Bên cạnh đó, cần xây dựng luật điều
chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh
riêng biệt với hành vi hạn chế cạnh tranh, để
chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lí
cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh thật sự mạnh mẽ theo yêu cầu
thực tiễn phát triển. Hiện tại, chức năng
nhiệm vụ của cơ quan quản lí cạnh tranh
được quy định tại Khoản 2 Điều 49 Luật
cạnh tranh hiện hành theo hướng rất rộng
và ôm đồm về hai lĩnh vực hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Vì
thế cho nên, các quy định về chức năng
thiếu tính chuyên sâu về điều chỉnh hành vi
không lành mạnh, thực sự là một rào cản
đối với việc bảo vệ người tiêu dung, bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp và của nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội ở nước ta. Kinh nghiệm
của Nhật Bản về ván đề này chúng tôi muốn
nêu để tham khảo, cụ thể là Luật chống
cạnh tranh không lành mạnh của Nhật ra đời
khá sớm, từ những năm 1934, gồm 22 điều
và một số điều khoản bổ sung qua các lần
sửa đổi điều chỉnh các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trên thương trường kinh
doanh thương mại. Luật này đã thực sự
đóng góp phần quan trọng lớn lao đối với
việc điều chỉnh độc lập các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong nền kinh tế
nước Nhật bản trong suốt nhiều thập kỉ qua.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bất cập cần sửa đổi trong quy trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy định pháp luật cạnh tranh hiện hành của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015
22
Một số bất cập cần sửa đổi trong quy trình xử lý các
vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy định
pháp luật cạnh tranh hiện hành của Việt Nam
Proposals for improvement of the law against unfaircompetition in Viet Nam
TS. Hồ Xuân Thắng
Trường Đại học Sài Gòn
Ph.D. Ho Xuan Thang
Sai Gon University
Tóm tắt
Dưới góc nhìn của khoa học pháp lý, Tác giả phân tích những luận cứ của sự bất cập về quy trình xử lý
các hành vi Cạnh tranh không lành mạnh của pháp luật cạnh tranh năm 2004, đồng thời đề xuất những
kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, phục vụ đắc
lực cho việc hội nhập kinh tế thế giới mà nước ta là thành viên.
Từ khóa: sửa đổi, bổ sung quy trình xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nước ta, những bất cập
của pháp luật cạnh tranh hiện hành về quy trình xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam
Abstract
In the perspective of jurisprudence, the author analyzes the arguments over the inadequacies of the
process of acts of unfaircompetition law in 2004 and proposes recommendations to improve the law
against unfaircompetition in Viet Nam, serving effectively the process of global economic integration.
Keywords: perspective of jurisprudence, unfaircompetition law
Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội
thông qua ngày 3-12-2004, có hiệu lực vào
ngày 01-7-2005, đóng góp rất quan trọng
đối với việc điều chỉnh hầu hết các quan hệ
kinh tế trên thương trường, bảo đảm cho sự
lành mạnh của các quan hệ cạnh tranh vốn
đang diễn biến phức tạp với sự biểu hiện
của rất nhiều hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong một nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều nội dung
quy định trong luật và văn bản hướng dẫn
thi hành luật này đã được ban hành, chủ
yếu tập trung làm rõ, giải thích các quy
định điều chỉnh đối với các hành vi hạn chế
cạnh tranh, mà ít chú ý đến các quy định
điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nói chung và quy trình xử lý các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói
riêng. Chính vì thế mà việc điều chỉnh loại
hành vi này đã gặp rất nhiều khó khăn
trong việc triển khai áp dụng vào thực tiễn
suốt 10 năm qua.
Do vậy, việc nghiên cứu những quy
định về quy trình xử lý các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh của pháp luật cạnh
tranh năm 2004 để sửa đổi bổ sung nhằm
hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam là rất cần
23
thiết. Dưới góc nhìn của khoa học pháp lý,
chúng tôi mạnh dạn đưa ra những luận cứ
liên quan đến quy trình xử lý các vụ việc
cạnh tranh không lành mạnh trong pháp
luật cạnh tranh hiện hành và một số kiến
nghị hoàn thiện các quy định đó trên
phương diện cùng nhau trao đổi.
Thứ nhất: Căn cứ điều tra vụ việc
cạnh tranh khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Theo quy định tại Điều 86 của luật
cạnh tranh hiện hành, có hai căn cứ để tiến
hành điều tra một vụ việc cạnh tranh nói
chung và cạnh tranh không lành mạnh nói
riêng, cụ thể được quy định như sau: “Việc
điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến
hành theo quyết định của Thủ trưởng cơ
quan quản lý cạnh tranh trong những
trường hợp sau đây: 1. Hồ sơ khiếu nại vụ
việc cạnh tranh đã được cơ quan quản lý
cạnh tranh thụ lý; 2. Cơ quan quản lý cạnh
tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm quy
định của Luật này.”
Như vậy theo nội dung quy định tại
Khoản 1, Điều 86, chúng ta có thể thấy
trình tự, thủ tục áp dụng đối với các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh được bắt
đầu từ khi cơ quan quản lý cạnh tranh thụ
lý hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh. Tại
Điều 58 Luật Cạnh tranh 2004 chỉ rõ, khi
tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi
vi phạm quy định của Luật có quyền khiếu
nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh. Tổ
chức, cá nhân có quyền khiếu nại về những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng
thời cũng có quyền khiếu nại cả những việc
làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng
cạnh tranh của các cơ quan và người có
thẩm quyền hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc
các cơ quan đó, nếu như tổ chức, cá nhân
cho rằng việc vi phạm đó xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trường hợp các vi phạm này không ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ
thì cũng có quyền làm đơn tố cáo về hành
vi vi phạm theo quy định của pháp luật
khiếu nại, tố cáo. Thời hiệu khiếu nại theo
quy định của Luật Cạnh tranh là 2 năm kể
từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp
luật về cạnh tranh được thực hiện.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 74
Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh
tranh ngày 15/9/2005, có hiệu lực ngày
30/9/2005 thì: Để được cơ quan quản lý
cạnh tranh thụ lý vụ việc, người khiếu nại
phải làm đơn và nộp tiền tạm ứng chi phí
cho việc giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đơn
khiếu nại có nội dung theo mẫu của cơ
quan quản lý cạnh tranh, theo đó phải có:
ngày tháng năm làm đơn; tên cơ quan
quản lý cạnh tranh; họ tên địa chỉ của bên
làm đơn khiếu nại, bên bị khiếu nại và của
người có quyền, nghĩa vụ liên quan, những
vấn đề cụ thể yêu cầu cơ quan quản lý
cạnh tranh giải quyết; họ tên địa chỉ của
người làm chứng (nếu có), các thông tin
liên quan mà bên khiếu nại xét thấy cần
thiết cho việc giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Bên khiếu nại là cá nhân phải ký tên hoặc
điểm chỉ; nếu là tổ chức nộp đơn khiếu nại
thì đại diện hợp pháp của tổ chức đó phải
ký tên và đóng dấu.
Mức tạm ứng chi phí, Điều 53 Nghị
định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh
ngày 15/9/2005, có hiệu lực ngày
30/9/2005, đã quy định mức tạm ứng chi
phí giải quyết vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh mà người khiếu nại phải nộp
bằng 30% mức phí giải quyết vụ việc cạnh
tranh đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, tức là bằng 30% của
10.000.000 đồng. Chứng cứ phải đảm bảo
24
tính trung thực, Điều 76 Nghị định
116/2005/NĐ-CP Quy định chi tiết một số
điều của Luật cạnh tranh, có nêu rõ: Bên
khiếu nại có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
để chứng minh hành vi bị khiếu nại đã xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Chứng cứ có thể là vật chứng, nhưng
phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc
hoặc là lời khai của người làm chứng, giải
trình của tổ chức cá nhân liên quan hay tài
liệu gốc, bản sao tài liệu gốc, bản dịch tài
liệu gốc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
cung cấp, xác nhận; kết quả giám định hợp
pháp. Bên khiếu nại phải đưa ra chứng cứ
để chứng minh cho khiếu nại, yêu cầu đó
của mình là có căn cứ và hợp pháp. Sau khi
nhận được đơn của bên khiếu nại và nộp
tạm ứng chi phí cho việc giải quyết vụ việc
hợp lệ, trong thời hạn 7 ngày làm việc kể
từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan quản lý
cạnh tranh có trách nhiệm xem xét và
thông báo cho bên khiếu nại biết về việc có
thụ lý hay trả lại hồ sơ cho bên khiếu nại
nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền
điều tra, giải quyết của cơ quan quản lý
cạnh tranh. Cơ quan cạnh tranh sẽ tiến
hành điều tra tiền tố tụng nhằm đánh giá lại
hành vi của doanh nghiệp trong trường hợp
thông qua rà soát thị trường, cơ quan điều
tra tự phát hiện hành vi vi phạm của doanh
nghiệp trên thị trường có dấu hiệu vi phạm
Luật Cạnh tranh. Thủ trưởng cơ quan điều
tra sẽ quyết định tiến hành điều tra vụ việc
theo thủ tục tố tụng cạnh tranh, sau quá
trình điều tra tiền tố tụng, nếu xét thấy thực
sự có dấu hiệu vi phạm Luật cạnh tranh.
Kiến nghị: - Sửa lại nội dung quy
định tại Điều 58 Luật cạnh tranh theo
hướng “Trường hợp các vi phạm này
không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và
lợi ích của họ thì cũng có quyền làm đơn
tố cáo về hành vi vi phạm theo quy định
của pháp luật tố cáo”. Bởi vì cho đến thời
điểm này, luật khiếu nại, luật tố cáo năm
2004 đã hết hiệu lực thi hành và thay vào
đó là việc Quốc hội khóa XIII thông qua
hai luật khiếu nại và tố cáo riêng biệt làm
cơ sở để các cá nhân, cơ quan, tổ chức thể
hiện quyền cao nhất của mình, nhất là
trong việc giải quyết các vụ việc cạnh
tranh không lành mạnh. Nếu không sửa
đổi bổ sung cụ thể việc áp dụng luật tố cáo
năm 2011 trong quy định tại Điều 58 của
Luật cạnh tranh hiện hành thì việc khiếu
nại, tố cáo trong việc xử lý cạnh tranh nói
chung và cạnh tranh không lành mạnh nói
riêng sẽ là những văn bản lỗi thời, không
khoa học.
- Về Thời hiệu khiếu nại theo quy định
của Luật Cạnh tranh là 2 năm kể từ ngày
hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về
cạnh tranh được thực hiện, quy định tại
Luật cạnh tranh là chưa phù hợp. Đối với
lĩnh vực cạnh tranh không lành mạnh, theo
ý kiến chúng tôi cần thiết phải nâng thời
hiệu khiếu nại từ 24 tháng lên thành 36
tháng là hợp lí. Bởi vì, hậu quả từ các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ
thể tham gia kinh doanh, hoạt động thương
mại gây ra cho nhà nước, các doanh nghiệp
và người tiêu dùng là rất lớn, ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Nếu để thời hiệu khiếu nại 2
năm như hiện nay thì rất ngắn không kịp
phát hiện và xử lý các vụ việc vi phạm có
sự rủi ro lớn, tiêu cực mạnh từ các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong thực
tiễn. Kinh nghiệm của Liên bang Nga cho
thấy: “Đưa ra các thông tin không chính
xác về hàng hóa hoặc nhà sản xuất cũng là
hành vi vi phạm quy định pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh” và
“thời hiệu xử lý từ 3 năm đếm 5 năm kể từ
ngày hành vi đó bị phát hiện”(3).
25
Thứ hai: Xử lý đối với các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định của pháp luật cạnh
tranh hiện hành, các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được xử lý theo những
trình tự sau đây: Sau khi kết thúc điều tra,
xác định là có hành vi cạnh tranh không
lành mạnh vi phạm quy định của Luật
Cạnh tranh, điều tra viên sẽ đề nghị Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra quyết
định xử lý.
Theo hướng dẫn tại quy định của Nghị
định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của
Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực cạnh tranh thì: Hình
thức xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh
gồm các hình thức xử phạt và các biện
pháp khắc phục hậu quả. Đối với mỗi hành
vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, tổ chức,
cá nhân kinh doanh vi phạm phải chịu một
trong các hình thức xử phạt chính là phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài ra, tuỳ theo
tính chất và mức độ vi phạm còn có thể bị
áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt
bổ sung như: tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật về cạnh tranh.
Tại Điều 4 Nghị định 120/2005/NĐ-
CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy
định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực cạnh tranh thì, ngoài các hình thức xử
phạt chính và bổ sung nêu trên, tổ chức, cá
nhân kinh doanh vi phạm pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh còn có thể bị áp
dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục
hậu quả như: buộc cải chính công khai.
Mức phạt tiền đối với các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh được quy định cụ
thể như sau: Mức phạt tiền thấp nhất là 5
triệu đồng và cao nhất là 20 triệu đồng, đối
với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, gièm
pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Ngoài việc bị phạt tiền, tổ chức, cá
nhân kinh doanh vi phạm còn có thể bị áp
dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ
sung và biện pháp khắc phục hậu quả như:
tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng
để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm tịch
thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ
việc thực hiện hành vi vi phạm; buộc cải
chính công khai. Đối với hành vi xâm phạm
bí mật kinh doanh, hành vi ép buộc trong
kinh doanh:mức phạt từ thấp nhất là 5 triệu
đồng và cao nhất là 20 triệu đồng. Ngoài ra
còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm,
bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi
phạm. Đối với các hành vi quảng cáo,
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh: mức phạt tiền đối với hành vi này
cao hơn các hành vi Cạnh tranh không lành
mạnh khác như đã nêu trên là 50 triệu đồng,
thấp nhất là 15 triệu đồng.
Ngoài ra, hành vi này còn có thể bị
tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao
gồm tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu
được từ việc thực hiện hành vi vi phạm
hoặc buộc cải chính công khai. Đối với
hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội thì
mức phạt tiền thấp nhất là 15 triệu đồng và
cao nhất cũng là 50 triệu đồng. Tuy vậy
chủ thể thực hiện hành vi này không bị áp
dụng các biện pháp xử phạt bổ sung hoặc
biện pháp khắc phục hậu quả.
Xử phạt đối với hành vi bán hàng đa
cấp bất chính: mức phạt tiền đối với hành
vi này là cao nhất so với các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh khác khác, thấp
nhất là 50 triệu đồng và cao nhất là 100
triệu đồng. Bên cạnh đó, còn có thể bị tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
26
thực hiện hành vi vi phạm bao gồm tịch thu
toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc
thực hiện hành vi vi phạm và hoặc buộc cải
chính công khai.
Kiến nghị: Các hành vi vi phạm Luật
chống cạnh tranh không lành mạnh của Đài
Loan (4), có thể bị phạt án tù đến 10 năm
hoặc tiền phạt đến 10 triệu yên, hoặc án tù
đến 5 năm và phạt tiền đến 5 triệu Yên.
Cần học tập kinh nghiệm để sửa đổi, bổ
sung mức xử phạt vi phạm bằng tiền đối
với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong Nghị định 120/2005/NĐ-CP
ngày 30-9-2005 của Chính phủ quy định về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
cạnh tranh. Tại vì các mức tiền phạt được
quy định trong nghị định này liên quan đến
hành vi cạnh tranh không lành mạnh chưa
tương xứng với mức độ hành vi vi phạm
của các chủ thể tham gia kinh doanh hoạt
động thương mại trong thị trường. Đặc biệt
là hành vi bán hang đa cấp bất chính, Luật
Cạnh tranh quy định cấm doanh nghiệp yêu
cầu người muốn tham gia phải đặt cọc
hoặc phải trả một khoản tiền để được
quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp. Lập luận mà các doanh nghiệp bán
hàng đa cấp đưa ra để bảo vệ cho những
yêu cầu của mình là các nghĩa vụ đặt cọc
hay trả tiền của người tham gia được coi
như biện pháp bảo đảm an toàn, uy tín,
bình đẳng trong kinh doanh, là ràng buộc
vật chất để bảo đảm người tham gia phải
tôn trọng uy tín của doanh nghiệp và của
sản phẩm. Tuy nhiên dưới góc độ lý thuyết,
sự chiếm dụng của hành vi được lý giải
thông qua các căn cứ sau: Thứ nhất: Người
tham gia mạng đa cấp chỉ là người tiếp thị
để bán lẻ sản phẩm giúp cho doanh nghiệp.
Với tư cách của mình, người tham gia tiến
hành tiếp thị sản phẩm đến với khách hàng.
Doanh nghiệp không ký gửi hàng hóa cho
người tham gia để bán dùm. Khi người
tham gia trực tiếp bán lẻ hàng hóa cho
khách hàng, họ phải thực hiện theo phương
thức mua đi bán lại để hưởng phần chênh
lệch. Vì vậy, nghĩa vụ đặt cọc hay trả tiền
cho việc tham gia là không có căn cứ. Thứ
hai: Thực chất của bán hàng đa cấp là
người tham gia tiếp thị sản phẩm giúp
doanh nghiệp và được hưởng lợi ích từ kết
quả tiếp thị, bán hàng của mình và của
mạng lưới do mình tổ chức ra. Do đó, quan
hệ qua lại về lợi ích và nghĩa vụ giữa
doanh nghiệp với người tham gia thực sự
chỉ phát sinh khi người tham gia thực hiện
việc tiếp thị sản phẩm. Việc gia nhập mạng
lưới chưa đem lại cho người tham gia bất
cứ lợi ích gì, nên chưa thể ràng buộc trách
nhiệm vật chất đối với họ; Thứ ba: Việc đặt
cọc trong các giao dịch phát sinh trên thị
trường là biện pháp bảo đảm vật chất mà
các chủ thể phải thực hiện với nhau nhằm
đảm bảo cho việc thực hiện một nghĩa vụ;
việc trả tiền là nghĩa vụ thanh toán của một
chủ thể cho việc được hưởng một lợi ích
ngang giá. Vì vậy, việc doanh nghiệp buộc
người muốn tham gia phải thực hiện các
nghĩa vụ nói trên như một điều kiện để
xem xét việc có được tham gia mạng lưới
hay không là trái với bản chất của việc đặt
cọc hay của nghĩa vụ trả tiền trong các
thương vụ. Từ các lý lẽ trên, những khoản
tiền mà doanh nghiệp có được từ nghĩa vụ
vô lý đã áp đặt cho người muốn tham gia là
những khoản tài chính mà doanh nghiệp đã
chiếm dụng được.Bản chất của bán hang đa
cấp bất chính là chiếm dụng vốn, nếu chỉ
quy định mức phạt từ thấp nhất là 50 triệu
đồng đến 100 triệu cho việc bán hàng đa
cấp bất chính là chưa hợp lý với những tác
hại nêu trên. Do vậy, chúng tôi kiến nghị
cần phải xây dựng lại mức xử phạt đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói
27
chung và đặc biệt là hành vi bán hàng đa
cấp bất chính để nhằm đủ sức răn đe,chấm
dứt hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong quá trình đầu tư kinh doanh hoạt
động thương mại của các chủ thể tham gia
vào nền kinh tế thị trường của nước ta.
Thứ ba: Thẩm quyền của cơ quan
xử lý cạnh tranh không lành mạnh
Bước vào những năm đầu thế kỷ 21 và
cũng là giữa thập niên thứ hai của quá trình
đổi mới (kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ 6 năm 1986), các nhà làm luật nước ta
đã đặt ra nhiệm vụ trọng yếu là phải xây
dựng một đạo luật cạnh tranh mang tầm
vóc của một đạo luật căn bản trong cấu trúc
của pháp luật thương mại. Do đó, trên cơ
sở tiếp thu những kinh nghiệm xây dựng
luật cạnh tranh ở các nước tiêu biểu trên
thế giới, Luật Cạnh tranh đầu tiên của Việt
Nam đã được ban hành năm 2004. Gắn liền
với quá trình hình thành pháp luật cạnh
tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh của nước
ta cũng được ra đời trên tinh thần xây dựng
và bảo vệ các thiết chế kinh tế, thúc đẩy,
giám sát các hoạt động kinh tế để tạo môi
trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng.
Năm 2003, Bộ trưởng Bộ Thương mại
đã thành lập Ban Quản lý cạnh tranh. Ngày
26-02-2004, để triển khai Nghị định số
29/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Thương mại, Bộ trưởng Bộ
Thương mại đã ban hành Quyết định số
0235/2004/QĐ-BTM thành lập Cục Quản
lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý cạnh
tranh. Theo Quyết định số 1808/2004/QĐ-
BTM ngày 06-12-2004 của Bộ trưởng Bộ
Thương mại thì Cục Quản lý cạnh tranh là
cơ quan thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công thương) có chức năng giúp Bộ
trưởng thực hiện quản lý nhà nước về cạnh
tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự
vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Vào thời điểm, Luật Cạnh tranh đã được
Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu
lực vào ngày 01-07-2005. Ngày 09-01-2006,
Chính phủ ban hành Nghị định số
06/2006/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục Quản lý cạnh tranh. Bên cạnh đó, theo
quy định của Luật này, đối với các hành vi
hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh
tranh chỉ đảm nhận vai trò điều tra, thu
thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên quan
đến vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa ra
các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên
quan đến vụ việc cạnh tranh thì do Hội
đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh) đảm nhận. Hội đồng cạnh tranh
là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ
11 đến 15 thành viên do Thủ tướng Chính
phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công thương). Chủ tịch Hội đồng cạnh
tranh cũng được Thủ tướng bổ nhiệm, miễn
nhiệm trong số thành viên của Hội đồng
cạnh tranh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ
Thương mại. Ngày 09-01-2006, Chính phủ
ban hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về
việc thành lập và quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Hội đồng cạnh tranh. Ngày 12-06-2006,
theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương
mại, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 843/QĐ-TTg bổ nhiệm 11 thành
viên Hội đồng cạnh tranh. Thành viên Hội
đồng cạnh tranh là đại diện của các bộ: Bộ
Thương mại, Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hội đồng cạnh
tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ
tịch có 02 Phó Chủ tịch. Để giúp việc cho
Hội đồng, ngày 28-08-2006, Bộ trưởng Bộ
Thương mại đã có Quyết định số
28
1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội
đồng cạnh tranh. Ban Thư ký gồm 8 người
làm việc chuyên trách. Tháng 01/2009,
Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm thêm 5
thành viên nâng tổng số thành viên Hội
đồng cạnh tranh lên 16 người.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 49
Luật cạnh tranh hiện hành thì Cơ quan
quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây: a) Kiểm soát quá trình tập trung
kinh tế theo quy định của Luật này; b) Thụ
lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý
kiến để Bộ trưởng Bộ Thương mại quyết
định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định; c) Điều tra các vụ việc cạnh tranh
liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh
và hành vi cạnh tranh không lành mạnh; d)
Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không
lành mạnh; đ) Các nhiệm vụ khác theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, cơ quan này có các nhiệm vụ
chính đó là kiểm soát các hành vi tập trung
kinh tế, điều tra các hành vi hạn chế cạnh
tranh và điều tra, xử lý xử phạt hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của các chủ
thể tham gia hoạt động kinh doanh và
thương mại.
Nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp
lý, mô hình Cục quản lý cạnh tranh mà quy
định trong pháp luật cạnh tranh hiện hành
có những bất cập và hạn chế như sau:
Một là, trong điều kiện mới được
thành lập chưa lâu, số lượng chuyên gia
cạnh tranh còn ít thì việc đào tạo, bồi
dưỡng điều tra viên, chuyên gia, chỉ mới
đáp ứng được nhu cầu trước mắt và chất
lượng vẫn còn hạn chế. Số lượng các điều
tra viên của Cục chưa đủ để đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của cộng đồng doanh
nghiệp, hiệp hội và người tiêu dùng.
Hai là, suốt thời gian hoạt động, Cục
quản lý cạnh tranh vẫn chưa có nhiều động
thái nhằm thể hiện vai trò của mình trong
đời sống xã hội và chức năng chuyên biệt
của nó trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Theo một khảo sát của Cục Quản lý cạnh
tranh được thực hiện từ 01-11-2008 đến
31-12-2008 mà luận án tiến sỹ của NCS Lê
Tuấn Anh năm 2008 đã đề cập, cho thấy
hiểu biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh
tranh dừng lại ở mức “biết Luật Cạnh
tranh mới ra đời và nhận thức về cơ quan
quản lý cạnh tranh cũng không khả quan
hơn”. Điều này xuất phát từ nguyên do kết
quả hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh
chưa tạo được con số ấn tượng, đáng chú ý
của các giai tầng trong xã hội.
Ba là, Cục Quản lý cạnh tranh được
quy định quá nhiều chức năng, từ điều tra
xử lý các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, điều tra các hành vi hạn chế cạnh
tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý
nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ
cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ trong
thương mại quốc tế. Có một thực tế là
không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào
trên thế giới được quy định nhiều chức
năng, đặc biệt là bao gồm cả các chức năng
thực thi pháp luật về các biện pháp đảm
bảo công bằng trong thương mại quốc tế
như Việt Nam. Điều này đã dẫn đến tình
trạng quá tải cho hoạt động của Cục quản
lý cạnh tranh trong thời gian qua, bị nhiều
chi phối, chức năng quản lý các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh còn khá mờ
nhạt, do đó việc góp phần minh bạch thị
trường hàng hóa, bảo vệ nhà nước, các
doanh nghiệp và người tiêu dùng hiệu quả
chưa cao.
Chúng tôi kến nghị: - Cần sửa đổi bổ
sung một số quy định về cơ quan quản lý
cạnh tranh trong Nghị định số
06/2006/NĐ-CP Ngày 09-01-2006, của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ
29
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản
lý cạnh tranh. Trong đó, chú ý nhiều hơn
đến số lượng cán bộ, điều tra viên chuyên
trách có đủ trình độ, bản lĩnh nghề nghiệp
để thực hiện các cuộc điều tra xử lý
nghiêm minh các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh của các chủ thể tham gia hoạt
động kinh doanh, thương mại. So với hiện
nay, số lượng thành viên Hội đồng cạnh
tranh bao quát chung về các hành vi cạnh
tranh trong cả nước chỉ có 16 là quá ít,
chưa thực sự thúc đẩy việc kiểm soát các
hành vi cạnh tranh trái quy định của các
chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Kinh
nghiệm của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho
thấy: Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC)
là một cơ quan độc lập được thành lập bởi
Quốc hội vào năm 1938 để thực thi Đạo
luật thương mại liên bang. Tại mục 5 của
Đạo luật FTC cấm các phương pháp không
lành mạnh và nó đã được sửa đổi vào năm
1941, cấm hành vi thương mại lừa đảo và
không lành mạnh, nếu các chủ thể tham gia
vi phạm hành vi này thì Ủy ban Thương
mại, cơ quan cao nhất sẽ có thẩm quyền xử
lý (5).
Bên cạnh đó, cần xây dựng luật điều
chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh
riêng biệt với hành vi hạn chế cạnh tranh, để
chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lí
cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh thật sự mạnh mẽ theo yêu cầu
thực tiễn phát triển. Hiện tại, chức năng
nhiệm vụ của cơ quan quản lí cạnh tranh
được quy định tại Khoản 2 Điều 49 Luật
cạnh tranh hiện hành theo hướng rất rộng
và ôm đồm về hai lĩnh vực hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Vì
thế cho nên, các quy định về chức năng
thiếu tính chuyên sâu về điều chỉnh hành vi
không lành mạnh, thực sự là một rào cản
đối với việc bảo vệ người tiêu dung, bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp và của nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội ở nước ta. Kinh nghiệm
của Nhật Bản về ván đề này chúng tôi muốn
nêu để tham khảo, cụ thể là Luật chống
cạnh tranh không lành mạnh của Nhật ra đời
khá sớm, từ những năm 1934, gồm 22 điều
và một số điều khoản bổ sung qua các lần
sửa đổi điều chỉnh các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trên thương trường kinh
doanh thương mại. Luật này đã thực sự
đóng góp phần quan trọng lớn lao đối với
việc điều chỉnh độc lập các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong nền kinh tế
nước Nhật bản trong suốt nhiều thập kỉ qua.
Cuối cùng là việc Cơ quan quản lí
cạnh tranh (Cục quản lí cạnh tranh) cần
phải tập trung tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh sâu rộng đến tất cả hiệp hội
cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân
dân. Đặc biệt phải đẩy mạnh công tác điều
tra xử lí và thông tin kịp thời đến công
chúng về các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh diễn ra trong thị trường để nhằm
mục đích khuyến cáo ngăn chặn các hành
vi vi phạm pháp luật cạnh tranh không lành
mạnh của các chủ thể trong tương lai. Theo
số liệu thống kê của Cục quản lí cạnh tranh
thuộc Bộ Công thương về việc xử lý các vụ
việc liên quan đến hành vi cạnh tranh
không lành mạnh diễn ra trong cả nước
suốt 10 năm qua chỉ vẻn vẹn có 138 vụ
việc được xử lí. Đây là những con số rất
khiêm tốn, đó cũng là một trong những
nguyên nhân các quy định của pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh chưa
sự đi vào thực tiễn đời sống xã hội. Nếu
làm tốt công tác này, chắc chắn nửa triệu
doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay trên
cả nước sẽ thực sự đi đúng quỹ đạo của
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường để
30
chung tay xây dựng phát triển đất nước ta
thật sự công bằng, dân chủ, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luận án Tiến sỹ, đề tài Pháp luật về chống
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam của
NCS Lê Tuấn Anh, năm 2008.
2. Luật cạnh tranh năm 2004.
3. Luật Liên bang số 2300-1 ngày 7 tháng 02
năm 1992 về “Bảo vệ người tiêu dùng”.
4. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của
Đài Loan “Có thể là đối tượng của các vụ kiện
dân sự, tức là lệnh đình chỉ và lệnh bồi thường
thiệt hại hoặc đối tượng phạt hình sự sẽ phụ
thuộc vào độ nghiêm trọng của vi phạm”.
5. Luật Thương mại Liên bang FTC (USA) năm
1938, sửa đổi năm 1951 và 1992.
6. Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi
tiết Một số điều của Luật cạnh tranh.
7. Nghi định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005
của Chính phủ quy định về Xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
8. Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM của Bộ
trưởng Bộ Thương mại V/v Thành lập Cục
Quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý
cạnh tranh.
9. Quyết định số 1808/2004/QĐ-BTM ngày
06/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại.
10. Quyết định số 1378/QĐ-BTM của Bộ
trưởng Bộ Thương mại V/v Thành lập Ban
Thư ký Hội đồng cạnh tranh.
11. Lê Hoàng Oanh (2005), Bình luận khoa học
Luật cạnh tranh.
Ngày nhận bài: 27/7/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bat_cap_can_sua_doi_trong_quy_trinh_xu_ly_cac_vu_viec.pdf