Với kỹ thuật đã mô tả ở trên, qua 191 ca có
kết quả như mong muốn, mức độ hài lòng
bệnh nhân cao 95,81% trong thời gian theo dõi
một năm, đa số còn giữ cảm giác quầng vú và
núm vú. Co thắt túi ngực (4,19%), sẹo phì đại
thấy rõ (3,66%).
Không có nhiễm trùng nặng sau mổ,
không lộ túi(7,8,12).
Đặt túi độn ngực dưới cơ qua đường
quầng vú không mới lạ nhưng chúng tôi muốn
khẳng định tính khả thi và nhiều điều tốt đẹp
cho người Việt Nam đa phần có tuyến vú nhỏ
bẩm sinh hoặc teo nhỏ sau sinh. Đường mổ
quanh quầng vú khó thấy sẹo sau mổ trên 3
tháng, phẫu trường nhìn rõ và kiểm soát cầm
máu tốt nhất, hoặc khi có tuyến vú sa trễ
không cân đối có thể qua đường quầng vú
điều chỉnh được các khuyết tật này. Qua
nghiên cứu 191 trường hợp độn túi ngực tại
Bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi ghi nhận một số
yếu tố thuận lợi khi đặt túi độn dưới cơ là:
Trương lực cơ đè ép liên tục lên túi độn và
thường xuyên làm sạch nguồn sữa là yếu tố
nhiễm khuẩn gây co thắt bao xơ(3,6,14,15).
Ít chảy máu trong mổ do mạch máu chủ
yếu nằm giữa cơ và tuyến vú(5,16).
Không gây mất cảm giác quầng vú do thần
kinh, mạch máu nằm giữa tuyến và cơ.
Nguồn cung cấp máu phong phú chống vi
khuẩn tốt vì mang đến -Globulin, Bạch cầu
và Kháng sinh.
Làm đầy vùng nách giống như hình quả lê
nhìn ngực khá tự nhiên.
Khối cơ ngực che phủ túi độn khó sờ chạm
thấy túi nhất là đối với bệnh nhân gầy ốm đặc
biệt khi có nhăn túi độn.
Nếu có co thắt cơ nhẹ và trung bình sẽ khó
phát hiện khi túi độn dưới cơ vì sẽ sờ thấy cơ
trước hết.
Bóc tách dễ dàng và nhanh, ít chảy máu.
Vết sẹo thâm nâu gần giống màu thâm của
quầng vú, khó phát hiện sau mổ và lâu dài có
kết quả tốt, bệnh nhân chấp nhận và hài lòng
cao(2,7).
Kỹ thuật mô tả của chúng tôi đơn giản và
an toàn, tạo bầu vú tự nhiên, sẹo khó thấy
trong quầng vú, túi độn khó sờ chạm và ít biến
chứng.
Các yếu tố ngừa co thắt túi:
1. Đặt túi độn dưới cơ tạo nên sự đè nén:
đè ép liên tục 2-3 tháng, massage mỗi
phút/giờ, mặc áo ngực thường xuyên(4).
2. Ít chảy máu (do mạch máu nằm giữa cơ
và tuyền vú), cầm máu chắc chắn(11).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 166 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng to ngực an toàn bằng túi Gel đặt dưới cơ qua đường quầng vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 173
NÂNG TO NGỰC AN TOÀN BẰNG TÚI GEL ĐẶT DƯỚI CƠ
QUA ĐƯỜNG QUẦNG VÚ
Đỗ Quang Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nâng to ngực bằng độn túi cần xem xét vị trí đặt túi bảo đảm che kín túi độn. Quyết định vị
trí đặt túi phụ thuộc vào phẫu thuật viên và người bệnh, tư vấn kỹ những thuận lợi và bất lợi của mỗi vị trí
đặt túi độn, đường mổ, thời gian mổ, biến chứng đi kèm... . Có khá nhiều đường mổ như đường nách, nếp
vú, quầng vú, qua rốn) cũng như có nhiều vị trí đặt túi độn (trên cơ, dưới cơ, dưới cân), trong nghiên
cứu này chúng tôi chọn túi độn đặt dưới cơ, qua đường quầng vú chiếm đa số để bảo đảm đạt các tiêu chuẩn
phủ kín túi và dấu sẹo ở vùng da thẫm đỏ ngay quầng vú.
Phương pháp nghiên cứu: Bao gồm 191 bệnh nhân có nhu cầu tạo hình nâng ngực bằng túi độn trong
năm 2008 và 2009 tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Thời gian theo dõi trung bình 1 năm. Đường mổ thường dùng
nửa chu vi dưới quầng vú.
Kết quả: Với kỹ thuật đã mô tả ở trên, qua 191 ca có kết quả như mong muốn, mức độ hài lòng bệnh
nhân cao 95,81% trong thời gian theo dõi một năm, đa số còn giữ cảm giác quầng vú và núm vú. Co thắt túi
ngực (4,19%), sẹo phì đại thấy rõ (3,66%). Không có nhiễm trùng nặng sau mổ, không lộ túi.
Kết luận: Kỹ thuật này tác động trực tiếp và nhẹ nhàng, không tổn thương mô nhiều, không gây chảy
máu nhiều và không cần đốt điện nhiều, đó là những yếu tố góp phần tránh các biến chứng trong tạo hình
ngực như co thắt túi ngực, nhiễm khuẩn, đau sau mổ
Từ khóa: Nâng ngực, an toàn, túi gel, dưới cơ, đường quầng vú.
ABSTRACT
SAFE BREAST AUGMENTATION SURGERY WITH GEL IMPLANT BELOW MUSCLE THROUGH
AREOLA LINE
Do Quang Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 173 -178
Objectives: Where to put gel bags depends on surgents and patients, with careful consulting for
advantages and disadvantages of different techniques, time length and complications. We could name some
surgery lines (armpit line, breast line, areola line, umbilical line...) and gel implant placement (above muscle,
below muscle...). In this study, we choose the under-muscle placement, through areola line in order to hide
gel implants and surgery scars.
Methods:This study observed 191 breast lift cases in 2008 -2009 with 1-year tracking time. We use
half-perimeter areola surgery line and rough or sleek gel implant.
Results: Out of 191 cases, pleasure rate is 95.81%. During 1-year tracking time, most have sensations
of areolas and nipples. The most common complication is fiber restraint, rates about 4.19%, hypertrophic
scars 3.66%. No serious infections after surgeries, no gel bag reveals.
Conclusions: This technique impacts directly, with least damage on tissues, least bleeding and least
electrocautery. Therefore, it causes least complications.
* Khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Đỗ Quang Hùng, ĐT: 0903718442 Email: tmv_thuha@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 174
Key words: Breast augmentation surgery, gel implant, below muscle, areola line.
GIỚI THIỆU
Nâng to ngực bằng độn túi cần xem xét vị
trí đặt túi bảo đảm che kín túi độn. Quyết định
vị trí đặt túi phụ thuộc vào phẫu thuật viên và
người bệnh, tư vấn kỹ những thuận lợi và bất
lợi của mỗi vị trí đặt túi độn, đường mổ, thời
gian mổ, biến chứng đi kèm...(4,6). Có khá nhiều
đường mổ như đường nách, nếp vú, quầng vú,
qua rốn(2,7) cũng như có nhiều vị trí đặt túi
độn (trên cơ, dưới cơ, dưới cân), trong
nghiên cứu này chúng tôi chọn túi độn đặt
dưới cơ, qua đường quầng vú chiếm đa số đễ
bảo đảm đạt các tiêu chuẩn phủ kín túi và dấu
sẹo ở vùng da thẩm đỏ ngay quầng vú.
Kỹ thuật đặt túi độn dưới cơ nhằm che khá
kín bề mặt cũng như bờ cong của túi độn đồng
thời bảo vệ túi độn khá tốt sâu bên dưới cơ
ngực(1,10,13). Đây là một nghiên cứu tiến cứu qua
khảo sát 191 trường hợp đặt túi độn có hoặc
không kèm sa trễ tuyến vú mức độ nhẹ đến
vừa trong năm 2008 và 2009 với thời gian theo
dõi trung bình 1 năm. Đường mổ thường dùng
nửa chu vi dưới quầng vú. Loai túi độn là gel
silicone nhám hoặc trơn, dạng tròn là chủ yếu.
Kỹ thuật của chúng tôi bảo đảm che kín túi
độn, giữ và tạo ra cực trên có độ nhô tự nhiên
cao. Tỉ lệ biến chứng thông thường nhất là co
thắt bao xơ chiếm 4,19%.
Chất liệu và phương pháp
Bao gồm 191 bệnh nhân có nhu cầu tạo
hình nâng ngực bằng túi độn trong năm 2008
và 2009 tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Thời gian theo
dõi trung bình 1 năm. Tuổi từ 18 đến 62 tuổi,
chiếm số đông từ 21 đến 40 tuổi (84,29%). Chỉ
định mổ do teo tuyến vú sau sinh là 155 ca
(71,14%), tuyến vú nhỏ bẩm sinh (thiểu sản vú)
chiếm 36 ca (28,85 %).
Túi độn
Loại túi độn thường là gel silicone kích cỡ
khoảng 225 – 300 cc chiếm phần lớn (89,52%).
Việc chọn lựa túi độn phụ thuộc vào sự mong
đợi của bệnh nhân, chiều cao, thể tích lồng
ngực, tình trạng da, thành phần mô tuyến vú
và đường kính đáy tuyến vú. Túi độn có
nguồn gốc từ hãng Mentor hoặc từ hãng
Allergan của Hoa kỳ được FDA cho phép, là
túi trơn hoặc nhám, là túi tròn hoặc túi hình
giọt nước.
Kỹ thuật mổ
Tất cả bệnh nhân đều được gây mê nội khí
quản hoặc mê masque thanh quản, bệnh nhân
tư thế nằm ngửa, tay dạng 80-90 độ. Đường
mổ đặt túi độn hoặc là nếp vú hoặc là quầng
vú hoặc là đường nách. Vị trí đặt túi độn hoặc
dưới cơ, hoặc dưới tuyến. Khoang đặt túi độn
hoặc có tưới rửa bằng nước muối sinh lý hoặc
không tưới rửa mà chỉ có lau chậm bằng gạc
nhỏ có làm ướt bằng nước muối sinh lý. Hoặc
có một số trường hợp có tưới rửa kháng sinh
vào khoang độn túi trước khi đặt túi.
Vẽ và đánh dấu trước mổ khi bệnh nhân tư
thế đứng, đầu tiên xác định khoang đặt túi.
Đánh dấu đường nếp dưới vú giữa 1-2cm bên
dưới. Vẽ đường nách trước hai bên. Đánh dấu
ranh giới bóc tách khoang đặt túi độn bên dưới
đường nếp vú khoảng 1-2 cm và bờ ngoài
không nên vượt quá đường nách trước và
đường cạnh ức, tạo khoang rộng hơn đường
kính đáy túi khoảng 1,5cm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 175
Đa số đường mổ nửa chu vi quầng vú
dưới, bóc tách xuyên qua nhu mô tuyến vú
bằng kéo Mayor cho đến qua lớp cơ ngực lớn,
tiếp tục bóc tách bằng ngón tay trỏ tạo khoang
độn túi có sự trợ giúp của phụ tá mổ để nâng
toàn bộ cơ ngực lên trên. Bóc tách bằng tay có
lợi thế là ít gây chảy máu và không cần dùng
đốt điện nhiều nhằm tránh dị vật bên trong
khoang đặt túi phòng ngừa co thắt túi sau này.
Bóc tách sát điểm bám tận của cơ ngực ở
xương sườn 4, 5, 6, Chỉ mở hộp đựng túi khi
đã sẵn sàng cho việc đưa túi vào khoang độn
túi, tránh tiếp xúc túi với không khí lâu dài.
Cần làm sạch da ngay miệng khoang độn túi
lần nữa bằng dung dịch Betadine đậm đặc 10%
và cồn trắng, thay đổi găng tay sạch và lau
sạch bột talc bằng gạc nước muối sinh lý. Khâu
lớp mô bằng chỉ tiêu 3/0 hoặc 4/0 sau khi đặt
dẫu lưu, khâu da Nylon 6/0. Rút ngắn thời
gian đặt túi cũng là một thuận lợi tránh nguy
cơ nhiễm khuẩn và co thắt túi sau này. Trung
bình thời gian mổ bóc tách và đặt túi xong
trong vòng 10 -12 phút cho mỗi bên. Đa số có
đặt ống dẫn lưu kín áp lực âm bằng ống tiêm
50cc qua vết mổ tối thiểu 48 giờ, có thể kéo dài
nếu dịch dẫn lưu còn ra nhiều trên 30cc dịch
mỗi bên. Massage túi liên tục 2-3 tháng sau khi
mổ 1 tháng. Thời gian mổ kéo dài 45 phút đến
60 phút.
Sau mổ có dẫn lưu hoặc không dẫn lưu
trong 48 giờ.
Chăm sóc sau mổ: bệnh nhân được theo dõi
và nằm tại bệnh viện 2 đến 3 ngày, dùng thêm
kháng sinh bằng đường tiêm hoặc đường uống
trong vòng 7 ngày. Kháng sinh phòng ngừa
dùng Cephalosporine thế hệ 3 trước mổ 30
phút Thường dùng giảm đau bằng Perfalgan
truyền tĩnh mạch hoặc Paracetamol uống. Vận
động sớm sau phẫu thuật, xuất viện ngày thứ
3 sau mổ, theo dõi đến 3 tháng sau mổ. Nghiên
cứu này mục đích tìm kiếm tần suất biến
chứng và các yếu tố liên quan như vị trí đặt túi
độn, loại túi độn từ hãng sãn xuất, có dùng đốt
điện tạo khoang đặt túi hay chỉ dùng bằng tay,
có hoặc không dẫn lưu sau mổ, có hoặc không
dùng kháng sinh tưới rửa khoang đặt túi. Ghi
nhận biến chứng sau mổ cho đến 3 tháng. Đa
số trường hợp được chẩn đoán bằng lâm sàng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 176
có cận lâm sàng hỗ trợ như siêu âm. Ghi nhận
tụ máu sau mổ: sưng to và đau, ngực cứng
chắc hơn mong đợi. Ghi nhận nhiễm khuẩn
lâm sàng: sưng nề, ửng đỏ, cứng chắc, sốt và
bạch cầu cao. Không đồng bộ túi độn 2 bên, co
thắt nhẹ và cứng túi. Ngoài ra có những bất
thường cần đánh giá và xem như là biến
chứng sau mổ.
Phân tích dữ liệu: qua nhập dữ liệu vào
phần mềm Exel và xử lý thống kê bằng phần
mềm SPSS 13.0
Hình A: túi độn đặt ngay dưới cơ ngực còn nguyên
vẹn Hình B: Phần điểm bám của cơ ngực ở vùng ức
và xương sườn 4,5, 6 đã cắt bỏ
KẾT QUẢ
Có 158 trường hợp rạch nửa chu vi dưới
quầng vú, 29 rạch dưới nếp vú và 4 rạch ở hố
nách. Có 8 bệnh nhân có sa trễ tuyến vú dùng
đường rạch ở nửa chu vi trên quầng vú có bán
kính lấy trục trung tâm là ức – núm vú.
Bảng 1: Phân bố theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi Số lượng bệnh nhân Tỉ lệ (%)
dưới 20 5 2,61
21-30 82 42,93
31-40 79 41,36
41-50 19 9,94
51-60 5 2,61
Trên 60 1 0,52
Nhận xét: Lứa tuổi 18 đến 40 chiếm
86,90%, có 1 bệnh nhân ở tuổi 62.
Bảng 2: Phân bố theo cỡ túi
Cỡ túi độn Số lượng bệnh nhân Tỉ lệ (%)
175-220 4 2,09
225-250 49 25,65
>255-300 122 63,87
>310-350 15 7,85
400 1 0,52
Nhận xét: Cỡ túi độn từ 225-300cc chiếm
89,52%, trong đó túi cỡ 255-300 chiếm 63,87%.
Bảng 3: Phân bố theo vị trí đặt túi độn
Vị trí đặt túi độn Số lượng bệnh nhân Tỉ lệ (%)
Dưới cơ ngực 180 94,24
Dưới tuyến 9 4,71
Dưới cân cơ ngực 2 1,04
Nhận xét: Đa số bệnh nhân đặt túi độn
dưới cơ chiếm 94,24%
Bảng 4: Phân bố theo tình trạng sinh đẻ
Chưa sinh đẻ Đã sinh đẻ
Túi độn gel 36 155
Tỉ lệ % 18,85 71,14
Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân đặt túi ngực sau
sinh 1, 2, 3 con chiếm đa số (71,14%), có bệnh
nhân sau sinh 4 con (1 ca).
Bảng 5: Phân bố theo đường mổ:
Số lượng bệnh nhân % Tỉ lệ
Quầng vú 158 82,72
Nếp vú 29 15,18
Nách 4 2,09
Nhận xét: Chọn đường mổ quầng vú
chiếm 82,72%, đường mổ có sẹo trùng lặp với
máu sắc da thẫm của quầng vú.
Dẫn lưu vết mổ
Có 171 ca (89,52%). Chỉ có 20 ca không dẫn
lưu khoang độn túi sau mổ (chiếm 10,47%).
Tất cả trường hợp dẫn lưu đều dưới áp lực âm
và kín.
Bảng 6: Phân bố biến chứng
Số lượng bệnh nhân Tỉ lệ %
Máu tụ 2 1,04
Mất cảm giác đầu vú
tạm thời
3 1,57
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 177
Số lượng bệnh nhân Tỉ lệ %
Vỡ túi độn 3 1,57
Nhiễm trùng vết mổ 1 0,52
Túi độn nhỏ 8 4,19
Sẹo phì đại 7 3,66
Co thắt túi ngực 8 4,19
Nhận xét: Co thắt túi ngực là một biến
chứng thường gặp nhất trong đặt túi
ngực(9,15,16) chiếm 4,19% trong thời gian theo
dõi 12 tháng.
Với kỹ thuật đã mô tả ở trên, qua 191 ca có
kết quả như mong muốn, mức độ hài lòng
bệnh nhân cao 95,81% trong thời gian theo dõi
một năm, đa số còn giữ cảm giác quầng vú và
núm vú. Co thắt túi ngực (4,19%), sẹo phì đại
thấy rõ (3,66%).
Không có nhiễm trùng nặng sau mổ,
không lộ túi(7,8,12).
Đặt túi độn ngực dưới cơ qua đường
quầng vú không mới lạ nhưng chúng tôi muốn
khẳng định tính khả thi và nhiều điều tốt đẹp
cho người Việt Nam đa phần có tuyến vú nhỏ
bẩm sinh hoặc teo nhỏ sau sinh. Đường mổ
quanh quầng vú khó thấy sẹo sau mổ trên 3
tháng, phẫu trường nhìn rõ và kiểm soát cầm
máu tốt nhất, hoặc khi có tuyến vú sa trễ
không cân đối có thể qua đường quầng vú
điều chỉnh được các khuyết tật này. Qua
nghiên cứu 191 trường hợp độn túi ngực tại
Bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi ghi nhận một số
yếu tố thuận lợi khi đặt túi độn dưới cơ là:
Trương lực cơ đè ép liên tục lên túi độn và
thường xuyên làm sạch nguồn sữa là yếu tố
nhiễm khuẩn gây co thắt bao xơ(3,6,14,15).
Ít chảy máu trong mổ do mạch máu chủ
yếu nằm giữa cơ và tuyến vú(5,16).
Không gây mất cảm giác quầng vú do thần
kinh, mạch máu nằm giữa tuyến và cơ.
Nguồn cung cấp máu phong phú chống vi
khuẩn tốt vì mang đến -Globulin, Bạch cầu
và Kháng sinh.
Làm đầy vùng nách giống như hình quả lê
nhìn ngực khá tự nhiên.
Khối cơ ngực che phủ túi độn khó sờ chạm
thấy túi nhất là đối với bệnh nhân gầy ốm đặc
biệt khi có nhăn túi độn.
Nếu có co thắt cơ nhẹ và trung bình sẽ khó
phát hiện khi túi độn dưới cơ vì sẽ sờ thấy cơ
trước hết.
Bóc tách dễ dàng và nhanh, ít chảy máu.
Vết sẹo thâm nâu gần giống màu thâm của
quầng vú, khó phát hiện sau mổ và lâu dài có
kết quả tốt, bệnh nhân chấp nhận và hài lòng
cao(2,7).
Kỹ thuật mô tả của chúng tôi đơn giản và
an toàn, tạo bầu vú tự nhiên, sẹo khó thấy
trong quầng vú, túi độn khó sờ chạm và ít biến
chứng.
Các yếu tố ngừa co thắt túi:
1. Đặt túi độn dưới cơ tạo nên sự đè nén:
đè ép liên tục 2-3 tháng, massage mỗi
phút/giờ, mặc áo ngực thường xuyên(4).
2. Ít chảy máu (do mạch máu nằm giữa cơ
và tuyền vú), cầm máu chắc chắn(11).
KẾT LUẬN
Nâng to ngực bằng độn túi gel silicone qua
đường quầng vú đặt dưới cơ là một kỹ thuật
an toàn, mang lại vẻ đẹp tự nhiên của bầu vú
cho người phụ nữ với độ hài lòng cao. Kỹ
thuật này tác động trực tiếp và nhẹ nhàng,
không tổn thương mô nhiều, không gây chảy
máu nhiều và không cần đốt điện nhiều, đó là
những yếu tố góp phần tránh các biến chứng
trong tạo hình ngực như co thắt túi ngực,
nhiễm khuẩn, đau sau mổ
Chúng tôi đề nghị sử dụng đường mổ
quanh quầng vú cho phép bóc tách an toàn,
nhìn rõ và trực tiếp phẫu trường và kiểm soát
cầm máu tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cronin TD, Gerow FJ (1964) Augmentation mammaplasty:
a new ‘‘natural feel’’ prosthesis. In: Transactions of the
third international congress of plastic surgery. Excerpta
Medica Foundation, Amsterdam, pp 41–49
2. Dempsey WC, Latham WD (1968) Subpectoral implants in
augmentation mammaplasty: Preliminary report. Plast
Reconstr Surg 42:515–521
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 178
3. Goes JCS, Landecker A (2003) Optimizing outcomes in
breast augmentation: seven years of experience with the
subfascialplane. Aesth Plast Surg 27:178–184
4. Graf RM, Bernardes A, Auersvald A, Costa Damasio RC
(2000) Subfascial endoscopic transaxillary augmentation
mammaplasty. Aesth Plast Surg 24:216–220
5. Graf RM et al (2003) Subfascial implant: a new procedure.
Plast Reconstr Surg 111:904–908
6. Jinde L et al (2006) Anatomy and clinical significance of
pectoral fascia. Plast Reconstr Surg 118:1160–1557
7. Mladick RA (1993) ‘‘No-touch’’ submuscular saline breast
augmentation technique. Aesth Plast Surg 17:183–192
8. Munhoz AM et al (2006) Subfascial transaxillary breast
augmentation without endoscopic assistance: technical
aspects and outcome. Aesth Plast Surg 30:503–512
9. Puckett CL, Croll GH, Reichel CA, Concannon MJ (1987) A
critical look at capsule contracture in subglandular versus
subpectoral mammary augmentation. Aesth Plast Surg
11:23–28
10. Ramirez OM, Heller L, Tebbetts JB (2002) Dual-plane
breast augmentation: avoiding pectoralis major
displacement. Plast Reconstr Surg 110:1198
11. Serra-Renom JM, Garrido MF, Yoon T (2005)
Augmentation mammaplasty with anatomic soft, cohesive
silicone implant using the transaxillary approach at a
subfascial level with endoscopic assistance. Plast Reconstr
Surg 116:640–645
12. Siclovan HR, Jomah JA (2008) Advantages and outcomes
in subfascial breast augmentation: a two-year review of
experience. Aesth Plast Surg 32:426–431
13. Spear SL, Schwartz J, Dayan JH, Clemens MW (2009)
Outcome assessment of breast distortion following
submuscular breast augmentation. Aesth Plast Surg 33:44–
48
14. Stoff-Khalili MA, Scholze R, Morgan WR, Metcalf JD
(2004) Subfascial periareolar augmentation mammaplasty.
Plast Reconstr Surg 114:1280–1291
15. Tebbetts JB (2006) Dual-plane breast augmentation:
optimizing implant–soft tissue relationships in a wide
range of breast types. Plast Reconstr Surg 118(7
Suppl):81S–98S
16. Vazquez B, Given KS, Houston GC (1987) Breast
augmentation: a review of subglandular and submuscular
implantation. Aesth Plast Surg 11:101–105.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_to_nguc_an_toan_bang_tui_gel_dat_duoi_co_qua_duong_quan.pdf