Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường,
tính chính xác về thời gian công bố lợi nhuận, lũy kế lợi
nhuận bất thường đã được thực hiện rộng rãi trên thế giới
với dữ liệu tại nhiều quốc gia khác nhau, tuy nhiên nghiên
cứu về đề tài này ở Việt Nam còn khá hạn chế. Trên thực
tế, hành vi mua bán chứng khoán có thể bị chi phối bởi rất
rất nhiều yếu tố khác như tâm lý nhà đầu tư, nguồn lực của
nhà đầu tư, những thông tin quan trọng khác ngoài thông tin
tài chính Tuy nhiên, bài nghiên cứu chỉ sử dụng mẫu là 300
công ty niêm yết, thông tin được sử dụng được cung cấp
trên BCTC chưa thể đánh giá một cách toàn diện và chính
xác nhất trên bình diện TTCK Việt Nam. Hướng nghiên
cứu tiếp theo có thể nghiên cứu thêm thái độ của nhà đầu tư
đối với chiến lược kinh doanh của công ty, sự nắm thông
tin nội bộ, những thông tin quan trọng khác ngoài thông tin
trên báo cáo tài chính, các yếu tố vĩ mô trong từng thời kỳ,
nghiên cứu các giai đoạn của công ty như M&A, thông tin
về chiến lược đầu tư mới, thay đổi cổ tức, thay đổi giám
đốc hay CEO để có cái nhìn toàn diện hơn về tác động
của thông tin tài chính về lợi nhuận bất thường đối với các
công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường và thời gian công bố Báo cáo tài chính của các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Journal of Science of Lac Hong University
Vol. 5 (2016), pp. 59-64
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng
Số 5(2016), trang 59-64
MỐI QUAN HỆ GIỮA LỢI NHUẬN BẤT THƯỜNG VÀ THỜI GIAN
CÔNG BỐ BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Relationship between the unexpected earnings and the timeliness of financial
reporting of stock companies listed on Vietnam stock market
Huỳnh Anh Thư1
1huynhanhthu0210@gmail.com,
1Khoa Tài chính – Kế toán
Trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai, Việt Nam
Đến tòa soạn: 3/5/2016; Chấp nhận đăng:25/7/2016
Tóm tắt. Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét lợi nhuận bất thường và mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường về thời gian
công bố báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, nghiên cứu sử dụng số liệu
của 300 công ty niêm yết tại hai sàn giao dịch HOSE và HNX giai đoạn 2010-2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy: (i) có tồn
mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường và tính chính xác về thời gian công bố BCTC; (ii) phản ứng của thị trường đối với mức
độ chính xác về thời gian công bố thông tin lợi nhuận từ hai sàn HNX và HOSE là tích cực, dù thông tin xấu hay tốt. Nghiên
cứu đưa ra một số gợi ý cho nhà đầu tư, các nhà quản trị doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước, khi tham gia TTCK
trong việc xem xét lợi nhuận bất thường trong mối quan hệ với tính chính xác về thời gian công bố BCTC.
Từ khoá: Lợi nhuận bất thường; Báo cáo tài chính; Thị trường chứng khoán; Việt Nam
Abstract. This paper aims at investigating the unexpected earnings and the timeliness of financial reporting of 300 stock
companies listed on HOSE and HNX from 2010-2015. It is found that: (1) there is a significant relationship between their
unexpected earnings and the timeliness of their financial reports; (2) the market reaction from both HNX and HOSE are
positive towards the timeliness of reporting the earnings, regardless of their bad/good news. This paper also proposes
practical implications for investors, enterprise managers and governance bodies in terms of considering such relationship
existing in the stock market to have their proper actions and strayegies.
Keywords: Unexpected earnings; Financial reports; Stock market; Vietnam
1. GIỚI THIỆU
Theo Ball (1968), Bernard (1989) biến động thu nhập bất
thường khi công bố BCTC là sau khi công bố thu nhập, lợi
nhuận bất thường cộng dồn của các công ty có tin tốt (đột
biến về thu nhập bất thường dương) tiếp tục biến động tăng
lên trong chiều hướng dương trong khi đó lợi nhuận bất
thường của các công ty có tin xấu (đột biến về thu nhập bất
thường âm) tiếp tục biến động theo hướng ngược lại. Theo
Chordia (2006) thì biến động thu nhập bất thường khi công
bố báo cáo tài chính (BCTC) có xu hướng làm cho lợi
nhuận bất thường cộng dồn của một cổ phiếu biến động
theo hướng của đột biến về thu nhập trong khoảng thời gian
tiếp theo (vài tuần hoặc vài tháng) sau công bố thu nhập.
Sự tồn tại của hiện tượng biến động thu nhập bất thường
khi công bố BCTC đã được xác nhận trong hơn bốn thập kỷ
sau nghiên cứu đầu tiên của Ball (1968). Hiện tượng biến
động thu nhập bất thường này cũng tồn tại trong kết quả
nghiên cứu của Hew (1996) ở Anh, ở TTCK Phần Lan
trong nghiên cứu của Booth (1996), Schadewitz (2005).
Tuy nhiên, nghiên cứu của Francis, Philbrick, Schipper
(1994) phát hiện rằng giá cổ phiếu chịu ảnh hưởng từ tác
động của thị trường có thể lớn hơn nhiều so với ảnh hưởng
của việc chậm trễ công bố, đó là lý do họ cho rằng giám
đốc không cần thiết phải chậm trễ công bố thông tin lợi
nhuận xấu nhằm giảm nhẹ tác động từ phản ứng tiêu cực
của thị trường. Vì vậy, đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu
thực nghiệm về biến động thu nhập bất thường khi công bố
BCTC.
Tại TTCK VN việc công bố BCTC có kiểm toán đối với
các công ty cổ phần có quy mô lớn theo Thông tư
52/2012/TT-BTC là 20 ngày kể từ ngày kết thúc quý,
không quá 90 ngày kể từ ngày kết thúc niên độ. Tính kịp
thời là một trong những thước đo cho tính chất lượng của
thông tin kế toán. Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ
giữa lợi nhuận bất thường và thời gian công bố BCTC của
các công ty niêm yết tại TTCK Việt Nam. Kết cấu của
nghiên cứu này gồm: Phần 2 nêu tóm lược cơ sở lý thuyết,
phần 3 trình bày phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên
cứu, phần 4 trình bày kết quả nghiên cứu, phần 5 trình bày
kết luận và khuyến nghị.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Haw và cộng sự (2000) nghiên cứu các thông tin về lợi
nhuận của các công ty tại Trung Quốc cho thấy rằng các
công ty có xu hướng phát hành BCTC hàng năm với các tin
tức tốt thì sớm hơn so với các công ty có báo cáo tin tức
xấu, và các công ty có báo cáo lỗ phát hành BCTC năm của
họ muộn nhất. Haw và cộng sự (2003) dựa trên nghiên cứu
của họ năm 2000 cho thấy rằng ý kiến của kiểm toán có
trình độ có xu hướng trì hoãn việc phát hành các BCTC sơ
bộ và báo cáo kiểm toán (Whittred, 1980; Keller, 1986;.
Bamber et al, 1993).
Mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường và thời gian công bố báo cáo tài chính
60 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Nghiên cứu của Bagnoli và cộng sự (2002) đã đo lường
phản ứng của thị trường với tính chính xác về thời gian của
thông tin tài chính được công bố. Bagnoli sử dụng CAR để
đo lường lợi nhuận bất thường. Dữ liệu được sử dụng là
những ngày báo cáo lợi nhuận hàng quý được cung cấp bởi
First Call/ Thomson Financial. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng phản ứng thị trường tại thời điểm công bố thu nhập
(công bố BCTC) còn phụ thuộc vào việc thông tin tài chính
được công bố sớm, đúng thời gian hay trễ. Bên cạnh đó, các
nhà đầu tư trên thị trường phản ứng bằng việc làm giảm giá
chứng khoán với thông tin tài chính công bố trễ. Khi các
nhà quản trị có công bố trễ thông tin thu nhập so với dự
kiến thì các thông tin tài chính đó thường là thông tin xấu.
Tác giả không tìm thấy bằng chứng nào về mối quan hệ
giữa lợi nhuận bất thường và thời gian công bố thông tin
sớm.
Pastena, V. và R. Ronen (1979) nghiên cứu tại Mỹ chỉ ra
rằng các nhà quản lý công ty có xu hướng công bố tin tức
tốt từ BCTC sớm hơn là tin xấu. Nghiên cứu cho rằng các
nhà quản lý có ý định trì hoãn việc phát hành các thông tin
tiêu cực. Givoly và Palmon (1982), Kross và Schroeder
(1984) tìm thấy có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa
nội dung thông báo lợi nhuận và tính chính xác về thời gian
công bố thông tin. Theo Bhattachrya và cộng sự (2000) cho
rằng một thị trường mới nổi hay chưa phát triển thì thông
tin tài chính được phía công ty chủ quan công bố là một
thông tin quan trọng hàng đầu đối với nhà đầu tư. Việt Nam
mang đặc điểm này rất rõ nét, nơi mà nhà đầu tư có ít hay
rất ít kênh thông tin để có thể nắm bắt được tình hình tài
chính công ty.
Từ những nghiên cứu trên cho thấy các nhà quản trị
thường có xu hướng chiến lược hóa thông tin công bố, cụ
thể thông tin tốt công bố sớm, thông tin xấu công bố trễ. Do
đó, nhóm tác giả giả thuyết “Có mối quan hệ giữa lợi nhuận
bất thường và thời gian công bố báo cáo tài chính, và nhà
quản trị chiến lược hóa thông tin công bố, tức là thông tin
xấu công bố trễ, thông tin tốt công bố sớm”. Giả thuyết này
sẽ được kiểm định trong các mục tiếp theo.
Nguyên nhân tiếp theo có thể kể đến đó là từ chính trình
độ, khả năng của các nhân viên tài chính và ban quản trị
công ty, họ không có nhiều kinh nghiệm trong việc biên
soạn BCTC, do đó dẫn đến sự chậm trễ này. Theo như
Whittred (1980) và Keller (1986) các nhân viên kế toán của
công ty luôn gặp khó khăn về biên tập BCTC, và thường bị
cơ quan kiểm toán bắt làm lại, do đó dẫn đến tình trạng trễ.
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả cho rằng nhà đầu tư ở
sàn HOSE sẽ là những người “hiểu chuyện” hơn, vì thị
trường HOSE được chuyên gia đánh giá phát triển hơn
HNX do đó nhà thông tin tài chính từ phía ban quản trị
không phải là nguồn thông tin duy nhất, cũng như trình độ
biên soạn BCTC tốt hơn nên sẽ không chậm trễ trong việc
công bố thông tin tài chính. Và vì nhà đầu tư ở HOSE là
người “hiểu chuyện” hơn nên nhà quản trị cũng không có lý
do gì chiến lược hóa thời gian công bố thông tin.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, năm 2015 là năm
thứ 15 hoạt động của HOSE, và năm thứ 11 của sàn HNX.
Vốn hóa TTCK VN kết thúc năm 2015 đạt hơn 1.298,53
nghìn tỷ đồng, trong đó vốn hóa sàn HOSE đạt mức hơn
1.146,9 nghìn tỷ đồng, vốn hóa trên HNX cũng đạt hơn
151,6 nghìn tỷ đồng. Trên sàn HOSE, tổng khối lượng giao
dịch đạt hơn 28 tỷ cổ phiếu tương ứng giá trị giao dịch đạt
trên 482 nghìn tỷ đồng. Trên sàn HNX, tổng khối lượng
giao dịch trong năm 2015 đạt trên 11,55 tỷ cổ phiếu tổng
giá trị giao dịch ước tính 135 nghìn tỷ đồng. Qua trên cho
thấy nhận định của nhóm tác giả là sàn HOSE có thời gian
hoạt động lâu hơn, vốn hóa thị trường và giá trị giao dịch
lớn hơn nên các nhà đầu tư trên sàn HOSE là hiểu chuyện
hơn, và các nhà quản trị ở sàn HOSE sẽ không chiến lược
hóa thời gian công bố thông tin tài chính.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này sẽ gồm hai phần : (i) thống kê ngày công
bố thu nhập để xác định ngày công bố thu nhập là sớm,
muộn hay đúng hạn, (ii) Sau đó, từ số liệu thu nhập tiến
hành chạy mô hình hồi quy dữ liệu bảng theo phương pháp
bình phương nhỏ nhất (OLS) của Bagloni (2002), với phần
mềm sử lý số liệu SAS để nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi
nhuận bất thường và tính chính xác về thời gian khi công
bố BCTC.
3.1 Xác định thời gian công bố thông tin
Việc xác định công ty công bố thông tin đúng giờ, trễ
hay sớm được căn cứ vào từng BCTC để thống kê thông tin
ngày công bố thu nhập, dựa vào quy định về thời gian công
bố BCTC theo thông tư số 09/2010/TT-BTC và
52/2012/TT-BTC. Nhóm tác giả phân thành 35 ngày công
bố, trong đó day = 0 nghĩa là công bố đúng giờ đúng thời
hạn, day > 0 tức công bố trễ, day < 0 là công bố sớm.
3.2 Xác định lợi nhuận bất thường (UE) – lũy kế lợi
nhuận bất thường
Trong nghiên cứu này, UE được tính theo 2 cách sau:
Cách 1: Lợi nhuận bất thường theo Joy Begley, Paul
Fischer (1998) được tính như sau:
Trong đó: t = kỳ nghiên cứu; k = loại cổ phiếu;
UEt,k : lợi nhuận bất thường
UE1 : UEt,k – EPSt-4,k
UE2 : EPSt,k – E(EPSt,k)
Thông tin tài chính công bố được xem là thông tin tốt khi
UE >0 và là thông tin xấu khi UE <0.
Cách 2: Lợi nhuận bất thường tính theo Foster, G., C.
Olsen, and T. Shevlin (1984) như sau:
Trong đó được tính từ mô hình hồi quy sau:
Lũy kế lợi nhuận bất thường (Cumulated Abnormal
Return) tính theo cách sau:
Trong đó:
Ru,m: là lợi tức của thị trường
Ru,k: là lợi tức ngày thứ u của cổ phiếu k
3.3 Mô hình nghiên cứu về lợi nhuận bất thường, lũy kế
lợi nhuận bất thường và tính chính xác về thời gian
công bố BCTC
Nghiên cứu tiếp cận theo phương pháp của Bagnoli
(2002), phương pháp này gọi là phương pháp điều chỉnh
bằng cách lấy số tuyệt đối của UE. Để tính UE nhóm tác
giả 2 cách tính khác nhau để tìm ra cách tính tốt nhất cho
nghiên cứu. Cách thứ nhất gọi là UE1. Cách tính UE1 như
sau: UE1= EPSt,k - EPSt-4,k. Nghĩa là lấy lợi nhuận trên mỗi
cổ phiếu năm nay trừ cho lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của 4
quý trước.
Cách thứ 2 tính UE gọi là UE2. UE2 được tính theo cách
Huỳnh Anh Thư
61 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
lấy lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu năm nay trừ đi lợi nhuận
trên mỗi cổ phiếu được kỳ vọng.
+ Mô hình hồi quy lợi nhuận bất thường và tính chính
xác về thời gian công bố thông tin tài chính.
UEt,k = β0 + β1 Delayt,k+ β2 Sizet,k+ ε t,k
Trong đó: Delayt,k là công ty k trên sàn HOSE và HNX
có thông tin công bố trễ tại năm t. Căn cứ tính Delay đó là
dựa vào số ngày trễ công bố thông tin so với ngày cuối
cùng của năm tài chính. SIZE là quy mô công ty (Lấy Ln
của vốn chủ sở hữu)
+ Mô hình hồi quy lũy kế lợi nhuận bất thường và tính
chính xác về thời gian công bố thông tin tài chính.
Nghiên cứu của Bagloni(2002), Begley (1998), Foster
(1984) ..v.v..đều thu được kết quả là nhà quản trị thường
chiến lược hóa trong việc công bố thông tin tài chính, cụ
thể là thông tin tốt công bố sớm, thông tin xấu công bố trễ.
Các nghiên cứu này đã đo lường phản ứng của thị trường
với tính chính xác về thời gian của thông tin tài chính được
công bố, các tác giả đều sử dụng chỉ số CAR để đo lường
lũy kế lợi nhuận bất thường . Nghiên cứu sử dụng mô hình
của Bagloni (2002) để đo lường phản ứng của thị trường
trên 2 sàn HOSE và HNX đối với tính chính xác về thời
gian của thông tin công bố.
Trong đó:
- Biến D* là các biến giả; NegUE chỉ các loại cổ phiếu
của các Cty có UE nhỏ hơn 0.
- CARk,t là lợi nhuận điều chỉnh thị trường tích lũy của
công ty k tại thời điểm năm t trong ngày thông báo thông
tin thu nhập (day -1), ngày công bố thông tin thu nhập trên
website của Sở giao dịch chứng khoán (day 0) và công bố
trễ (day +1).
- UEk,t là khác biệt giữa lợi nhuận bất thường thực tế trên
mỗi cổ phần và thu nhập trên mỗi cổ phần dự báo.
3.4 Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp được
thu thập từ BCTC năm đã được kiểm toán của các công ty
phi tài chính niêm yết trên thị trườngchứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn 2010 – 2015, gồm 300 công ty phân
bố đều tại hai sàn HOSE và HNX. Thông tin của các công
ty này được thu thập từ website của Sở Giao dịch Chứng
khoán TPHCM, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và cổ
phiếu 68.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Kết quả nghiên cứu về thời gian công bố BCTC
Kết quả nghiên cứu cho thấy giai đoạn 2010-2015 có
1.800 mẫu BCTC được thu thập theo năm, kết quả thu được
tại Bảng 1. Theo đó, ở Việt Nam các công ty công bố thông
tin tài chính rất phân tán. Nguyên nhân là ở Việt Nam quy
định có 90 ngày để công bố BCTC đó là lý do công ty
không bị áp lực phải chuẩn bị nhanh thông tin để công bố.
Kết quả nghiên cứu tương đồng với nghiên cứu của Haw
(2006) tại TTCK Trung Quốc, nhà quản trị các công ty
công bố thông tin tài chính trong khoảng trước thời gian
yêu cầu là 90 ngày và sau thời gian công bố là 09 ngày.
Trong khi đó Champers and Penman (1984) nghiên cứu thị
trường Mỹ thì con số này thấp hơn rất nhiều chỉ khoảng 14
ngày. Begley and Fischer (1998) trong nghiên cứu của
mình phát hiện là ở Mỹ con số này nếu so sánh năm nay và
năm trước thì chỉ là 0.02 ngày khác biệt, đáng lưu ý là số
trung vị là 0.
Bảng 1. Thống kê phân bố ngày công bố thông tin BCTC của các
công ty so với Qui định
Công bố
trễ (+)
Công bố
sớm -
2010 2011 2012 2013 2014 2015
N % N % N % N % N % N %
-29 đến-35 46 15.3 55 18.4 52 17.3 48 16.1 56 18.5 54 17.9
-22 đên-28 13 4.5 13 4.2 10 3.4 9 3.1 10 3.3 8 2.7
-15 đến -21 35 11.6 28 9.3 26 8.8 28 9.2 17 5.7 16 5.2
-14 5 1.7 2 0.8 6 2.0 2 0.8 3 1.1 6 2.1
-13 5 1.7 6 2.1 7 2.2 5 1.5 5 1.7 4 1.4
-12 9 3.1 12 4.1 6 1.9 8 2.6 8 2.5 3 1.0
-11 11 3.6 9 3.2 5 1.5 4 1.4 5 1.6 8 2.6
-10 10 3.2 13 4.3 8 2.8 4 1.2 9 2.9 9 3.0
-9 10 3.2 15 4.9 8 2.5 12 4.1 8 2.5 6 1.9
-8 17 5.7 8 2.8 9 3.0 15 4.9 10 3.3 11 3.6
-6 8 2.7 7 2.4 14 4.6 11 3.7 14 4.6 17 5.8
-7 9 3.0 15 5.0 17 5.5 13 4.2 17 5.7 10 3.2
-5 18 6.1 17 5.6 15 4.9 23 7.8 12 3.9 9 2.9
-4 22 7.5 19 6.4 21 7.0 10 3.5 11 3.5 26 8.5
-3 17 5.7 23 7.8 30 10.2 11 3.8 24 7.9 24 8.1
-2 24 8.0 31 10.4 15 5.1 29 9.6 29 9.6 25 8.2
-1 27 9.1 3 1.1 13 4.3 35 11.6 25 8.2 34 11.4
0 3 1.0 12 4.1 27 9.2 23 7.8 30 10.1 31 10.5
1 10 3.4 9 3.2 12 3.9 10 3.3 10 3.3 0 0.0
Tổng 300 100 300 100 300 100 300 100 300 100 300 100
4.2 Hồi quy giữa lợi nhuận bất thường và tính chính xác
về thời gian công bố báo cáo tài chính
Kết quả hồi quy giữa UE và tính chính xác về thời gian
công bố BCTC tại Bảng 2 cho thấy bất kể dùng UE1 hay
UE2 thì quy mô của công ty đều không có ý nghĩa thống
kê, nghĩa là quy mô công ty không ảnh hưởng đến UE. Sử
dụng UE1 thì cổ phiếu sàn HOSE có hệ số beta dương, còn
sàn HNX có hệ số beta âm. Trong khi đó, với UE2 thì hệ số
này lại thay đổi ngược lại, cổ phiếu sàn HOSE âm còn
HNX dương, tuy nhiên đều không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 2. Kết quả hồi quy giữa UE và tính chính xác về thời gian
công bố BCTC
UE1 UE2
Variable Tổng HOSE HNX Tổng HOSE HNX
Intercept -0.0136 -0.0031 0.04081 -0.0081 0.0425 -0.0174
t-statistic -0.73 -0.09 1.23 -0.50 1.42 -0.58
Delay
-0.0012
***
-0.0014
***
-0.0008
***
-0.0009
***
-0.00104
***
-0.00053
**
t-statistic -9.52 -8.28 -3.22 -8.11 -7.36 -2.26
SIZE 0.0015 0.0007 -0.0022 0.0007 -0.0026 0.0012
t-statistic 1.25 0.33 -0.97 0.65 -1.35 0.60
N 5654 3389 1649 5654 3389 1649
R-Square 0.0161 0.02 0.0069 0.0116 0.0165 0.0033
Adj -R-Sq 0.0158 0.0194 0.0057 0.0113 0.0159 0.0021
(*, **, *** lần lượt là mức ý nghĩa thống kê ở mức 0.1;0.05 và 0.01)
Điểm đáng lưu ý nhất đó là bất kể cổ phiếu sàn HNX hay
HOSE thì biến Delay đều âm và có ý nghĩa thống kê. Có
căn cứ để kết luận thông tin công bố sớm sẽ tốt, và thông
tin công bố chậm sẽ xấu, hơn nữa thông tin công bố càng
trễ thì càng có xu hướng xấu. Hơn nữa, cổ phiếu sàn HOSE
có hệ số beta âm lớn hơn, tức là ngược lại so với giả thuyết
H3 nghĩa là sàn HOSE bị ảnh hưởng về thời gian công bố
thông tin hơn sàn HNX.
Mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường và thời gian công bố báo cáo tài chính
62 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
4.3 Hồi quy giữa lợi nhuận bất thường và tính chính xác
về thời gian công bố báo cáo tài chính
Kết quả tại bảng 3 cho thấy sự tác động của các biến tới
CAR là không rõ ràng.
Bảng 3. Mối quan hệ giữa UE của cổ phiếu sàn HNX và HOSE
với CAR
Biến số
UE1 UE2
N HOSE HNX N HOSE HNX
Intercept -0.0042
0.0106
**
0.0010 -0.0048
-0.0097
**
0.22
t-statistic -1.34 -2.46 0.19 -1.48 -2.18 0.22
UE 0.0337
0.0925
**
-0.0189 0.0469
0.1009
**
-0.46
t-statistic 1.18 2.17 -0.44 1.35 2.02 -0.46
Dlate 0.00414
0.0090
*
0.0034 0.0032 0.007 0.08
t-statistic 1.19 1.92 0.56 0.90 1.45 0.08
Dearly 0.0047
0.0084
*
0.0065 0.0038
0.0083
*
0.25
t-statistic 1.37 1.80 1.09 1.08 1.72 0.25
DnegUE
0.0117
**
0.0185
***
0.0051
0.0090
*
0.0116
*
0.69
t-statistic 2.29 2.79 0.52 1.71 1.69 0.69
DlateUE
-0.0586
*
0.1124
**
-0.0376 -0.0591
-0.1095
**
-0.25
t-statistic -1.89 -2.48 -0.76 -1.56 -2.05 -0.25
DearlyUE
-0.0510
*
0.0988
**
-0.0167 0.05611
-0.1082
**
0.29
t-statistic -1.67 -2.20 -0.34 -1.50 -2.04 0.29
DnegUEUE -0.0558 0.0864 -0.0817
-0.1180
**
-0.1638
**
-0.36
t-statistic -1.31 -1.53 -0.90 -2.03 -2.17 -0.36
DlateDnegUE -0.004
0.0132
*
0.0056 -0.0006 -0.0053 0.34
t-statistic -0.71 -1.82 0.52 -0.12 -0.72 0.34
DearlyDnegUE-0.0043 0.0088 0.00177 0.0006 -0.0044 0.58
t-statistic -0.75 -1.19 -0.16 0.10 -0.58 0.58
DlateDnegUEU
E
0.0692 0.0842 0.1457
0.10753
*
0.1430
*
0.52
t-statistic 1.50 1.39 1.49 1.74 1.79 0.52
DearlyDnegUEU0.0645 0.089 0.1011
0.1314
**
0.1735
**
0.57
t-statistic 1.38 1.44 1.03 2.12 2.15 0.57
(*, **, *** lần lượt là mức ý nghĩa thống kê ở mức 0.1;0.05 và 0.01)
Mức ý nghĩa của các biến trong bảng 3 không theo một
hướng nào cụ thể. Có thể thấy một xu hướng nổi bật đó là
UE có ý nghĩa thống kê và quan hệ cùng chiều với CAR.
Cụ thể biến Dlate, Dearly, DnegUE, ứng với 2 cách tính
UE1 và UE2 cho kết quả không như dự đoán là các biến
này có quan hệ nghịch biến với CAR, tuy nhiên 3 biến này
lại có ý nghĩa thống kê ở các mức độ khác nhau. Nghĩa là
bất kể với cách tính UE như thế nào thì nếu lợi nhuận bất
thương dương thì lũy kế lợi nhuận bất thường CAR dương.
Ngoài ra một xu hướng nổi bật nhất đó là nếu thông tin tốt
và được công bố sớm thì có tác động rất tốt đến CAR.
Nghĩa là thị trường cả 2 sàn HNX và HOSE đều phản ứng
tích cực với thông tin tốt được công bố sớm. Nếu như
không dùng UE2, chỉ dùng UE1 thì thông tin xấu và được
công bố trễ có ý nghĩa thống kê và quan hệ ngược chiều với
CAR, đặc biệt là thị trường HOSE. Đây cũng là một phát
hiện khác về phản ứng của nhà đầu tư ở thị trường chứng
khoán Việt Nam. Từ Bảng 3 có thể thấy sự khác biệt giữa 2
sàn HNX và HOSE là đáng để lưu ý trong những nghiên
cứu sau. Cụ thể ở sàn HOSE nhà đầu tư phản ứng rất mạnh
với thông tin xấu công bố trễ (cách tính UE1), trong khi đó
sàn HNX lại phản ứng mạnh với thông tin xấu và có vẻ
không quan tâm lắm đến tính trễ của thông tin được công
bố. Tuy nhiên đến đây có thể kết luận rằng nhà đầu tư ở sàn
HOSE hoàn toàn không thể hiện sự “trưởng thành” hơn sàn
HNX. Cụ thể, nhà đầu tư ở sàn HNX ít chịu ảnh hưởng của
chiến lược hóa thông tin công bố của nhà quản trị chứ
không phải là nhà đầu tư ở sàn HOSE.
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Nghiên cứu thực hiện trên tại 300 công ty niêm yết hai
sàn HNX và HOSE tại thị trường chứng khoán Việt Nam
trong giai đoạn từ 2010 – 2015, kết quả cho thấy rằng:
(1) Có tồn mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường và tính
chính xác về thời gian công bố báo cáo tài chính.
(2) Phản ứng của thị trường đối với mức độ chính xác về
thời gian công bố của thông tin lợi nhuận được công bố từ
hai sàn HNX và HOSE như sau:
Các công ty lên sàn HOSE có một đặc điểm chung là bất
kể thông tin xấu hay tốt nếu công bố chính xác thời gian sẽ
được thị trường phản ứng tích cực. Nếu như công bố sớm
thì thông tin tốt hay xấu thị trường đều không bị tác động.
Thông tin xấu công bố sớm có CAR còn xấu hơn thông tin
xấu được công bố trễ, thậm chí CAR của thông tin tốt được
công bố sớm cũng không được thị trường “hoan nghênh”
bằng công bố chính xác thời gian. Ngoài ra tại sàn HOSE,
bất kể thông tin tốt xấu chỉ cần công bố trễ sẽ bị thị trường
“trừng phạt” đặc biệt đối với thông tin xấu. Thông tin xấu
tại sàn HOSE nếu được công bố sớm lại thị trường phản
ứng lại càng tiêu cực, kết quả này là đồng nhất với nghiên
cứu của Bagloni (2002).
Tại sàn HNX bất kể nhà quản trị có công bố sớm, chính
xác hay trễ thì cũng không tác động đến cách thức phản ứng
của nhà đầu tư. Tuy nhiên kết quả trên cũng không thể kết
luận rằng nhà đầu tư sàn HNX hoàn toàn không bị chi phối
bởi chiến lược công bố thông tin của nhà quản trị, bời vì lý
do “hiệu ứng tổng hợp”. McWilliams and Siegel (1997) chỉ
ra rằng muốn xác định rõ kết quả có bị ảnh hướng nhiều
yếu tố tác động như: thông tin về chiến lược đầu tư mới,
thay đổi cổ tức, thay đổi giám đốc hay CEO, các yếu tố vĩ
mô.
Như vậy, kết quả nghiên cứu ủng hộ giả thuyết nghiên
cứu; nghĩa là, có tồn tại mối quan hệ giữa UE và tính chính
xác về thời gian công bố BCTC; bên cạnh đó, các công ty ở
Việt Nam đều có xu hướng công bố trễ thông tin xấu, tuy
nhiên không có đủ bằng chứng để kết luận rằng sàn HOSE
“trưởng thành” hơn sàn HNX (tức các công ty ở sàn HOSE
không có dấu hiệu ít thao túng thông tin công bố hơn sàn
HNX)
5.2 Khuyến nghị
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm thu được, nghiên cứu
đề xuất một số gợi ý cho nhà đầu tư và các doanh nghiệp và
các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể như sau:
Các nhà đầu tư nên quan tâm đến mối quan hệ giữa UE,
tính chính xác về thời gian công bố lợi nhuận, lũy kế UE để
lựa chọn thời điểm đầu tư hợp lý, tỉnh táo nhìn nhận và
phản ứng với các chiến lược hóa công bố thông tin của các
nhà quản trị. Bên cạnh đó cũng cần thu thập thêm thông tin
về tình hình tài chính của các công ty trên thị trường vì các
yếu tố này đều có tác động đến lợi nhuận để có cái nhìn
toàn diện và phản ứng với các chiến lược hóa công bố
thông tin của các nhà quản trị. Nhà đầu tư nên quan tâm
hơn đến các BCTC dự kiến và xây dựng chiến lược đầu tư
Huỳnh Anh Thư
63 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
hợp lí như đầu tư vào các công ty có lợi nhuận tốt, luôn
công bố lợi nhuận trước hạn
Đối với các nhà quản trị công ty, cần cẩn thận trong việc
công bố thông tin , nắm bắt tốt và chặt chẽ thông tin nội bộ
để đề ra chiến lược công bố thông tin sao cho hợp lí và tuân
theo qui định của Nhà nước. Bên cạnh đó, các thông tin do
công ty công bố với công chúng thông qua các BCTC có
“ảnh hưởng thật sự” đến quá trình ra quyết định của người
sử dụng thông tin, đặc biệt là các nhà đầu tư (Gao, 2007;
Kanodia, 2007; Beyer & Guttman, 2010). Do đó, để bắt kịp
với tốc độ phát triển nhanh và sự cạnh tranh khốc liệt, các
công ty hay các nhà quản trị nên cố gắng thỏa mãn ở mức
tối đa những gì mà những đối tượng sử dụng thông tin bên
ngoài doanh nghiệp cần như là đưa ra các thông tin có tính
minh bạch và dễ hiểu hơn (Laohapolwatana và cộng sự,
2005; Adina & Ion, 2008). Các nhà quản trị nên có định
hướng hoàn tất BCTC, kiểm toán BCTC đúng hạn nhằm
tạo ra được uy tín, niềm tin cho các nhà đầu tư cũng như
các ban ngành chức năng liên quan. Muốn làm được như
vậy, các nhà quản trị nên đặt ra “lộ trình” hạch toán sổ sách
chặt chẽ và nhanh chóng cho từng quý, từng năm.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước : Bộ Tài Chính và
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nên kết hợp để ban hành
những quy định rõ ràng và chặt chẽ công bố thông tin tài
chính riêng cho các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị
trường chứng khoán ở Việt Nam. Các cơ quan chứng năng
mà chủ yếu là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nên ban
hành các chế tài xử phạt nghiêm khắc và mạnh tay đối với
những công ty chậm trễ trong việc công bố thông tin, như
buộc dừng giao dịch trên thị trường đối với các công ty
công bố trễ cho đến khi nào công ty đó công bố thông tin,
xây dựng mức phạt hành chính hợp lí và nghiêm khắc.
Thực tế ngày 15/6/2011, tại Sở Giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh thì hiện có tới 42% doanh nghiệp
niêm yết trên sàn HOSE không nộp báo cáo tài chính đúng
hạn và tỷ lệ vi phạm khác về công bố thông tin chiếm từ
8% - 31%.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường,
tính chính xác về thời gian công bố lợi nhuận, lũy kế lợi
nhuận bất thường đã được thực hiện rộng rãi trên thế giới
với dữ liệu tại nhiều quốc gia khác nhau, tuy nhiên nghiên
cứu về đề tài này ở Việt Nam còn khá hạn chế. Trên thực
tế, hành vi mua bán chứng khoán có thể bị chi phối bởi rất
rất nhiều yếu tố khác như tâm lý nhà đầu tư, nguồn lực của
nhà đầu tư, những thông tin quan trọng khác ngoài thông tin
tài chính Tuy nhiên, bài nghiên cứu chỉ sử dụng mẫu là 300
công ty niêm yết, thông tin được sử dụng được cung cấp
trên BCTC chưa thể đánh giá một cách toàn diện và chính
xác nhất trên bình diện TTCK Việt Nam. Hướng nghiên
cứu tiếp theo có thể nghiên cứu thêm thái độ của nhà đầu tư
đối với chiến lược kinh doanh của công ty, sự nắm thông
tin nội bộ, những thông tin quan trọng khác ngoài thông tin
trên báo cáo tài chính, các yếu tố vĩ mô trong từng thời kỳ,
nghiên cứu các giai đoạn của công ty như M&A, thông tin
về chiến lược đầu tư mới, thay đổi cổ tức, thay đổi giám
đốc hay CEO để có cái nhìn toàn diện hơn về tác động
của thông tin tài chính về lợi nhuận bất thường đối với các
công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam.
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ball, R., “The earnings-price anomaly”, Journal of
Accounting & Economics, 15, pp. 319-345, 1992.
[2] Bernard, V. L. T., J.K., “Post-earnings-announcements drift:
Delayed price response or risk premium?”, Journal of
Accounting Research 27: 1-36, 1989.
[3] Chordia, T. and Shivakumar, L., “Inflation illusion and post-
earnings-announcement drift”, Journal of accounting
research, 43, pp. 521–556, 2006.
[4] Ball, R. B., P., An empirical evaluation of accounting
income numbers, Journal of accounting research, 6, pp. 159-
178, 1968.
[5] Haw, K. Park, D. Qi and W. Wu, “Audit qualification and
timing of earnings announcements: Evidence
from china , auditing”: A Journal of practice and theory, 22,
pp. 121-146, 2003.
[6] Booth, G., Kallunki, J.P. & Martikainen, T., “Post-
announcement drift and income smoothing: Finnish
Evidence”, Journal of business finance and accounting,
23(8), pp. 1207-1221, 1996.
[7] Haw, I. M., Qi, D., & Wu, W., “Timeliness of annual report
releases and market reaction to earnings announcements in
an emerging capital market: The case of China”, Journal of
international financial management and accounting,
11(2),pp. 108~131, 2000.
[8] Haw, I. M., K. J. Park, D. Qi, W. Wu, “Securities regulation,
the timing of annual report release, and market implications
evidence from China, Journal of international financial
management and accounting, 17, pp. 111-139, 2006.
[9] Bagnoli, Mark, K. William., and Susan G. Watts, “The
information in manag ement expected earnings report date A
day late, a penny short”, Journal of accounting research, 40,
pp. 1275-1296, 2002.
[10] Francis, J.; d. Philbrick; and K. Schipper, “Shareholder
litigation and corporate disclosures, Journal of accounting
research, 32 (1994): pp. 137-64, 2002.
[11] Bamber, E.M, L.S. Bamber, and M.P. Schoderbek, “Audit
structure and other determinants of audit report lag”, An
empirical analysis, Auditing: A journal of practice & theory,
Vol 12, No.1, (Spring), pp. 01-23, 1993.
[12] Gao. P., “Keynesian beauty contest, accounting disclosure,
and market efficiency”, The journal of accounting research,
Forthcoming, 2007.
[13] Kanodia, “Accounting disclosure and real effects,
Foundations and trends in accounting, vol. 1, no. 3, pp. 167-
258, 2007,
[14] Beyer A. and Guttman I., Voluntary disclosure, disclosure
bias and real effects, Stanford University Press, 2010.
[15] Givoly, D. and D. Palmon, Timeliness of Annual Earnings
Announcements: Some empirical evidence, no. 4, pp. 35-50,
1982.
[16] Laohapolwatana W. T., Smith M. and Howieson B., The
impact of voluntary diclosures on sell-side analyst stock
recommendations: Australian evidence, Working paper
0511, School of Accounting, Finance and Economics &
FIMARC, Working Paper Series, Edith Cowan University,
November 2005.
[17] Whittred, “Audit qualification and the timeliness of
corporate annual reports”, The accounting review, Vol. 55,
No. 4, pp. 563-577, 1980.
[18] Keller, S.B., “Reporting timeliness in the presence of subject
to audit qualifications, Journal of business finance &
accounting, 13(1), pp.117-124, 1986.
[19] Joy Begley, Paul Fischer, “Is there information in an
earnings announcement delay?”, Review of accounting
studies, pp. 347-363, 1998.
[20] Foster, G., C. Olsen, and T. Shevlin, “Earnings releases,
anomalies, and the behavior of security returns”, The
Accounting Review, 59, pp. 574-603, 1984.
[21] Begley, J. and P. E. Fischer, “Is there information in an
earnings announcement delay?”, Review of accounting
studies, 3, pp. 347-363, 1998.
[22] Chambers, A.E. and S.H. Penman, “Timeliness of reporting
and stock price reaction to earnings announcements”,
Journal of accounting research, 22, pp. 21–47, 1984.
[23] McWilliams, A. and D. Siegel, “Event studies in
management research: Theoretical and empirical issues”,
Mối quan hệ giữa lợi nhuận bất thường và thời gian công bố báo cáo tài chính
64 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Academy of management journal, Vol. 40, No. 3, pp. 626-
57, 1997.
[24] Adina and Ion, “Aspects regarding corporate mandatory and
voluntary disclosure”, Annals Of Faculty Of Economics,
university of oradea, Faculty of Economics, vol. 3(1), pages
1407-1411, May. 2008.
[25] Pastena, V. and J. Ronen, “Some hypotheses on the pattern
of management’s informal disclosures,” Journal of
accounting research, pp. 550-564, 1979.
[26] Bhattacharya, C. B. and Sankar Sen, “Consumer--company
identification: A framework for understanding consumers,
relationships with companies,” Journal of marketing, 67 (2),
76-88, 2003.
[27] Nguyễn Thúy Hằng, “Thực trạng và giải pháp cho vấn đề
công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết ở
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán, 2011.
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Huỳnh Anh Thư
Năm sinh 1988, sinh viên Đại học Lạc Hồng. Lĩnh vực nghiên cứu: các lĩnh vực thống kê, tài chính, ngân hàng,
chứng khoán, .
Email: huynhanhthu0210@gmail.com.
Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Năm sinh 1980, Hà Nam, tốt nghiệp Đại học tại Trường Đại học Lạc Hồng năm 2002, Thạc sĩ tại Trường Đại
học Mở thành phố Hồ Chí Minh năm 2012. Hiện đang là nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Ngân hàng K19-
2014, là trưởng bộ môn Ngân hàng tại trường Đại học Lạc Hồng. Đã có các công trình nghiên cứu về các lĩnh
vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, được đăng tải tại các tạp chí như Tạp chí khoa học của Đại học Mở,
Phát triển kinh tế của Đại học kinh tế ( Số 3 -2015), Asian Journal of Management Sciences, 03(07), 2015, 10-13....
Email: ngocdiep1980.dhlh@gmail.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_giua_loi_nhuan_bat_thuong_va_thoi_gian_cong_bo_b.pdf