Kết luận
Ngay từ khi Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước đã mang ý nguyện cứu dân,
giúp nước, thoát khỏi cảnh lầm than, đưa
nhân dân từ thân phận nô lệ lên làm chủ xã
hội, chủ đất nước. Sau khi giành chính
quyền, Hồ Chí Minh chỉ đạo trực tiếp công
cuộc kháng chiến, kiến quốc, cốt làm sao để
dân có cái ăn, cái mặc, được học hành và
ngày càng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Muốn khắc phục
giặc đói, sự tàn phá của chiến tranh, nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu là phải tích cực tăng
gia sản xuất. Tăng gia sản xuất tạo điều kiện
giúp chúng ta thoát khỏi giặc đói, kết hợp
với thực hành tiết kiệm gây cơ sở cho việc
tích lũy xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, mục
tiêu chỉ đạt được khi đồng bộ các nhiệm vụ
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với
chống tệ tham ô, nạn quan liêu, lãng phí. Đó
là hệ thống các quan điểm toàn diện, hệ
thống và logic của Hồ Chí Minh về phát
triển kinh tế. Đó cũng là những chỉ dẫn quan
trọng của Hồ Chí Minh đối với Đảng và
nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tích lũy xã hội chủ nghĩa và chống tham ô, quan liêu, lãng phí trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
48
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG GIA SẢN XUẤT, THỰC HÀNH TIẾT KIỆM,
TÍCH LŨY XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CHỐNG THAM Ô, QUAN LIÊU,
LÃNG PHÍ TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
THE RELATIONSHIP BETWEEN PRODUCTION PROMOTION, THRIFT PRACTICE,
SOCIALIST ACCUMULATION AND ANTI-EMBEZZLEMENT, BUREAUCRACY AND
WASTE IN HO CHI MINH’S THOUGHT
Ngày nhận bài: 22/06/2020
Ngày chấp nhận đăng: 24/08/2020
Trịnh Quang Dũng
TÓM TẮT
Trong quá trình xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt để giải quyết
những khó khăn sau khi cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi, Hồ Chí Minh đã coi nhiệm vụ
phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong đó, Người nhấn mạnh đến vai trò của
tăng gia sản xuất, kết hợp với thực hành tiết kiệm và tích lũy xã hội chủ nghĩa, đồng thời song
song với nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ chống tham ô, quan liêu, lãng phí cản trở sự phát
triển của kinh tế. Giữa các yếu tố này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, quan liêu, lãng phí.
ABSTRACT
In the process of developing country in the period of transition to socialism, especially in order to
handle difficulties after Vietnamese revolution won, Ho Chi Minh considered economic
development mission as the most important one. Of which, the Uncle emphasized the role of
production promotion in combination with thrift practice and socialist accumulation, and
simultaneously continuous maintenance of economic development task as anti-embezzlement,
bureaucracy and waste causing obstacles for economic development. Among these factors, there
is an intimate and close relationship with each other.
Keywords: Ho Chi Minh’s thought, production promotion, economic development, thrift practice,
anti-embezzlement, bureaucracy and waste.
1. Giới thiệu
Ngay sau khi giành được chính quyền,
trong Những nhiệm vụ cấp bách của nhà
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hồ Chí
Minh đã đặt ra nhiệm vụ tăng gia sản xuất,
phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho mọi
người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành. Tiếp đến những năm tháng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt quá
trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ, Hồ Chí Minh luôn chú trọng vấn đề tăng
gia sản xuất, đồng thời Người cũng đặc biệt
quan tâm đến việc thực hành tiết kiệm, tích
lũy xã hội chủ nghĩa, bởi theo Người tăng gia
sản xuất phải đi cùng với thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, tăng cường tích lũy xã hội
chủ nghĩa. Đó là một cuộc cách mạng trong
kinh tế, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội và thống nhất đất nước, một
cuộc cách mạng lâu dài và rất khó khăn, đối
diện với nhiều loại kẻ thù. Chúng ta xây
dựng kinh tế mới trên nền tảng của nền kinh
tế thực dân, phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, bị
tàn phá bởi chiến tranh, luôn bị các thế lực
thù địch chống phá, đồng thời, Hồ Chí Minh
Trịnh Quang Dũng, Trường Đại học Kinh tế - Đại
học Đà Nẵng
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
49
cũng nhận thấy kẻ thù nguy hiểm không kém
giặc ngoại xâm, đó là những “thứ giặc trong
lòng”, “giặc nội xâm”, luôn tiềm ẩn và tìm
cách phá hoại mỗi khi chúng có cơ hội. Đó là
những căn bệnh, những biểu hiện tiêu cực,
thái hóa biến chất, là tệ nạn tham ô, quan liêu,
lãng phí. Cho nên, quá trình xây dựng nền
kinh tế mới phải gắn liền với quá trình thực
hành tiết kiệm, đi đôi với việc chống tham ô,
quan liêu, lãng phí. Tư tưởng ấy của Hồ Chí
Minh đã giúp Đảng và nhân dân gặt hái được
nhiều thành công trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, vẫn còn nguyên những giá trị
trong giai đoạn xây dựng và phát triển kinh tế
xã hội thời kỳ quá độ hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng gia
sản xuất
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân chỉ biết đến
tự do khi nhân dân có cơm ăn, áo mặc, được
học hành. Cho nên, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là Đảng và Nhà nước luôn phải
quan tâm đến việc phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân thông qua các hoạt động tăng gia sản
xuất, đồng thời thực hành tiết kiệm, xây dựng
cơ sở cho tích lũy xã hội chủ nghĩa.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945,
nhân dân từ thân phận nô lệ thành thành phân
làm chủ đất nước, làm chủ cuộc sống, dân
tộc được độc lập, nhân dân được tự do. Tuy
nhiên, chính quyền non trẻ gặp rất nhiều khó
khăn, từ giặc ngoại xâm đến giặc đói, giặc
dốt, chính vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
giải quyết các thứ giặc này, trước hết là giặc
đói. “Hơn hai triệu đồng bào ta đã chết đói vì
chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá
hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo. Điều đó càng
làm cho tình trạng trầm trọng hơn. Những
người thoát chết đói nay cũng bị đói. Chúng
ta phải làm thế nào cho họ sống” (Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 4, 2011, tr.7). Vì vậy,
Người yêu cầu với Chính phủ phát động một
chiến dịch tăng gia sản xuất, cứu đói cho
nhân dân. Với chiến dịch này, năm 1946, nạn
đói cơ bản được giải quyết.
Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm,
theo Hồ Chí Minh “là hai việc then chốt để
khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa để cải
thiện đời sống của nhân dân, để củng cố
miền Bắc, tranh thủ miền Nam, để tăng
cường lực lượng đấu tranh thống nhất nước
nhà. Tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm là hai việc cần thiết nhất để phát triển
chế độ dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
10,2011, tr.545)
Tăng gia sản xuất được phát động trên
toàn quốc, trong mọi ngành của đời sống
kinh tế, xã hội. Theo Hồ Chí Minh, việc phát
triển kinh tế cần phải xuất phát từ thực tiễn,
nhu cầu và hoàn cảnh, điều kiện của Việt
Nam để xác định các ngành kinh tế nòng cốt.
Theo Người, Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế
với 3 ngành chính nông nghiệp - công nghiệp
và thương nghiệp. Ba mặt này có mối quan
hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên trong đó
Người đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của
sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Người
ví hai ngành này như hai chân của một con
người. Người viết “công nghiệp và nông
nghiệp như là hai chân của nền kinh tế nước
nhà. Chân phải thật vững thật khỏe, thì kinh
tế mới tiến bộ thuận lợi và nhanh chóng” (Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 10, 2011, tr.91)
Tăng gia sản xuất trong lĩnh vực nông
nghiệp: Xuất phát từ một nước nông nghiệp
lúa nước, Hồ Chí Minh đã xác định “nền
kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong
công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ chỉ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào
nông nghiệp một phần lớn” (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 4, 2011, tr.246).
Trong các ngành kinh tế, ngành nào theo
Hồ Chí Minh cũng quan trọng, nhưng trong
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
50
thời kỳ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc,
“quan trọng nhất là nông nghiệp, vì có thực
mới vực được đạo” (Hồ Chí Minh, Toàn tập,
tập 6, 2011, tr.212). Nước ta có truyền thống
làm lúa nước, nhiều kinh nghiệm quý báu
trong tăng gia sản xuất nông nghiệp, đặc biệt
nông dân chiếm đa số trong xã hội, phát triển
nông nghiệp có nhiều cơ hội. Cho nên,
Người kêu gọi, “nâng cao nông nghiệp là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn Chính phủ và
toàn dân” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10,
2011, tr.182). Muốn phát triển nông nghiệp,
đưa người nông dân theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, nông nghiệp
và nông thôn cần phải kinh qua hai cuộc cách
mạng. Đó là “cải cách ruộng đất là một cuộc,
cuộc thứ hai là từ chỗ thực hiện tổ đổi công,
hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ xã
hội hóa nông nghiệp”( Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 8, 2011, tr.181)
Đối với nhiệm vụ thứ nhất, ngay sau khi
giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã quyết
định chia lại ruộng đất cho nhân dân, tiến
hành cải cách ruộng đất. Bởi theo Người,
“muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân
chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết
thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị
của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông
dân” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, 2011,
tr.31). Cách mạng ruộng đất có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, giải quyết được nhiều vấn đề
về quân sự, kinh tế - tài chính, chính trị và
văn hóa. Nông dân có đất sẽ càng hăng hái
tham gia bộ đội để giữ làng, giữ nước, giữ
ruộng đất của mình, nông dân có đủ ăn, đủ
mặc tăng gia sản xuất được nhiều thì sẽ thúc
đẩy các ngành khác, nông dân hăng hái đóng
thuế nông nghiệp thì tài chính nhà nước cũng
được dồi dào. Khi nông dân đã có ruộng cày,
đầy cơm ăn, áo mặc thì văn hóa nhân dân sẽ
phát triển rất nhanh. Chính vì vậy, cải cách
ruộng đất giúp đồng bào ta càng hăng hái
trong tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm, từ đó đời sống của bà con nông dân
được cải thiện và nâng cao.
Đối với nhiệm vụ thứ hai, xây dựng các
hợp tác xã nông nghiệp, đưa nông dân từ sản
xuất nhỏ lẻ vào nền sản xuất hợp tác xã.
Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc tổ
chức hợp tác xã “là để cải thiện đời sống
nhân dân, làm cho nông dân được no ấm,
mạnh khỏe, được học tập, làm cho dân giàu
nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới mạnh.
Đó là mục đích riêng và mục đích chung của
việc xây dựng hợp tác xã” (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 12, 2011, tr.226). Nông dân
muốn giàu có, nông nghiệp muốn thịnh
vượng thì không thể không có hợp tác xã.
Hợp tác xã “là hợp vốn, hợp sức với nhau.
Vốn nhiều, sức mạnh thì khó nhọc ít mà ích
lợi nhiều” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4,
2011, tr.246). Nhưng muốn đưa người nông
dân vào hợp tác xã cần phải có những bước
đi, phương pháp thích hợp. Nông dân xuất
thân từ trong xã hội cũ, ít nhiều còn mang
dấu vết của người nông dân cá thể, chỉ một
thời gian ngắn sản xuất theo lối tập trung
chưa thể xóa bỏ ngay được tập quán sinh
hoạt, canh tác, ý thức tư hữu có từ hàng
nghìn năm, cho nên khi mỗi bước đi cần phải
cẩn trọng, phải cho thấy giá trị của công tác
đổi công và hợp tác xã, đưa người nông dân
từ sản xuất cá thể, sang tổ đổi công. Người
viết: “Đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của
Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân
làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mầm
mống xã hội chủ nghĩa), tiến lên hợp tác xã
cấp thấp (nửa xã hội chủ nghĩa), rồi tiến lên
hợp tác xã cấp cao (xã hội chủ nghĩa) (Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 12, 2011, tr.413).
Các tổ đổi công phải bình đẳng với nhau, làm
ăn có hiệu quả, trên cơ sở tự nguyện tham
gia, để nông dân thấy hiệu quả của nó, trên
cơ sở đó mở rộng tổ đổi công thành hợp tác
xã loại nhỏ. Tránh việc làm nhanh, làm ẩu,
không hiệu quả các hợp tác xã loại nhỏ, xây
dựng hợp tác xã phải thực sự thiết thực trong
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
51
sản xuất, nông dân chỉ tham gia các hợp tác
xã nhỏ này khi mắt thấy, tai nghe những giá
trị của nó. Khi người nông dân đã quen với
lối canh tác tập trung mới phát triển các hợp
tác loại nhỏ thành các hợp tác xã cấp cao,
đưa nông dân dần dần tiến vào con đường
hợp tác xã, cao hơn nữa là xây dựng các
nông trường quốc doanh quy mô lớn, tạo cơ
sở nền tảng để tích lũy, cải thiện đời sống
nông dân.
Tăng gia sản xuất trong lĩnh vực sản xuất
công nghiệp: Công nghiệp là một chân quan
trọng của nền kinh tế, một lĩnh vực không thể
thiếu trong con đường xây dựng lực lượng
sản xuất của xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí
Minh, đặc điểm quan trọng của nước ta trong
thời kỳ quá độ là “từ một nước nông nghiệp
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12,2011,
tr.411). Muốn làm được điều đó, nhiệm vụ
quan trọng nhất của chúng ta, theo Hồ Chí
Minh “là phải xây dựng nền tảng vật chất và
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” (Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 12, 2011, tr.411), không
còn cách nào khác phải tiến hành cách mạng
công nghiệp.
Bắt nguồn từ một đất nước nông nghiệp
lạc hậu, nông dân và thợ thủ công vẫn là
những người đang cung cấp lớn thức ăn, vật
dụng chính cho nhân dân, tuy nhiên họ vẫn
dùng những công cụ rất thô sơ để sản xuất,
như vậy không thể làm cho đời sống nhân
dân thật dồi dào, nâng cao được. Theo Hồ
Chí Minh, “đời sống nhân dân chỉ thật dồi
dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất
một cách thật rộng rãi” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 12, 2011, tr.445). Chúng ta dùng
máy móc trong cả công nghiệp và trong nông
nghiệp, máy móc sẽ giúp con người tăng
năng suất lao động, làm được những điều con
người không làm được. Do đó, phải có nhiều
máy móc, muốn có nhiều máy móc thì cần
phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra
máy móc, làm ra gang thép, than dầu
Nghĩa là, phải công nghiệp hóa. Người viết:
“Đó là con đường phải đi cho chúng ta: Con
đường công nghiệp hóa nước nhà” (Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 12, , tr.445)
Công nghiệp hóa là một việc làm rất lớn,
nhằm cung cấp máy móc, khoa học kỹ thuật
cho nền kinh tế, trong đó công nghiệp nặng
là nòng cốt. Theo Hồ Chí Minh, “Các ngành
công nghiệp làm ra máy móc, gang thép,
than, dầu, hóa chất gọi chung là công
nghiệp nặng. Công nghiệp nặng là đầu mối
để mở mang các ngành công nghiệp khác và
cung cấp máy móc cho nông nghiệp. Cho
nên, chưa có công nghiệp nặng thì chưa thể
gọi là công nghiệp hóa. Chưa có công nghiệp
nặng, thì chưa thể có một nền kinh tế tự chủ
và giàu mạnh được” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 12,2011, tr.450)
Để tiến hành công nghiệp hóa thành công,
phương châm được Hồ Chí Minh đưa ra đó
là sản xuất nhanh, nhiều, tốt, rẻ. Sản xuất
phải nhiều, “vì có làm ra nhiều của cải mới
có thể vừa tăng tích lũy vừa mở rộng sản
xuất, vừa nâng cao mức tiêu dùng của nhân
dân lao động” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
12, 2011, tr.500). Muốn sản xuất nhiều theo
Người phải có hai điều kiện. Một là phải có
nhiều người sản xuất và hai là, mỗi người
phải sản xuất được nhiều. Chúng ta phải cố
gắng sắp xếp để có thật nhiều người trực tiếp
sản xuất, đồng thời phải luôn luôn cố gắng
cải tiến kỹ thuật và giữ vững kỷ luật lao động
đển sản xuất được nhiều.
Sản xuất nhanh, theo Hồ Chí Minh, không
phải là chỉ cố gắng từng lúc, từng đợt. Nhanh
là phải “tiến bước không ngừng và bước sau
bao giờ cũng phải dài hơn, vững hơn bước
trước. Đó là tư tưởng cách mạng không
ngừng” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12,
2011, tr.501). Muốn tiến nhanh, theo Người
cũng phải có hai điều kiện: “một là không
ngừng cải tiến công tác; hai là, lúc nào cũng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
52
phải làm bước trước chuẩn bị cho bước sau,
làm hôm nay chuẩn bị cho ngày mai. Không
làm như vậy thì chỉ tiến lên được từng bước
ngắn, rồi ngừng lại. Bởi vậy, những người
lao động xã hội chủ nghĩa, không thể chỉ biết
làm việc cần cù, mà còn phải có tinh thần cải
tiến công tác không ngừng và chủ động tính
trước, lo xa mọi việc. Như vậy mới thật đúng
là người làm chủ nước nhà” (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 12, 2011, tr.502)
Sản xuất tốt, là phải chú trọng đến chất
lượng. Bởi theo Người, “chúng ta thi đua làm
nhiều, làm nhanh là cốt tăng nhanh mức sống
của nhân dân lao động và tăng nhanh tích lũy
để xây dựng công nghiệp, mở mang kinh tế.
Cho nên, nhiều, nhanh phải đi đôi với tốt, rẻ.
Nếu chỉ vì nhiều, nhanh mà không nghĩ đến
tốt, rẻ thì kết quả cuối cùng vẫn là không
nhiều, không nhanh” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 12, 2011, tr.543)
Sản xuất phải rẻ, theo Người, nếu làm
nhiều, làm nhanh, làm tốt nhưng lại không rẻ
thì rốt cuộc vẫn không đạt được mục đích
tăng nhanh mức sống của nhân dân và tăng
nhanh tích lũy để xây dựng công nghiệp, mở
mang kinh tế, hàng hóa mà đắt, nhân dân
cũng không có tiền để mua được. Do đó, phải
sản xuất ra hàng hóa rẻ mà chất lượng. Khi
sản xuất, theo Người phải ra câu hỏi “Có thể
dùng ít nguyên liệu, vật liệu mà hàng vẫn tốt
không? Có thể dùng những nguyên liệu
tương đối, rẻ thay thế những nguyên liệu
tương đối đắt, hoặc dùng những thứ sẵn có ở
gần để thay thế những thứ phải chở từ xa tới
không? Có thể sửa đổi quy cách một số hàng
để tiết kiệm nguyên liệu hơn nữa hay
không?” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
12,2011, tr.515). Muốn làm được hàng rẻ,
theo Người có hai cách: tăng năng suất lao
động, tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, hay là
tiết kiệm vốn. Và, cách thứ hai là làm cho
vốn quay vòng nhanh. Người lý giải, khi bỏ
vốn vào sản xuất - làm ra hàng hóa - bán
hàng hóa, thu vốn về - lại bỏ vốn vào sản
xuất là quy trình quay vòng của vốn. Biết
làm cho vốn quay vòng nhanh thì có ít vốn
mà dùng được nhiều lần, nên sản xuất được
nhiều, và rẻ.
Trong lĩnh vực thương nghiệp: Theo Hồ
Chí Minh, thương nghiệp “là cái khâu giữa
nông nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp
đưa hàng hóa đến nông thôn phục vụ nông
dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên
liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu thương
nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông
nghiệp và công nghiệp, không củng cố được
công nông liên minh” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 10, 2011, tr.336). Chính vì lý do đó,
muốn phát triển kinh tế, trước hết phải phát
triển các ngành kinh tế trọng điểm: nông
nghiệp - công nghiệp - thương nghiệp.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành
tiết kiệm, tích lũy xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế nói chung, tăng gia sản
xuất nói riêng, Hồ Chí Minh cho rằng đó là
một việc rất lớn, phải có nhiều vốn. Nhưng,
vốn lấy ở đâu? Hồ Chí Minh nghiên cứu kinh
tế các nước tư bản chủ nghĩa, nhận thấy,
“muốn có vốn thì các nước tư bản dùng 3
cách: vay mượn nước ngoài, ăn cướp của các
thuộc địa, bóc lột công nhân, nông dân.
Nhưng cách đó chúng ta đều không thể làm
được. Chúng ta chỉ có cách là một mặt tăng
gia sản xuất, một mặt là phải tiết kiệm để tích
trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế của ta” (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 7, 2011, tr.352). Trên cơ sở đó,
Hồ Chí Minh đưa ra tư tưởng về thực hành
tiết kiệm và tích lũy xã hội chủ nghĩa.
Về thực hành tiết kiệm, được Hồ Chí
Minh nhấn mạnh trong nhiều bài nói, bài
viết, đây là tư tưởng đặc biệt quan trọng song
hành cùng tăng gia sản xuất. Kiệm là một
trong bốn đức tính cần có của con người “cần
- kiệm - liêm chính - chí công vô tư” như một
trong bốn mùa của trời, bốn phương của đất.
Muốn phát triển kinh tế không chỉ cần cù,
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
53
chịu khó làm việc, còn cần phải tiết kiệm. Có
tiết kiệm thì mới có vốn để sản xuất. Theo
Hồ Chí Minh, “Kiệm là tiết kiệm, không xa
xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” (Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 6, 2011, tr.123). Tiết
kiệm có các loại: tiết kiệm sức lao động, tiết
kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của. Tiết kiệm
sức lao động là việc gì trước kia phải dùng
10 người nay ta phải tổ chức sắp xếp cho
khéo, phải nâng cao năng suất của mỗi
người, nhờ vậy mà chỉ cần dùng 5 người
cũng làm được. Tiết kiệm thời gian là việc gì
trước phải làm 2 ngày, nay vì tổ chức sắp xếp
khéo, năng suất cao, ta có thể làm trong 1
giờ. Theo Người, thời gian cũng phải tiết
kiệm như tiết kiệm của cải. Bởi “của cải nếu
hết, còn có thể làm thêm. Khi thời gian đã
qua rồi, thì không bao giờ kéo nó trở lại
được” và “muốn tiết kiệm thời giờ, thì việc gì
ta cũng phải làm cho nhanh chóng, mau lẹ.
Không nên chậm rãi, không nên “nay lần mai
nữa” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, 2011,
tr.123). Tiết kiệm tiền của là việc gì trước
phải dùng nhiều người, nhiều thời gian, phải
tốn nhiều tiền của, thì nhờ tiết kiệm có thể sẽ
dùng ít tiền của hơn. Nói tóm lại, “Chúng ta
phải tìm cách tổ chức sắp đặt cho hợp lý, để
một người có thể làm việc như hai người,
một ngày có thể làm việc của hai ngày, một
đồng có thể dùng bằng hai đồng” (Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 7, 2011, tr.353)
Về tích lũy xã hội chủ nghĩa: Hồ Chí
Minh khẳng định chúng ta không thể đi theo
con đường như các nước tư bản đã tiến hành
trong việc tạo vốn cho phát triển kinh tế xã
hội. Theo Người, “con đường chung của
chúng ta, con đường chung của các nước xã
hội chủ nghĩa, là lấy sự dành dụm của mình
làm nguồn vốn để xây dựng công nghiệp”
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, 2011,
tr.452). Dành dụm là tiết kiệm, nhưng tiết
kiệm không phải chỉ là một, hai người, hay
một vài tổ chức, mà là tiết kiệm toàn xã hội,
sự dành dụm to lớn ấy là quá trình tích lũy xã
hội chủ nghĩa.
Tích lũy xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí
Minh “là sự dành dụm chung của cả nước”
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, 2011,
tr.452). Nó là hoạt động có thể thực hiện
được, bắt nguồn từ thói quen tiết kiệm của
nhân dân ta. Theo Hồ Chí Minh, từ bao đời
nhân dân ta vẫn mong sao cho có cái “của ăn,
của để”, cho nên mỗi người, mỗi gia đình
nhận thấy cần thiết phải tiết kiệm, để làm cho
đời sống được ổn định. Tuy nhiên, nếu chỉ
dành dụm riêng rẽ đó, thì đời sống nhân dân
lao động cũng chỉ “giẫm chân một chỗ”,
không thể nào tiến bộ và vươn lên được.
Nhân dân cần phải có một sự dành dụm to
lớn hơn nữa, tiết kiệm trên quy mô rộng hơn
nữa, đó là tiết kiệm toàn quốc, hay là sự tích
lũy xã hội chủ nghĩa.
Tích lũy xã hội chủ nghĩa nhưng đồng thời
phải biết chi tiêu cho đúng. Theo Hồ Chí
Minh, chi tiêu có hai hướng chi tiêu. Một bên
là chi tiêu trực tiếp cho sản xuất, như xây
dựng nhà máy, hầm mỏ, nông trường, thủy
lợi một bên là chi tiêu cho những hoạt động
không sản xuất trực tiếp như nhà trường, y tế,
nhà ở. Giữa hai bên này, theo Người, “những
việc không sản xuất cũng cần thiết, cũng cần
được chú ý đúng mức. Nhưng chúng ta phải
luôn luôn đặt việc chi tiêu cho sản xuất lên
trên hết. Vì vốn dùng vào sản xuất thì sinh sôi
nảy nở, mang lại nguồn no ấm ngày càng dồi
dào cho nhân dân lao động. Còn vốn dùng
vào những việc không sản xuất thì không trực
tiếp có tác dụng như thế” (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 12, 2011, tr.464)
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham
ô, quan liêu, lãng phí trong tăng gia sản
xuất, tích lũy xã hội chủ nghĩa
Tăng gia sản xuất, tích lũy xã hội chủ
nghĩa phải đi đôi với việc chống những tệ
nạn tiêu cực, tham ô, quan liêu, lãng phí. Hồ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
54
Chí Minh gọi những tệ nạn này là “giặc nội
xâm”, những thứ giặc trong lòng.
Theo Hồ Chí Minh, những tệ nạn này
không khác giặc ngoại xâm, nó chỉ chờ đợi
cơ hội để sinh sôi nảy nở, làm hại đến công
việc của ta. Người viết: “muốn lúa tốt thì
phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, dù cày bừa
kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ
át đi. Muốn thành công trong tăng gia sản
xuất và tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch,
nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí
và bệnh quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ làm
hại đến công việc của ta” (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, t.7, 2011, tr.355)
Tham ô, là ăn cắp của công làm của tư,
đục khoét nhân dân, ăn bớt của bộ đội. Đó là
bệnh tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của
chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho
bản thân. Người nói: “Ai cũng biết tham ô là
xấu. Tham ô là gì? Là ăn cắp của công, của
riêng của người ta, hay của nhân dân. Ăn cắp
thì ai cũng biết là xấu. Không ai khoe là đã
ăn cắp vì biết nó xấu. Trong xã hội đế quốc,
tư bản, phong kiến, người không ăn cắp,
tham ô rất ít. Không nhiều thì ít đều có cả”
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.8, 2011, tr.5)
Lãng phí là lãng phí của dân, dân đã làm
đổ mồ hôi, rơi nước mắt mới nộp cho chính
phủ. Do đó, lãng phí là có tội với nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, lãng phí có nhiều cách:
lãng phí sức lao động, lãng phí tiền của, lãng
phí thời gian.
Giữa tham ô và lãng phí, theo Người,
“Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không
lấy của công đút túi, song kết quả rất tai hại
cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi hại hơn
cả tham ô” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7,
2011, tr.357)
Nguyên nhân của tham ô, lãng phí là bởi
có tệ nạn quan liêu. Theo Hồ Chí Minh,
“nguyên nhân của bệnh này là vì xa quần
chúng, không hiểu biết dân chúng, không học
hỏi dân chúng, sợ quần chúng phê bình” (Hồ
Chí Minh, Toàn tập, t.6, 2011, tr.433).
Những người này không theo sát công việc
thực tế, không theo dõi, giáo dục cán bộ,
không gần gũi quần chúng. Đối với công việc
thì trọng hình thức mà không xem xét mọi
mặt, không vào sâu vấn đề, không kiểm tra
đến nơi, đến chốn.
Biểu hiện của bệnh quan liêu được thể
hiện qua nhiều vẻ khác nhau, với nhiều đối
tượng khác nhau. Đối với người khác, người
mắc bệnh quan liêu “chỉ biết dùng mệnh
lệnh, không biết giải thích tuyên truyền,
không biết làm cho dân chúng tự giác và tự
động”, đối với việc, người mắc bệnh này
thường chỉ biết khai hội, viết nghị quyết, ra
chỉ thị chứ không biết điều tra thực tiễn,
nghiên cứu, giúp đỡ, khuyến khích kiểm tra
công việc. Đặc biệt đối với bản thân, họ
thường “làm việc gì cũng kềnh càng, chậm
rãi, làm cho qua chuyện. Nói một đằng làm
một nẻo, chỉ biết lo cho mình, không quan
tâm đến nhân dân, đến đồng chí, trước mặt
dân lại lên mặt “quan cách mạng” (Hồ Chí
Minh, Toàn tập, t.6,2011, tr.434)
Biện pháp để giải quyết được bệnh quan
liêu: Theo Hồ Chí Minh “mỗi khi làm việc gì
cần đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước
hết, phải gần gũi nhân dân, hiểu biết dân, học
hỏi dân, thực thà phê bình và tự phê bình,
phải gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, t.6, 2011, tr.434)
2.4. Mối quan hệ giữa tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm, và chống tham ô, quan
liêu, lãng phí
Trong quá trình lãnh đạo đất nước xây
dựng thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
mối quan hệ giữa tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, và chống tham ô, quan liêu,
lãng phí.
Thứ nhất, tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Tăng gia sản xuất đòi hỏi phải cần cù, chịu
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
55
khó, làm ra hàng hóa cho mau, cho tốt, cho
nhiều, nhưng phải thi đua tiết kiệm, không
lãng phí, phải quý trọng của công. Theo
Người, “Nếu chỉ kiệm thì sản xuất được ít,
không đủ dùng. Nếu Cần mà không Kiệm
thì làm chừng nào, xào chừng ấy, kết quả là
không lại hoàn không. Cho nên Cần và
Kiệm là như tay phải và tay trái. Hai tay
không thể thiếu một” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 7, 2011, tr.333). Nếu khéo tiết kiệm
sức người, tiền của và thời gian, thì chúng ta
có thể “tăng gia sản xuất gấp bội, mà lực
lượng của ta về mọi mặt cũng tăng gấp bội.
Đó là một sự thực chắc chắn, chứ không
phải lý luận cao xa” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 7, 2011, tr.355)
Thứ hai, tăng gia sản xuất đặt trong mối
quan hệ với thực hành tiết kiệm và tích lũy xã
hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, “nguồn
tích lũy xã hội chủ nghĩa là sự đóng góp của
các tầng lớp nhân dân, và những món lợi do
các ngành kinh tế quốc dân đem lại. Cho nên,
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân khác càng cố gắng thi đua tăng gia sản
xuất và thực hành tiết kiệm, thì tích lũy xã
hội chủ nghĩa tăng lên. Tích lũy xã hội chủ
nghĩa tăng nhanh thì sự nghiệp công hóa
nước nhà sẽ tiến nhanh, và đời sống của mọi
người sẽ chóng được no ấm, đầy đủ” (Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 12, 2011, tr.452). Mục
đích của tích lũy xã hội chủ nghĩa không có
gì khác là để mở mang kinh tế, xây dựng
công nghiệp, xây dựng đời sống ngày càng
ấm no cho nhân dân lao động.
Thứ ba, không chỉ tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, tích lũy xã hội chủ nghĩa mà
đồng thời phải chống lại các thứ giặc “nội
xâm” tham ô, quan liêu, lãng phí. Ba căn
bệnh “nội xâm” này là kẻ thù của nhân dân,
của bộ đội và của Chính phủ. Theo Hồ Chí
Minh, đây là kẻ thù nguy hiểm, bởi vì nó
không mang gươm mang súng, mà nó nằm ở
trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công
việc của ta. Dù cố ý hay không “nó cũng là
bạn đồng minh của thực dân, phong kiến”
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7, 2011, tr.358).
Bởi nó làm chậm công việc của ta, làm hỏng
tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của
cán bộ ta, nó phá hoại đạo đức cách mạng
của ta. Tội lỗi này, theo Hồ Chí Minh, cũng
giống như tội lỗi Việt gian, mật thám. Vì lẽ
đó, trong quá trình phát triển kinh tế, tăng gia
sản xuất phải đặc biệt chú ý đến chống tham
ô, lãng phí và bệnh quan liêu, xem đây là một
công việc cần kíp như đánh giặc. Đây được
xem là mặt trận tư tưởng và chính trị.
Muốn tiêu diệt được 3 căn bệnh này phải
có sự chuẩn bị, có kế hoạch, tổ chức và phải
có lãnh đạo và sự trung kiên. Theo Hồ Chí
Minh, trước tiên, phải đả thông tư tưởng.
Lãnh đạo các tổ chức, đơn vị phải giải thích
rõ ràng, nói đi nói lại cho mọi người hiểu ba
thứ giặc nội xâm ấy là gì, vì sao phải chống
những nạn ấy, để loại bỏ những tư tưởng sai
lầm và củng cố tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên. Thứ hai, phải tổ chức cho cán bộ học
tập, nghiên cứu, thực thà tự phê bình, và phê
bình người khác để xem bản thân và mọi
người có tham ô, lãng phí, quan liêu hay
không, phải thực sự thật thà, phải “đào tận
gốc rễ những khuyết điểm, không nên thoa
vẽ, không nên ít thít ra nhiều, cũng càng
không nói việc nhỏ bỏ việc lớn, nói việc cũ
quên việc mới” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7,
2011, tr.360). Thứ ba, các đơn vị hay cơ quan
tiến hành phê bình, đánh giá chung cho đơn
vị mình, để giải thích các thắc mắc sửa chữa
những khuyết điểm của mọi người, khen
ngợi những người có tinh thần tích cực trong
phong trào phòng chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, đặt chương trình chung cho từng
đơn vị trong tương lai. Nhìn chung, trong
phong trào tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ
Chí Minh, cho rằng “giáo dục là chính, trừng
phạt là phụ” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7,
2011, tr.361)
Chống lại ba thứ giặc này cũng là một
cuộc cách mạng khó khăn, lâu dài. Mặc dù
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
56
thực dân và phong kiến tuy đã bị tiêu diệt,
nhưng cái nọc xấu của nó thì vẫn còn, điều
ấy có nghĩa cách mạng chưa hoàn toàn thành
công, vì “nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở,
ngấm ngầm phá hoại sự nghiệp xây dựng đấu
tranh của cách mạng” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, t.7, 2011, tr.361). Được biểu hiện ở chỗ,
có những người trong lúc đấu tranh cách
mạng thì hăng hái, trung thành, không sợ
nguy hiểm, không sợ khổ cực, không sợ quân
địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song
khi có ít nhiều quyền lực trong tay thì đâm ra
kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí,
quan liêu biến thành người có tội với cách
mạng. Hoặc có những người bị vật chất cám
dỗ mà phạm vào các thứ giặc này, cho nên
theo Hồ Chí Minh, “chúng ta phải giáo dục
họ, đưa họ vào con đường cách mạng” (Hồ
Chí Minh, Toàn tập, t.7,2011, tr.361). Những
căn bệnh này là những cái thứ xấu xa của xã
hội cũ, nó do lòng tự tư tự lợi ích kỷ hại nhân
mà ra, nó do chế độ người bóc lột người mà
ra. Do đó, nếu “chúng ta muốn xây dựng một
xã hội mới tốt đẹp, bình đẳng, một xã hội
cần, kiệm, liêm, chính thì chúng ta phải tẩy
chay sạch sẽ hết những thói xấu của xã hội
cũ” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7,2011,
tr.362). Cho nên, chống tham ô, lãng phí,
quan liêu cũng là một cuộc cách mạng.
3. Kết luận
Ngay từ khi Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước đã mang ý nguyện cứu dân,
giúp nước, thoát khỏi cảnh lầm than, đưa
nhân dân từ thân phận nô lệ lên làm chủ xã
hội, chủ đất nước. Sau khi giành chính
quyền, Hồ Chí Minh chỉ đạo trực tiếp công
cuộc kháng chiến, kiến quốc, cốt làm sao để
dân có cái ăn, cái mặc, được học hành và
ngày càng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Muốn khắc phục
giặc đói, sự tàn phá của chiến tranh, nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu là phải tích cực tăng
gia sản xuất. Tăng gia sản xuất tạo điều kiện
giúp chúng ta thoát khỏi giặc đói, kết hợp
với thực hành tiết kiệm gây cơ sở cho việc
tích lũy xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, mục
tiêu chỉ đạt được khi đồng bộ các nhiệm vụ
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với
chống tệ tham ô, nạn quan liêu, lãng phí. Đó
là hệ thống các quan điểm toàn diện, hệ
thống và logic của Hồ Chí Minh về phát
triển kinh tế. Đó cũng là những chỉ dẫn quan
trọng của Hồ Chí Minh đối với Đảng và
nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Tập 3, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Tập 4, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Tập 6, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Tập 7, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Tập 8, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Tập 10, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Tập 12, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_giua_tang_gia_san_xuat_thuc_hanh_tiet_kiem_tich.pdf