Trong thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp
theo các biện pháp chia, tách hợp nhất và sáp
nhập tại các Điều 192, 193, 194, 195 LDN
năm 2014, pháp luật quy định thời hạn gửi
thông báo tới chủ nợ và người lao động của
doanh nghiệp là 15 ngày kể từ ngày thông
qua hợp đồng hoặc quyết định tổ chức lại.
Trong khi đó, các quy định về đăng ký và
đăng ký lại doanh nghiệp tại các Điều 27, 31,
32 LDN năm 2014 ấn định thời gian là 03
ngày làm việc để cơ quan nhà nước tiến hành
cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Căn cứ vào nội dung của các quy định này,
không thể xác định được việc gửi quyết định,
hợp đồng tổ chức lại tới chủ nợ và người lao
động sẽ phải thực hiện trước hay sau khi
doanh nghiệp thực hiện xong biện pháp tổ
chức lại. Cũng theo nội dung điều luật, việc
gửi thông báo ngoài ý nghĩa thông tin, những
vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ pháp luật đã được xác lập giữa
các bên cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Giả sử xét một trường hợp, doanh nghiệp A
tiến hành hợp nhất với doanh nghiệp B.
Doanh nghiệp A có số dư nợ gần bằng tổng
số tài sản hiện có. Phương án hợp nhất giữa
A và B không được một số thành viên (cổ
đông) của A hoặc B chấp nhận. Theo quy
định tại các Điều 52, 129 LDN năm 2014,
các thành viên này có quyền rút ra khỏi
doanh nghiệp bằng cách yêu cầu mua lại
phần vốn góp. Có thể thấy, những người này
đã có cơ hội an toàn rút ra khỏi phần nghĩa
vụ mà họ đáng ra phải gánh chịu. Cùng với
sự bất hợp lý khi doanh nghiệp mắc nợ có
quyền chủ động chuyển nghĩa vụ tới một
doanh nghiệp mới với phương án tổ chức,
phương án kinh doanh mới mà không cần có
sự đồng ý của chủ nợ như đã trình bày ở
phần trên, chúng tôi cho rằng trong các biện
pháp tổ chức lại, cần phải có thêm thủ tục
phân loại chủ nợ và gửi thông báo về phương
án tổ chức lại tới các chủ nợ trước khi có
quyết định hoặc thông qua hợp đồng tổ chức
lại doanh nghiệp để tạo cho các đối tượng
này một cơ hội phản đối.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bất cập trong chế định tổ chức lại doanh nghiệp của luật doanh nghiệp năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
23
Kế thừa, phát triển những mô hình sẵn có
để tạo lập những mô hình kinh doanh mới là
bước tiếp nối tất yếu của lịch sử hình thành và
phát triển các loại hình doanh nghiệp. Trong
tiến trình đó, lựa chọn và thay đổi hình thức tổ
chức kinh doanh đã xác lập cũng tồn tại như
một lẽ tất yếu.
1. Về loại hình doanh nghiệp được tham
gia tổ chức lại
Bản chất của tổ chức lại doanh nghiệp là
những cách thức, biện pháp làm thay đổi quy
mô, hình thức, tính chất tổ chức đã được xác
lập của một doanh nghiệp. Sẽ không thể có tự
do lựa chọn mô hình kinh doanh nếu chủ sở
MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH TỔ CHỨC LẠI
DOANH NGHIỆP CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
Trần Trí Trung1
1 Tiến sỹ, Trường Đại học luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
2 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014.
3 Law of Corporates No. 68/2014/QH13 dated 26 November 2014
Tóm tắt: Chế định pháp luật về tổ chức lại doanh nghiệp được đề cập lần đầu trong Luật
Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 (LDN năm 2014). Theo đó, các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp
được đề cập tại chương IX LDN năm 2014, bao gồm: Chia doanh nghiệp (Điều 192), tách
doanh nghiệp (Điều 193), hợp nhất doanh nghiệp (Điều 194), sáp nhập doanh nghiệp (Điều
195) và chuyển đổi loại hình doanh nghiệp (Điều 196, 197, 198, 199)2. Sự xuất hiện và tồn
tại của những quy định này đã tạo cơ hội cho chủ sở hữu doanh nghiệp có thể thay đổi hình
thức tổ chức doanh nghiệp mà họ đã tạo lập. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, chế định
này vẫn còn một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, bảo đảm cho pháp luật
trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho nhà đầu tư trong việc chủ động thay đổi mô hình tổ chức
kinh doanh mà họ đã lựa chọn. Sau đây chúng tôi đề cập đến một số vấn đề có thể sẽ trở
thành mối quan tâm chung trong quá trình từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật về
tổ chức lại doanh nghiệp.
Từ khóa: Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự
Nhận bài: 06/10/2016; Hoàn thành biên tập:25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016
Some problems of corporate reorganization under the Law of Coporate 2014
Abstract: Legal regulations on corporate reorganization was fistly mentioned in the 1999
Law of Corporates, then in the Law of Corporates in 2005 and in the Law of Corporates 2014.
Accordingly, measures corporate reorganization referred to in Chapter IX of Enterprise Law
2014, including: Division of corporates (Article 192), separation of corporates (Article 193),
merge of corporates (Article 194), accquisition of corporates (Article 195) and transformation
of corporate type (Article 196, 197, 198, 199)3. The emergence and existence of these
regulations created opportunities for business owners to change the form of businesses that
they had established. However, for some extents, the regulations should be further studied for
better improvement and perfection to ensure that the law can effectively support investors to
actively change the corporate forms. The paper mentions some problems could become
common concerns in the process of gradual improvement of legislation on corporate
reorganization.
Keywords: Law of Corporates, Civil Code
Received: Oct 06th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication:
Dec 20 th, 2016.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
24
hữu doanh nghiệp luôn bị bó buộc trong một
hình thức kinh doanh nhất định nào đó. Với
nghĩa ấy, thay đổi mô hình tổ chức kinh doanh
chính là biểu hiện của tự do tạo lập, tự do lựa
chọn hình thức kinh doanh của chủ sở hữu.
Có cùng tính chất với thành lập doanh nghiệp,
tái cấu trúc (tổ chức lại) doanh nghiệp cần
được xem là một quyền căn bản của chủ sở
hữu và cần được ghi nhận trong mỗi hệ thống
pháp luật tiến bộ và hiện đại.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đã ghi nhận
bốn loại hình doanh nghiệp và năm biện pháp
tổ chức lại doanh nghiệp. Trong năm biện
pháp tổ chức lại được quy định từ Điều 192
đến Điều 199 LDN 2014, công ty trách nhiệm
hữu hạn (TNHH) và công ty cổ phần là loại
hình doanh nghiệp có quyền thực hiện cả năm
biện pháp tổ chức lại, hai loại hình doanh
nghiệp khác (Công ty hợp danh, doanh nghiệp
tư nhân) có quyền thực hiện một hoặc hai biện
pháp tổ chức lại (Công ty hợp danh chỉ có
quyền thực hiện các biện pháp hợp nhất và
sáp nhập. Doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể
thực hiện một biện pháp chuyển đổi doanh
nghiệp)4 .
Dễ dàng nhận thấy, công ty TNHH và
công ty cổ phần là hai loại hình doanh nghiệp
mà chủ sở hữu của chúng có trách nhiệm hữu
hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của
doanh nghiệp. Đây là hai loại hình được thực
hiện đầy đủ cả năm biện pháp tổ chức lại. Còn
ở loại hình công ty hợp danh và doanh nghiệp
tư nhân (DNTN), là các loại hình doanh
nghiệp mà chủ sở hữu đích thực của chúng có
trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ và nghĩa
vụ của doanh nghiệp, chỉ được quyền thực
hiện số ít những biện pháp đó. Liên hệ đến
các biện pháp tổ chức lại đã được xác định
trong luật, dường như có sự phân biệt theo
tính chất trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu
giữa các loại hình doanh nghiệp dẫn đến sự
liên hệ về tính bình đẳng và công bằng giữa
những nhà đầu tư khi những chủ thể có trách
nhiệm hữu hạn được hưởng nhiều quyền tổ
chức lại doanh nghiệp hơn những chủ thể có
trách nhiệm vô hạn.
Xem xét trường hợp của công ty hợp
danh, theo LDN năm 2014, công ty hợp danh
không thuộc đối tượng được thực hiện chia,
tách doanh nghiệp theo quy định tại Điều 192,
193 LDN năm 2014, không thuộc đối tượng
được chuyển đổi theo quy định tại các Điều
196, 197, 198, 199 LDN năm 2014. Công ty
hợp danh chỉ có thể tổ chức lại bằng cách hợp
nhất hoặc sáp nhập với một hoặc một số công
ty khác theo quy định của Điều 194, 195 LDN
năm 2014. Hạn chế này đối với công ty hợp
danh thật khó để giải thích cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn, nhất là trong tương
quan so sánh về tính ngược chiều giữa các
biện pháp hợp nhất và sáp nhập với các biện
pháp chia, tách doanh nghiệp đã được đề cập
trước đó. Hoặc giả thiết nếu cho rằng vì công
ty hợp danh là loại hình công ty đối nhân nên
không thể chia tách cũng không thực sự
thuyết phục bởi giả sử sau một thời gian cùng
tổ chức Điều hành công ty, các thành viên
trong công ty hợp danh đã suy giảm sự tin
tưởng tuyệt đối vào nhau thì việc chia, tách
các thành viên trong công ty hợp danh đang
có thành các nhóm đối nhân mới có lẽ là việc
cần làm và nên làm hơn là phải giải thể công
ty hợp danh này để thành lập các công ty hợp
danh khác. Một cách cơ học, giả sử một công
ty hợp danh hiện có hơn bốn thành viên hợp
danh, họ hoàn toàn có thể giải thể công ty để
thành lập hai công ty hợp danh khác, miễn sao
vẫn đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết của
một công ty hợp danh được thành lập mới.
Trên thực tế họ sẽ phải làm như vậy nếu
không thể được chia, tách theo LDN năm
2014. Tình huống tương tự cũng sẽ xảy ra đối
với biện pháp chuyển đổi hình thức tổ chức
công ty. Với công ty hợp danh, việc thay đổi
4 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014.
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
25
hình thức pháp lý của công ty đồng nghĩa với
việc thay đổi tính chất trách nhiệm của các
thành viên hợp danh. Theo quy định hiện
hành, dường như các thành viên hợp danh chỉ
có thể thay đổi tính chất trách nhiệm của mình
bằng cách giải thể công ty hợp danh để thành
lập công ty TNHH hoặc công ty cổ phần như
họ mong muốn. Điều nhận thấy là cuối cùng
mục đích của họ vẫn đạt được nhưng phải trải
qua nhiều thủ tục xem ra không cần thiết, gây
lãng phí thời gian, tiền của của doanh nghiệp,
làm gián đoạn kinh doanh và các mối quan hệ,
tăng gánh nặng hành chính cho cơ quan quản
lý. Có lẽ, thay vì không cho phép công ty hợp
danh được chia, tách và chuyển đổi như hiện
nay, vấn đề cần thiết đặt ra lúc này là nghiên
cứu để ban hành các quy định đảm bảo tính
trách nhiệm vô hạn, ngăn chặn sự thoái thác
trách nhiệm của các thành viên hợp danh sau
quá trình chia, tách và chuyển đổi loại hình
công ty.
Đối với trường hợp của doanh nghiệp tư
nhân, theo quy định tại Điều 199 LDN năm
2014, DNTN chỉ được thực hiện duy nhất một
biện pháp tổ chức lại là chuyển đổi DNTN
thành công ty TNHH mà không được chuyển
đổi thành công ty cổ phần. Trên phương diện
nghĩa vụ của chủ thể, việc chuyển đổi DNTN
thành công ty TNHH còn có ý nghĩa là sự
thay đổi tính chất trách nhiệm của chủ sở hữu
DNTN khi chuyển sang mô hình doanh nhiệp
mới. Khi được chuyển đổi thành công ty
TNHH, trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN
chỉ còn xác định cho những nghĩa vụ đã phát
sinh trước khi DNTN được chuyển đổi. Có
nghĩa là sau khi chuyển đổi thành công ty
TNHH, chủ DNTN đồng thời xác lập nghĩa
vụ trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn
góp đối với đối với các trách nhiệm và nghĩa
vụ tài sản của công ty với tư cách của một
thành viên công ty TNHH mới được thành
lập. Xét về tính chất trách nhiệm trong trường
hợp này là không có sự khác biệt với tính chất
trách nhiệm của cổ đông phổ thông trong
công ty cổ phần. Theo quy định của pháp luật
hiện hành, vì không thuộc diện được chuyển
đổi thành công ty cổ phần nên để có thể
chuyển đổi DNTN thành công ty cổ phần, chủ
sở hữu cần phải thực hiện hai quy trình sau:
Quy trình thứ nhất, chuyển đổi DNTN thành
công ty TNHH theo quy định của Điều 199
LDN năm 2014. Quy trình thứ hai, sau khi
chuyển đổi thành công ty TNHH, tiếp tục
chuyển đổi công ty TNHH thành công ty cổ
phần theo quy định tại Điều 196 LDN năm
2014. Có thể thấy, việc không cho phép
DNTN thực hiện biện pháp chuyển đổi thành
công ty cổ phần không có nhiều ý nghĩa đối
với việc điều chỉnh hành vi của chủ thể mà
chỉ làm gia tăng các thủ tục hành chính không
thực sự cần thiết. Có thể thấy, thông qua các
quy định về chuyển đổi DNTN, việc luật pháp
đã cho phép chủ sở hữu DNTN được chuyển
đổi thành thành viên công ty TNHH nhưng
không được chuyển đổi thành cổ đông của
công ty cổ phần là một điều bất hợp lý. Thiết
nghĩ, bên cạnh việc đảm bảo tự do lựa chọn
hình thức kinh doanh của chủ doanh nghiệp
khi chuyển đổi DNTN, việc chuyển đổi hình
thức pháp lý từ DNTN sang công ty TNHH
hay công ty cổ phần còn đồng nghĩa với sự
cho phép thay đổi tính chất trách nhiệm tài
sản của chủ sở hữu DNTN. Sẽ ưu việt hơn nếu
pháp luật có thêm quy định cho phép DNTN
chuyển đổi thành công ty cổ phần, như đã cho
phép DNTN chuyển thành công ty TNHH để
đảm bảo cho quyền chủ động và tự do lựa
chọn của nhà đầu tư.
Ở khía cạnh khác, theo quy định tại Điều
187 LDN năm 2014, chủ DNTN có quyền bán
doanh nghiệp cho người khác. Vấn đề đặt ra
khi chủ DNTN bán doanh nghiệp của mình
cho nhiều người cùng mua, việc chuyển đổi
DNTN thành công ty TNHH hay công ty cổ
phần trong trường hợp này cũng không thể
được thực hiện bởi quy định về chuyển đổi
DNTN theo quy định tại Điều 199 LDN năm
2014 không đề cập đến trường hợp này. Điều
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
26
199 LDN năm 2014 yêu cầu sau khi chuyển
đổi, chủ DNTN phải là chủ sở hữu công ty
hoặc thành viên công ty mới. Bởi sự hạn chế
của luật pháp, để có thể kinh doanh với hình
thức công ty TNHH hay công ty cổ phần,
những người mua, sẽ phải tiến hành giải thể
DNTN để bắt đầu một thủ tục thành lập công
ty mới hoặc thực hiện chuyển đổi DNTN
thành công ty TNNH rồi lại tiếp tục chuyển
đổi từ công ty TNHH thành công ty cổ phần
như đã đề cập ở phần trên. Nói cách khác,
bằng việc không cho phép DNTN được
chuyển đổi thành công ty TNHH nếu thiếu sự
hiện diện của chủ DNTN trong danh sách
thành viên hoặc chủ sở hữu công ty mới, luật
pháp đã góp phần làm suy giảm cơ hội bán
doanh nghiệp của chủ DNTN. Sẽ thuận lợi và
tiết kiệm hơn cho những nhà đầu tư nếu có
một quy định cho phép chủ DNTN và những
người mua DNTN được thực hiện các biện
pháp chuyển đổi DNTN thành công ty TNHH
và công ty cổ phần mà không cần bắt buộc
chủ DNTN phải có tên trong hội đồng thành
viên của công ty TNHH theo quy định của
Điều 199 năm LDN hay có tên trong danh
sách cổ đông của công ty cổ phần.
Đối với các biện pháp hợp nhất và sáp
nhập doanh nghiệp, theo quy định tại Điều
194, 195 LDN năm 2014, DNTN không thuộc
đối tượng được thực hiện những biện pháp tổ
chức lại này. Trên phương diện pháp lý tổ
chức, hợp nhất hay sáp nhập doanh nghiệp là
biểu hiện của sự liên kết ngang giữa các chủ
thể có địa vị pháp lý độc lập và không phụ
thuộc nhau. Cơ sở pháp lý cho sự liên kết là
hợp đồng hợp nhất hoặc sáp nhập. Việc không
cho phép chủ DNTN được giao kết hợp đồng
loại này đã làm hạn chế quyền tự do ý chí, tự
do giao kết hợp đồng của chủ DNTN. Trong
một hệ thống pháp luật hiện đại và tiến bộ,
quyền tự do của chủ thể chỉ bị hạn chế khi
việc thực hiện hành vi đó gây nguy hại cho
chủ thể khác hoặc xâm hại đến các giá trị đạo
đức, trật tự, an toàn xã hội. Với cách tiếp cận
như vậy, rõ ràng việc không cho phép DNTN
được hợp nhất hay sáp nhập với doanh nghiệp
khác cần phải được xem xét lại. Liên quan
đến nội dung hạn chế quyền năng của chủ
DNTN trước các biện pháp hợp nhất và sáp
nhập, vấn đề trọng tâm cần lưu ý là việc bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của chủ DNTN với
tính chất trách nhiệm vô hạn. Với các quy
định hiện hành về trách nhiệm tài sản của chủ
sở hữu DNTN trong quy định về bán DNTN
tại Điều 187 hay trách nhiệm tài sản của chủ
DNTN khi chuyển đổi DNTN thành công ty
TNHH tại Điều 199, có thể thấy, kinh nghiệm
lập pháp đã đủ để thiết kế những quy định yêu
cầu chủ DNTN thanh toán (hoặc cam kết
thanh toán) đầy đủ các khoản nợ, nghĩa vụ tài
sản của doanh nghiệp trước khi làm thủ tục
chuyển đổi, hợp nhất hay sáp nhập doanh
nghiệp.
2. Về điều kiện và trình tự, thủ tục tổ
chức lại doanh nghiệp
Về điều kiện tổ chức lại doanh nghiệp,
theo chúng tôi, điều kiện đặt ra thể hiện trên
hai nhóm vấn đề: Một là nhóm những điều
kiện về sự đáp ứng các yêu cầu cho sự thiết
lập và hoạt động của doanh nghiệp sau tổ
chức lại. Hai là nhóm những điều kiện đảm
bảo cho việc thực hiện các nghĩa vụ của
doanh nghiệp trước và sau khi tổ chức lại.
Trong nhóm những điều kiện đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ tài sản của chủ doanh nghiệp
trước khi tổ chức lại, nội dung thể hiện ý chí
của chủ thể mang quyền (các chủ nợ) chưa
được đề cập rõ. Trong lịch sử xây dựng Luật
Doanh nghiệp, ngay từ năm 1999, khi thảo
luận thông qua điều luật đã từng có ý kiến nêu
ra điều kiện doanh nghiệp chỉ được tổ chức
lại nếu như đã thoả thuận xong với các chủ
nợ. Đến nay “điều kiện” này vẫn chưa được
đề cập trong luật. Việc bảo đảm quyền lợi của
chủ nợ hiện nay được xác định bởi các quy
định về sự vô hiệu lực của các quyết định,
thỏa thuận phân chia nghĩa vụ của doanh
nghiệp tham gia các biện pháp tổ chức lại.
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
27
Tưởng như đó đã là một sự bảo đảm tốt cho
các chủ nợ. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở
chiều cạnh khác, khi các doanh nghiệp tham
gia vào các biện pháp tổ chức lại đã chấm dứt
sự tồn tại, không ai có thể chắc chắn rằng
những người quản lý các doanh nghiệp mắc
nợ sẽ còn tiếp tục giữ vai trò quản lý ở các
doanh nghiệp mới. Mà các chủ nợ, vì nhiều lý
do, nhiều khi để cho món nợ tồn tại chỉ vì mối
quan hệ với những người quản lý cũ. Hơn thế,
theo quy định của Bộ luật Dân sự, việc
chuyển giao nghĩa vụ từ chủ thể này sang chủ
thể khác luôn cần phải có sự đồng ý của các
chủ nợ. Có thể thấy, việc doanh nghiệp mang
nợ hoàn toàn chủ động trong việc chuyển
nghĩa vụ của mình sang các chủ thể khác khi
thực hiện các biện pháp tổ chức lại là điều
chưa phù hợp. Trên thực tế, có không ít chủ
nợ đã bị gây khó khăn trong quá trình đi đòi
nợ sau khi doanh nghiệp mắc nợ đã bị chia,
bị tách, sáp nhập hoặc hợp nhất vào doanh
nghiệp khác. Trong khi, tham khảo pháp luật
về tổ chức lại doanh nghiệp của một số quốc
gia trong khu vực, thấy rằng pháp luật ở các
quốc gia này thường đưa ra những điều kiện
rất cụ thể đòi hỏi doanh nghiệp muốn thực
hiện tổ chức lại phải đáp ứng. Ví dụ, pháp luật
Dân sự và thương mại Thái Lan quy định Tòa
án có quyền không chấp nhận việc hợp nhất
doanh nghiệp nếu có khiếu nại của chủ nợ.
Pháp luật Singapore, Malaysia cũng ghi nhận
quyền phản đối hợp nhất hay tổ chức lại của
các chủ nợ, v.v.5 Có thể thấy, theo nguyên tắc
bảo vệ quyền lợi chủ nợ, với nhận thức về
nguy cơ có thể mang đến những bất lợi cho
chủ nợ trong và sau quá trình tổ chức lại, pháp
luật cần có những quy định đảm bảo quyền
của chủ nợ của doanh nghiệp, xác định việc
thể hiện ý chí của chủ nợ là một điều kiện cần
đáp ứng khi doanh nghiệp thực hiện các biện
pháp tổ chức lại.
Về trình tự, thủ tục tổ chức lại, nếu nhìn
nhận theo hình thức biểu hiện thì tổ chức lại
doanh nghiệp là một chế định pháp lý mang
tính thủ tục rất cao, bảo đảm cho quá trình
tổ chức lại được diễn ra lành mạnh cần được
xem là những quy định quan trọng bậc nhất
trong các quy định về thủ tục pháp lý. Tuy
nhiên, qua những quy định hiện hành về tổ
chức lại doanh nghiệp của LDN năm 2014,
trình tự thủ tục tiến hành đã được đề cập
chưa thể hiện hết tầm quan trọng đó. Quy
trình tổ chức lại doanh nghiệp là quy trình
thực hiện quyền của doanh nghiệp tổ chức
lại, trình tự thủ tục được xác định từ khâu
xác định ý tưởng đến khi thực hiện việc đăng
ký kinh doanh doanh nghiệp mới. Tuy nhiên,
trình tự, thủ tục thực hiện quyền đó cần phải
được diễn ra một cách trung thực và đảm bảo
sự an toàn chung cho xã hội trong mối liên
hệ tới thủ tục, trình tự thực hiện các quyền
của chủ thể khác. Thông thường, các thủ tục
pháp lý được thực hiện đều có sự hiện diện
của cơ quan quản lý nhà nước, thông qua
pháp luật và hệ thống các cơ quan, tổ chức,
cá nhân được trao quyền thi hành pháp luật.
Theo quy định hiện hành về tổ chức lại
doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước chỉ
xuất hiện trực tiếp trong khâu thực hiện cuối
cùng khi doanh nghiệp tổ chức lại tiến hành
đăng ký kinh doanh doanh nghiệp mới. Với
nhận thức, tổ chức lại doanh nghiệp không
đơn thuần là một hoạt động mang tính nội bộ
của riêng doanh nghiệp mà hoạt động này,
với sự biến đổi của một doanh nghiệp cụ thể
luôn kéo theo những tác động nhiều phía tới
xã hội. Sẽ tăng thêm tính bảo đảm pháp lý
cho các chủ thể có liên quan đến doanh
nghiệp thực hiện tổ chức lại khi có thêm quy
định về thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong những trường hợp có vấn
đề của quá trình tổ chức lại doanh nghiệp, để
5 Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (1999), Báo cáo nghiên cứu so sánh luật công ty ở bốn quốc gia Đông
nam Á, Hà Nội, tr. 60, 61.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
28
có thể kịp thời ngăn chặn các biểu hiện sai
trái, làm tổn hại hoặc có nguy cơ làm tổn hại
tới lợi ích chính đáng của những chủ thể
khác trong quá trình tổ chức lại doanh
nghiệp. Có lẽ, trong lĩnh vực pháp luật về
kinh doanh thương mại, chức năng định
hướng hành vi và ngăn ngừa sai phạm cần
được đề cao và đi trước một bước so với
chức năng giải quyết và xử lý vi phạm khi
nó đã xảy ra.
Trong thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp
theo các biện pháp chia, tách hợp nhất và sáp
nhập tại các Điều 192, 193, 194, 195 LDN
năm 2014, pháp luật quy định thời hạn gửi
thông báo tới chủ nợ và người lao động của
doanh nghiệp là 15 ngày kể từ ngày thông
qua hợp đồng hoặc quyết định tổ chức lại.
Trong khi đó, các quy định về đăng ký và
đăng ký lại doanh nghiệp tại các Điều 27, 31,
32 LDN năm 2014 ấn định thời gian là 03
ngày làm việc để cơ quan nhà nước tiến hành
cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Căn cứ vào nội dung của các quy định này,
không thể xác định được việc gửi quyết định,
hợp đồng tổ chức lại tới chủ nợ và người lao
động sẽ phải thực hiện trước hay sau khi
doanh nghiệp thực hiện xong biện pháp tổ
chức lại. Cũng theo nội dung điều luật, việc
gửi thông báo ngoài ý nghĩa thông tin, những
vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ pháp luật đã được xác lập giữa
các bên cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Giả sử xét một trường hợp, doanh nghiệp A
tiến hành hợp nhất với doanh nghiệp B.
Doanh nghiệp A có số dư nợ gần bằng tổng
số tài sản hiện có. Phương án hợp nhất giữa
A và B không được một số thành viên (cổ
đông) của A hoặc B chấp nhận. Theo quy
định tại các Điều 52, 129 LDN năm 2014,
các thành viên này có quyền rút ra khỏi
doanh nghiệp bằng cách yêu cầu mua lại
phần vốn góp. Có thể thấy, những người này
đã có cơ hội an toàn rút ra khỏi phần nghĩa
vụ mà họ đáng ra phải gánh chịu. Cùng với
sự bất hợp lý khi doanh nghiệp mắc nợ có
quyền chủ động chuyển nghĩa vụ tới một
doanh nghiệp mới với phương án tổ chức,
phương án kinh doanh mới mà không cần có
sự đồng ý của chủ nợ như đã trình bày ở
phần trên, chúng tôi cho rằng trong các biện
pháp tổ chức lại, cần phải có thêm thủ tục
phân loại chủ nợ và gửi thông báo về phương
án tổ chức lại tới các chủ nợ trước khi có
quyết định hoặc thông qua hợp đồng tổ chức
lại doanh nghiệp để tạo cho các đối tượng
này một cơ hội phản đối.
Kết luận
Tổ chức lại doanh nghiệp là một chế định
pháp luật bao gồm những quy định đảm bảo
cho chủ sở hữu (đồng chủ sở hữu) doanh
nghiệp có quyền lựa chọn và quyết định
những biện pháp nhằm thay đổi quy mô, cấu
trúc, tính chất của doanh nghiệp mà họ đã tạo
lập. Cùng với đó là những quy định bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của
những chủ thể có liên quan trong quá trình
doanh nghiệp thực hiện tổ chức lại. Một số
bất cập về trình tự thủ tục, điều kiện và loại
hình chủ thể có quyền thực hiện tổ chức lại là
những vấn đề pháp lý cần được tiếp tục
nghiên cứu làm rõ và hoàn thiện, đảm bảo
cho các quá trình tổ chức lại được thực hiện
một cách trung thực, minh bạch và an toàn,
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật,
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của nhà đầu tư và những cá nhân, tổ chức có
liên quan./.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13
ngày 26 tháng 11 năm 2014.
2. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình
Luật thương mại, Phần chung và thương
nhân, NXB ĐHQG, Hà Nội.
3. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương (1999), Báo cáo nghiên cứu so sánh
luật công ty ở bốn quốc gia Đông nam Á,
Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bat_cap_trong_che_dinh_to_chuc_lai_doanh_nghiep_cua_l.pdf