Một là, bổ sung quy định tại Điều 100
Luật bảo vệ môi trường 2014 về các biện
pháp xử lý nước thải bằng các biện pháp
khác, ví dụ như biện pháp hóa học hay biện
pháp sinh học. Bởi vì, đặc thù của pháp luật
xử lý nước thải nói riêng có liên quan đến
các chỉ số, thông số kỹ thuật chính xác cho
nên khi thực tế các doanh nghiệp áp dụng
phương pháp hóa học vào xử lý nước thải
mà áp dụng sai thông số sẽ có thể gây ra
các phản ứng hoặc hiện tượng hóa học nguy
hiểm, từ đó càng tạo ra những chất thải độc
hại khi xả ra môi trường. Do đó, việc bổ
sung thêm quy định về các phương pháp xử
lý nước thải khác là vô cùng cần thiết để các
cơ sở sản xuất kinh doanh có thể áp dụng và
thực hiện theo.
Hai là, cá nhân tác giả cho rằng, trách
nhiệm người quản lý môi trường cần được
quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Đồng thời, cần
có hệ thống cấp phép xả thải tập trung quốc
gia với sự quản lý thống nhất, dựa vào nền
tảng công nghệ, năng lực và cơ chế kiểm tra
chặt chẽ, khoa học; tránh tình trạng quản
lý theo kiểu hành chính và sự tham gia còn
nặng về hình thức của các bộ, ngành. Bên
cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung các văn bản
hiện hành quy định về vấn đề xử lý nước thải
tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là trong Luật bảo vệ môi
trường năm 2014 để khắc phục tính thiếu
nhất quán, không cụ thể, không rõ ràng; tạo
nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật
cũng như góp phần làm tăng thêm tính hiệu
quả, tính khả thi của pháp luật; bám sát thực
tế và theo kịp tiến trình phát triển và hội
nhập quốc tế của đất nước và mức độ phức
tạp về vấn đề nước thải và xử lý nước thải.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bất cập của pháp luật bảo vệ môi trường về xử lý nước thải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
VỀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI
Tóm tắt:
Xã hội ngày càng phát triển thì lượng chất thải sinh hoạt, công
nghiệp cũng tăng lên theo cấp số nhân. Lượng thải ngày càng
nhiều nhưng các hệ thống xử lý tập trung không đủ để giải quyết
làm ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước. Thực trạng trên đòi
hỏi Nhà nước ta cần có những biện pháp thích hợp để hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý nước
thải, từng bước giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường nước.
Tạ Thị Thùy Trang*
* ThS. Đại học Thương Mại.
Abstract:
As society grows, the amount of domestic and industrial wastes
also expands exponentially. The amount of wastes is getting more
and more, but the centralized treatment systems are not enough
to solve, together with the habit of discharging waste not to focus
causing serious water pollution. The above situation requires
the government to take appropriate measures to improve the
relevant laws and improve the effectiveness of law enforcement
on wastewater treatment, gradually reduce pollutions and protect
the water environment.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Ô nhiễm môi trường nước; Xử
lý nước thải; Bất cập của pháp luật bảo
vệ môi trường.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 27/08/2019
Biên tập : 22/11/2019
Duyệt bài : 27/11/2019
Article Infomation:
Keywords: water pollution; wastewater
treatment; inadequacies of the Law on
Environmental Protection of 2014
Article History:
Received : 27 Aug. 2019
Edited : 22 Nov. 2019
Approved : 27 Nov. 2019
Theo thống kê, mỗi năm có đến 9000 người chết, 100.000 trường hợp ung thư mà nguyên nhân chính là do sử
dụng nguồn nước ô nhiễm. Tại 37 xã mang
tên “làng ung thư” đã có 1.136 người chết
vì các bệnh ung thư. Ngoài ra, còn có 380
người ở các xã lân cận cũng chết bởi ung
thư1. Thực trạng trên đòi hỏi Nhà nước ta
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp kiểm
1 Xem www.doisongphapluat.com/tin-lienquan/cong-bo-10-lang-ung-thu-co-nguon-nuoc-o-nhiem-nang-nhat-o-viet-
nam-81945.html.
soát xả thải cũng như xử lý nước thải, từng
bước giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi
trường nước. Có thể thấy rằng, từ khi tiến
hành sự nghiệp đổi mới và mở cửa phát triển
kinh tế đến nay, bên cạnh việc hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường, Nhà nước ta cũng
đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm
2014 và các văn bản pháp luật khác về bảo
vệ môi trường, trong đó có các quy định về
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
41Số 23(399) T12/2019
bảo vệ môi trường nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn thi
hành các quy định của pháp luật bảo vệ môi
trường nói chung và các quy định về xử lý
môi trường nước thải nói riêng vẫn còn có
bất cập.
1. Một số bất cập của pháp luật về bảo vệ
môi trường
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường
còn bất cập, thiếu thống nhất trong hoạt động
quản lý xả thải vào môi trường nước.
Tại Việt Nam, các quy định của pháp
luật về xử lý chất ô nhiễm trước khi xả thải
vào nguồn nước được điều chỉnh bởi Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 và Luật Tài
nguyên nước năm 2012, cùng các văn bản
pháp luật liên quan như Luật Thủy sản, Luật
Đa dạng sinh học, Luật thủy lợi...
Từ góc độ quản lý có thể thấy, đối
với một nguồn xả thải có tiềm năng gây ô
nhiễm cho nguồn nước chịu sự điều chỉnh
và quản trị của các cơ quan quản lý khác
nhau, theo các luật khác nhau sẽ khó kiểm
soát được toàn diện và triệt để. Ví dụ như
việc cấp phép xả thải được phân ra theo
nguồn nước trực tiếp nhận thải (nguồn tự
nhiên) và nguồn phục vụ tưới tiêu. Giấy
phép xả thải vào hệ thống nước tự nhiên do
ngành tài nguyên và môi trường cấp2, trong
khi giấy phép xả nước thải vào công trình
thủy lợi, trừ xả nước thải với quy mô nhỏ
và không chứa chất độc hại, chất phóng xạ
lại do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện3.
Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước
và xử lý nước thải cũng quy định quy chuẩn
kỹ thuật về nước thải do các cơ quan nhà
nước khác nhau ban hành. Cụ thể, nước thải
từ các hộ thoát nước, khu công nghiệp xả
vào hệ thống thoát nước đô thị phải bảo đảm
các quy chuẩn kỹ thuật về nước thải do Bộ
2 Điều 73 Luật tài nguyên nước năm 2012.
3 Điều 44 Luật Thủy lợi năm 2017.
4 Điều 4 Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải.
5 Điều 101 Luật bảo vệ môi trường năm 2014.
xây dựng ban hành; nước thải xử lý phi tập
trung, căn cứ vào khả năng tiếp nhận và mục
đích sử dụng của nguồn tiếp nhận do Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định. Còn nước
thải từ hệ thống thoát nước đô thị, khu công
nghiệp, khu dân cư nông thôn tập trung xả
vào hệ thống công trình thủy lợi do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành4.
Điều này gây xung đột với nguyên tắc nền
tảng là hệ thống nước có sự kết nối tự nhiên
theo dòng chảy và lưu vực. Ô nhiễm từ hệ
thống thủy lợi kênh mương nội đồng hoàn
toàn dễ dàng lưu chuyển vào hệ thống sông
ngòi tự nhiên, việc cấp phép xả thải và
quy chuẩn kỹ thuật nước thải như hiện nay
không gắn kết với kiểm soát ô nhiễm nước
nói chung. Bên cạnh đó, cơ quan cấp phép
xả thải khác nhau, nhưng về kiểm soát, giám
sát ô nhiễm nước chủ yếu lại là trách nhiệm
của ngành tài nguyên và môi trường. Thế
nhưng, Luật bảo vệ môi trường năm 2014
cũng chỉ quy định chung chung rằng “Cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô xả
thải lớn và có nguy cơ tác hại đến môi trường
phải tổ chức quan trắc môi trường nước thải
tự động và chuyển số liệu cho cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của Bộ Tài nguyên và Môi trường”5.
Bất cập của các quy định của pháp luật
về quản lý hoạt động xả thải vào môi trường
nước còn thể hiện rất rõ ở góc độ thực tiễn.
Theo quy định hiện hành, các khu công
nghiệp phải có hệ thống thu gom riêng nước
mưa và hệ thống thu gom, xử lý nước thải
tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
Hệ thống xử lý nước thải phải bảo đảm đủ
công suất xử lý toàn bộ lượng nước thải phát
sinh của các cơ sở trong khu công nghiệp
và phải được xây dựng, vận hành trước khi
các cơ sở trong khu công nghiệp đi vào hoạt
động. Các khu công nghiệp gần nhau có
thể kết hợp sử dụng chung hệ thống xử lý
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
42 Số 23(399) T12/2019
nước thải tập trung6. Thế nhưng, trạm xử lý
nước thải tập trung chỉ là đơn vị cung cấp
dịch vụ theo hợp đồng, mối quan hệ giữa
các trạm xử nước thải tập trung với doanh
nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp chỉ
đơn thuần là cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp
không bắt buộc dùng. Còn làm thế nào để
bắt buộc doanh nghiệp đấu nối về công tác
xử lý nước thải thì không phải thuộc thẩm
quyền của trạm mà thuộc các cơ quan chức
năng và quy định về chế tài xử lý các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp không sử
dụng hệ thống xử lý nước thải tập trung này
hoàn toàn không có. Bên cạnh đó, các quy
chuẩn về nước thải áp dụng với ngành nông
nghiệp, đặc biệt là trong hoạt động chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản còn chưa hợp lý.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành
Quy chuẩn kỹ thuật nước thải chăn nuôi số
QCVN 62-MT:2016/BTNMT. Quy chuẩn
này quy định giá trị tối đa cho phép của các
thông số ô nhiễm nước thải chăn nuôi khi xả
ra nguồn tiếp nhận nước thải, chỉ áp dụng
riêng cho nước thải chăn nuôi. Ví dụ, các hộ
chăn nuôi cá thể, giá trị tối đa cho phép đối
với tổng lượng nước thải lớn hơn hoặc bằng
5m3/ngày7. Việc xử lý nước thải chăn nuôi
nhằm đạt Quy chuẩn QCVN 62-MT:2016/
BTNMT đòi hỏi chi phí xử lý môi trường
rất lớn cho các chủ trang trại, doanh nghiệp
nhất là các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và khó khăn
trong việc tận dụng nước thải chăn nuôi đã
qua xử lý làm phân bón hữu cơ.
Nước thải nuôi trồng thủy sản lại được
các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng theo
Quy chuẩn nước thải công nghiệp QCVN
40:2011/BTNMT (cho các cơ sở sản xuất
công nghiệp...) gây khó khăn trong quản
lý và khó khăn cho doanh nghiệp. QCVN
40:2011/BTNMT được xây dựng và ban
hành để áp dụng cho nước thải của các nhà
máy sản xuất công nghiệp nên có 33 thông số
ô nhiễm cần kiểm soát, quá phức tạp khi lựa
chọn áp dụng đối với nước thải nuôi trồng
6 Điều 37 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu.
7 Phần 2.1 QCVN 62-MT: 2016/BTNMT.
thủy sản không nằm trong khu công nghiệp.
Các quy chuẩn được đặt ra cần phải đáp ứng
yêu cầu hội nhập, song cũng phải phù hợp
với yêu cầu thực tiễn, hài hòa giữa lợi ích
của nhà sản xuất và lợi ích quốc gia, bảo vệ
môi trường và sức khỏe của cộng đồng.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng
gặp một vướng mắc khác liên quan đến nước
thải ao nuôi cá tra. Hiện ngành Tài nguyên
và Môi trường không đồng ý áp dụng quy
chuẩn QCVN 02-20:2014/BNNPTNT của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá
trong ao, điều kiện bảo đảm vệ sinh thú y, bảo
vệ môi trường và an toàn thực phẩm, mà yêu
cầu nước thải của hoạt động nuôi cá tra phải
đạt các chỉ tiêu ô nhiễm theo giới hạn quy
định tại cột A QCVN 40:2011/BTNMT Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công
nghiệp được ban hành kèm theo Thông tư số
47/2011/TT-BTNMT ngày 28/12/2011 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường. Điều kiện xử
lý nước thải trong quá trình nuôi cá tra không
phù hợp và khả thi cho phương án đầu tư hệ
thống xử lý nước thải theo quy trình xử lý với
thiết bị công nghiệp như ở các nhà máy chế
biến thuỷ sản. Do đó, chất lượng nước thải từ
ao nuôi cá tra trước khi thải ra môi trường bên
ngoài yêu cầu có các chỉ tiêu gây ô nhiễm theo
giới hạn cột A của QCVN 40:2011/BTNMT
là rất khắt khe, khó đạt được.
Do vậy, cần sớm có khung pháp lý
thống nhất, nhằm giúp các đối tượng chịu sự
điều chỉnh không phải tìm hiểu và áp dụng
quá nhiều văn bản pháp luật liên quan; đồng
thời các cơ quan quản lý môi trường cũng
thuận lợi hơn trong công tác quản lý; tránh
chồng chéo và thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa
các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, việc xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ môi trường nước còn
chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng
giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những
hành vi xâm hại môi trường.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
43Số 23(399) T12/2019
Hiện nay, đối với các vi phạm quy định
về bảo vệ môi trường nói chung, hệ thống
pháp luật nước ta quy định 2 mức xử lý, bao
gồm xử phạt hành chính và xử lý hình sự.
Tuy nhiên, quy định về xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật môi trường nước còn hạn
chế, nằm rải rác trong các văn bản luật khác
nhau. Bản thân Luật bảo vệ môi trường năm
2014 có thiết kế một chương riêng về bồi
thường thiệt hại nhưng chưa có quy định cụ
thể xác định thiệt hại về môi trường nước,
phục hồi hiện trạng môi trường nước. Kể
cả nghị định số 03/2015/NĐ-CP của Chính
phủ về xác định thiệt hại môi trường cũng
chưa có quy định về xác định thiệt hại môi
trường nước nên khó áp dụng trên thực tiễn.
Điều 160 Luật bảo vệ môi trường năm 2014
quy định về xử lý vi phạm có dẫn chiếu tới
pháp luật liên quan nhưng bản thân các chế
tài xử lý khác được quy định trong các văn
bản luật cũng còn nhiều bất cập. Có thể kể
đến như về trách nhiệm hình sự, tội gây ô
nhiễm môi trường được quy định trong Bộ
luật Hình sự từ năm 1999 đến nay. Theo
quy định của Bộ luật này và Bộ luật Hình
sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009
thì tội này cấu thành vật chất tức là phải có
hậu quả nghiêm trọng xảy ra mới bị truy
cứu nên cũng gây khó khăn cho quá trình
đấu tranh phòng, chống tội phạm bởi thực tế
cho thấy việc xác định thiệt hại do ô nhiễm
môi trường nước là không dễ dàng, đặc biệt
là khó xác định mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi gây ô nhiễm môi trường nước và
thiệt hại xảy ra. Do vậy, cho đến nay chưa
có một cá nhân nào bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội này. Hiện nay, Bộ luật Hình
sự năm 2015 sửa đổi, tội gây ô nhiễm môi
trường có điểm mới là chuyển sang cấu
thành hình thức, tức là chỉ cần có hành vi
xả nước thải vượt quá quy chuẩn kỹ thuật là
8 Điều 235, Luật hình sự năm 2015.
9 Điều 4 Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
10
phai-nop-hon-127-ty-dong-phi-moi-truong-96864.html.
đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự8. Mặc dù
vậy, theo quy định thì hành vi xả thải phải
đạt một tải lượng nhất định thì mới bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, quy định này khó
ở chỗ việc xác định tải lượng này với môi
trường nước là không hề dễ dàng. Về trách
nhiệm kỷ luật với cán bộ, công chức quản
lý nhà nước về môi trường cũng chưa được
quy định rõ ràng và thực tiễn áp dụng chưa
thật khách quan, công khai, minh bạch. Về
xử phạt hành chính với hành vi làm ô nhiễm
môi trường nước ngày càng hoàn thiện hơn
nhưng mức xử phạt với một hành vi vi phạm
của các tổ chức, cá nhân làm ô nhiễm môi
trường nói chung, trong đó có môi trường
nước vẫn còn thấp, mức phạt tiền tối đa đối
với một hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1.000.000.000
đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng
đối với tổ chức9. Thực tiễn cho thấy cũng
chưa chủ nguồn thải nào phải chịu mức phạt
cao nhất này nên chưa đảm bảo tính răn đe,
thậm chí có trường hợp cá nhân, pháp nhân
chấp nhận nộp phạt để vi phạm. Ví như vụ
việc Công ty Cổ phần Vedan Việt Nam, có
trụ sở tại Đồng Nai, xả thải trực tiếp xuống
sông Thị Vải (tháng 10-2008) bị xử phạt
hành chính 267 triệu đồng, trong khi phí bảo
vệ môi trường truy thu với lượng nước thải
đã xả trái phép là 127 tỷ đồng; buộc công ty
phải đầu tư hàng chục triệu USD để nâng
cấp công nghệ, bảo đảm nước thải đạt quy
chuẩn môi trường10. Như vậy, số tiền truy
thu và yêu cầu khắc phục hậu quả cao hơn
nhiều so với mức xử phạt vi phạm hành
chính. Trong 10 năm tới, nếu GDP của Việt
Nam tăng gấp đôi mà không quan tâm đúng
mức đến công tác bảo vệ môi trường thì ô
nhiễm môi trường sẽ tăng lên 3 lần, đến năm
2025 có thể gấp 4-5 lần. Trung bình GDP cứ
tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
44 Số 23(399) T12/2019
sẽ làm mất đi 3% GDP11. Việt Nam sẽ phải
đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức về
quản lý và xử lý nước thải nếu không có các
chế tài xử lý vi phạm mạnh tay hơn. Thực
trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta đang ở
mức báo động, vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường diễn biến phức tạp, gây hậu quả
nghiêm trọng. Nguyên nhân của tình trạng
này do chế tài xử phạt còn chung chung,
mức xử phạt vi phạm hành chính còn thấp,
chưa đủ sức răn đe. Do vậy, cần bổ sung chế
tài xử phạt vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường cụ thể, cứng rắn hơn.
Thứ ba, quy định về phí bảo vệ môi
trường chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát
triển kinh tế với bảo vệ môi trường nước.
Theo pháp luật hiện hành, cụ thể tại
Điều 148 Luật bảo vệ môi trường năm 2014
phí bảo vệ môi trường được quy định chung
cho tất cả các hành vi xả thải:
“1. Tổ chức, cá nhân xả thải ra môi
trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với
môi trường phải nộp phí bảo vệ môi trường.
2. Mức phí bảo vệ môi trường được
quy định trên cơ sở sau:
a) Khối lượng chất thải ra môi trường,
quy mô ảnh hưởng tác động xấu đối với môi
trường;
b) Mức độ độc hại của chất thải, mức
độ gây hại đối với môi trường;
c) Sức chịu tải của môi trường tiếp
nhận chất thải.
3. Mức phí bảo vệ môi trường được
điều chỉnh phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi
trường và điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn”.
Việc nộp, quản lý và sử dụng phí bảo
vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt
và nước thải công nghiệp được quy định cụ
thể tại nghị định số 154/2016/NĐ-CP về phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải. Theo
đó, mức phí bảo vệ môi trường đối với nước
11 https://dantri.com.vn/xa-hoi/10-nam-toi-gdp-tang-gap-doi-nhung-o-nhiem-moi-truong-co-the-tang-
gap-3-20150930162622829.htm .
thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1m3
nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia
tăng. Trường hợp cần thiết áp dụng mức thu
cao hơn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương quyết định mức
cụ thể phù hợp với tình hình thực tế tại địa
phương. Đối với nước thải sinh hoạt thải ra
từ các tổ chức, hộ gia đình tự khai thác nước
để sử dụng (trừ hộ gia đình thuộc trường
hợp được miễn phí), mức phí được xác định
theo từng người sử dụng nước căn cứ vào
số lượng nước sử dụng bình quân của một
người trong xã, phường, thị trấn nơi khai
thác và giá bán 1m3 nước sạch trung bình tại
xã, phường, thị trấn. Đối với các hộ gia đình
sử dụng nước cấp từ hệ thống cấp nước tập
trung, việc đóng phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải hoặc đóng phí dịch vụ thoát
nước đều đóng cho đơn vị cung cấp nước
sạch. Các đối tượng chịu phí khác sẽ do các
Sở tài nguyên và môi trường hoặc chủ sở
hữu hệ thống thoát nước tính toán, xác định
và trực tiếp thu. Như vậy, cần phải xác định
thêm cơ quan trả lương cho đội ngũ thu phí
và ban hành cơ chế vận hành cho đội ngũ
thu phí.
Cũng theo Nghị định này đối với nước
thải thì nước thải từ các cơ sở chăn nuôi,
giết mổ gia súc, gia cầm tập trung; nuôi
trồng thủy sản; khai thác khoáng sản được
quy định là đối tượng chịu phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải công nghiệp. Tuy
nhiên, trên thực tế rất khó có thể xác định
được quy mô tập trung như thế nào thì phải
nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
công nghiệp. Tại các vùng nông thôn, hầu
hết các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm
hay nuôi trồng thủy sản chủ yếu chỉ ở quy
mô nhỏ lẻ, manh mún, lượng nước thải phát
sinh cũng không lớn, nên sẽ rất khó khăn
nếu buộc nông dân phải kham thêm khoản
phí cố định 1,5 triệu đồng/năm. Ngoài ra,
trong hoạt động khai thác khoáng sản, nước
thải từ khai thác khoáng sản chủ yếu là nước
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
45Số 23(399) T12/2019
mưa hoặc với các loại hình như khai thác
cát thì không sử dụng nước nhưng lại nằm
trong đối tượng phải nộp phí bảo vệ môi
trường với nước thải. Điều này khiến cho
các chủ doanh nghiệp bức xúc, các ngành
chức năng khó khăn trong việc tính toán lưu
lượng nước thải và áp dụng mức thu cho các
đơn vị này.
Thêm vào đó, dưới góc độ thực tiễn, có
thể thấy những nghị định về thu phí bảo vệ
môi trường với nước thải có phạm vi áp dụng
quá rộng mà lực lượng của các Chi cục Bảo
vệ môi trường lại ít, nên rất khó có thể rà soát
đúng và đủ danh sách thuộc diện thu phí.
Thứ tư, quy định về thông tin tình
hình môi trường nước chưa đáp ứng được
yêu cầu của quá trình phát triển.
Với các thông tin cơ quan nhà nước có
thẩm quyền có trách nhiệm công bố thì Nhà
nước cung cấp thông tin gì thì người dân biết
thông tin đó và thực tế cho thấy thông tin từ
kênh này chưa nhiều và chưa kịp thời, chưa
đáp ứng được mong mỏi của người dân12.
Ví dụ như theo Điều 131 Luật bảo vệ môi
trường năm 2014, có 5 nhóm thông tin môi
trường phải được công khai bao gồm: (a)
Báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế
hoạch bảo vệ môi trường; (b) Thông tin về
nguồn thải, chất thải, xử lý chất thải; (c) Khu
vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái ở mức
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, khu
vực có nguy cơ xảy ra sự cố môi trường; (d)
Các báo cáo về môi trường; và (đ) Kết quả
thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, nếu “các thông tin quy định tại
khoản này mà thuộc danh mục bí mật nhà
nước thì không được công khai”. Cá nhân
tác giả cho rằng thông tin hạn chế tiếp cận
cần được quy định cụ thể, phù hợp với Hiến
pháp năm 2013 như đảm bảo quyền tiếp cận
thông tin nhưng đồng thời đảm bảo sự an
toàn thông tin về bí mật nhà nước, bí mật
12 Khoản 20 Điều 3 và Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
13 Điều 145, Điều 146 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và Nghị định số 19/2015 về hướng dẫn chi tiết một số Điều của
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
kinh doanh, bí mật đời tư, bí mật cá nhân
nhằm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của
con người, bảo vệ lợi ích cộng đồng, tránh
việc lạm dụng dẫn tới vi phạm các quyền bí
mật được pháp luật bảo vệ. Luật cũng quy
định tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, chủ thể sản
xuất kinh doanh phải cung cấp thông tin về
tình hình môi trường, nhưng theo Luật thì
cá nhân lại không có quyền trực tiếp thực
hiện quyền này mà phải thông qua tổ chức
hoặc đại diện cộng đồng dân cư13. Chúng
ta hoàn toàn hiểu rằng tổ chức chính trị xã
hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức quốc tế phi
chính phủ, cộng đồng dân cư có vai trò đặc
biệt quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi
trường nói chung và ô nhiễm môi trường
nước nói riêng, nhưng không thể phủ nhận
quyền chủ động tiếp cận thông tin của từng
cá nhân riêng lẻ bởi bảo vệ môi trường trước
hết phải từ mỗi cá nhân. Thêm vào đó, mặc
dù Luật Bảo vệ Môi trường đã phần nào ghi
nhận trách nhiệm của các tổ chức nêu trên,
nhưng chưa có những quy định cụ thể nhằm
phát huy mạnh mẽ vai trò các chủ thể này
vào giám sát, kiểm soát ô nhiễm môi trường
nước. Pháp luật môi trường hiện hành chưa
thể hiện được vai trò của tổ chức xã hội,
cộng đồng dân cư trong tham vấn về đánh
giá tác động môi trường, trong giám sát việc
thực hiện pháp luật môi trường. Đặc biệt
Luật chưa dành quyền giám sát các cơ quan
nhà nước, các chủ thể có thẩm quyền quản
lý nhà nước về môi trường cho các đối tượng
này. Theo đó, pháp luật nên xác định bảo vệ
môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của
mọi tổ chức, cá nhân và tiếp cận thông tin là
điều kiện cần để thực hiện điều này. Muốn
vậy, cần bổ sung một điều khoản riêng, tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia
giám sát hoạt động bảo vệ môi trường và
nêu rõ trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
46 Số 23(399) T12/2019
2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực thi về xử lý
nước thải
Một là, bổ sung quy định tại Điều 100
Luật bảo vệ môi trường 2014 về các biện
pháp xử lý nước thải bằng các biện pháp
khác, ví dụ như biện pháp hóa học hay biện
pháp sinh học. Bởi vì, đặc thù của pháp luật
xử lý nước thải nói riêng có liên quan đến
các chỉ số, thông số kỹ thuật chính xác cho
nên khi thực tế các doanh nghiệp áp dụng
phương pháp hóa học vào xử lý nước thải
mà áp dụng sai thông số sẽ có thể gây ra
các phản ứng hoặc hiện tượng hóa học nguy
hiểm, từ đó càng tạo ra những chất thải độc
hại khi xả ra môi trường. Do đó, việc bổ
sung thêm quy định về các phương pháp xử
lý nước thải khác là vô cùng cần thiết để các
cơ sở sản xuất kinh doanh có thể áp dụng và
thực hiện theo.
Hai là, cá nhân tác giả cho rằng, trách
nhiệm người quản lý môi trường cần được
quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Đồng thời, cần
có hệ thống cấp phép xả thải tập trung quốc
gia với sự quản lý thống nhất, dựa vào nền
tảng công nghệ, năng lực và cơ chế kiểm tra
chặt chẽ, khoa học; tránh tình trạng quản
lý theo kiểu hành chính và sự tham gia còn
nặng về hình thức của các bộ, ngành. Bên
cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung các văn bản
hiện hành quy định về vấn đề xử lý nước thải
tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là trong Luật bảo vệ môi
trường năm 2014 để khắc phục tính thiếu
nhất quán, không cụ thể, không rõ ràng; tạo
nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật
cũng như góp phần làm tăng thêm tính hiệu
quả, tính khả thi của pháp luật; bám sát thực
tế và theo kịp tiến trình phát triển và hội
nhập quốc tế của đất nước và mức độ phức
tạp về vấn đề nước thải và xử lý nước thải.
Ba là, tiếp tục sửa đổi Luật bảo vệ môi
trường năm 2014 và các quy định liên quan
đến xử lý vi phạm trong quá trình xả thải
nước thải. Đồng thời, phát huy đồng bộ sức
mạnh của các biện pháp hành chính, hình sự,
dân sự, kinh tế trong việc xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật về xả thải vướt mức tiêu
chuẩn cho phép, đặc biệt là các biện pháp
kinh tế để bảo đảm sự hài hoà giữa phát
triển kinh tế và yêu cầu bảo vệ nguồn nước
và bảo vệ môi trường nói chung. Bên cạnh
đó, việc ban hành các văn bản pháp luật cần
có sự đồng bộ, ổn định, có tính điều chỉnh
và răn đe cao hơn nữa, đặc biệt là các quy
định về thuế, phí môi trường và các văn bản
quy định về vấn đề xử lý nước thải của các
cơ sở sản xuất kinh doanh. Cụ thể, các văn
bản quy định về phát triển kinh tế, văn hóa
– xã hội, phải thể hiện được sự nhất quán
với các quy định của pháp luật về bảo vệ
môi trường, pháp luật về xử lý nước thải và
ngược lại bằng cách thêm các điều luật đánh
phí – thuế môi trường đối với các doanh
nghiệp sử dụng tiêu chuẩn hóa học, sinh học
để xử lý nước thải tại cơ sở sản xuất kinh
doanh của mình.
Tác giả cho rằng để nâng cao hiệu quả
kiểm soát xả thải môi trường nước ở Việt
Nam trong tổng thể các giải pháp, trước mắt
cần nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa, những
thiếu sót trong các quy định của pháp luật
hiện hành về kiểm soát xả thải môi trường
nước như trình bày ở trên. Bên cạnh việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật, đòi
hỏi Nhà nước ta cần tiếp tục tăng cường đầu
tư xây dựng hạ tầng thoát nước, thu gom và
xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải từ hoạt
động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.
Đồng thời, nâng cao công tác kiểm soát
xả thải; tăng cường thanh, kiểm tra và xử
lý nghiêm các cơ sở vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường; đẩy mạnh tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ
môi trường nói chung, bảo vệ môi trường
nước nói riêng; tăng cường xã hội hóa, huy
động sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể,
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhân dân
trong công tác vệ sinh môi trường, nạo vét,
khơi thông cống rãnh thoát nước, xử lý ô
nhiễm môi trường tại các đầm, hồ v.v...
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
47Số 23(399) T12/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bat_cap_cua_phap_luat_bao_ve_moi_truong_ve_xu_ly_nuoc.pdf