- Cân nặng khi ra viện thấp hơn trước khi
mổ, 98,1% bệnh nhân có sụt cân. BMI trước mổ
20,08 còn BMI ra viện 19,06 khác nhau có ý nghĩa
thống kê (p 0,0014).
- Prealbumin trung bình sau mổ là 13,03 ±
4,80 mg/dL sụt giảm rõ rệt so với prealbumin
trước mổ 20,86 ± 7,98 mg/dL (p < 0,0001).
- CRP sau mổ trung bình là 126,01 ± 76,54
ng/mL, giữa 2 nhóm trung phẫu và đại phẫu
nồng độ CRP khác biệt không có ý nghĩa
(p=0,6570).
Các kết quả sau mổ và SGA
- Có 49 trường hợp có biến chứng chiếm
23,4%, trong đó: 15 trường hợp xì rò (7,2%); 32
trường hợp nhiễm trùng vết mổ (15,3%) và 10
trường hợp biến chứng khác (4,8%). Một số
trường hợp có hơn 2 biến chứng đi kèm.
- Có 1 trường hợp tử vong chiếm 0,5%.
- Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình
9,9 ± 5,7 ngày, ngắn nhất là 2 ngày dài nhất 54
ngày. Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời
gian nằm viện giữa nhóm suy dinh dưỡng và
dinh dưỡng tốt không có ý nghĩa thống kê (p =
0,089). Ở nhóm đại phẫu thời gian nằm viện
khác nhau giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê
(p < 0,0001).
- Những bệnh nhân đại phẫu có suy dinh
dưỡng (theo SGA) có nguy cơ xì rò cao gấp 2,9
lần nhóm có dinh dưỡng tốt. Bệnh nhân dinh
dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao
gấp 3,9 lần ở nhóm đại phẫu và 1,8 lần ở nhóm
trung phẫu so với người có dinh dưỡng tốt.
19 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối tương quan giữa tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BMI
Đánh giá SGA (%)
Tổng
A B C
Thiếu cân 10 (10,2) 46 (52,9) 19 (79,2) 75 (35,9)
Bình thường 77 (78,6) 38 (43,7) 4 (16,7) 119 (56,9)
Thừa cân 10 (10,2) 2 (2,3) 1 (4,2) 13 (6,2)
Béo phì 1 (1,0) 1 (1,1) 0 (0,0) 2 (1,0)
Tổng 98 (100) 87 (100) 24 (100) 209 (100)
p < 0,0001
Liên quan giữa SGA và phân loại bệnh
Bảng 9: liên quan giữa SGA và các loại bệnh
Loại bệnh
Đánh giá SGA (%)
Tổng
A B C
Gan 4 (4,1) 0 (0,0) 1 (4,2) 5 (2,4)
Lách 10 (10,2) 4 (4,6) 3 (12,5) 17 (8,1)
Mật 68 (69,4) 49 (56,3) 9 (37,5) 126 (60,3)
Tụy 16 (16,3) 34 (39,1) 11 (45,8) 61 (29,2)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 390
Loại bệnh
Đánh giá SGA (%)
Tổng
A B C
Tổng 98 (100) 87 (100) 24 (100) 209 (100)
p = 0,002
Liên quan giữa SGA và phân nhóm albumin
Bảng 10: liên quan giữa SGA và phân nhóm albumin
Phân nhóm
Albumin (g/dL)
Đánh giá SGA (%)
Tổng (%)
A B C
< 3 1 (1,0) 7 (8,1) 5 (20,8) 13 (6,3)
3 – 3,5 3 (3,1) 9 (10,5) 5 (20,8) 17 (8,2)
> 3,5 93 (95,9) 70 (81,4) 14 (58,4) 177 (85,5)
Tổng 97 (100) 86 (100) 24 (100) 207 (100)
p < 0,0001
Liên quan giữa SGA và phân nhóm
prealbumin
Bảng 11: liên quan giữa SGA và phân nhóm
prealbumin
Phân nhóm
Prealbumin
Đánh giá SGA (%)
Tổng (%)
A B C
< 10 mg/dL 3 (3,1) 5 (6,0) 3 (13,1) 11 (5,5)
10 – 20 mg/dL 33 (35,4) 44 (53,0) 13 (56,5) 90 (45,0)
> 20 mg/dL 60 (61,5) 34 (41,0) 7 (30,4) 101 (49,5)
Tổng 96 (100) 83 (100) 23 (100) 202 (100)
p = 0,012
Liên quan giữa SGA và giá trị trung bình
albumin, prealbumin trước mổ
Bảng 12: liên quan giữa SGA và giá trị trung bình
albumin, prealbumin trước mổ
Xét nghiệm Đánh giá SGA Chung
A B C
Albumin (g/dL) 4,36 ± 0,53 4,06 ±
0,72
3,72 ±
1,03
4,16 ±
0,72
p < 0,0001 (ANOVA)
Prealbumin
trước mổ
(mg/dL)
22,93 ± 8,21 19,27 ±
6,13
17,98 ±
10,70
20,86 ±
7,98
p = 0,001 (ANOVA)
Kết quả sau mổ:
Thay đổi cân nặng khi ra viện
Bảng 13: Thay đổi cân nặng khi ra viện
Thay đổi cân nặng Số TH Tỷ lệ (%)
Tăng cân 10 5,1
Sụt cân 179 91,8
Không đổi 6 3,1
Tổng 209 100
Cân nặng trước mổ và khi ra viện
Bảng 14: so sánh cân nặng trước mổ và khi ra viện
Nhóm Cân nặng trung bình
Trước mổ Khi ra viện
Nhóm trung phẫu N = 142 N = 130
48,68 ± 9,30 46,23 ± 9,16
p = 0,0324
Nhóm đại phẫu N = 67 N = 58
49,78 ± 7,30 46,86 ± 7,16
p < 0,0263
Biểu đồ 1: sự phân bố tần số của prealbumin theo nhóm trước và sau mổ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 391
BMI trước khi mổ và khi ra viện
Bảng 15: BMI trước mổ và khi ra viện
Biến số Số TH Trung bình ± độ
lệch chuẩn
Nhỏ nhất Lớn nhất
BMI 209 20,08 ± 3,14 13,15 33,78
BMI ra viện 188 19,06 ± 3,19 12,57 30,61
p = 0,0014
Thay đổi Prealbumin sau mổ
Bảng 16: Thay đổi Prealbumin sau mổ
Prealbumin
(mg/dL)
Tần
số (n)
Trung bình ± độ
lệch chuẩn
KTC 95%
Trước mổ 202 20,86 ± 7,98 19,75 – 21,97
Sau mổ 184 13,03 ± 4,80 12,33 – 13,73
p < 0,0001
Thay đổi CRP sau mổ
Bảng 17: Thay đổi CRP sau mổ
CRP (ng/mL) Tần số
(n)
Trung bình ±
độ lệch chuẩn
KTC 95%
Nhóm trung phẫu 122 124,02 ± 67,44 111,94 – 136,11
Nhóm đại phẫu 63 129,87 ± 82,13 106,66 – 153,07
p = 0,6570
Biến chứng sau mổ
Bảng 18: Biến chứng sau mổ
Loại biến chứng Số TH Tỷ lệ (%)
Xì rò 15 7,2
Nhiễm trùng vết mổ 32 15,3
Khác (chảy máu sau mổ, viêm phổi;
nhiễm trùng tiểu; viêm tụy cấp; loét
da])
10 4,8
Tử vong sau mổ (trong thời gian nằm viện hậu
phẫu)
Bảng 19: tỷ lệ tử vong trong lúc nằm viện sau mổ
Tử vong Số TH Tỷ lệ (%)
Có 1 0,5
Không 208 99,5
Tổng 209 100
Một số kết quả khác sau mổ
Bảng 20: Một số kết quả sau mổ
Biến số Số
lượng
Trung bình ±
độ lệch chuẩn
Nhỏ
nhất
Lớn
nhất
Thời gian nằm viện
hậu phẫu 209 9,9 ± 5,7 2 54
Thời gian bắt đầu cho
ăn miệng 209 2,2 ± 1,5 1 8
Prealbumin sau mổ
(mg/dL) 184 13,03 ± 4,79 3,00 32,30
CRP (ng/mL) 185 126,01 ± 76,54 2,50 556,00
Thời gian bắt đầu cho ăn và phân loại phẫu thuật
Bảng 21: so sánh thời gian bắt đầu cho ăn và các
nhóm phẫu thuật
Thời gian bắt đầu
cho ăn
Nhóm trung
phẫu (%)
Nhóm đại
phẫu (%)
Tổng (%)
Cho ăn sớm 116 (81,7) 23 (34,3) 139 (66,5)
Không cho ăn sớm 26 (18,3) 44 (65,7) 70 (33,5)
Tổng 142 (100) 67 (100) 209 (100)
p < 0,0001
Suy dinh dưỡng và thời điểm bắt đầu cho ăn
sau mổ
Bảng 22: so sánh thời gian cho ăn sau mổ với phân
loại SDD
Biến số Dinh dưỡng kém Dinh dưỡng tốt
Không cho ăn sớm 48 22
Cho ăn sớm 63 76
Tổng 111 98
Nguy cơ không cho
ăn sớm
48/111 (43,2%) 22/98 (22,4%)
p = 0,0015
Nhóm RR KTC 95%
RR thô 1,9 1,3 – 2,9
Nhóm trung phẫu 4,9 1,8 – 13,5
Nhóm đại phẫu 1,2 0,9 – 1,8
p = 0,0004 (Mantel-Haenszel)
Liên quan giữa SGA và kết quả sau mổ
SGA và thời gian nằm viện hậu phẫu
Bảng 23: liên quan giữa SGA và thời gian nằm viện
hậu phẫu
Thời gian nằm viện
hậu phẫu (ngày)
Đánh giá SGA
Chung
A B C
Nhóm trung phẫu 8 ± 4 9 ± 5 10 ± 6 9 ± 4
p = 0,089 (ANOVA)
Nhóm đại phẫu 10 ± 4 14 ± 9 15 ± 7 12 ± 7
p < 0,0001(ANOVA)
Suy dinh dưỡng và xì rò
Bảng 24: Liên quan giữa SDD và xì rò
Biến số Dinh dưỡng kém Dinh dưỡng tốt
Có xì rò 12 3
Không xì rò 99 95
Tổng 111 98
Nguy cơ xì rò (%) 12/111 (10,8%) 3/98 (3,1%)
p = 0,0303
Nhóm RR KTC 95%
Chung 3.5 1,0 – 12,2
Nhóm trung phẫu Không có Không có
Nhóm đại phẫu 2,9 0,7 – 9,5
p = 0,0255 (Mantel – Haenszel)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 392
Suy dinh dưỡng và nhiễm trùng vết mổ
Bảng 25: Liên quan giữa SDD và nhiễm trùng vết
mổ
Biến số
Dinh dưỡng
kém
Dinh dưỡng
tốt
Có nhiễm trùng vết mổ 23 9
Không nhiễm trùng vết mổ 88 89
Tổng 111 98
Nguy cơ nhiễm trùng (%)
23/111
(20,7%)
9/98 (9,2%)
p = 0,0208
Nhóm RR KTC 95%
Chung 2,3 1,1 – 4,6
Nhóm trung phẫu 1,8 0,8 – 4,2
Nhóm đại phẫu 3,9 0,9 – 16,6
p = 0,3641 (Mantel – Haenszel)
Suy dinh dưỡng và các biến chứng khác
Bảng 26: liên quan giữa SDD và các biến chứng khác
Biến số Dinh dưỡng
kém
Dinh dưỡng
tốt
Có biến chứng khác 5 5
Không có biến chứng khác 106 93
Tổng 111 98
Nguy cơ có biến chứng khác 5/111 (4,5%) 5/98 (5,1%)
p = 0,8399
Nhóm RR KTC 95%
RR thô 0,9 0,3 – 3,0
Nhóm trung phẫu 0,67 0,2 – 2,9
Nhóm đại phẫu 1,7 0,2 – 18,1
p = 0,5036 (Mantel - Haenszel)
BÀN LUẬN
Đặc điểm trước mổ
Tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, BMI
Xét về đặc điểm dân số nghiên cứu, nghiên
cứu của chúng tôi có nhiều điểm tương đồng
với nghiên cứu của Lưu Ngân Tâm và cs (năm
2009) và của Nguyễn Thùy An (năm 2010). Độ
tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 49,6
còn của Nguyễn Thùy An là 53,7. Chiều cao
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là
1,57m so với 1,59 của Lưu Ngân Tâm và 1,56
m của Nguyễn Thùy An(19, 24). Cân nặng trung
bình cũng gần tương đương (49,02 so với 49,05
kg của Nguyễn Thùy An)(24). Sự tương đồng
này là do chúng tôi và các tác giả Nguyễn
Thùy An và Lưu Ngân Tâm cùng tiến hành
nghiên cứu tại một bệnh viện (bệnh viện Chợ
Rẫy), nhóm dân số chọn mẫu tương tự chỉ
khác nhau về thời điểm và quy mô nghiên
cứu. Mẫu của chúng tôi là 209 gần gấp đôi của
Nguyễn Thùy An (n = 104), trong khi mẫu của
Lưu Ngân Tâm là 710 trường hợp nhưng bao
gồm nhiều chuyên khoa, số bệnh nhân ngoại
tổng quát chỉ là 18 trường hợp.
Về chỉ số BMI trung bình của nghiên cứu
chúng tôi là 20,08, của Nguyễn Thùy An là
20,32(24). Kết quả này cũng gần giống của Lưu
Ngân Tâm (2009) là 20,83. Sơ bộ nhận xét, tình
trạng thể chất của bệnh nhân nằm viện ở Việt
Nam gần như nhau.
Về tình trạng cân nặng 6 tháng trước khi
vào viện và hiện nay, chúng tôi nhận thấy có
sự khác biệt rõ (53,61 kg so với 49,02 kg), có ý
nghĩa thống kê (p < 0,0001). Rõ ràng là trong
vòng 6 tháng bệnh nhân có hiện tượng sụt cân
vì người bệnh đa phần đều để ý đến sự sụt
cân của mình và nhớ khá chính xác con số cân
nặng 6 tháng trước. Một số bệnh nhân không
nhớ rõ cân nặng nhưng có thể thấy được sự
gầy mòn đi rõ rệt của mình.
Phân loại bệnh
Vì mẫu nghiên cứu thực hiện tại khoa Ngoại
Gan mật tụy, chúng tôi có 4 nhóm bệnh về: gan,
lách, mật, tụy. Trong đó đa số là bệnh về đường
mật (túi mật, đường mật chính) chiếm 60,3%,
tiếp theo là nhóm bệnh về tụy (29,2%), nhóm
bệnh lách chiếm 8,1% trong khi gan chỉ chiếm
2,4%. Kết quả này gần giống với báo cáo của
Nguyễn Thùy An: 65,4% bệnh mật, 24% bệnh
tụy và 10, 6% bệnh gan (tác giả không thu thập
các bệnh lách)(24). Kết quả này cho thấy, phân bố
bệnh tật của khoa Gan mật tụy không có nhiều
thay đổi qua 2 năm 2010 và 2011.
Phân nhóm phẫu thuật
Phân nhóm phẫu thuật là một khó khăn cho
chúng tôi vì hiện có nhiều quan điểm về phân độ
nặng nhẹ, lớn nhỏ của phẫu thuật và cũng chưa
có một quy định nào thống nhất(7, 27). Tối ưu nhất
khi phân nhóm là chọn những bệnh nhân được
làm cùng loại phẫu thuật vào một nhóm và sẽ có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 393
nhiều nhóm. Nhưng làm như vậy thì việc chọn
mẫu sẽ rất khó khăn để chọn được bệnh nhân
thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu (do phải bắt cặp
bệnh nhân). Để thuận lợi cho việc nghiên cứu,
chúng tôi xếp các loại phẫu thuật vào hai nhóm:
trung phẫu và đại phẫu theo tiêu chí đã nêu. Về
những bệnh nhân được mổ nội soi, sau khi khảo
sát lại số liệu chúng tôi nhận thấy đa số các
trường hợp đều nằm trong nhóm trung phẫu
theo kiểu phân nhóm của chúng tôi (cắt túi mật,
cắt chỏm nang gan, cắt lách, mở OMC), chỉ có
một số ít trường hợp đại phẫu dùng phẫu thuật
nội soi (cắt nang OMC, cắt thân đuôi tụy), không
có trường hợp siêu phẫu nào (phẫu thuật
Whipple, cắt u Klaskin, cắt gan). Chúng tôi
tạm chấp nhận cách phân loại này vì phù hợp
với thực tế năng lực nghiên cứu của mình dù
rằng khả năng gây nhiễu do khác nhau về loại
phẫu thuật không được loại bỏ hoàn toàn.
Kết quả là chúng tôi có 32,1% số trường
hợp đại phẫu, còn lại 67,9% là trung phẫu. Tỷ
lệ này ngược với nghiên cứu của Phạm Văn
Năng và cs có tới gần 63% là đại phẫu(27). Sự
khác biệt này có thể là do định nghĩa về đại
phẫu khác nhau. Theo định nghĩa của Phạm
Văn Năng, nhóm đại phẫu tương đối rộng
gồm nhiều loại phẫu thuật miễn là đường mổ
dài hơn 5cm(27). Theo chúng tôi, cách phân loại
này chưa phản ánh hết mức độ nặng nhẹ của
từng loại phẫu thuật vì chỉ căn cứ trên đường
mở bụng mà không đề cập đến sự tác động lên
những mô trong khoang bụng khi mổ. Trong
khi đó dù có thiết kế nghiên cứu tương tự
chúng tôi, tác giả Nguyễn Thùy An không
phân nhóm phẫu thuật.
Phân loại tình trạng dinh dưỡng theo SGA
SGA là phương pháp đánh giá nhanh tình
trạng dinh dưỡng. Đây là phương pháp có độ
nhạy, độ đặc hiệu cao trong đánh giá tình trạng
dinh dưỡng ở bệnh nhân ngoại khoa (12). Đặc biệt,
phương pháp SGA cũng là phương pháp có giá
trị trong tiên lượng biến chứng nhiễm trùng sau
mổ(11). Phương pháp SGA tập trung vào tình
trạng sụt cân nhanh của người bệnh, tình trạng
mất lớp mỡ dưới da, mức độ teo cơ cùng với
những triệu chứng đường tiêu hóa (12).
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi có
46,9% bệnh nhân có SGA A, 41,6% có SGA B và
11,5% có SGA C. Kết quả của Nguyễn Thùy An
cho 3 nhóm lần lượt là: 43,3%, 25%, 31,7%. Về
nhóm SGA A, tỷ lệ gần tương đương trong khi
nhóm SGA B của chúng tôi chiếm tỷ lệ cao hơn.
Nhóm SGA C của Nguyễn Thùy An chiếm tới
31,7% cao hơn chúng tôi nhiều (11,5%) (24). Sự
khác biệt này có thể phân nào do đánh giá chủ
quan cũng như tình trạng dinh dưỡng khác
nhau của bệnh nhân mỗi thời điểm. So sánh với
một số tác giả khác chúng tôi nhận thấy: nhóm
SGA A chiếm tỷ lệ đa số, tỷ lệ giảm dần ở nhóm
SGA B và C. Kết quả của chúng tôi cũng nằm
trong xu hướng này. Chỉ có kết quả của Bauer và
cs có sự khác biệt, nhóm SGA B chiếm ưu thế. Sự
khác biệt này có thể do phương pháp đánh giá
của chúng tôi và Bauer khác nhau. Tác giả Bauer
dùng bảng phân loại SGA cải biên (PG-SGA:
Patient Generated – Subjective Global
Assessment) là loại bảng thiết kế chi tiết có tính
điểm để bệnh nhân có thể tự điền thông tin vào.
Theo tác giả, bảng này có ưu thế hơn trong đánh
giá dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư vì bệnh
nhân tự điền sẽ mất ít thời gian hơn, bổ sung
được nhiều triệu chứng lâm sàng hơn. Ngoài ra
hệ thống tính điểm giúp sàng lọc bệnh nhân có
vấn đề về dinh dưỡng dễ dàng hơn(5).
Mặt khác nếu xét chung tình trạng suy dinh
dưỡng (SGA B và C), tỷ lệ này rất cao chiếm từ
40 – 50% tổng số bệnh nhân. Chỉ có nghiên cứu
của Detsky (1987) tỷ lệ SDD là 31%(5,12,24,27,31). Điều
đó cho thấy sau khoảng 2 thập niên, tỷ lệ suy
dinh dưỡng trên lâm sàng vẫn không giảm đi
mà còn có xu hướng tăng, trái ngược hẳn với tỷ
lệ suy dinh dưỡng trên cộng đồng ngày càng
giảm khi tình trạng dinh dưỡng cộng đồng ngày
một cải thiện(18). Trong đó nghiên cứu của chúng
tôi tỷ lệ suy dinh dưỡng chung (SGA B và C) là
53,1% cao hơn gần 20% so với đánh giá bằng
BMI. Kết quả của Nguyễn Thùy An đánh giá
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 394
bằng SGA, tỷ lệ suy dinh dưỡng cao gấp đôi so
với dùng BMI(24).
Qua đây có thể phương pháp SGA hiệu quả
hơn trong việc tầm soát những đối tượng có
nguy cơ hoặc có suy dinh dưỡng thật sự so với
chỉ sử dụng cân nặng đơn thuần hay chỉ số BMI.
Kết quả tương tự ở nhiều nghiên cứu khác nhau
đặc biệt là nghiên cứu của Lưu Ngân Tâm
(chuyên gia dinh dưỡng), Phạm Văn Năng
(phẫu thuật viên tiêu hóa), Nguyễn Thùy An
(điều dưỡng lâm sàng) và chúng tôi (bác sĩ nội
trú) cho thấy nó đáng tin cậy, dễ huấn luyện, dễ
áp dụng và có tính lặp lại mặc dù bản chất là
“chủ quan”. Điều này đã từng được Detsky
khẳng định trong nghiên cứu so sánh của mình
năm 1987(12).
Xét nghiệm cận lâm sàng
Albumin/ máu trung bình của chúng tôi là
4,16 g/dL, prealbumin trước mổ của chúng tôi là
20,86 mg/dL. Albumin và prealbumin máu trong
nghiên cứu của Nguyễn Thùy An lần lượt là 4,61
g/dL và 22,41 mg/dL(5). Nồng độ hai loại protein
máu của chúng tôi hơi thấp hơn so với kết quả
của của Nguyễn Thùy An. Ở nghiên cứu của
Lưu Ngân Tâm, chỉ số albumin máu dao động
trong khoảng từ 3,8 – 4,2 g/dL tùy vào tình trạng
dinh dưỡng theo SGA (tác giả không nêu trị số
albumin trung bình chung cho mẫu nghiên cứu).
Ngược lại, kết quả albumin và prealbumin
máu của chúng tôi cao hơn xét nghiệm trong
nghiên cứu của Devoto và cs (2006): albumin và
prealbumin trung bình lần lượt là 3,1 g/L và 16
mg/dL(13). Sự khác nhau này có thể do tình trạng
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi và
Devoto khác nhau. Devoto chọn 108 bệnh nhân
có tình trạng khá nặng gồm: nội tổng quát, thần
kinh, phục hồi chức năng hay phải chăm sóc dài
ngày, chúng tôi chọn mẫu gồm nhiều loại bệnh
ngoại gan mật tụy có cả nặng và nhẹ.
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo nồng độ
albumin, chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân có
albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 17,9% (trong đó
albumin máu < 3 g/dL là 6,3%) gần giống kết quả
của Nguyễn Thùy An (18,2%)(24) và Putwatana
(18,9%)(29). Tỷ lệ này thấp hơn kết quả trong
nghiên cứu của Al Hudiathy và cs (1996): nhóm
bệnh nhân không phẫu thuật tiêu hóa albumin
máu < 3,5 g/dL chiếm 31% còn nhóm phẫu thuật
tiêu hóa là 36%(2). Kết quả này cho thấy tỷ lệ
bệnh nhân có albumin máu thấp khá ít, đa số
bệnh nhân (hơn 80%) có albumin trong giới hạn
bình thường. Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chỉ
số albumin này mà cho rằng tỷ lệ bệnh nhân suy
dinh dưỡng thấp là không chính xác. Vì thời
gian bán hủy của albumin khoảng 21 ngày, thời
gian để tổng hợp cũng khá dài trong khi trong
mẫu nghiên cứu có những trường hợp bệnh
nhân bệnh cấp tính (sỏi ống mật chủ, viêm túi
mật cấp, áp xe lách), tổng trạng trước đó lại tốt
cho nên ảnh hưởng của bệnh lên tình trạng sinh
tổng hợp albumin chưa thay đổi nhiều. Tuy
nhiên, nếu dựa vào phương pháp đánh giá bằng
SGA hoặc prealbumin (protein có thời gian bán
hủy ngắn hơn) chúng tôi vẫn đánh giá được tình
trạng suy dinh dưỡng hiện tại. Điều đó cho thấy
albumin không phải là một xét nghiệm nhạy để
phát hiện tình trạng suy dinh dưỡng trên lâm
sàng, nó phù hợp để đánh giá tình trạng dinh
dưỡng tổng thể hơn(6).
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo
prealbumin máu, số bệnh nhân có prealbumin
máu < 20 mg/dL chiếm 50,5% hơi thấp hơn kết
quả của các tác giả khác: Nguyễn Thùy An là
55,7%, Devoto G và cs (2006) tỷ lệ prealbumin <
17 mg/dL là 59%(13, 24). Đặt hai kết quả albumin và
prealbumin cạnh nhau có thể thấy prealbumin
nhạy hơn hẳn trong đánh giá tình trạng dinh
dưỡng. Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn (2
ngày) lại không bị ảnh hưởng bởi lượng nước
trong cơ thể nên nó phản ánh chính xác tình
trạng dinh dưỡng hiện tại của bệnh nhân. Xét
nghiệm này không những thích hợp để đánh giá
bước đầu mà còn là công cụ để theo dõi tình
trạng dinh dưỡng trên bệnh nhân nằm viện. Tuy
nhiên, hiện nay không phải phòng xét nghiệm
nào cũng thực hiện được xét nghiệm này. Vì vậy
không như albumin, prealbumin huyết thanh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 395
vẫn chưa được xem như một xét nghiệm thường
quy trước phẫu thuật. Trong khoảng 2 - 3 năm
trở lại đây, bệnh viện Chợ Rẫy đã có thể thực
hiện xét nghiệm này. Tuy nhiên giá thành vẫn
còn khá đắt (gấp 10 lần) so với xét nghiệm
albumin huyết thanh.
Liên quan giữa phân loại SGA và một số
đặc điểm lâm sàng
SGA và độ tuổi
So sánh mối liên quan giữa các nhóm tuổi
trên và dưới 60 với phân nhóm SGA, chúng tôi
thấy có sự khác biệt về phân loại SGA ở hai
nhóm (p = 0,022). Nhóm dưới 60 tuổi có tình
trạng dinh dưỡng tốt (SGA A) nhiều hơn nhóm
trên 60 tuổi (80,6% so với 19,4%). Người càng lớn
tuổi có vẻ tình trạng dinh dưỡng càng xấu. Kết
quả này tương tự như trong nghiên cứu của
Nguyễn Thùy An (2010).
SGA và phân loại theo BMI
Dựa theo chuẩn BMI của châu Á, tỷ lệ SDD
của chúng tôi khá cao (35,9%), cao hơn tỷ lệ
trong nghiên cứu của Lưu Ngân Tâm (24,5%) và
Nguyễn Thùy An (25,8%). Tuy nhiên tỷ lệ này
vẫn thấp hơn kết quả của Shirodkar (41,4%). Lý
do có thể Shirodkar chỉ nghiên cứu nhóm bệnh
nhân ung thư trong khi kết quả của chúng tôi và
những tác giả khác bao gồm cả bệnh lành và ác
tính. Trên bệnh nhân ác tính, tình trạng suy kiệt
thường xảy ra hơn.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo chỉ số
BMI là phương pháp rất đơn giản, dễ thực hiện.
BMI dưới 16 được xem là suy dinh dưỡng nặng,
có nguy cơ tử vong cao. Tuy nhiên, đối với bệnh
nhân nằm viện đặc biệt bệnh nhân có bệnh lý
gan mật tụy chỉ số này không còn chính xác
trong những trường hợp mất nước, phù, báng
bụng, hoặc khi bệnh nhân có tình trạng sụt
cân không chủ ý trên 10% trọng lượng cơ thể
trong một thời gian nhất định nhưng chỉ số
BMI vẫn trong giới hạn bình thường. Điều này
hay gặp ở những bệnh nhân trước đó có thừa
cân hoặc béo phì(20).
So sánh liên quan giữa phân loại SGA và
BMI, chúng tôi nhận thấy nhóm SGA A chỉ có
10% thiếu cân, gần 79% cân nặng bình thường;
ngược lại ở nhóm SGA B và C tỷ lệ thiếu cân
tăng dần lần lượt là 52,9% và 79,2%. Sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001). Kết quả này
cũng tương tự kết quả của Nguyễn Thùy An.
Giữa phân loại SGA và BMI có mối liên hệ khá
chặt chẽ, bệnh nhân suy dinh dưỡng càng nhiều
(SGA B, C) thì BMI càng giảm, tỷ lệ BMI thấp
càng cao.
SGA và phân loại bệnh
Tìm mối liên quan giữa SGA và các loại
bệnh, chúng tôi thấy có sự khác biệt (p = 0,002).
Ở nhóm bệnh về mật, tỷ lệ dinh dưỡng tốt SGA
A cao (69,4%) trong khi nhóm bệnh tụy tỷ lệ
dinh dưỡng kém SGA B, C cao (lần lượt là 39,1%
và 45,8%). Kết quả này giống với nghiên cứu của
Nguyễn Thùy An, nhóm bệnh tụy là nhóm có tỷ
lệ dinh dưỡng kém cao nhất (32% SGA B và 44%
SGA C), nhóm bệnh gan có tỷ lệ dinh dưỡng tốt
cao hơn. Hai nhóm bệnh gan và lách của chúng
tôi số lượng ít nên không thấy rõ xu hướng. Sự
khác nhau về đặc điểm dinh dưỡng của các
nhóm bệnh có thể giải thích là do: đa số các bệnh
của tụy là u tụy ác tính (K đầu tụy, K thân – đuôi
tụy) hoặc sỏi tụy/ viêm tụy mạn, những bệnh
này thường gây suy mòn nhiều; ngược lại nhóm
bệnh đường mật đa số là bệnh lành tính (sỏi
mật) nên tình trạng dinh dưỡng tốt hơn.
Liên quan giữa SGA và albumin,
prealbumin/máu
Albumin
Khi so sánh nồng độ albumin trung bình
giữa 3 nhóm SGA, kết quả có sự khác biệt: phân
loại SGA xấu dần (SGA B, C) thì albumin máu
trung bình cũng thấp dần (4,06 g/dL so với 3,72
g/dL) (p < 0,0001). Kết quả gần giống với kết quả
của Lưu Ngân Tâm (2009) và Nguyễn Thùy An
(2010). Tuy nhiên, ở cả nghiên cứu của chúng tôi
và của Nguyễn Thùy An, sự khác biệt về
albumin máu trung bình giữa 2 nhóm SGA A và
B không nhiều (4,36 g/dL so với 4,06 g/dL của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 396
chúng tôi; 4,72 g/dL so với 5,43 g/dL của Nguyễn
Thùy An). Điều này cho thấy, khi bệnh nhân bắt
đầu có vấn đề về dinh dưỡng thì vẫn chưa ảnh
hưởng đến nồng độ albumin máu.
Nếu so sánh các nhóm albumin với phân loại
SGA, những bệnh nhân có dinh dưỡng tốt (SGA
A) thì tỷ lệ albumin máu > 3,5 g/dL cũng cao hơn
so với nhóm cùng loại ở bệnh nhân suy dinh
dưỡng (SGA B hay C) (p < 0,0001). Nhưng dù có
sự khác nhau như vậy thì trong từng nhóm SGA
số bệnh nhân có albumin máu > 3,5 g/dL vẫn cao
hơn hẳn nhóm < 3,5 g/dL. Ngay cả ở nhóm SGA
C, tỷ lệ albumin > 3,5 g/dL cũng là 58,4%. Vì vậy
có thể nói khi tình trạng dinh dưỡng tốt thì
albumin máu cao nhưng khi albumin máu cao
chưa hẳn là tình trạng dinh dưỡng hiện tại đang
tốt. Có thể nói đây là mối liên hệ một chiều.
Prealbumin
Kết quả của chúng tôi, nồng độ prealbumin
máu trung bình trước mổ giữa 3 nhóm SGA có
sự khác biệt rõ ràng: giảm lần lượt 22,93 mg/dL,
19,27 mg/dL và 17,98 mg/dL (p = 0,001). Trong
kết quả của Nguyễn Thùy An, sự khác biệt này
càng lớn hơn: lần lượt là 27,39 mg/dL, 21,89
mg/dL và 16,03 mg/dL (24). Mặt khác, nếu so sánh
SGA với từng nhóm prealbumin chúng tôi thấy
rằng tình trạng dinh dưỡng càng xấu thì tỷ lệ
prealbumin cao (> 20 mg/dL) càng giảm còn
nhóm prealbumin thấp (10 – 20 mg/dL) và rất
thấp (< 10mg/dL) càng tăng. Rõ ràng có sự phù
hợp giữa việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng
theo SGA và prealbumin huyết thanh. Sự phù
hợp này cũng được thể hiện trong nghiên cứu
của Devoto và cs. Với 108 bệnh nhân, tác giả có
44% bệnh nhân suy dinh dưỡng mức độ vừa,
17% bệnh nhân suy dinh dưỡng mức độ nặng
(đánh giá theo phương pháp SGA), 44% bệnh
nhân suy dinh dưỡng mức độ vừa, 16% bệnh
nhân suy dinh dưỡng mức độ nặng (đánh giá
theo prealbumin huyết thanh)(13).
Tóm lại, mỗi xét nghiệm đều có ưu và
nhược điểm của nó, không có phương pháp
nào là hoàn hảo. Việc kết hợp phương pháp
SGA với các xét nghiệm như albumin,
prealbumin máu để đánh giá dinh dưỡng của
người bệnh là cần thiết.
Tình trạng dinh dưỡng và kết quả sau mổ
Thay đổi cân nặng và BMI
Sau khi mổ, đa phần bệnh nhân đều có sụt
cân khi ra viện. Kết quả của chúng tôi có đến
176/209 trường hợp sụt cân, chiếm hơn 91%; chỉ
có 10 trường hợp tăng cân sau mổ, số còn lại cân
nặng giữ nguyên. Số ít này rơi vào những
trường hợp phẫu thuật tương đối nhẹ nhàng (cắt
túi mật, cắt nang gan, lấy sỏi OMC lần đầu). So
sánh cân nặng trước mổ và khi ra viện ở cả hai
nhóm trung phẫu và đại phẫu cho thấy: Nhóm
trung phẫu: cân nặng trước mổ trung bình gần
49 kg ra viện còn khoảng 46 kg; ở nhóm đại phẫu
trước mổ cân nặng trung bình khoảng 50 kg
nhưng khi ra viện chỉ còn xấp xỉ 46 kg. Sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,0263). Nếu xét
về chỉ số BMI, trước mổ là 20,08 ± 3,14 sau mổ
còn 19,06 ± 3,19, khác biệt này cũng có ý nghĩa (p
= 0,0014). Như vậy, loại trừ gây nhiễu do độ
nặng của phẫu thuật, điều đáng lưu ý là sau mổ
tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân thường
tiến triển theo hướng xấu đi. Tình trạng sa sút
về dinh dưỡng sau mổ có thể do nhiều yếu tố
góp phần mà để tìm được nguyên nhân cần có
những nghiên cứu quy mô và chi tiết hơn để
khảo sát tình trạng điều trị sau mổ.
Biến chứng và tử vong
Có 49 trường hợp có biến chứng sau mổ
(chiếm 23,4% tổng số bệnh nhân phẫu thuật).
Trong đó có 15 trường hợp xì rò, 32 trường hợp
nhiễm trùng vết mổ và 10 trường hợp có các biến
chứng khác (viêm phổi, viêm tụy cấp, loét da).
Một số bệnh nhân có nhiều hơn hai biến chứng
khi điều trị hậu phẫu như vừa bị xì rò vừa có
nhiễm trùng vết mổ hoặc vừa nhiễm trùng vết
mổ và viêm phổi Cá biệt có trường hợp bệnh
nhân bị xì miệng nối mật - ruột, tụy – ruột phải
mổ lại, sau đó vừa có nhiễm trùng vết mổ vừa có
viêm phổi. Với những trường hợp này, theo quy
ước đã nêu, chúng tôi chỉ chọn biến chứng nặng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 397
nhất là viêm phúc mạc do xì miệng nối. Có một
trường hợp tử vong trong thời gian nằm viện
hậu phẫu là một bệnh nhân cắt lách do
lymphoma hậu phẫu biến chứng viêm phổi, suy
hô hấp. Ngoài ra còn một trường hợp u đầu tụy
mổ nối tắt bị xì miệng nối mật – ruột gây viêm
phúc mạc; bệnh diễn tiến nặng thân nhân xin
xuất viện, chúng tôi không theo dõi thêm được.
Tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu là 0,5%. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ này cũng không
có ý nghĩa nhiều do mẫu của chúng tôi không
lớn (209 TH), hơn nữa chúng tôi không theo dõi
được tử vong trong vòng 30 ngày sau mổ do mất
liên lạc với một số bệnh nhân nặng xin về.
Nghiên cứu riêng từng nhóm biến chứng: xì
rò, nhiễm trùng vết mổ và các biến chứng khác
với SGA, chúng tôi chia tình trạng dinh dưỡng
thành 2 nhóm: nhóm dinh dưỡng tốt (SGA A),
nhóm dinh dưỡng kém (SGA B và C). Sở dĩ
chúng tôi chia làm 2 nhóm chứ không để 3 nhóm
là vì lý do sau: (1) Để tính nguy cơ tương đối RR
(2) Cỡ mẫu không cho phép chia quá nhỏ (đây là
hạn chế của nghiên cứu). Cách chia nhóm này
cũng là để loại trừ yếu tố gây nhiễu do loại phẫu
thuật nặng hay nhẹ.
SGA và xì rò
Trong 15 trường hợp bị xì – rò sau mổ, có 12
bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng kém trong
khi chỉ có 3 người dinh dưỡng tốt. Sự khác biệt
giữa 2 nhóm này có ý nghĩa thống kê (p =
0,0303). Loại trừ yếu tố gây nhiễu là loại phẫu
thuật nặng hay nhẹ, chúng tôi tính được số đo
kết hợp RR = 2,9 ở nhóm đại phẫu. Riêng nhóm
trung phẫu do không có trường hợp xì rò nào
nên không tính được RR về mặt thống kê. Như
vậy, trên bệnh nhân đại phẫu những người có
dinh dưỡng kém có nguy cơ bị xì rò cao gấp 2,9
lần so với người có dinh dưỡng tốt. Kết quả này
rất có ý nghĩa vì các điều kiện để một miệng nối
tiêu hóa lành tốt ngoài yếu tố kỹ thuật, điều kiện
môi trường trong ổ bụng thì tình trạng dinh
dưỡng phải đầy đủ để cung cấp nguyên liệu làm
lành vết thương.
SGA và nhiễm trùng vết mổ
Trong 32 trường hợp nhiễm trùng vết mổ,
nhóm dinh dưỡng kém có 23 bệnh nhân, dinh
dưỡng tốt có 9 bệnh nhân. Khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p = 0,0208). Phân tích phân tầng theo
loại phẫu thuật, ở nhóm trung phẫu những bệnh
nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng
vết mổ cao gấp 1,8 lần nhóm có dinh dưỡng tốt.
Ở nhóm đại phẫu, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ
của nhóm dinh dưỡng kém gấp 3,9 lần. Tính
chung cả hai nhóm phẫu thuật, bệnh nhân suy
dinh dưỡng có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao
gấp 2,3 lần bệnh nhân bình thường. Bệnh nhân
dinh dưỡng kém khả năng miễn dịch và đề
kháng với mầm bệnh giảm đi nên nguy cơ
nhiễm trùng cao hơn.
SGA và các biến chứng khác
Trong 10 trường hợp có biến chứng khác,
nhóm dinh dưỡng kém và dinh dưỡng tốt mỗi
bên có 5 trường hợp. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p = 0,8399). Số đo kết hợp RR
= 0,9 thể hiện điều này. Các biến chứng hay
gặp là: viêm phổi, viêm tụy cấp, báng bụng,
loét da
Trong các nghiên cứu của nước ngoài, các tác
giả không công bố riêng tác động của SGA và
từng loại biến chứng như chúng tôi. Sungurtekin
và cs sử dụng biến chung là biến chứng sau mổ
để tìm mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng.
Các biến chứng đó bao gồm: nhiễm trùng vết
mổ, áp xe trong ổ bụng, viêm phổi, xẹp phổi,
nhiễm trùng huyết(32). Các biến chứng tương
tự cũng được Putwatana sử dụng. Còn
Shirodkar thì sử dụng biến “các kết quả bất lợi”
(adverse events) dùng chung cho biến dự hậu
(29,31). Kết quả cho thấy nhóm suy dinh dưỡng (dù
theo phương pháp nào) cũng có nguy cơ xảy ra
biến chứng cao gấp 3 – 5 lần so với nhóm có tình
trạng dinh dưỡng tốt.
Ở Việt Nam, Nguyễn Thùy An báo cáo có
17/104 (16,3%) bệnh nhân có biến chứng xì rò sau
mổ, tỉ lệ xảy ra biến chứng ở nhóm có tình trạng
suy dinh dưỡng nặng (SGA-C) tăng cao gấp 3,5
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 398
lần so với nhóm bệnh nhân có tình trạng dinh
dưỡng tốt (SGA-A) (p=0,006)(24). Phạm Văn Năng
và cs (2006) báo cáo tỷ lệ biến chứng (xì rò và
nhiễm trùng vết mổ) ở nhóm SGA C là 33,6% so
với nhóm SGA A (6%) (tính ra RR = 5,6)(27). Kết
quả này cao hơn so với kết quả của chúng tôi
trong từng nhóm biến chứng xì rò và nhiễm
trùng vết mổ. Nguyên nhân có thể do mẫu của
chúng tôi nhỏ hơn lại khảo sát riêng từng loại
biến chứng, chia nhỏ loại phẫu thuật nên kết quả
không đại diện bằng. Nhưng dù kết quả khác
nhau ít nhiều, ý nghĩa vẫn không đổi: khi có suy
dinh dưỡng thì nguy cơ biến chứng sau mổ tăng
lên rõ rệt. Vì thế, khi bệnh nhân có vấn đề về
dinh dưỡng cần phải điều trị hỗ trợ dinh dưỡng
trước khi phẫu thuật. Theo khuyến nghị của Hội
dinh dưỡng lâm sàng Châu Âu (ESPEN, 2006),
đối với bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng
SGA-C nên được hoãn mổ để hỗ trợ dinh dưỡng
ít nhất 10 - 14 ngày trước phẫu thuật(33).
Thời gian nằm viện
Điểm qua những nghiên cứu về mối liên
quan giữa tình trạng dinh dưỡng và thời gian
nằm viện chúng tôi tổng kết được một số kết quả
sau:
•Theo Weinsier và cs (1979), thời gian nằm
viện của nhóm không và có suy dinh dưỡng lần
lượt là 12 và 20 ngày (p < 0,01)(34).
•Theo Cederholm và cs (1995), tại khoa lão
bệnh nhân không suy dinh dưỡng nằm viện
trung bình 18 ngày còn có suy dinh dưỡng là 43
ngày (p < 0,01)(8).
•Theo Correira và Campos (2003) nghiên
cứu tại Mỹ Latin với 9348 bệnh nhân, thời gian
nằm viện trung bình 16,7 ngày ở bệnh nhân suy
dinh dưỡng so với 10,1 ngày ở bệnh nhân không
suy dinh dưỡng (p<0.01)(9).
•Theo Sungurtekin và cs (2004), thời gian
nằm viện của nhóm dinh dưỡng tốt (SGA A) là
13 và của nhóm suy dinh dưỡng (SGA B) là 22,2.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01)(32).
•Theo Shirodkar và cs (2005), số trung vị của
thời gian nằm viện hậu phẫu của 3 nhóm SGA
A, B và C lần lượt là: 5, 7 và 10 ngày. Sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001)(31).
•Theo Pirlich và cs (2006), thời gian nằm
viện trung bình của 3 nhóm SGA A, B và C lần
lượt là 11, 15 và 17 ngày (p < 0,001)(28).
•Nguyễn Thùy An (2010) đánh giá thời
gian nằm viện toàn bộ của bệnh nhân trung
bình là 16,36 ngày. So sánh thời gian nằm viện
ở 3 nhóm SGA, tác giả kết luận thời gian nằm
viện ở 3 nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê
(p < 0,001). Nhóm bệnh nhân suy dinh dưỡng
nặng có thời gian nằm viện gấp 2 lần nhóm
dinh dưỡng tốt(24). Trong nghiên cứu của
mình, Nguyễn Thùy An đánh giá chung thời
gian nằm viện trước và sau mổ. Tác giả cũng
không phân loại phẫu thuật. Vì vậy dù kết quả
có ý nghĩa thống kê nhưng thực tế kết quả này
có thể bị ảnh hưởng bởi 2 yếu tố gây nhiễu là:
(1) thời gian nằm viện trước mổ và (2) mức độ
nặng nhẹ của phẫu thuật.
Có một thực tế là thời gian nằm viện trước
mổ của bệnh nhân tại bệnh viện Chợ Rẫy có thể
bị kéo dài do một số lý do khách quan lẫn chủ
quan không liên quan đến tình trạng bệnh như:
chờ xét nghiệm tiền phẫu, lên lịch mổ... Vì vậy,
chúng tôi chỉ tính thời gian nằm viện hậu phẫu
vì nó phản ánh chính xác hơn ảnh hưởng của
dinh dưỡng lên diễn tiến điều trị. Ngoài ra, thời
gian nằm viện hậu phẫu còn tùy thuộc vào tính
chất cuộc mổ là nặng hay nhẹ cho nên chúng tôi
tính riêng thời gian nằm viện hậu phẫu cho từng
nhóm phẫu thuật trung phẫu hay đại phẫu. Kết
quả là, trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian
nằm viện hậu phẫu trung bình là 9,9 ngày, nằm
lâu nhất là 54 ngày, mau nhất là xuất viện sau
mổ 2 ngày. Trường hợp nằm viện dài nhất là
một bệnh nhân có chẩn đoán K bóng Vater được
làm phẫu thuật Whipple, sau đó xì miệng nối
tụy ruột phải mổ lại, mổ lần thứ 3 do chảy máu
tụy. Bệnh nhân này khi xuất viện vẫn còn rò tụy.
Trường hợp ngắn nhất là một trường hợp cắt túi
mật nội soi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 399
Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời
gian nằm viện giữa 3 nhóm SGA (A: 8, B: 9, C:
10) không có ý nghĩa thống kê (p = 0,089).
Nhưng ở nhóm đại phẫu, sự khác biệt này
(SGA A: 10, B: 14, C: 15) có ý nghĩa thống kê (p
< 0,0001). Về mặt ý nghĩa, kết quả của chúng
tôi phù hợp với kết quả của những tác giả đi
trước cả trong và ngoài nước. Các tác giả này
đều kết luận suy dinh dưỡng là một trong
những yếu tố kéo dài thời gian nằm viện.
Riêng trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả
này còn cho thấy ở những phẫu thuật tương
đối nhẹ nhàng, mức độ ảnh hưởng của dinh
dưỡng lên thời gian nằm viện không nhiều
trong khi với những trường hợp mổ lớn, tình
trạng dinh dưỡng có liên quan chặt chẽ tới
việc bệnh nhân nằm viện lâu hay mau.
Thời gian nằm viện kéo dài cùng với gia tăng
các biến chứng sau mổ làm cho kết quả điều trị
kém đi, bệnh nhân lâu hồi phục và đôi khi còn
để lại di chứng kéo dài như rò tiêu hóa, chậm
lành vết thương. Xét về mặt kinh tế nó làm tăng
chi phí điều trị, làm tăng gánh nặng cho gia đình
bệnh nhân và cho xã hội. Thời gian nằm viện kéo
dài cũng là một nguyên nhân góp phần vào tình
trạng quá tải ở các bệnh viện mà bệnh viện Chợ
Rẫy là một ví dụ điển hình. Vì vậy, áp dụng tầm
soát dinh dưỡng cho bệnh nhân vào viện nói
chung và bệnh nhân trước phẫu thuật nói riêng
để tìm biện pháp can thiệp sẽ giúp cải thiện kết
quả điều trị góp phần làm giảm biến chứng,
giảm thời gian nằm viện và chi phí điều trị. Tuy
nhiên, chọn lựa phương pháp đánh giá tình
trạng dinh dưỡng phù hợp, đáng tin cậy, ít tốn
kém, hạn chế xâm lấn và dễ huấn luyện để có
thể thực hiện được bởi cả bác sĩ lẫn điều dưỡng
cũng không kém phần quan trọng. Phương pháp
đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo SGA gần
như đáp ứng được những yêu cầu trên.
Tình trạng dinh dưỡng và thời điểm bắt đầu
cho ăn
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian
trung bình bắt đầu cho ăn đường tiêu hóa là
2,2; cho ăn sớm nhất vào ngày hậu phẫu 1 và
chậm nhất là vào ngày thứ 8 sau mổ. Những
trường hợp cho ăn sớm nhất là sau mổ cắt túi
mật, trường hợp cho ăn chậm nhất là sau mổ
lần 2 do xì miệng nối tụy ruột trong phẫu
thuật Whipple.
Dựa vào nghiên cứu của nhiều tác giả
(Andersen, Maholtra, Moser và Lewis)(3, 21, 23, 33)
chúng tôi chọn thời gian bắt đầu cho ăn trong
vòng 48 giờ sau mổ (tức là hậu phẫu ngày thứ
2) làm mốc để đánh giá việc cho ăn là sớm hay
không. Theo đó có 139 trường hợp (66,5%)
được cho ăn sớm. Nếu so sánh thời gian bắt
đầu cho ăn và loại phẫu thuật, chúng tôi thấy
rằng ở nhóm trung phẫu có tới hơn 80% được
cho ăn sớm trong khi tỷ lệ đó ở nhóm đại
phẫu chỉ là 34,3%, khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p < 0,0001). Điều này cho thấy quan
niệm nhịn ăn lâu sau các cuộc mổ lớn vẫn còn
phổ biến dù rằng không có cơ sở khoa học nào
chứng minh nó tốt hơn ăn sớm.
Khi xem xét mối liên quan giữa tình trạng
dinh dưỡng và việc cho ăn sớm sau mổ, chúng
tôi thấy sự khác biệt về thời điểm cho ăn giữa
hai nhóm có tình trạng dinh dưỡng tốt và kém
khác nhau có ý nghĩa thống kê (p = 0,0015).
Mối liên quan này bị ảnh hưởng bởi loại phẫu
thuật nặng hay nhẹ. Ở nhóm trung phẫu
người có dinh dưỡng kém có nguy cơ bị cho
ăn muộn gấp 4,9 lần người có dinh dưỡng tốt
trong khi nguy cơ này ở nhóm đại phẫu chỉ là
1,2 lần. Điều này thể hiện một thực tế rất tiêu
cực là trong khi những người bị SDD cần được
nuôi dưỡng sớm thì lại bị cho ăn muộn hơn
những người có tình trạng dinh dưỡng khá.
Rõ ràng trên thực tế, suy dinh dưỡng lại là
một yếu tố cản trở việc cho ăn sớm cho bệnh
nhân. Việc trì hoãn này có thể do người bệnh
không dung nạp được bằng đường tiêu hóa
(do chán ăn, buồn nôn, đau bụng) và cả do
quan niệm không đúng của một số bác sĩ điều
trị. Để tìm được nguyên do cụ thể, cần phải
tiến hành nghiên cứu chi tiết hơn. Rất tiếc do
khả năng còn hạn chế, chúng tôi không thiết
kế nội dung này vào nghiên cứu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 400
Thay đổi nồng độ các chất trong máu sau mổ
Để đánh giá một số đặc điểm dinh dưỡng
sau mổ, chúng tôi còn thực hiện xét nghiệm
prealbumin và CRP máu vào ngày hậu phẫu
thứ 3 hoặc 4. Chúng tôi chọn hậu phẫu 3 hoặc
4 vì các xét nghiệm này thường thay đổi sau
48 giờ.
Kết quả cho thấy nồng độ prealbumin trung
bình sau mổ là 13,03 mg/dL. So với kết quả thử
trước mổ là 20,86 mg/dL, sự khác biệt giữa hai
chỉ số có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001).
Prealbumin sau mổ giảm rõ rệt so với trước mổ.
Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn và sụt
giảm ngay khi có thiếu hụt cung cấp protein –
năng lượng.
Nồng độ CRP sau mổ trung bình là 126,01
ng/mL. Nếu so với ngưỡng trên của giá trị bình
thường (10 ng/mL) rõ ràng có sự gia tăng khá
lớn. Theo Avram MM và cs (2005) trên bệnh
nhân thẩm phân phúc mạc, CRP máu > 15
ng/mL có tỷ lệ sống còn xấu hơn hẳn so với
nhóm CRP < 15 ng/mL, CRP cao có liên quan
đến nhiễm trùng và viêm(4). Theo Menon và cs
(2003), CRP máu > 60 ng/mL có liên quan đến
nồng độ albumin máu thấp(22). Theo Gariballa và
cs (2006), CRP máu cao (> 10 ng/mL) liên quan có
ý nghĩa với nồng độ albumin, transferin, ascorbic
acid và hemoglobin máu thấp, nó cũng liên quan
đến tình trạng cung cấp thiếu năng lượng(14). Có
thể thấy CRP máu tăng vừa biểu hiện cho quá
trình viêm đang xảy ra vừa thể hiện tình trạng sa
sút về dinh dưỡng. So sánh giá trị CRP trung
bình giữa hai nhóm trung phẫu và đại phẫu, sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,657).
Tóm lại, với việc tăng dị hóa sau mổ,
prealbumin sau mổ giảm và CRP máu tăng cao,
tình trạng dinh dưỡng trong những ngày đầu
sau mổ của bệnh nhân có sự sa sút rõ rệt. Loại
trừ nguyên nhân bệnh tật và tác động của cuộc
mổ, tình trạng dinh dưỡng xấu đi liên liên quan
đến thái độ điều trị. Bệnh nhân đã không được
hỗ trợ dinh dưỡng đúng và kịp thời ngay những
ngày đầu mà tình trạng trì hoãn cho ăn sớm là
một ví dụ. Như các tác giả nước ngoài đã khẳng
định, prealbumin và CRP là 2 xét nghiệm rất tốt
để theo dõi dinh dưỡng sau mổ(16,30). Tuy nhiên,
chúng tôi chỉ thực hiện 2 xét nghiệm này 1 lần
sau mổ nên không đánh giá được toàn cảnh tình
hình thay đổi về dinh dưỡng của bệnh nhân
trong quá trình điều trị hậu phẫu. Đó là một hạn
chế của nghiên cứu của chúng tôi.
KẾT LUẬN
Đặc điểm dinh dưỡng trước mổ
Tình trạng suy dinh dưỡng trước mổ theo
BMI (<18,5) là 35,9% thì theo SGA (B và C) là
53,1% với hầu hết bệnh nhân có sụt cân trong
vòng 6 tháng trước nhập viện. Nồng độ
albumin/ máu thấp (<3,5g/dL) chiếm 17,9% và
prealbumin/máu thấp (<20mg/dL) là 50,5%.
Bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng tốt (SGA A)
thì có albumin máu cao, tuy nhiên ở nhóm SGA
C cũng có hơn 50% bệnh nhân có albumin > 3,5
g/dL. Với prealbumin, tình trạng dinh dưỡng tốt
thì prealbumin máu cao và ngược lại dinh
dưỡng kém thì prealbumin máu thấp.
Tỉ lệ suy dinh dưỡng của bệnh nhân trước
phẫu thuật theo đánh giá bằng phương pháp
SGA cao hơn so với chỉ số BMI. Sự phù hợp giữa
đánh giá chủ quan (SGA) và khách quan (xét
nghiệm prealbumin huyết thanh) đồng thời kết
quả nghiên cứu của chúng tôi tương đối phù
hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước
khác. Qua đây cho thấy phương pháp SGA đáng
tin cậy để đánh giá tình trạng dinh dưỡng bệnh
nhân trước phẫu thuật. Đây là một phương pháp
rẻ tiền, huấn luyện dễ dàng, bác sĩ và điều
dưỡng đều có thể thực hiện được nên rất khả thi
trong thực tế lâm sàng.
Một số đặc điểm dinh dưỡng sau mổ
- Thời gian bắt đầu cho ăn đường miệng
trung bình là 2,2 ± 1,5 ngày. Nhóm trung phẫu có
xu hướng cho ăn sớm hơn nhóm đại phẫu (p <
0,0001). Bệnh nhân có suy dinh dưỡng có nguy
cơ bị trì hoãn cho ăn sớm cao gấp 4,9 lần ở nhóm
trung phẫu và 1,2 lần ở nhóm đại phẫu so với
nhóm dinh dưỡng tốt.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 401
- Cân nặng khi ra viện thấp hơn trước khi
mổ, 98,1% bệnh nhân có sụt cân. BMI trước mổ
20,08 còn BMI ra viện 19,06 khác nhau có ý nghĩa
thống kê (p 0,0014).
- Prealbumin trung bình sau mổ là 13,03 ±
4,80 mg/dL sụt giảm rõ rệt so với prealbumin
trước mổ 20,86 ± 7,98 mg/dL (p < 0,0001).
- CRP sau mổ trung bình là 126,01 ± 76,54
ng/mL, giữa 2 nhóm trung phẫu và đại phẫu
nồng độ CRP khác biệt không có ý nghĩa
(p=0,6570).
Các kết quả sau mổ và SGA
- Có 49 trường hợp có biến chứng chiếm
23,4%, trong đó: 15 trường hợp xì rò (7,2%); 32
trường hợp nhiễm trùng vết mổ (15,3%) và 10
trường hợp biến chứng khác (4,8%). Một số
trường hợp có hơn 2 biến chứng đi kèm.
- Có 1 trường hợp tử vong chiếm 0,5%.
- Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình
9,9 ± 5,7 ngày, ngắn nhất là 2 ngày dài nhất 54
ngày. Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời
gian nằm viện giữa nhóm suy dinh dưỡng và
dinh dưỡng tốt không có ý nghĩa thống kê (p =
0,089). Ở nhóm đại phẫu thời gian nằm viện
khác nhau giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê
(p < 0,0001).
- Những bệnh nhân đại phẫu có suy dinh
dưỡng (theo SGA) có nguy cơ xì rò cao gấp 2,9
lần nhóm có dinh dưỡng tốt. Bệnh nhân dinh
dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao
gấp 3,9 lần ở nhóm đại phẫu và 1,8 lần ở nhóm
trung phẫu so với người có dinh dưỡng tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agence Nationale d’Accréditation et d’Évaluation en Santé
(ANAES). Service des recommandations professionnelles.
(2003). Les outils anthropométriques. In Évaluation
diagnostique de la dénutrition protéino- énergétique des adultes
hospitalisés (pp. 42-47). ANAES, Saint-Denis La Plaine, Paris.
2. Al-Hudiathy AM, Lewis NM (1996), "Serum albumin and
age are predictors of length of hospital stay in surgical
patients ". Nutrition Research, 16(11-12): 1891 - 1990.
3. Andersen HK, Lewis SJ, Thomas S. (2009). Early enteral
nutrition within 24h of colorectal surgery versus later
commencement of feeding for postoperative complications,
Cochrane Database of Systematic Reviews John Wiley & Sons,
Ltd.
4. Avram MM, Fein PA, Paluch MM, Schloth T,
Chattopadhyay J (2005), "Association Between C-Reactive
Protein and Clinical Outcomes in Peritoneal Dialysis
Patients". Advances in Peritoneal Dialysis, 21: 154 - 158.
5. Bauer J, Capra S, Ferguson M (2002), "Use of the scored
Patient-Generated Subjective Global Assessment (PG-SGA)
as a nutrition assessment tool in patients with cancer".
European Journal of Clinical nutrition, 56: 779-785.
6. Beck FK, Rosenthal TC (2002), "Prealbumin: A Marker for
Nutritional Evaluation". American Family Physician, 65: 1575-
1578.
7. Buzby G P, Knox L S, Crosby L O, Eisenberg J M,
Haakenson C M, McNeal G E, et al. (1988), "Study protocol:
a randomized clinical trial of total parenteral nutrition in
malnourished surgical patients". American Society for Clinical
Nutrition, 47: 366-381.
8. Cederholm T, Jägren C, Hellström K (1995), "Outcome of
protein-energy malnutrition in elderly medical patients".
The American Journal of Medicine, 98(1): 67-74.
9. Correia TD, Campos ACL (2003), "Prevalence of hospital
malnutrition in Latin America: The multicenter ELAN
study". Nutrition, 19(10): 823-825.
10. DeLegge M H. (2008). Nutritional assessment. In Nutrition
and Gastrointestinal Diseases (Vol. 1, pp. 334). Humana Press
Inc., Totowa, New Jersey.
11. Detsky A S, Baker J P, O'Rourke K, Johnston N, Whitwell J,
Mendelson R A, et al. (1987), "Predicting nutrition-
associated complications for patients undergoing
gastrointestinal surgery". Journal of Parenteral Enteral
Nutrition 11(5): 440-446.
12. Detsky A S, McLaughlin J R, Baker J P, Johnston N,
Whittaker S, Mendelson R A, et al. (1987), "What is
Subjective Global Assessment of Nutritional Status?".
Journal of Parenteral and Enteral Nutrition, 11(1): 8-13.
13. Devoto G, Gallo F, Marchello C, Racchi O, Garbarini R,
Bonassi S, et al. (2006), "Prealbumin serum concentrations as
a useful tool in the assessment of malnutrition in
hospitalized patients". Clin Chem, 52(12): 2177-2179.
14. Gariballa S, Forster S (2006), "Effects of acute-phase
response on nutritional status and clinical outcome of
hospitalized patients". Nutrition, 22(7-8): 750 - 757.
15. Guigoz Y (2006), "The Mini Nutritional Assessment
(MNA®) Review of the literature - What does it tell us?".
The Journal of Nutrition, 10: 466-487.
16. Le Banh (2006), "Serum Proteins as Markers of Nutrition:
What Are We Treating?". Practical Gastroenterology: 46-64.
17. Lewis SJ, Egger M, Sylvester PA, Thomas S (2001), "Early
enteral feeding versus “nil by mouth” after gastrointestinal
surgery: systematic review and meta-analysis of controlled
trials". BMJ, 323: 1 - 5.
18. Lê Thị Hợp, Lê Danh Tuyên, Trần Thành Đô, Nguyễn Hồng
Trường, Nguyễn Chí Tâm, Nguyễn Xuân Ninh, et al. (2011).
Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009 - 2010. Viện dinh
dưỡng quốc gia - Unicef, Hà Nội.
19. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2009), "Tình trạng
dinh dưỡng bệnh nhân lúc nhập viện tại bệnh viện Chợ Rẫy
". Tạp chí Y học, Đại học Y Dược TP.HCM, 13: 305-312.
20. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2010), Những vấn
đề dinh dưỡng lâm sàng. Nxb Y học, Thành phố Hồ Chí Minh:
11-17.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 402
21. Malhotra A, Mathur AK, Gupta S (2004), "Early enteral
nutrition after surgical treatment of gut perforations: A
prospective randomised study". J Postgrad Med, 50(2): 102 -
106.
22. Menon V, Wang X, Greene T, Beck GJ, Kusek JW, Marcovina
SM, et al. (2003), "Relationship Between C-Reactive Protein,
Albumin, and Cardiovascular Disease in PatientsWith
Chronic Kidney Disease". American Journal of Kidney
Diseases, 42(1): 44 - 52.
23. Moser J, Keneday MS (2010), "Early Enteral Nutrition
Reduces Mortality in the Critically Ill". American Journal of
Nursing, 110(1): 19.
24. Nguyen Thuy An (2010). Tình trạng dinh dưỡng và biến
chứng nhiễm trùng sau phẫu thuật trong bệnh lý gan mật
tụy. Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ điều dưỡng. Đại học Y
Dược TPHCM.
25. Ocampo R B, Carmase C M, Kadatuan Y, Torillo M R (2008),
"Predicting Post-operative Complications Based on Surgical
Nutritional Risk Level using the SNRAF in Colon Cancer
Patients: A Chinese General Hospital & Medical Center
Experience". Philippine Journal of Surgical Specialties, 63(4):
147-153.
26. Phạm Thu Hương, Nghiêm Nguyệt Thu, Trần Châu
Nguyên, Nguyễn Bích Ngọc, Thái Thị Thu Cúc, Nguyễn Thị
Phương Thảo, et al. (2006). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh
nhân nhập viện khoa Tiêu hóa và Nội tiết tại Bệnh viện Bạch Mai.
27. Pham Van Nang, Cox-Reijven P L M, Greve J W, Soeters P B
(2006), "Application of subjective global assessment as a
screening tool for malnutrition in surgical patients in
Vietnam". Clinical Nutrition (2006), 25: 102-108.
28. Pirlich M, Schutz T, Norman K, Gastell S, Lubke H J,
Bischoff S C, et al. (2006), "The German hospital
malnutrition study". Clinical Nutrition, 25: 563-572.
29. Putwatana P, Reodecha P, Sirapo-ngam Y, Lertsithichai P,
Sumboonnanonda K (2004), "Nutrition screening tools and
the prediction of postoperative infectious and wound
complications: comparison of methods in presence of risk
adjustment". Nutrition, 21: 691 - 697.
30. Shenkin A (2006), "Serum Prealbumin: Is It a Marker of
Nutritional Status or of Risk of Malnutrition?". Clinical
Chemistry, 52: 2177 - 2179.
31. Shirodkar M, Mohandas KM (2005), "Subjective global
assessment: a simple and reliable screening tool for
malnutrition among Indians". Indian Journal of
Gastroenterology 24: 246-250.
32. Sungurtekin H, Sungurtekin U, Balci C, Zencir M, Erdem E
(2004), "The Influence of Nutritional Status on
Complications after Major Intraabdominal Surgery ". Journal
of the American College of Nutrition, 23(3): 227-232.
33. Weimann A, Braga M, Harsanyi L, Laviano A, Ljungqvist O,
Soeters P, et al. (2006), "ESPEN Guidelines on Enteral
Nutrition: Surgery including Organ Transplantatio". Clinical
Nutrition, 25(2): 224 - 244.
34. Weinsier RL, Hunker EM, Krumdieck CL, Butterworth CE
(1979), "Hospital malnutrition. A prospective evaluation of
general medical patients during the course of
hospitalization". American Journal of Clinical Nutrition, 32:
418-426
Ngày nhận bài: 10/03/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 27/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_tuong_quan_giua_tinh_trang_dinh_duong_chu_phau_va_ket_qu.pdf