một cuộc bầu cử mới. Trong thời gian này, quyền lực của Tổng thống ngày
càng suy yếu dần do Tổng thống không được sự ủng hộ của Nghị viện và Nhân dân.
thể quân chủ13.
Thứ hai, Tổng thống và đa số thành
viên Nghị viện (Hạ viện) khác đảng nhau, sẽ
gây bất lợi, khó khăn cho Tổng thống trong
việc điều hành và quản lý. Tổng thống có thể
nhượng bộ lựa chọn một Thủ tướng cùng đảng
với Nghị viện (Hạ viện) để được Nghị viện
(Hạ viện) phê chuẩn, chấp nhận Thủ tướng là
người khác đảng với Tổng thống. Thủ tướng
sẽ lựa chọn các Bộ trưởng cùng đảng với Nghị
viện (Hạ viện), lúc đó Tổng thống bị cô lập,
chấp nhận sống chung chính trị, “đồng sàng
dị mộng”. Hành pháp lúc này không thể thông
suốt, bất lợi cho Tổng thống trong việc hoạch
định chính sách, kể cả với Thủ tướng trong
việc thực thi chính sách đó, dẫn đến mâu thuẫn
trong nội bộ cơ quan hành pháp. Nếu khác
đảng, Tổng thống và Thủ tướng thường xuyên
sẽ có những bất đồng quan điểm, mặc dù thẩm
quyền thường được phân định là Tổng thống
thì phụ trách hoạch định chính sách đối ngoại,
an ninh - quốc phòng, còn Thủ tướng chủ yếu
tập trung vào các chính sách đối nội như kinh
tế, tài chính, giáo dục. Tổng thống có thể thực
hiện quyền giải tán Nghị viện để tiến hành bầu
cử sớm nhưng phương án này rất rủi ro vì do
dân bầu và quyết định thành phần của Nghị
viện chứ Tổng thống không quyết định được
thành phần của Nghị viện14. Nếu Tổng thống
không muốn hoặc không có khả năng tranh
giành quyền hành pháp với Thủ tướng thì
(Xem tiếp trang 35)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 5(381) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_giua_lap_phap_va_hanh_phap_trong_chinh_the_cong.pdf