Một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - Nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc

Về phát triển khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ cũng là một nhân tố của lực lượng sản xuất. Để phát triển kinh tế buộc phát triển mạnh mẽ hơn nữa về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽ đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh Phát triển khoa học công nghệ thì phải đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các mũi nhọn, lựa chon công nghệ thích hợp, khai thác được lợi thế của lao động. Cùng với việc nhập công nghệ của nước ngoài chúng ta phải khẩn trương đổi mới tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước. Phải dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học, phải phát triển khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phải đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức để tránh chảy máu chất xám. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới.

doc25 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1065 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - Nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu của nước ta. Mục tiêu của nó là làm cho xã hội phát triển về kinh tế - văn hoá nâng cao đời sống nhân dân Việt Nam ngày càng ấm no hạnh phúc, hướng tới sự hoàn thiện về mọi mặt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng xác định “Muốn cải tiến tình trạng nhà nước lạc hậu hiện nay của nước ta đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên chế độ sản xuất lớn XHCN chúng ta không còn con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá XHCN. Vì vậy CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta(1) Trích: Văn kiện Đại hội Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản 1960 tập I tr.65 . Với ý nghĩa và vai trò như vậy đòi hỏi phải huy động mọi cố gắng sáng tạo của cả xã hội, sự tham gia của toàn cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước ta. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này để có thể hiểu rõ về công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Xã hội loài người đã và đang trải qua những nấc thang vĩ đại. Từ khi chỉ là một xã hội sơ khai nguyên thuỷ giờ đây đã trở thành một xã hội văn minh, hiện đại. Lịch sử phát triển loài người là lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất khi mà phát triển sản xuất đã đạt đến trình độ phát triển nhất định thì nhu cầu nâng cao mức sống con người là một tất yếu khách quan. Muốn thế thì cần thực hiện công nghiệp hoá. Lịch sử công nghiệp hoá trên nhiều nước cho thấy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền sản xuất là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp song lại là con đường phát triển xã hội nhanh nhất. Đối với nước ta vẫn còn là nước nghèo, lạc hậu, để khỏi tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Chúng ta không còn cách nào khác là đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây cũng chính là một trong những nội dung mà nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra. Do đó mà mọi người cần nắm được nội dung của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thì mới có thể thực hiện đúng hướng và có hiệu quả. Như vậy việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết. Đây là vấn đề quan trọng trong cách thức phát triển đất nước. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này em xin đề cập tới một số vấn đề sau: Phần 1 Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá 1. Khái niệm CNH-HĐH CNH-HĐH đã được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau. Theo giáo trình kinh tế chính trị tập II chương XIII CNH-HĐH nói cách chung nhất là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản về kỹ thuật, công nghệ sản xuất, tăng về mặt kinh tế kỹ thuật. CNH chính là thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế kỹ thuật, tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định và ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (1993) CNH là một quá trình phát triển nền kinh tế, trong quá trình này nguồn gốc của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng với nhịp độ cao, đảm bảo đạt đến sự tiến bộ, xã hội. Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ chỗ theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến những quy trình công nghệ, phương tiện phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao. 2. Lịch sử phát triển của công nghiệp hoá Việt Nam không phải là nước đầu tiên lấy công nghiệp hoá làm trọng tâm của sự phát triển. Trên thế giới trong số trên dưới 180 nước và lãnh thổ ngày nay đã có trên 50 nước được liệt kê vào loại các nước đang phát triển hoặc các nước công nghiệp mới (NIC). Đó là các nước công nghiệp hoá mới ở Đông á vài ba nước ở Mĩ La Tinh 24 nước nằm trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (DECD) một số nước thuộc Liên Xô trước đây và Đông Âu. Thực chất các nước thực hiện công nghiệp hoá trong vòng trên 200 năm kể qua từ cuộc đại cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVII. Được bắt đầu ở Anh vào những năm 80 của thế kỷ XVII bằng sự đổi mới công nghiệp se sợi và dệt làm cho năng suất công việc ngày càng tăng lên và sự tăng trưởng của hàng dệt trở thành một loại sản phẩm dẫn đầu trong công nghệ chế tạo là nhờ ở chuyên môn hoá, kết hợp với những thay đổi đơn giản trong các quy trình đã có. Và cho đến khi James Watt hoàn thiện máy hơi nước. Thì đây là cái mốc cơ bản cho sự phát triển máy móc công nghiệp. Sau những thay đổi về dệt, luyện sắt và máy hơi nước. Công nghiệp hoá lại tiếp tục tập trung vào sản xuất thép và đường sắt, tàu thuỷ chạy bằng hơi nước tạo nên cuộc cách mạng trong giao thông vận tải và thị trường toàn cầu. Kể từ đầu thế kỷ XX thì khoa học và công nghệ có bước tiến lớn việc phát minh ra qui trình Gilchris Tomas cho phép chế tạo thép từ quặng sắt có hàm lượng phốt pho cao đã thúc đẩy sự phát triển công nghiệp ở những nước có nhiều loại quặng này. Những đổi mới trong thời kỳ này về điện làm lạnh, hoá hữu cơ, động cơ đốt trong, điện báo vô tuyến được xem như là cơ sở của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai. Tiếp đến giai đoạn 1913-1950. Mặc dầu được thửa hưởng nhiều đổi mới công nghệ từ những giai đoạn đó và có những đóng góp của riêng nó sang quá trình đổi mới bị chậm lại do những rối loại về kinh tế - chính trị. Cụ thể xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai làm cho chủ nghĩa tự do hoá và toàn cầu hoá bị sụp đổ. Chỉ cho đến khoảng giữa những năm 1950 thì nền kinh tế thế giới được bước vào một thời kỳ phát triển chưa từng có với sự ra đời của những tiến bộ công nghệ hoàn toàn như vật liệu tổng hợp hoá chất dầu mỏ, năng lượng hạt nhân, máy bay phản lực máy tính và các sản phẩm điện tử. Đã có một bước tiến dài trong công nghệ viễn thông, vi điện tử và công nghệ rôbôt tác động đến những quá trình sản xuất với những thành công cực kỳ to lớn đến mức nhiều nhà nghiên cứu và tuyên bố rằng thế giới đang ở ngưỡng cửa của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 3. 3. Tính tất yếu của CNH ở nước ta Công cuộc xây dựng một xã hội mới phải được tiến hành một cách toàn diện trên các mặt: Quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và những con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá cũng chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Việc thực hiện và hoàn thành tốt công nghiệp hoá có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng trên nhiều mặt. Công nghiệp hoá nói cách chung nhất là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản xuất, thực hiện và xã hội hoá về mặt kinh tế, kỹ thuật góp phần tăng năng suất, tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, tạo được sự ổn định và ngày càng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Với kết quả tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí hoá - cơ sở vật chất thực sự của chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa cách mạng rất sâu sắc và toàn diện với sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trước hết về kinh tế, nó có tác dụng quyết định trong việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội, củng cố và hoàn thiện quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa, biến nền sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu thành nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cơ khí hoá và hiện đại hoá; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, bảo đảm tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống nhân dân lao động. Thứ hai về chính trị, nó có tác dụng quyết định trong việc xây dựng và tăng cường cơ sở xã hội của chuyên chính vô sản, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, củng cố khối liên minh công nông, thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc. Thứ ba về tư tưởng và văn hoá, một mặt nó thúc đẩy quần chúng lao động nâng cao giác ngộ cách mạng, nâng cao trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật, mặt khác nó tạo điều kiện vật chất cần thiết để thay đổi tận gốc tư tưởng và văn hoá cũ xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Thứ tư về quốc phòng, nó đảm bảo không ngừng củng cố, tăng cường và hiện đại hoá nền quốc phòng toàn dân. Cuối cùng, nó có tác dụng quyết định trong việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ làm cơ sở cho việc tăng cường quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Với những tác dụng to lớn và quan trọng như vậy công nghiệp hoá là nhân tố quyết định sự thắng lợi của ở những nước kinh tế chậm phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố như kinh tế, văn hoá, xã hội V.I Lênin cũng đã khẳng định không một ai có thể tranh cãi được vấn đề vai trò quyết định của nhân tố kinh tế trong chiến tranh... “phải chuẩn bị chiến tranh một cách lâu dài nghiêm túc bắt đầu từ việc phát triển nền kinh tế trong nước”(2) V.I Lênin toàn tập T27 Nxb Sự thật Hà Nội 1961, trang 71 . Trong đó việc cung cấp và bảo đảm cho quốc phòng và yếu tố vật chất kỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất từ đó có tác dụng trực tiếp và chủ yếu tạo ra các tiềm lực to lớn để củng cố và tăng cường cho quốc phòng. Công nghiệp hoá còn tạo khả năng nhiều cho việc thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học và công nghệ... Phần II Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam I. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam Điều kiện hiện tại của nền kinh tế Việt Nam 1. Khái quát quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước Trong quá trình phát triển của mình, nền kinh tế nước ta đã gặp vô vàn khó khăn: chịu sự tàn phá khắc nghiệt của các cuộc chiến tranh, sự chủ quan duy ý chí của đội ngũ lãnh đạo các cấp trong quá trình khôi phục và phát triển kinh tế. Vì vậy trong một thời gian dài nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng phát triển trì trệ và lạc hậu. Sớm nhận thức được thực trạng đó, kể từ Đại hội VI của Đảng đến nay chúng ta đã có những thay đổi mới trong định hướng nhận thức đúng đắn quá trình đổi mới đưa nèn kinh tế phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Mặc dù trước mắt còn nhiều khó khăn, song nhờ sự nỗ lực toàn diện của toàn Đảng, toàn dân, nền kinh tế nước nhà thoát khỏi tình trạng suy thoái, bước vào thời kỳ phát triển liên tục và toàn diện với trình độ cao, hoà nhập với trào lưu phát triển của khu vực và thế giới. 2. Những kết quả bước đầu đạt được trong quá trình đổi mới kinh tế Chúng ta đã đẩy nhanh được nhịp độ phát triển kinh tế xã hội lần đầu tiên hoàn thành vượt mốc mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm. Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 8,2% kế hoạch đề ra là 5,5-6% và nhịp độ của 5 năm 1986-1990 là 3,9%. Nhịp độ tăng bình quân về sản xuất công ngiệp là 13,3% về nông nghiệp là 4,5% (5 năm 1986-1990 là 5,9% và 3,6%). Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi theo hướng tiến bộ: tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 tăng lên 30,3% năm 1995, tỉ trọng dịch vụ từ 38,65% tăng lên 42,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 20%, vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 18,5% GDP, đến năm 1995 tăng lên 27,4% GDP, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ ngành kinh tế, nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiếp nhận từ nước ngoài tăng nhanh đến cuối năm 1995, số dự đầu tư của nước ngoài được cấp giấy phép đạt tổng số vốn đăng ký khoảng 18 tỷ USC. Lạm phát giảm từ 67,4% năm 1991 xuống còn 5,2% năm 1993, 14,4% năm 1994, 12,7% năm 1995(3) Sách lịch sử kinh tế quốc dân, Nxb Giáo dục 1997, trang 333 . Hoạt động khoa học công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường. Ngày càng có thêm những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ được áp dụng có hiệu quả vào sản xuất đời sống, trong đó có một số công nghệ tiên tiến tiếp thu từ nước ngoài. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghãi tiếp tục được xây dựng. 3. Một số tồn tại trong nền kinh tế nước ta hiện nay Tuy chúng ta đã đạt được một số thành quả bước đầu, nhưng cũng phải thu nhận rằng công cuộc đổi mới của chúng ta còn không ít những khuyết điểm và những mặt yếu kém trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ về nội bộ nền kinh tế còn quá thấp. Nhà nước thiếu chính sách để huy động nguồn vốn trong dân. Năm 1995, đầu tư xây dựng cơ bản nguồn vốn trong nước (kể cả nguồn vốn khấu hao cơ bản) chỉ chiếm 16,7% GDP trong đó phần vốn ngân sách chỉ chiếm 4,2% còn rất thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế và để tiếp thu có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài. Trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng vừa có tình trạng buông lỏng chưa phát huy tốt nhiều tiềm năng, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả sản xuất, chưa quan tâm tổng kết thực tiễn giúp đỡ các kinh tế mới xuất hiện phát triển toàn diện, thuận lợi. - Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực, tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa được ngăn chặn, thậm chí tiếp tục tăng. Trong tháng 4-5/1997 dư luận xã hội đã được chứng kiến một trong những thể dục của tệ nạn này là vụ án Nguyễn Văn Phước TAMEXCO và vụ Vũ Xuân Trường buôn bán ma tuý. - Như vậy về tổng thể, chúng ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề thuận lợi cho bước phát triển tiếp theo. Có cơ sở để nhận định rằng: đến nay, tuy còn một số mặt chưa được củng cố vững chắc, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đã hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, có điều kiện bước sang thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ ràng hơn. 4. Mục tiêu CNH-HĐH ở Việt Nam Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ; từ nay đến năm 2000 và những năm sa đó nền kinh tế nước ta phải tạo được một số bước phát triển cơ bản: tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt trên dưới 8%, thu nhập quốc dân bình quân tăng hàng năm từ 8-9% tổng sản phẩm quốc nội bình quân theo đầu người đạt 400-500 USD/năm. Cũng theo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 0cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong thời gian từ nay đến năm 2000 chúng ta ra sức phấn đấu để nước ta trở thành một nước công nghiệp. II. Nội dung chủ yếu và vai trò của công nghiệp hoá ở nước ta. Chúng ta đã thấy rằng, đối với những nước kém phát triển như nước ta với nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu... thì công nghiệp hoá là bước đi tất yếu mà các quốc gia sớm muộn đều phải trải qua. Trong thời đại ngày nay, cái cốt lõi của công nghiệp hoá là sự đổi mới chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu lên trình độ kỹ thuật công nghệ tiên tiến và sau đó là xây dựng một cơ cấu hợp lý trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCH. Vậy nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nước ta là: 1. Trang bị kỹ thuật - công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật công nghệ đương đại phát triển sôi động trên thế giới với những thành tựu kỳ diệu của mình đang làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực xã hội. Đặc biệt nó có vai trò to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa tất cả các nước nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển. Công nghiệp hoá là quy luật chung và phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy vậy, tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau nên các nước tiến hành công nghiệp hoá sẽ không giống nhau. Trong lịch sử, đã diễn ra hai cuộc công nghiệp hoá cổ điển mà tiến trình cách mạng công nghiệp diễn ra theo trật tự từ thủ công lên nửa cơ khí, rồi cơ khí. Từ công nghiệp nhẹ lần lượt từng bước sang công nghiệp nặng. Kiểu này chỉ thích hợp với thời kỳ đầu tiên làm công nghiệp hoá. Các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành công nghiệp hoa cũng theo kiểu cổ điển xong có cải tiến là không đi từ công nghiệp nhẹ mà ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Như Lênin đã từng nói: “Không có nền đại công nghiệp tổ chức cao không thể nói đến chủ nghĩa xã đối với một nước công nghiệp được”(4) Lênin toàn tập, tập 32, Nxb Sự thật, Hà Nội 1970, tr. 529. . Nước ta trước đây đi theo mô hình công nghiệp hoá này song sau nhiều năm thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp vẫn lạc hậu, công nghiệp cho đến nay chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ... có thể nói con đường công nghiệp hoá cổ điển nói chung và mô hình công nghiệp hoá ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây có nhiều hạn chế và ứng dụng trong hoàn cảnh thực tế hiện nay đạt hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy trong nền kinh tế hiện nay thì nước ta coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu để phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá. Để thực hiện nhiệm vụ trên cần đẩy nhanh quá trình chuyển cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở trong cả nông thôn, lâm nghiệp, ngư nghiệp với những công nghệ linh hoạt và công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến, xoá bỏ tình trạng du canh, du cư nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở. Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tạo việc làm và thu nhập cho nông dân nghèo. Như V.I Lênin từng nói: “Đại công nghiệp hoá và việc áp dụng đại công nghiệp đó vào nông nghiệp là cơ sở kinh tế duy nhất của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở kinh tế duy nhất để đấu tranh một cách thắng lợi nhằm giải phóng loài người khỏi ách tư bản”(5) V.I Lênin: Bàn về công nghiệp hoá. Nxb Sự thật Hà Nội, 1962, tr. 147. . Nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp nhưng không phải là cơ sở duy nhất. Và thông thường trong những năm đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nó là cơ sở quan trọng nhất. Đến một trình độ phát triển nhất định, công nghiệp nặng tự có tạo ra cơ sở nguyên liệu, thị trường và nguồn tích luỹ vốn chủ yếu để phát triển bản thân nó. Trong thời kỳ bùng nổ những thành tựu khoa học kỹ thuật. Nhiều nước đã lợi dụng thành tựu này để tạo đà phát triển như Nam Triều Tiên đã trở thành một nước đứng hàng đầu trong các nước đi vào kỷ nguyên thông tin. Như vậy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá là quá trình nâng cao trình độ khoa học, công nghệ cho tất cả các ngành bằng sự kết hợp nhiều trình độ. ở đây việc lựa chọn công nghệ có ý nghĩa hết sức quan trọng, chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng nên lựa chọn ưu tiên công nghệ nào trước, công nghệ nào sau, tạm duy trì công nghệ nào... có như vậy mới tránh khỏi sai lầm “phủ định sạch trơn” công nghệ hoặc “nóng vội thay đổi” cả hai đều gây ảnh hưởng xấu về kinh tế lẫn truyền thống về tập quán xã hội, bên cạnh đó, chúng ta cần phải chuẩn bị sớm các điều kiện cần để tiếp nhận công nghệ hiện đại như xác định đúng lĩnh vực và ngành mũi nhọn để đột phá, đào tạo trước cán bộ khoa học... Bố trí quy mô các doanh nghiệp một cách có khoa học và phù hợp thực tiễn. Coi trọng cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình trong việc định tỉ suất khấu hao tài sản cố định khi nhận chuyển giao công nghệ mới rút ngắn thời gian thủ công khi du nhập công nghệ mới đồng thời nâng cao trình độ, tinh thần trách nhiệm và đạo đức “cần - kiệm - liêm - chính”, “chí- công- vô tư” ở đội ngũ chuyên làm công tác nhận các công nghệ mới. Tóm lại trong điều kiện nền kinh tế mở với các chính sách đa phương hoá đa dang hoá kinh tế kỹ thuật đã và đang tạo ra những khả năng to lớn để nước ta vừa tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài vừa cố gắng phát huy mọi khả năng và tiềm lực trong nước để cơ khí hoá và hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta không đơn thuần chỉ là sự đổi mới của lực lượng sản xuất và công nghệ sản xuất mà còn là quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế từ một cơ cấu kỹ, không hợp lý sang cơ cấu kinh tế mới theo hướng công nghệ tiên tiến. Chúng ta cần phải hiểu đầy đủ rằng cơ cấu kinh tế là một tổng thể kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau tác động qua lại với nhau trong một khoảng không gian và thời gian xác định, trong một điều kiện kinh tế xã hội nhất định, nó thể hiện đầy đủ cả mặt định tính và định lượng của nền kinh tế và phản ánh trạng thái biến đổi của sự phân công lao động xã hội. Trong cơ cấu đó, quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp và dịch vụ là các bộ phận có tầm quan trọng và chúng được xem xét ở nhiều góc độ như trình độ mỹ thuật công nghệ, quy mô, tốc độ phát triển... Lịch sử phát triển cơ cấu kinh tế của các nước trên thế giới đã và đang trải qua ba mô hình kinh tế: kinh tế thị trường, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và mô hình kinh tế hỗn hợp (tức là mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước) việc lựa chọn các mô hình kinh tế trên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước, ở nước ta những năm trước đây cơ cấu kinh tế được xây dựng theo hướng quốc doanh hoá và tập thể hoá. Còn cơ cấu lãnh thổ theo hướng vừa đảm bảo phát triển toàn diện vừa chú trọng phát triển đô thị, đồng bằng và khu công nghiệp. Tất cả các biện pháp thực hiện đều phụ thuộc vào nhiều ý muốn chủ quan và quy định của các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh. Có thể nói đấy là hậu quả của những khó khăn trong chiến tranh chống đế quốc xâm lược Pháp - Mỹ và sự sai lầm trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội duy ý chí theo kinh nghiệm của Liên xô cũ. Kết cục hậu quả là nền kinh tế của ta không phát triển, thậm chí bị thụt lùi đặc biệt là vào những năm 1978-1979, thời kỳ Trung Quốc đánh phá ta ở biên giới. Để khắc phục những khó khăn và sai lầm trên chúng ta chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển 3 chương trình kinh tế: phát triển lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đưa nông nghiệp lên mặt trận hàng đầu, chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp nặng để phục vụ 3 chương trình kinh tế, tiếp đó chúng ta tiếp tục chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Xuất phát từ những quan điểm mới về công nghiệp hoá trong thời đại ngày nay, từ kinh nghiệm của các nước có điểm xuất phát và điều kiện tương đồng, để xây dựng một cơ cấu kinh tế mới hợp lý thì cơ cấu kinh tế phải đảm bảo những yêu cầu sau: Phải đảm bảo phù hợp với quy mô kinh tế hướng tới. Trước đây chúng ta đã áp dụng mý móc mô hình kinh tế tập trung chỉ huy nhưng thực tiễn đã cho thấy mô hình này không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, không phù hợp với yêu cầu cuộc sống của người Việt Nam, Đảng và nhà nước đã khắc phục bằng viêc chuyển đổi sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế như vậy là vừa tôn trọng quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật kinh tế vừa đảm bảo sự phát triển văn minh, xã hội. Phù hợp với khả năng cung ứng của nền kinh tế và sự phát triển của các quan hệ quốc tế: đối với nước ta, nhu cầu tối thiểu trong những năm trước mắt không phải là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà phải ưu tiên phát triển lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng cả về mặt số lượng và chất lượng để cạnh tranh với hàng nước ngoài tràn vào, giữ vững thị trường trong nước. Bên cạnh đó cũng ưu tiên xuất khẩu nhằm mở rộng quan hệ quốc tế và các ngành công nghiệp mũi nhọn không thể không quan tâm đầu tư và ưu tiên. Đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa quy mô lớn, vừa và nhỏ. Trong đó quy mô vừa và nhỏ là chính, ứng dụng khoa học kỹ thuật - công nghệ tiên tiến với việc khai thác và phát huy những kinh nghiệm truyền thống và công cụ cải tiến, chúng ta có thể học tập kinh nghiệm sử dụng cơ cấu kinh tế hai tầng của Nhật: một tầng là các doanh nghiệp khổng lồ có kỹ thuật và vốn tập trung khá cao. Một tầng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ đòi hỏi nhiều lao động, tiền lương thấp. Hai tầng vừa cạnh tranh, vừa hợp tác cùng tồn tại và phát triển. 3. Củng cố nền quốc phòng toàn dân Đảm bảo có sự kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu kinh tế, quốc phòng và chính trị. Mục tiêu quốc phòng và chính trị là điều kiện để bảo vệ cho mục tiêu kinh tế và ngược lại kinh tế tạo điều kiện ổn định an ninh chính trị xã hội. Từ một nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu năng suất lao động xã hội còn rất thấp, việc tăng cường lực lượng quốc phòng càng làm gay gắt thêm mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng - mọi sự tính toán không kỹ lưỡng, mọi việc làm không hợp lý sẽ gây lãng phí, căng thẳng không cần thiết, sẽ có ảnh hưởng xấu không chỉ về mặt kinh tế hay quốc phòng, mà cả về mặt chính trị nữa. Đảng ta chủ trương phải “Kết hợp đúng đắn xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng”. Có nghĩa là đem gắn bó hai lĩnh vực hoạt động khác nhau nhưng vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhằm phát huy mặt thống nhất, hạn chế mặt mâu thuẫn, sao cho cả hai bên có thể chiếu cố lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong quá trình xây dựng kinh tế cũng như trong quá trình củng cố quốc phòng, tất cả các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương cần kết hợp chặt chẽ yêu cầu kinh tế với yêu câù quốc phòng, bảo đảm cho mỗi bước phát triển kinh tế đều có tác dụng nâng cao sức mạnh quốc phòng, mỗi bước phát triển quốc phòng lại tăng cường được khả năng xây dựng và bảo vệ kinh tế. Để có thể thu hẹp khoảng cách các nước sau 10-20 năm chúng ta cần phải có nhịp độ tăng trưởng bình quân 10%. Yêu cầu tăng trưởng như thế phải trông chờ vào một cơ cấu kinh tế tiến bộ và trình độ quản lý tốt. Trước mắt, Đảng ta đã khẳng định quá trình công nghiệp hóa ở nước ta là quá trình tạo ra cơ cấu kinh tế mới mà bộ xương của nó là: “cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ” gắn với sự phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng. Để đạt được điều đó thì cần phải thực hiện tốt sự kết hợp công nghệ với nhiều trình độ khác nhau đồng thời tiến hành phân công lao động xã hội trên nguyên tắc: tỉ lệ số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm xuống và tỉ lệ lao động công nghiệp tăng lên. Tỉ lệ lao động trí óc ngày càng tăng và chính phần lớn trong tổng lao động xã hội. Tốc độ lao động trong các ngành lao động dịch vụ tăng nhanh hơn lao động trong các ngành sản xuất vật chất. Kinh nghiệm các nước NIC cho thấy tổng dịch chuyển công nghiệp và dịch vụ càng lớn thì mức tăng GDP sẽ tự quyết định bởi mức tăng của sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó việc tăng năng suất lao động và tăng trưởng trong nông nghiệp khó khăn hơn và cũng chậm hơn so với sản xuất công nghiệp dịch vụ, nhất là khi sự tăng trưởng theo chiều rộng đã không còn thực hiện được. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần chú ý tới lực lượng lao động ở khu vực nhà nước- đặc biệt trong cơ quan hành chính sự nghiệp: số người còn quá lớn so với nhu cầu: năng lực và hiệu quả công tác còn thấp, do đó cần phải cải cách hành chính nhà nước theo hướng quản lý gọn nhẹ đạt chất lượng và hiệu quả cao. Nắm vững và vận dụng những quan điểm trên chắc chắn chúng ta sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp. . Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam Việt Nam đi lên CNXH từ một xuất phát điểm rất thấp lúc đó có tới 95% lao động là nông dân, tính nông nghiệp bao trùm toàn bộ nền kinh tế. Để hoàn thành được những mục tiêu của thời kì quá độ là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì điều quan trọng là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội; phải xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến. Muốn vậy, trong thời kì quá độ chúng ta phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau. Thứ nhất: Phải phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.Căn cứ vào thực lực kinh tế và bối cảnh kinh tế, hiện nay lực lượng sản xuất của nước ta có ba yếu tố lao động, tư liệu sản xuất và khoa học công nghệ. Để phát triển lực lượng sản xuất trong thời kì quá độ ở nước ta thì công việc đầu tiên là cần phải tập trung vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực với trình độ ngày càng cao. Để làm được điều đó thì phải tập trung phát triển chiến lược giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: “ giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” còn theo nghị quyết Đại hội Đảng IX thì “ Trong bối cảnh hiện nay để tránh nguy cơ tụt hậu, để ứng dụng nhanh thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới phải đào tạo đội ngũ công nhân, phải nâng cao chất lượng giáo dục”. Hiện nay, để giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu cần phải: Đào tạo mới phải đáp ứng đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phải tiến hành đào tạo lại lực lượng lao động hiện có cho phù hợp với những đòi hỏi hiện nay Đào tạo nâng cao: Nhu cầu đào tạo nâng cao vô cùng lớn vì hiện nay chúng ta đi theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế nên phải có một trình độ khoa học của quốc tế. Để từng bước tạo lập cơ sở vật chất kĩ thuật làm nền tảng cho phát triển kinh tế thời kì quá độ thì ở nước ta công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xác định là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt quá trình quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ diễn ra ở trong các trung tâm công nghiệp mà còn công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Muốn thực hiện tốt được nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì chúng ta phải phát triển được lực lượng sản xuất. Để phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta bên cạnh thực hiện chiến lược con người và tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá .Để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật hay tư liệu sản xuất Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến chiến lược phát triển khoa học công nghệ. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển khoa học công nghệ phải tập trung vào những ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn. Phát triển khoa học công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn phải tập trung chế biến sản phẩm nông nghiệp ví dụ như trước đây ta xuất khẩu gạo với giá 35 – 40 USD/ tấn nhưng hiện nay do áp dụng khoa học công nghệ, chất lượng gạo xuất khẩu tăng lên do đó giá tăng lên từ 5 đến 7 USD/ tấn. Khoa học công nghệ phải tập chung vào những ngành kinh tế có sức cạnh tranh với khu vực và thế giới như dệt may, giày da Những ngành đem lại lợi thế cho chúng ta. Về chiến lược phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam được Đại hội Đảng IX khẳng định: Khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo trở thành quốc sách hàng đầu ở nước ta hiện nay. Thứ hai: Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ bên cạnh việc phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi cách mạng nước ta tiến hành đồng thời quá trình vừa xây dựng vừa hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên cả ba mặt là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong việc tổ chức quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong việc phân phối kết quả sản xuất Việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay được tiến hành dưới nhiều hình thức như: Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước để chuyển các doanh nghiệp từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu là các cổ đông và thực hiện giải quyết các vấn đề liên quan đến sở hữu đất đai, tài sản, của cải liên quan đến chủ thể trong nền kinh tế. Việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên phương diện sản xuất quản lí ở nước ta được đặc biệt quan tâm đến việc hình thành các loại hình kinh tế, các tổ chức kinh doanh; điều đó phải căn cứ vào tình hình thực tiễn trong nước. Về việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ trong việc phân phối kết quả sản xuất: Trước đây phân phối theo tài sản và phân phối theo vốn là hình thức phân phối của tư bản chủ nghĩa vì vốn và tài sản đều là của giai cấp tư sản còn phân phối theo lao động mới là phương pháp phân phối của xã hội chủ nghĩa nhưng hiện nay ở nước ta đang tồn tại ba hình thức phân phối đó là phân phối theo lao động, phân phối căn cứ vào tài sản và vốn đóng góp và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thứ ba: Mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại. Hiện nay xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới. Cả thế giới đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thúc đẩy quá trình quốc tế hoá, xã hội hoá nền kinh tế cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với chiến lược: “Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”; “Việt Nam sẵn sàng làm đối tác đáng tin cậy của các quốc gia trên thế giới”. Sách lược tham gia hội nhập của Việt Nam là “Tạm gác quá khứ hướng tới tương lai, đa phương hoá các quan hệ quốc tế và đa dạng hoá các hình thức kinh tế nước ngoài. Chúng ta tham gia vào quá trình đó nhằm mục tiêu phát huy nội lực ở bên ngoài để phát triển kinh tế, nội lực là chính, là chủ yếu nhưng ngoại lực là quan trọng. Một điều đáng chú ý là tham gia hội nhập kinh tế quốc tế dựa trên nguyên tắc là phát triển kinh tế đối ngoại phải đảm bảo độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đất nước và đảm bảo an ninh quốc phòng của quốc gia. Muốn, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả chúng ta phải nâng cao sức cạnh tranh, tích cực tham gia khai thác thị trường thế giới, tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu, xử lí mối quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia. III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Nhìn lại chặng đường quá độ trong thời gian qua, chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu đã đạt được. Tuy nhiên đến nay vẫn còn một số mặt chưa được củng cố vững chắc. Chính từ những thành tựu và những hạn chế còn tồn tại chúng ta có thể đưa ra được những giải pháp để trong thời gian tới chúng ta đạt được những thành tựu quan trọng hơn để hoàn thành nhiệm vụ của thời kì quá độ lên CNXH của Việt Nam để tiến đến một tương lai tươi đẹp xã hội xã hội chủ nghĩa. 1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang tạo cho chúng ta những thời cơ, những thách thức. Do đó chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật để chuyển dịch cơ cấu, để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của đất nước, tạo năng suất lao động xã hội cao, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta cần phải có giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước hết, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất lớn do đó chúng ta phải huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Chúng ta có thể huy động vốn từ trong nước hay nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, muốn huy động được nguồn vốn trong nước điều kiện cần là phải nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất như thế sẽ làm tăng nhanh thu nhập của người lao động thì họ sẽ có các khoản dư để tiết kiệm. Nhưng để có được tiết kiệm lớn thì Nhà nước và các ngân hàng phải có những chính sách khuyến khích tiết kiệm như giảm thuế đánh vào lãi suất, nâng lãi suất tiết kiệm, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí. Nhưng nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn nên tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế là hết sức khó khăn, do đó cần tận dụng mọi khả năng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Muốn thu hút được vốn đầu tư nước ngoài buộc chúng ta phải có những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, giảm bớt rườm rà trong thủ tục hành chính, cải thiện được môi trường đầu tư theo hướng giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc độc quyền nhà nước như là điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường Nếu huy động vốn lớn mà sử dụng không có hiệu quả thì mọi nỗ lực huy động vốn mất tác dụng. Do đó đồng thời với huy động vốn thì chúng ta phải sử dụng vốn có hiệu quả. Để phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững thì phát triển kinh tế dân doanh không chỉ dừng lại ở chỗ mở rộng thêm nhiều doanh nghiệp mới, huy động thêm vốn mà phải quan tâm nhiều hơn đến trình độ trang bị công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị phần tiêu thụ thành phẩm. Bởi vậy, Nhà nước phải có chính sách thích đáng về đầu tư, trang bị công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Nhà nước phải có cơ chế đặc thù về các phương diện đầu tư, tài chính, tín dụng ( miễn giảm thuế, vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi). trong thời gian tới cần gia tăng mạnh mẽ tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành công nghệ cao, không đầu tư thêm vốn vào những công trình, dự án kinh tế không có khả năng thu hồi vốn.Về phía các doanh nghiệp phải sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước, phải giải thể phá sản, bán hoặc cho thuê các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ kéo dài. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là tế bào của nền kinh tế, muốn các doanh nghiệp này tạo ra sản phẩm tốt, giá thành hạ thì phải tăng năng suất lao động nên phải nhanh chóng đầu tư công nghệ vì trình độ trang bị hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam đã bị lạc hậu hai đến ba thế hệ so với khu vực và thế giới – nguyên nhân giảm hiệu suất sử dụng vốn. Về nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động :Vấn đề thiếu lao động có tay nghề đang là một vấn nạn chung. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng mục tiêu phát triển và hội nhập của đất nước thì Đảng, Nhà nước và địa phương cần phải có chiến lược đào tạo nghề, chuẩn đội ngũ lao động có kĩ năng tay nghề, trình độ chuyên môn kĩ thuật cao. Cần phải chuyển dần việc đào tạo nghề đơn giản sang đào tạo đội ngũ lao động có nghề, có kĩ năng và có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh với thị trường lao động. Cụ thể là ưu tiên đào tạo những ngành nghề mũi nhọn có tỷ trọng kinh tế cao, đòi hỏi kĩ thuật, công nghệ mới như ngành cơ khí, chế tác, sinh học và dịch vụ tiên tiếnMuốn nâng cao được trình độ đội ngũ lao động thì đầu tiên cần phải phát triển giáo dục phải tăng mức chi phí giáo dục bình quân đầu người lên (hiện nay Việt Nam đang đứng gần cuối bảng xếp hạng của ngân hàng Deustche thấp hơn 24 lần so với Singapo) và cũng phải đưa ra được chiến lược giáo dục hướng tới các kĩ năng mà thị trường đang cần. Về phát triển khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ cũng là một nhân tố của lực lượng sản xuất. Để phát triển kinh tế buộc phát triển mạnh mẽ hơn nữa về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽ đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh Phát triển khoa học công nghệ thì phải đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các mũi nhọn, lựa chon công nghệ thích hợp, khai thác được lợi thế của lao động. Cùng với việc nhập công nghệ của nước ngoài chúng ta phải khẩn trương đổi mới tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước. Phải dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học, phải phát triển khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phải đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức để tránh chảy máu chất xám. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới. Về mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được thuận lợi và nhanh chóng thành công bấy nhiêu. Trong suốt thời gian qua, chúng ta luôn tích cực tham gia vào xu thế chung của quốc tế, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, nâng cao được sức cạnh tranh, phát triển mạnh sản phẩm, xây dựng được quỹ hỗ trợ xuất khẩu; đẩy mạnh các lĩnh vực thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, thu hút kiều hối Chúng ta phải có những chính sách tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, cải cách thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng kí đầu tư. Triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư gián tiếp của nước ngoài. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư trong nước và có chính sách hỗ trợ, giúp đỡ công dân Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ của các chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế. Gắn chặt việc sử dụng vốn, vay vốn với việc trả nợ Phần III Một vài suy nghĩ về công nghiệp hoá ở Việt Nam Đã có nhiều bài viết về công nghiệp hoá ở nước ta nhưng trong bài viết này em trình bày về điểm xuất phát của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII họp từ ngày 16 đến 24/12/1996 đã chỉ rõ: nền khoa học và công nghệ nước ta còn chậm phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá còn thua kém so với các nước trong khu vực. Những yếu kém nói trên có trong nhiều mặt, nhưng trong đó nổi bật hơn cả là vấn đề công nghệ và trang thiết bị kỹ thuật, điều đó gây ảnh hưởng không nhỏ chọ phát triển nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá đó chính là vấn đề tất yếu khách quan và phải được thực hiện trên nhiều lĩnh vực. Vấn đề đặt ra là điểm xuất phát của sự nghiệp vĩ đại này ở đâu? Cần giải quyết những vấn đề gì cho sự thành công của sự nghiệp này. Vậy theo chúng em đó chính là “Đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ trong từng doanh nghiệp là điểm xuất phát của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”. Có thể kết luận như vậy được là vì hơn bất cứ nơi nào, trình độ trang thiết bị kỹ thuật công nghệ trong các doanh nghiệp là thước đo quan trọng nhất cho nền văn minh của một quốc gia. Vậy, việc đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ trong từng doanh nghiệp đã và đang gặp phải những khó khăn, trở ngại gì? Cần làm gì để tháo gỡ những khó khăn đó? Những khó khăn lớn trong vấn đề đó là: - Một là nhu cầu về vốn cho đổi mới tràn bị kỹ thuật và công nghệ. Nhận định về vấn đề này, Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 2 khoá VII (12/1986) đã nêu: Chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách xuất nhập khẩu chưa khuyến khích được các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhà nước, tích cực ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi, chưa tạo việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy cùng với sự thay đổi cải tiến chính sách tín dụng đầu tư, chính sách thuế và chính sách về tài chính doanh nghiệp, việc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, mục tiêu cho sự hình thành của thị trường chứng khoán Việt Nam. - Hai là sửa đổi chính sách về lao động và tiền lương nhằm thu hút lao động giỏi về sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Ba là cần có chính sách thoả đáng để huy động các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Bốn là thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho số vốn dành cho đổi mới trang bị kỹ thuật và công nghệ thực sự được sử dụng cho mục đích này. Kết luận chung Sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa mà thực chất là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật của nưóc ta là sự nghiệp cách mạng cực kỳ to lớn - nó tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo nên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ lực lượng sản xuất trong tổ chức sản xuất, trong quản lý kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với năng suất lao động xã hội ngày càng cao, và sự nghiệp cách mạng hết sức phức tạp, khó khăn mà thông thường phải hàng trăm năm mới làm được, đòi hỏi ở nhân dân ta một quyết tâm rất lớn, một nghị lực phi thường, một tinh thần chủ động sáng tạo vượt bậc, một ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa cao. Có như vậy, mới biến nước ta từ một nước mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ trở thành “một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc”(6) Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật Hà Nội, 1977, trang 30. . Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá trên cơ sở phải giữ vững độc lập chủ quyền, đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế với nước ngoài. Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường. Em xin cảm ơn PGS.TS Đào Phùng Lân đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành tiểu luận này. Tài liệu tham khảo 1. V.I Lênin toàn tập T27, Nxb Sự thật Hà Nội 1961 1. V.I Lênin toàn tập T32, Nxb Sự thật Hà Nội 1970 1. V.I Lênin bàn về công nghiệp hoá, Nxb Sự thật Hà Nội 1962 4. Kinh tế châu á - Thái Bình Dương, số 2 tháng 6 năm 1994 5. Tạp chí Cộng sản 8 tháng 4, 1998 6. Lịch sử KTQD, Nxb Giáo dục, 1997 7. Văn kiện Hội nghị lần thứ VII, Nxb Sự thật,Hà Nội 1991. 8. Văn kiện Hội nghị lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7406.doc
Tài liệu liên quan