Mối quan hệ giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật trên người Việt Nam trưởng thành

Mặt khác, theo Moorrees và Kean(17), độ lệch chuẩn khi tái thiết lập chính xác tư thế đầu tự nhiên thấp hơn khi so sánh với độ lệch chuẩn trong quá trình tái lập bất cứ đường tham chiếu nào trong sọ. Lundstrom, Forsberg Peck và McWilliam(11) đưa ra giá trị độ lệch chuẩn của việc tái lập tư thế đầu tự nhiên (± 2°) thấp hơn độ lệch chuẩn khi xác định độ nghiêng của mặt phẳng Frankfort (±4°đến 6). Điều này có nghĩa là khả năng tái lập tư thế đầu tự nhiên và mặt phẳng ngang thật chính xác hơn các mặt phẳng Frankfort hay SN(1,12). Peng và Cooke (8) cho rằng tư thế đầu tự nhiên ít thay đổi theo thời gian dù khả năng tái định vị có thay đổi nhưng không đáng kể và là một tư thế tham chiếu tốt, ổn định (có thể tái lập tốt với giá trị tương đối ổn định sau 15 năm). Vậy khả năng tái lập tư thế đầu tự nhiên và mặt phẳng ngang thật chính xác hơn các mặt phẳng Frankfort hay SN(1,12). Ở tư thế đầu tự nhiên cả yếu tố thẩm mỹ và chức năng của bệnh nhân đều được xem xét(5).Như vậy, vị trí đầu tự nhiên cùng với đường thẳng đứng dọc thật hay đường thẳng ngang thật là một tham chiếu đáng tin cậy(10). Vì vậy việc tìm được mối liên quan giữa tư thế đầu tự nhiên (thông qua mặt phẳng ngang thật của bệnh nhân) và mặt phẳng Frankfort sẽ là tiền đề cho những nghiên cứu sọ mặt sau này theo hướng thật gần gũi với tư thế hằng ngày của bệnh nhân, nhằm giúp cho quá trình phân tích thẩm mỹ khi điều trị thật sự phù hợp với cách đánh giá thẩm mỹ khi quan sát đối tượng trong cuộc sống hằng ngày.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật trên người Việt Nam trưởng thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 22 MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT PHẲNG FRANKFORT VÀ MẶT PHẲNG NGANG THẬT TRÊN NGƯỜI VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Đống Khắc Thẩm** TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm thiết lập mối quan hệ giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật của bệnh nhân khi đầu được định vị ở tư thế tự nhiên, đồng thời đề ra hướng đánh giá thẩm mỹ mới dựa trên tư thế đầu tự nhiên và mặt phẳng ngang thật của bệnh nhân. Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 100 người Việt Nam từ 18 đến 25 tuổi có khuôn mặt hài hòa, thỏa mãn một số tiêu chuẩn chọn mẫu. Các đối tượng nghiên cứu được chụp phim với đầu được định vị ở tư thế tự nhiên. Tất cả các phim được vẽ nét theo quy tắc được thống nhất trên thế giới, tiến hành xác định góc giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật, đo góc giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật. Xử lý thống kê tìm các giá trị trung bình của góc tạo bởi mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật. Kết quả: Góc giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới (p>0,05). Kết luận: Khi đánh giá thẩm mỹ có thể dùng giá trị trung bình của góc độ giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật để chuyển đổi nghiên cứu từ định vị đầu theo mặt phẳng Frankfort (tư thế thường gặp khi định vị đầu để chụp phim sọ nghiêng) sang định vị theo mặt phẳng ngang thật khi đầu ở tư thế tự nhiên. Từ khóa: Sơ đồ lưới, phân tích sọ mặt, thẩm mỹ, mặt phẳng ngang thật, tư thế đầu tự nhiên. ABSTRACT THE RELATIONSHIP BETWEEN FRANKFORT PLAN AND TRUE HORIZONTAL PLAN ON VIETNAMESE ALDULTS Nguyen Thi Bich Ngoc, Dong Khac Tham * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 22 - 27 Objectives: This study was taken place to establish the relationship between Frankfort plan and true horizontal plan in natural head position and to introduce a new method in aesthetic evaluation based on natural head position and true horizontal plan. Methods: This study was conducted on 100 Vietnamese adults, fitting some certain standard samples. All of them were taken lateral cephalometric Xray film with natural head position. All of their cephalometric Xray were traced and mesured the angle between Frankfort and true horizontal plan. Statistic measurements were used to determine the means that helped build the norm mesh diagram for males and females, and the mean of the angle between Frankfort plan and true horizontal plan. Results: There was no significant difference in the angle between the Frankfort plan and horizontal plan between male and female (p>0.05). Conclusion: The mean of the angle between the Frankfort plan and true horizontal plan can be used to change the head position in aesthetics research. Key words: Mesh diagram, craniofacial analysis, aesthetics, true horizontal plan, natural head position. * Trường đại học Y dược Cần Thơ **Bộ môn CHRM - Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc ĐT: 0917273663 Email: ntbngoc77@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 23 ĐẶT VẤN ĐỀ Đánh giá thẩm mỹ và điều trị tìm đạt thẩm mỹ mặt là một nhiệm vụ quan trọng của người thực hành CHRM cũng như phẫu thuật thẩm mỹ. Thông thường, trong quá trình điều trị bệnh nhân sẽ được nghiên cứu qua phân tích sọ mặt thẳng và nghiêng. Quá trình này thường được tiến hành trước và sau điều trị theo một phương pháp đo sọ nào đó tùy thuộc mục đích của từng nhà lâm sàng. Phân tích phim sọ nghiêng thường hữu dụng hơn khi xét về yếu tố thẩm mỹ như độ nhô môi, độ nhô cằm, hướng phát triển của hai xương hàm Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa việc nhìn nhận thẩm mỹ dựa vào chuẩn đo đạc và thực tế. Vì hiện nay tư thế chụp phim sọ nghiêng được chuẩn hóa với mặt phẳng Frankfort song song với sàn nhà, tư thế này hoàn toàn khác với tư thế của bệnh nhân trong cuộc sống hằng ngày; hơn nữa, khi phân tích phim sọ nghiêng thông thường góc nhìn của nhà phân tích cũng hoàn toàn khác – vì dựa trên một đường thẳng (hay mặt phẳng) trong sọ, do đó đầu được định vị không hoàn toàn “tự nhiên”. Sự khác biệt chính do một cá thể được nhận định về thẩm mỹ từ người đối diện thường dựa vào thực tế hình ảnh của cá thể trong cuộc sống là tư thế tự nhiên, khác với tư thế được nghiên cứu trong quá trình điều trị dựa trên phim đo sọ. Với mong muốn tìm một tư thế mới có thể áp dụng trong phân tích và thật gần gũi tự nhiên để kết quả thẩm mỹ đạt được sau điều trị là tối đa và khắc phục vấn đề định vị tư thế đầu khi chụp phim, nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: xác định mối tương quan giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật (khi đầu ở tư thế tự nhiên). ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả và phân tích trên mẫu gồm 50 nam và 50 nữ từ 18 đến 25 tuổi, có cha mẹ và ông bà nội ngoại là người Việt Nam, dân tộc Kinh. Đối tượng có gương mặt hài hòa, có khớp cắn Angle I, còn đầy đủ răng cửa, răng cối lớn thứ nhất hàm trên và hàm dưới, có độ cắn phủ - cắn chìa bình thường, không có chấn thương hàm mặt, dị hình hàm mặt, không qua điều trị chỉnh hình răng mặt hoặc phẫu thuật thẩm mỹ. Tất cả các đối tượng được đánh giá qua ảnh chụp mặt nghiêng với đầu ở tư thế tự nhiên. Nhóm đánh giá gồm 6 bác sĩ RHM thuộc bộ môn CHRM - Đại học Y Dược Tp.HCM. Thang điểm đánh giá từ 1 đến 5, trong đó (1) khuôn mặt xấu, (2) khuôn mặt không hài hòa, (3) khuôn mặt tương đối hài hòa, (4) khuôn mặt khá hài hòa, (5) khuôn mặt rất hài hòa. 100 đối tượng trong mẫu nghiên cứu phải đạt số điểm từ 3 trở lên. Phương pháp tiến hành Máy chụp phim: Hiệu PANEX – EC số hiệu X100 EC – 9405, với loại ống đầu dài 65 KVP, 10 mA trong thời gian từ ½ đến 1 ½ giây. Khoảng cách từ đầu cone đến mặt phẳng dọc giữa của đối tượng nghiên cứu là 1,52 m. Ngay phía trước cassette có gắn một sợi dây dọi cản quang để có thể xác định được trên phim đường thẳng đứng dọc chuẩn. Gắn một đoạn dây kim loại chỉnh hình nằm ngang với đường kính 0,5mm; dài 2cm ở ngang mức ống tai ngoài bằng băng keo dính. Đoạn dây kim loại này được điều chỉnh bằng thước thăng bằng sao cho nằm đúng theo mặt phẳng ngang. (Thước thăng bằng là thước có một khoảng bong bong khí bên trong, nếu mặt phẳng của cây thước không nằm ngang bong bóng khí sẽ xoay qua xoay lại, khi nào mặt phẳng cây thước nằm ngang thì bong bóng khí sẽ nằm chính giữa cây thước). Tư thế của đối tượng Đối tượng đứng thẳng, hai tay buông xuôi và nhìn thẳng vào gương. Phía bên trái của đầu đối tượng nghiên cứu tiếp xúc với phim để giảm độ phóng đại và độ méo lệch. Đối tượng được chụp phim ở tư thế đứng, với đầu ở tư thế tự nhiên, hai môi khép Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 24 kín, răng ở cắn khít trung tâm. Chùm tia X đi qua tai ngoài vào thẳng góc với phim. Các đối tượng được chụp phim sọ nghiêng bởi duy nhất một kỹ thuật viên tại bộ môn tia X khoa RHM ĐHYD Tp.HCM nhằm giảm thiểu sai số do thay đổi kỹ thuật chụp phim. Tất cả 100 phim sọ nghiêng của bệnh nhân (50 nam và 50 nữ) với đầu ở tư thế tự nhiên đều do một người vẽ nét trên giấy scan 0,003 matte với viết chì đường kính nhỏ 0,5 mm theo phương pháp vẽ nét được thống nhất trên thế giới. Sau đó tiến hành xác định điểm mốc nhằm xác định mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật. Đo đạc Đo góc giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật với thước chuyên dụng trong chỉnh hình hiệu Ormco Sybron. Giá trị góc Frankfort: dương Giá trị góc Frankfort: âm Hình 1: Quy ước giá trị góc tạo bởi mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật. Số liệu được công bố trong nghiên cứu này là số liệu trên phim, không hiệu chỉnh. Xử lý số liệu Các số liệu được phân tích thống kê với phần mềm SPSS 16.0. Thống kê mô tả Biến số độc lập là giới tính. Biến số phụ thuộc là góc giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật. Xác định giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, khoảng tin cậy 95% của số trung bình, giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của các biến số. Các giá trị này được tính riêng cho từng giới. Thống kê suy lý So sánh số trung bình của từng số liệu giữa hai giới bằng t-test. KẾT QUẢ Góc tạo bởi mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật Bảng 1: Mối liên hệ giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật (°). Góc (0) Nam Nữ Mức khác biệt Giá trị p TB ĐLC TB ĐLC Góc giữa mp Frankfort và mp ngang thật 2,17 3,20 3,33 2,83 ns 0,0578 BÀN LUẬN Góc tạo bởi mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật Không có sự khác biệt giữa góc tạo bởi mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật giữa nam và nữ (p = 0,058). Vậy có thể dùng giá trị chung của góc này cho cả hai giới là - 2,75° (ĐLC: 3,06). Tính đến thời điểm hiện nay, các phim sọ nghiêng dùng trong CHRM ở nước ta đa số được định vị theo mặt phẳng Frankfort. Nếu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu thẩm mỹ thì đầu bệnh nhân phải được định vị với tư thế đầu tự nhiên. Vậy chúng ta có nên chuẩn hóa một tư thế nghiên cứu phim sọ nghiêng mới với đầu ở “vị trí tự nhiên” hay không? Mặt phẳng Frankfort Mặt phẳng ngang Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 25 Tại sao lại cho rằng tư thế đầu tự nhiên và mặt phẳng ngang thật là một tham chiếu quan trọng? Đã có nhiều mặt phăng tham chiếu được sử dụng trong các phân tích sọ mặt, thường gặp như mặt phẳng nền sọ trước (S-N) hay mặt phẳng Frankfort. Tuy nhiên, theo Wits(6) thì việc đánh giá tương quan sọ - mặt khi dùng mặt phẳng S-N (nền sọ trước) sẽ không thật chính xác vì các lý do như (1) độ dài của nền sọ trước, (2) độ dốc của nền sọ trước, (3) độ nghiêng của mặt phẳng nhai. Chính các yếu tố này sẽ làm thay đổi các giá trị góc SNA hay SNB dẫn đến việc kết luận sai lệch với thực tế lâm sàng. Năm 1884 trong một hội nghị về nhân chủng học, mặt phẳng Frankfort được định nghĩa lần đầu tiên tại Đức, việc sử dụng mặt phẳng Frankfort trở nên rộng rãi hơn và trở thành mặt phẳng định vị trong quá trình chụp phim sọ nghiêng: khi đầu được cố định bởi bộ phận giữ đầu thì mặt phẳng Frankfort song song với sàn nhà(15). Nhưng nhiều nghiên cứu sau này cho thấy mặt phẳng Frankfort không trùng với mặt phẳng ngang thật(14). Hình 2: Sự khác biệt về độ dốc của mặt phẳng Frankfort trên những bệnh nhân có cùng vị trí đầu tự nhiên(14). Theo Lundstrom(10), nghiên cứu trên 79 trẻ 12 tuổi, nhận thấy không có một bằng chứng nào đảm bảo rằng mặt phẳng Frankfort có giá trị tin cậy tốt hơn mặt phẳng S-N vì cả hai mặt phẳng này đều không có một giá trị ổn định khi so sánh với mặt phẳng ngang thật, chỉ khác là về phương diện sinh học mặt phẳng Frankfort ít thay đổi hơn S-N nhưng về phương diện lâm sàng thì không có sự khác biệt. Theo Bass(3), mặt phẳng Frankfort không nên dùng để đánh giá thẩm mỹ mô mềm mặt khi sự xác định của mặt phẳng này hoàn toàn dựa vào các điểm mốc trong sọ (mô xương), và vị trí của chúng rất thay đổi (nhất là vị trí Porion). Theo Downs(4,7), với cùng một tư thế đầu tự nhiên nhưng lại xác định được nhiều mặt phẳng Frankfort với độ nghiêng khác nhau. Hình 3: Hai bệnh nhân có cùng một nét mặt nhìn nghiêng nhưng lại có sự khác biệt nhiều về độ dốc của nền sọ trước (S-N) và mặt phẳng Frankfort(14,15). Tư thế đầu tự nhiên(1,2,7,8,9,12,13,14,16,18)(1950) là một thuật ngữ được các nhà nhân chủng học sử dụng, nhằm biểu thị một “vị trí được chuẩn hóa và có thể tái lập khi đối tượng ngồi ở tư thế thoải mái và nhìn tập trung vào một vật đặt ngang tầm mắt và cách một khoảng”. Có nhiều cách xác định vị trí đầu tự nhiên như theo Von Baer và Wagner (1861) và Broca (1862), vị trí này được xác định khi đối tượng đứng với tầm mắt nhìn theo mặt phẳng ngang thì lúc đó đầu ở vị trí tự nhiên. Năm 1958, Molhave đã sử dụng tư thế đầu tự nhiên là tư thế khi đối tượng đứng thư giãn. Theo Bjerin (1957), Moorrees và Kean (1958) tư thế này được xác định khi đối tượng nhìn thẳng vào gương. Trong phân tích “sơ đồ lưới”, tác giả Coenradd F.A Moorrees không sử dụng một đường thẳng hay mặt phẳng chuẩn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 26 nào mà chỉ dựa vào đường thẳng dọc giữa thật của bệnh nhân trên phim sọ nghiêng được ghi nhận khi bệnh nhân ở tư thế đầu tự nhiên. Điều này có vẻ không hợp lý đối với một phương pháp khoa học nhưng lại hợp lý đối với một quan sát và nhận định lâm sàng. Mục đích chính của việc phân tích phim sọ nghiêng dùng trong điều trị CHRM nhằm tìm ra sự sai biệt và đưa về sự hài hòa, hay nói rõ hơn là vì mục tiêu thẩm mỹ. Hơn nữa, dù là một bác sĩ CHRM hay một nhà phẫu thuật tạo hình hay chỉ đơn thuần là một người bình thường thì việc đánh giá nét đẹp hay sự hài hòa trên thực tế đều không qua một đường thẳng hay mặt phẳng chuẩn nào cả, mà nét hài hòa trên khuôn mặt đều được nhận định khi đầu ở tư thế tự nhiên. Giá trị của mặt phẳng ngang thật trên bệnh nhân (khi đầu ở tư thế tự nhiên) được nhìn nhận. Mặt khác, theo Moorrees và Kean(17), độ lệch chuẩn khi tái thiết lập chính xác tư thế đầu tự nhiên thấp hơn khi so sánh với độ lệch chuẩn trong quá trình tái lập bất cứ đường tham chiếu nào trong sọ. Lundstrom, Forsberg Peck và McWilliam(11) đưa ra giá trị độ lệch chuẩn của việc tái lập tư thế đầu tự nhiên (± 2°) thấp hơn độ lệch chuẩn khi xác định độ nghiêng của mặt phẳng Frankfort (±4° đến 6). Điều này có nghĩa là khả năng tái lập tư thế đầu tự nhiên và mặt phẳng ngang thật chính xác hơn các mặt phẳng Frankfort hay SN(1,12). Peng và Cooke (8) cho rằng tư thế đầu tự nhiên ít thay đổi theo thời gian dù khả năng tái định vị có thay đổi nhưng không đáng kể và là một tư thế tham chiếu tốt, ổn định (có thể tái lập tốt với giá trị tương đối ổn định sau 15 năm). Vậy khả năng tái lập tư thế đầu tự nhiên và mặt phẳng ngang thật chính xác hơn các mặt phẳng Frankfort hay SN(1,12). Ở tư thế đầu tự nhiên cả yếu tố thẩm mỹ và chức năng của bệnh nhân đều được xem xét(5). Như vậy, vị trí đầu tự nhiên cùng với đường thẳng đứng dọc thật hay đường thẳng ngang thật là một tham chiếu đáng tin cậy(10). Vì vậy việc tìm được mối liên quan giữa tư thế đầu tự nhiên (thông qua mặt phẳng ngang thật của bệnh nhân) và mặt phẳng Frankfort sẽ là tiền đề cho những nghiên cứu sọ mặt sau này theo hướng thật gần gũi với tư thế hằng ngày của bệnh nhân, nhằm giúp cho quá trình phân tích thẩm mỹ khi điều trị thật sự phù hợp với cách đánh giá thẩm mỹ khi quan sát đối tượng trong cuộc sống hằng ngày. KẾT LUẬN Nghiên cứu trên mẫu được chọn gồm 50 nam và 50 nữ ở độ tuổi từ 18 đến 25 với gương mặt hài hòa và thỏa mãn đầy đủ các tiêu chuẩn chọn mẫu đã rút ra kết luận về góc giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng ngang thật, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới (p > 0,05). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Atashi MHA, Kachooei M (2008). Soft tissue cephalometric standards based on Natural Head position in a sample of Iranian adults. JODDD, 2: 53-57. 2. Bass NM (2003). Measurement of the profile angle and the aesthetic of the facial profile. Journal of Orthodontic, 30: 3-9. 3. Bass NM (1991). The aesthetic analysis of the face. European journal of orthodontics, 13: 343-350. 4. Faustini MM, Hale C, Cisneros GJ (1997). Mesh diagram analysis: Developing a norm for African American. The Angle Orthodontist, 2: 121-128. 5. Ferrario VF, Sforza C, Dalloca LL, Defranco DJ (1996). Assessment of facial form modifications in orthodontics: Proposal of a modified computerized mesh diagram analysis. American Journal of Orthodontics and Dentofacial Orthopedics, 263-270. 6. Jacobson A. Radiographic cephalometry: From basic to videoimaging. Quintessence Publishing Co, Inc, 97-112. 7. Jiuhiu J, Tianmin X, Jiuxiang L (2007). The relationship between estimated and registered Natural Head Position. The Angle Orthodontist, 77(6): 1019-1024. 8. Li P, Cooke MS (1999). Fifteen-year reproducibility of natural head posture - a longitudinal study. American Journal of Orthodontics and Dentofacial Orthopedics, 116: 82-85. 9. Lundstrom A, Lundstrom F, Lebret LML, Moorrees CFA (1995). Natural head position and natural head orientation: basic consideration in cephalometric analysis and research. European Journal of Orthodontics, 17: 111-120. 10. Lundstrom A, Lundstrom F, Lebret LML (1995). The Frankfort horizontal as a basis for cephalometric analysis. American Journal of Orthodontics and Dentofacial Orthopedics, 107: 537- 540. 11. Lundstrom A., Forsberg CM, Peck S, Mc William J (1992). A proportional analysis of the soft tissue facial profile in young adults with normal occlusion. The Angle Orthodontist, 62: 127-133. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 27 12. Madsen DP, Sampson WJ, Townsend GC (2008). Craniofacial reference plane variation and natural head position. European Journal of Orthodontics, 30: 532-540. 13. Moorrees CFA (1992). Commentary Analysis of the facial profile. The Angle Orthodontist, 2: 121-128. 14. Moorrees CFA. Natural head position: The key to cephalometry. Radiographic cephalometry: From basic to videoimaging. Quintessence Publishing Co, Inc, 175-184. 15. Moorrees CFA, Lebret L (1962). The mesh diagram and cephalometrics. The Angle Orthodontist, 32: 214-231. 16. Raju NS, Prasad KG, Jayade VP (2001). A modified approach for obtaining Cephalograms in the Natural Head Position. Journal of Orthodontics, 28: 25-28. 17. Tremont TJ (1980). An investigation of the variability between the optic plane and Frankfort horizontal. American Journal of Orthodontics and Dentofacial Orthopedics, 192-200. 18. Usumez S, Uysal T, Orhan M, Soganci E (2006). Relationship between static natural head position and head position measured during walking. American Journal of Orthodontics and Dentofacial Orthopedics, 125: 42- 47. Ngày nhận bài báo: 11/01/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2014 Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmoi_quan_he_giua_mat_phang_frankfort_va_mat_phang_ngang_that.pdf
Tài liệu liên quan