Hai là, đối với các sắc thuế cụ thể thì
thay khái niệm “người nộp thuế” theo quy
định hiện hành thành khái niệm mới là “đối
tượng nộp thuế”, ý chỉ “chủ thể làm phát
sinh hành vi chịu thuế”. Như vậy, với kiến
nghị này thì các sắc thuế cụ thể sẽ không
còn tồn tại khái niệm “người nộp thuế”, điều
này sẽ tạo được tính đồng bộ, không chồng
chéo giữa các sắc thuế cụ thể và Luật Quản
lý thuế về định nghĩa “người nộp thuế” như
quy định hiện hành. Theo đó, định nghĩa
“người nộp thuế” trong Luật Quản lý thuế
thuần túy chỉ nhóm chủ thể thực hiện các
hành vi về mặt thủ tục, còn định nghĩa “đối
tượng nộp thuế” trong các sắc thuế cụ thể
thì thuần túy chỉ nhóm chủ thể làm phát sinh
hành vi chịu thuế (nội dung).
Với đề xuất này, trong trường hợp
“đối tượng nộp thuế” (theo các sắc thuế cụ
thể) tự mình tiến hành các thủ tục kê khai và
đăng ký thuế (theo Luật Quản lý thuế) thì họ
sẽ đóng hai vai với hai khái niệm khác nhau
tương ứng, vừa là “đối tượng nộp thuế”,
vừa là “người nộp thuế”. Ngược lại, nếu họ
không tự mình thực hiện các thủ tục đó mà
ủy quyền cho chủ thể khác tiến hành thì họ
chỉ còn một vai là “đối tượng nộp thuế”, vai
còn lại tách ra cho người đi nộp thay “người
nộp thuế”. Sẽ không còn sự nhầm lẫn, nhập
nhằng về chủ thể ở đây, do cách hiểu không
thống nhất về khái niệm như quy định hiện
hành. Từ đó, việc vận dụng các quy định của
pháp luật vào trong thực tiễn sẽ rõ ràng và
dễ dàng hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bất cập trong khái niệm “người nộp thuế” theo pháp luật thuế hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Để đảm bảo nguồn
thu này, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể nộp thuế trong từng sắc
thuế phải được xác định rõ. Tuy nhiên, pháp luật thuế hiện hành đang
còn những quy định chưa rõ ràng về khái niệm “người nộp thuế” trong
Luật Quản lý thuế và trong từng sắc thuế. Điều này đã gây sự khó khăn,
lúng túng cho cơ quan quản lý thuế trong việc xác định trách nhiệm
pháp lý của người nộp thuế.
Nguyễn Thị Thủy*
Đặng Hoàng Vũ**
Abstract:
Taxs are the main revenue of the state budget. The liability of the
taxpayers in each tax must be determined to ensure this local revenue.
However, the existing tax laws still have unclear provisions on the
concept of "taxpayers" in the Law on Tax Administration and in
particular tax, which has made it difficult for the tax administration
agency in determining the liability of taxpayers.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: người nộp thuế.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 12/07/2017
Biên tập: 10/08/2017
Duyệt bài: 15/08/2017
Article Infomation:
Keywords: taxpayers.
Article History:
Received: 12 Jul. 2017
Edited: 10 Aug. 2017
Appproved: 15 Aug. 2017
* TS, GV, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
** ThS, GV, Trường Đại học Tài nguyên Môi trường TP. Hồ Chí Minh.
MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG KHÁI NIỆM “NGƯỜI NỘP THUẾ”
THEO PHÁP LUẬT THUẾ HIỆN HÀNH
Hiện nay, pháp luật về thuế ở nước ta
được chia thành hai mảng: pháp luật về quản
lý thuế và pháp luật quy định đối với từng
sắc thuế cụ thể. (i) Pháp luật quản lý thuế
bao gồm những văn bản pháp luật quy định
về đăng ký kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế
và xử lý vi phạm hành chính thuế. Trước
đây, nội dung về đăng ký, kê khai, nộp thuế,
quyết toán thuế được quy định trong từng
sắc thuế cụ thể. Tuy nhiên, từ năm 2006,
những nội dung này được quy định trong
Luật Quản lý thuế và áp dụng cho tất cả các
sắc thuế. (ii) Pháp luật quy định từng sắc
thuế cụ thể bao gồm các quy phạm pháp luật
quy định về đối tượng chịu thuế, người nộp
thuế, những trường hợp không chịu thuế,
căn cứ tính thuế, chế độ miễn giảm,
Điểm chung của hai mảng pháp luật
này là chúng đều sử dụng chung một thuật
ngữ “người nộp thuế” nhưng lại với hai cách
định nghĩa, hàm chứa hai nhóm đối tượng
khác nhau. Khái niệm “người nộp thuế”
trong Luật Quản lý thuế là một khái niệm
rộng, bao gồm tổ chức, cá nhân làm phát
sinh hành vi chịu thuế theo quy định của
pháp luật về thuế và những tổ chức, cá nhân
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 19(347) T10/2017
không thực hiện hành vi chịu thuế nhưng
thực hiện việc “nộp thuế thay” cho những
chủ thể làm phát sinh hành vi chịu thuế.
Trong khi đó, khái niệm “người nộp thuế”
trong các sắc thuế lại là một khái niệm hẹp,
chỉ bao gồm tổ chức, cá nhân làm phát sinh
hành vi chịu thuế theo quy định của pháp
luật về thuế, mà không hàm chứa nhóm chủ
thể “nộp thuế thay”.
Như vậy, nếu “người nộp thuế” (hiểu
ở nghĩa là người nộp thay) theo quy định
của Luật Quản lý thuế năm 2006 không thực
hiện hành vi nộp thuế có bị coi là hành vi
trốn thuế không? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc không nộp thuế cho
Nhà nước? Người nộp thuế thay hay người
thực hiện hành vi chịu thuế (tức người nộp
thuế theo quy định tại các sắc thuế?).
1. Các chủ thể thực hiện nghĩa vụ thuế đối
với Nhà nước
- Chủ thể chịu thuế: Trong lý luận về
thuế, chủ thể chịu thuế là tổ chức, cá nhân
phải trả tiền thuế cho Nhà nước hay còn
gọi là người chịu thuế. Người chịu thuế là
chủ thể sử dụng những hàng hóa, dịch vụ
có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc nhập khẩu (đối với thuế gián thu)1 và
những chủ thể có thu nhập chịu thuế (đối với
thuế trực thu)2. Trong thuế gián thu, các tổ
chức, cá nhân khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế phải trả tiền thuế cho Nhà nước.
Tiền thuế của các sắc thuế gián thu được cấu
thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ, vì vậy,
nghĩa vụ trả tiền thuế của các chủ thể này sẽ
cùng lúc với việc họ thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ cho người bán.
Sở dĩ, chủ thể chịu thuế phải thực hiện
nghĩa vụ trả tiền thuế cho Nhà nước vì họ có
hành vi tiêu dùng những hàng hóa, dịch vụ
1 Thuế gián thu là loại thuế cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ. Trong thuế gián thu người trả tiền thuế là người tiêu
dùng, người nộp thuế là người cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
2 Thuế trực thu là loại thuế thu trực tiếp vào người nộp thuế. Trong thuế gián thu, người nộp thuế và người chịu thuế
(người phải trả tiền thuế cho Nhà nước) là một.
3 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính về thuế không quy định hành vi vi phạm trong trường hợp người mua hàng không
trả tiền thuế khi mua hàng. Duy chỉ có khoản 1, Điều 24, Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 quy định về
hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ quy định nghĩa vụ của người mua hàng: “Yêu cầu người bán lập và giao hóa
đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ”.
có được từ hành vi chịu thuế. Chẳng hạn, tổ
chức, cá nhân chỉ phải trả tiền thuế giá trị
gia tăng (GTGT) nếu hàng hóa, dịch vụ này
có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc nhập khẩu. Vì hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chịu
thuế GTGT. Trường hợp cũng là hành vi tiêu
dùng hàng hóa, nhưng hàng hóa này không
phải có được từ hành vi chịu thuế thì họ
cũng không phải trả tiền thuế cho Nhà nước.
Ví dụ, hộ gia đình tự làm bánh biếu người
thân, bạn bè để sử dụng trong dịp Tết. Việc
tiêu dùng bánh trong trường hợp này không
phải trả tiền thuế cho Nhà nước vì hành vi
làm bánh của hộ gia đình không phải là hành
vi chịu thuế.
Chủ thể chịu thuế không được đề cập
trong pháp luật về quản lý thuế và cũng
không được quy định trong pháp luật đối với
từng sắc thuế. Chủ thể chịu thuế chỉ có trong
lý luận về thuế. Chính vì vậy, chủ thể chịu
thuế (người trả tiền thuế trong thuế gián thu)
không phải chịu trách nhiệm pháp lý theo
quy định của pháp luật về thuế3. Ví dụ: một
món hàng được bán với giá 10.500.000đ
(giá đã có thuế GTGT) nhưng người bán
thỏa thuận nếu ngưới mua không lấy hóa
đơn thì chỉ phải trả 10.000.000đ. Nếu người
mua đồng ý không lấy hóa đơn thuế GTGT
và chỉ trả 10.000.000đ, mặc dù 500.000đ
tiền thuế GTGT người mua không phải trả
nhưng người mua không vi phạm pháp luật
về thuế mà chỉ vi phạm quy định của pháp
luật về hóa đơn (do không yêu cầu người bán
xuất hóa đơn). Trong tình huống này, người
bán phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà
nước (vì vi phạm pháp luật thuế) do nghĩa
vụ của người bán (người nộp thuế) phải thu
khoản tiền thuế này từ người mua để nộp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 19(347) T10/2017
cho Nhà nước nhưng họ không thực hiện.
- Chủ thể nộp thuế: Là tổ chức, cá
nhân phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho
Nhà nước. Nghĩa vụ nộp thuế này cấu thành
từ hành vi chịu thuế được quy định tại các
sắc thuế. Tùy từng sắc thuế mà hành vi chịu
thuế là khác nhau. Chẳng hạn, đối với các
sắc thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB), thuế GTGT thì hành vi chịu thuế là
hành vi sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ chịu thuế hoặc nhập khẩu hàng hóa chịu
thuế. Đối với thuế xuất khẩu, nhập khẩu
thì hành vi chịu thuế là hành vi xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa chịu thuế. Đối với các
sắc thuế trực thu như thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân thì hành vi
chịu thuế là hành vi làm phát sinh thu nhập
thuộc đối tượng chịu thuế. Chủ thể nộp thuế
phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà
nước vì họ thực hiện hành vi chịu thuế. Căn
cứ vào các yếu tố lý luận trên đây, thì chủ
thể nộp thuế trong pháp luật về thuế chính là
“Người nộp thuế” được quy định trong các
sắc thuế. “Người nộp thuế là các chủ thể có
nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo luật định.
Nếu không thực hiện nghĩa vụ này hoặc thực
hiện không đúng sẽ chịu các chế tài pháp
luật. Trong các văn bản pháp luật thuế quy
định rõ các người nộp thuế”4.
- Chủ thể nộp thuế thay: Là những tổ
chức, cá nhân thực hiện hành vi nộp thuế
thay cho chủ thể thực hiện hành vi chịu thuế.
Chủ thể này mặc dù không thực hiện hành
vi chịu thuế nhưng họ thực hiện nghĩa vụ
cuối cùng của người nộp thuế trong các sắc
thuế đó là nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
Những chủ thể nộp thuế không phải phát
sinh từ nghĩa vụ của họ theo quy định của
pháp luật thuế mà theo thỏa thuận của họ
đối với người nộp thuế. Trong quy định của
pháp luật thuế thì họ chính là “Tổ chức, cá
nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ
tục về thuế thay người nộp thuế”5.
4 Giáo trình Luật Thuế tái bản (2016) - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 46.
5 Điểm c khoản 1 Điều 2 Luật Quản lý thuế năm 2006.
6 Giáo trình Luật Thuế Việt Nam (2008), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 33.
7 Giáo trình Luật Thuế tái bản (2016), Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 66.
Với những phân tích trên đây, thì
nghĩa vụ nộp thuế của người thực hiện
hành vi chịu thuế là nghĩa vụ theo luật định.
Nghĩa vụ nộp thuế của chủ thể nộp thuế
thay là nghĩa vụ được thiết lập trên cơ sở
thỏa thuận của người thực hiện hành vi chịu
thuế và chủ thể nộp thuế thay. Trong quan
hệ pháp luật về thuế, có hai chủ thể cơ bản
là các cơ quan quản lý thu thuế và đối tượng
nộp thuế. Đối tượng nộp thuế là tất cả các tổ
chức, cá nhân có đủ điều kiện phải nộp một
loại thuế nhất định. Các văn bản pháp luật
thuế cụ thể đều nêu rõ đối tượng này6. Vậy,
nếu chủ thể nộp thuế thay thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế cho chủ thể thực hiện hành vi chịu
thuế thì có là chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật thuế thay chủ thể thực hiện hành vi chịu
thuế được không?
2. Quy định của pháp luật về người nộp
thuế và chủ thể làm thủ tục về thuế thay
người nộp thuế
Luật Quản lý thuế năm 2006 và văn
bản hướng dẫn thi hành không đưa ra khái
niệm đối tượng nộp thuế và đối tượng nộp
thuế thay mà chỉ đưa ra khái niệm người
nộp thuế. Theo quy định tại Điểm c, Khoản
1, Điều 2, Luật Quản lý thuế năm 2006 thì
người nộp thuế có thể tạm phân thành hai
nhóm7:
Nhóm một: Đối tượng nộp thuế là
chủ thể có nghĩa vụ đăng ký, kê khai, nộp
thuế theo quy định của từng sắc thuế cụ thể.
Nhóm chủ thể này được quy định cụ thể
trong các đạo luật thuế.
Nhóm hai: Tổ chức, cá nhân khấu trừ
thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế
thay người nộp thuế. Nhóm chủ thể này
được quy định cụ thể tại Điểm D, Khoản 1,
Điều 2 Thông tư số 156/2013/TT-BTC của
Bộ Tài chính ngày 06/11/2013.
Nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể
thuộc nhóm một là nghĩa vụ theo luật định.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 19(347) T10/2017
Cụ thể, khi tham gia quan hệ pháp luật thuế,
những chủ thể này có hành vi tác động lên
đối tượng chịu thuế (tức thực hiện hành
vi chịu thuế) thì phải có nghĩa vụ đăng ký
thuế, khai thuế, nộp thuế và thực hiện các
thủ tục về thuế theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, do tính phức tạp và yêu cầu ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
quản lý thuế nên thủ tục hành thu đòi hỏi
phải ngày càng tỉ mỉ, có tính chuyên môn
hóa cao. Chính vì vậy, pháp luật quản lý
thuế ghi nhận quyền của người thực hiện
hành vi chịu thuế (để tiện theo dõi, chúng
tôi gọi nhóm chủ thể này là đối tượng nộp
thuế) được ký hợp đồng với tổ chức kinh
doanh làm dịch vụ về thuế để những tổ chức
này thực hiện các thủ tục về thuế thay. Cụ
thể, Khoản 1, Điều 2, Thông tư số 117/2012/
TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 19/7/2012
hướng dẫn về hành nghề dịch vụ làm thủ tục
về thuế quy định: “Tổ chức kinh doanh dịch
vụ về thuế thực hiện đăng ký thuế, khai thuế,
nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ đề nghị
miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và các thủ
tục hành chính về thuế khác thay người nộp
thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và
hợp đồng dịch vụ đã ký kết”.
Với quy định này, tổ chức kinh doanh
dịch vụ về thuế chỉ được tiến hành cung cấp
dịch vụ thuế cho đối tượng nộp thuế trong
giới hạn pháp luật cho phép, một số hoạt
động không được phép như rà soát sổ sách
kế toán, khiếu nại thuế, đại diện người thực
hiện hành vi chịu thuế giải trình các số liệu
trước cơ quan thuế, cơ quan tiến hành tố
tụng. Như vậy, chủ thể làm dịch vụ về thuế
thay không mặc nhiên được đại diện cho đối
tượng nộp thuế thực hiện tất cả các dịch vụ
về thuế mà bị giới hạn bởi phạm vi hợp đồng
dịch vụ thuế đã ký kết. Chúng ta có thể chia
trách nhiệm của chủ thể cung cấp dịch vụ về
thuế làm hai trường hợp sau8:
- Chủ thể cung cấp dịch vụ về thuế
không trực tiếp tham gia quan hệ pháp luật
8 Xem Trần Minh Hiệp (2010), Pháp luật về tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế và hướng hoàn thiện, Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 17.
thuế nên không chịu trách nhiệm đối với
những vấn đề pháp lý phát sinh từ hành vi
thực hiện thủ tục về thuế, trách nhiệm này
thuộc về đối tượng nộp thuế. Chủ thể kinh
doanh dịch vụ về thuế chỉ chịu trách nhiệm
pháp lý đối với những hành vi vượt quá
phạm vi ủy quyền theo quy định của pháp
luật dân sự.
- Chủ thể cung cấp dịch vụ về thuế
được đối tượng nộp thuế ủy quyền ký các
thủ tục về thuế và chịu trách nhiệm pháp lý
phát sinh từ hành vi đó. Tuy nhiên, vì chủ
thể cung cấp dịch vụ về thuế không trực tiếp
tham gia quan hệ pháp luật thuế mà tham gia
với tư cách chủ thể làm thủ tục về thuế thay
đối tượng nộp thuế, do đó trong trường hợp
này, họ gián tiếp thực hiện nghĩa vụ của đối
tượng nộp thuế đối với Nhà nước, còn trách
nhiệm pháp lý phát sinh vẫn thuộc về đối
tượng nộp thuế trước cơ quan thuế.
Như vậy, chủ thể cung cấp dịch vụ về
thuế tham gia vào quan hệ pháp luật thuế với
tư cách là người thực hiện một số thủ tục về
thuế thay đối tượng nộp thuế. Hành vi của
họ không làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế
của đối tượng nộp thuế mà họ chỉ thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế thay. Nghĩa vụ nộp thuế
phát sinh từ hành vi chịu thuế của đối tượng
nộp thuế. Do đó, nếu người nộp thuế thay
tham gia vào quan hệ pháp luật thuế với tư
cách là chủ thể cung cấp dịch vụ thuế cho
đối tượng nộp thuế mà vừa phải chịu trách
nhiệm trước chủ thể thực hiện hành vi chịu
thuế với tư cách là người vi phạm nghĩa vụ
trong hợp đồng (trách nhiệm dân sự), vừa
phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc trách
nhiệm hình sự trước Nhà nước (hành vi của
đối tượng nộp thuế) tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm là điều không thể.
3. Một số bất cập trong khái niệm “người
nộp thuế”
Trong hai mảng pháp luật quản lý thuế
và pháp luật quy định đối với từng sắc thuế
cụ thể, có sự giao nhau ở một khái niệm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 19(347) T10/2017
chung, đó là khái niệm về “người nộp thuế”.
Tuy nhiên các văn bản pháp luật hiện nay
chưa có quy định nào để phân biệt khái niệm
“người nộp thuế” theo “Luật Quản lý thuế”
(cái chung) và khái niệm “người nộp thuế”
trong các sắc thuế cụ thể (cái riêng), mặc
dù nội hàm của hai khái niệm này là khác
nhau, nó chỉ giống nhau ở khía cạnh ngôn
ngữ, còn về định nghĩa trong các quy định
của pháp luật thì nó là khác nhau. Sự khác
nhau đó được thể hiện ở một số điểm chính
như sau:
Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 2 Luật
Quản lý thuế năm 2006, “người nộp thuế”
gồm những đối tượng sau đây:
(a) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp
thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
(b) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp
các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà
nước (sau đây gọi chung là thuế) do cơ quan
quản lý thuế quản lý thu theo quy định của
pháp luật;
(c) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ
chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người
nộp thuế.
Từ đây cho thấy, khái niệm “người
nộp thuế” trong Luật Quản lý thuế là một
khái niệm rất rộng, có thể chia nó thành hai
nhóm: (1) Những tổ chức, cá nhân thực hiện
hành vi chịu thuế theo quy định của các sắc
thuế nên có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước;
(2) Những tổ chức, cá nhân không thực hiện
hành vi chịu thuế nhưng thực hiện việc nộp
thuế thay cho những chủ thể chịu thuế.
Đối với nhóm (1) thì “người nộp thuế”
là không có sự phân biệt trong quy định giữa
“Luật Quản lý thuế” và các sắc thuế cụ thể
(có thể nói là nội hàm của khái niệm trùng
nhau). Ở đây, tổ chức, cá nhân nào đã thực
hiện hành vi chịu thuế thì cũng là “người
nộp thuế”. Ví dụ, “người nộp thuế” trong
quy định của Luật Thuế GTGT năm 2008,
Điều 4 có quy định “Người nộp thuế GTGT
là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT (sau đây
gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân
nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT (sau
đây gọi là người nhập khẩu)”, hoặc “người
nộp thuế” trong Luật Thuế TTĐB năm 2008,
Điều 4 có quy định “người nộp thuế TTĐB
là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng
hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng
chịu thuế TTĐB”.
Từ những so sánh trên cho thấy, các
sắc thuế cụ thể không thể gom quy định chủ
thể “nộp thuế thay” (tức là nhóm (2) trong
Luật Quản lý thuế, theo phân tích ở trên)
vào quy định “người nộp thuế ”. Nghĩa là,
trong các sắc thuế cụ thể thì chủ thể nào làm
phát sinh “hành vi chịu thuế” thì đó chính
là “người nộp thuế”, còn “người nộp thuế
thay” không được định nghĩa, nó có thể là
một hành vi dịch vụ hay một chủ thể trung
gian nào đó (chịu sự điều chỉnh của các pháp
luật khác, chứ không phải pháp luật về thuế).
Tuy nhiên, cũng có một số sắc thuế cụ thể có
quy định cho “chủ thể nộp thay” cũng được
tính là “người nộp thuế”, ví dụ Luật Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016, Điều
3, Khoản 4 về “người được ủy quyền, bảo
lãnh và nộp thuế thay cho người nộp thuế”,
cho thấy ở đây có sự không thống nhất về
cách định nghĩa cho “người nộp thuế” ở các
sắc luật thuế cụ thể. Điều này thể hiện sự
thiếu đồng bộ giữa cách định nghĩa của Luật
Quản lý thuế (cái chung) và các sắc thuế cụ
thể (cái riêng). Có sắc thuế thì định nghĩa
“người nộp thuế” theo nghĩa rộng như cách
định nghĩa của Luật Quản lý thuế, nhưng
phần lớn các sắc thuế thì định nghĩa “người
nộp thuế” theo nghĩa hẹp, tức là loại trừ một
phần đối tượng “người nộp thuế” theo cách
định nghĩa của Luật Quản lý thuế (ở đây, tập
trung cho nhóm “nộp thuế thay”).
Đối với nhóm (2), đó là những tổ
chức, cá nhân không thực hiện hành vi chịu
thuế nhưng thực hiện việc nộp thuế thay
cho những chủ thể chịu thuế. Họ có thể là
doanh nghiệp, chi nhánh, đại lý, tổ chức tín
dụng hoặc cá nhân được chủ thể chịu thuế
ủy quyền để nộp thay. Về nguyên tắc, những
đối tượng thuộc nhóm này không có nghĩa
vụ phải nộp thuế, việc nộp thuế là của chủ
thể khác (chủ thể thực hiện hành vi chịu
thuế), nhưng họ phải có trách nhiệm làm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 19(347) T10/2017
thay công việc “đi nộp” theo ủy quyền của
bên thực hiện hành vi chịu thuế (họ là bên
nhận ủy quyền). Mặc dù vậy, một số quy
định của pháp luật về thuế có tính ràng buộc
đối với hành vi của họ, đó là những quy định
về mặt thủ tục như kê khai, quyết toán, hoàn
thuế, Vì thế mà Luật Quản lý thuế đã gom
nhóm đối tượng này vào định nghĩa “người
nộp thuế”, dù phần lớn các sắc thuế cụ thể
vẫn “bỏ ngỏ”, loại trừ nhóm đối tượng này
trong định nghĩa “người nộp thuế” (trừ thuế
xuất khẩu và thuế nhập khẩu). Nếu xét về
khía cạnh lý luận pháp lý, thì vẫn có thể
hiểu những đối tượng “nộp thuế thay” cũng
là “người nộp thuế”, bởi vì những sắc thuế
cụ thể không quy định nhưng Luật Quản lý
thuế có quy định.
Cách định nghĩa trong Luật Quản lý
thuế và các sắc thuế cụ thể tuy có mâu thuẫn,
nhưng không phải mâu thuẫn loại trừ nhau
mà là mâu thuẫn biện chứng để bổ sung cho
nhau. Trong các sắc thuế cụ thể, dù không
định nghĩa “người nộp thay” là “người nộp
thuế”, nhưng cũng không có quy định để loại
trừ “người nộp thuế không được ủy quyền
cho người khác nộp thay”, khiếm khuyết đó
đã được Luật Quản lý thuế bổ sung, nhưng
không tách thành hai khái niệm mà Luật đã
gộp hai nhóm đối tượng đó vào với nhau
trong cùng một định nghĩa. Như vậy, những
chủ thể của pháp luật thuế vẫn có thể áp
dụng song song các quy định của Luật Quản
lý thuế và quy định của từng sắc thuế cụ thể.
Chủ thể thực hiện hành vi chịu thuế có thể
áp dụng theo sắc thuế riêng có liên quan,
nhưng chủ thể làm thủ tục kê khai và nộp
thuế có thể áp dụng theo Luật Quản lý thuế.
Tuy nhiên, cách hiểu này dễ tạo nhầm lẫn,
nhập nhằng giữa nội hàm của cái chung và
cái riêng trong một định nghĩa có cùng ngôn
từ là “người nộp thuế” ở các sắc luật khác
nhau, một định nghĩa là bản chất “nộp thật”,
còn định nghĩa kia là hiện tượng “làm thủ
tục nộp” dẫn đến cách hiểu không thống
nhất trong quá trình vận dụng pháp luật về
thuế trên thực tiễn, vì đến thời điểm này vẫn
chưa có quy định để chỉ ra cách phân biệt
về khái niệm “người nộp thuế” trong Luật
Quản lý thuế và các sắc thuế cụ thể khác.
Song song với mâu thuẫn trong định
nghĩa “người nộp thuế” như đã phân tích,
nếu đối chiếu với các quy định của pháp luật
khác có liên quan như Luật Xử lý vi phạm
hành chính hay Bộ luật Hình sự để xử lý
các hành vi gian lận về thuế, trốn thuế, ...
thì sẽ rất khó để xác định những cấu thành
vi phạm, đặc biệt là về mặt chủ thể. Ví dụ,
Điều 161, Khoản 1 của Bộ luật Hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy
định “Người nào trốn thuế với số tiền từ một
trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng
hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị
xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc về một trong
các tội quy định tại các Điều 153, 154, 155,
156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195,
196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật
này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm,
thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số
tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến hai năm”. Như vậy, pháp luật hình
sự chỉ quy định chủ thể của tội trốn thuế là
“người nào”, mà không nêu rõ là “người nộp
thuế thật” hay “người nộp thuế thay”. Cho
nên, trong trường hợp “người nộp thuế thật”
đã ủy quyền cho “người nộp thuế thay” tiến
hành các thủ tục kê khai và nộp thuế, nhưng
người nộp thuế thay không thực hiện thì chủ
thể của tội trốn thuế được xác định như thế
nào trong trường hợp này? Nếu xử lý “người
nộp thuế thật” tội trốn thuế thì không chứng
minh được hành vi phạm tội của họ, thậm
chí bỏ sót tội phạm, nhưng nếu xử lý “người
nộp thuế thay” tội trốn thuế thì rõ ràng họ
không thuộc “đối tượng phải nộp thuế” thì
không thể ghép được họ vào hành vi “trốn”.
Do đó, tách biệt hai đối tượng chủ thể này ra
thành hai định nghĩa riêng biệt sẽ phù hợp
hơn là gộp chung khái niệm với nhau như
quy định hiện hành của pháp luật về thuế.
4. Một số kiến nghị
Từ các bất cập đã phân tích, chúng tôi
đề xuất nên tách biệt khái niệm theo hướng
như sau:
Một là, đối với Luật Quản lý thuế vẫn
tiếp tục giữ nguyên khái niệm “người nộp
thuế” như hiện hành, ý chỉ “người tiến hành
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 19(347) T10/2017
thủ tục kê khai và nộp thuế”. Trong đó, bất
kỳ chủ thể nào tiến hành thủ tục nộp thuế thì
đều được hiểu là “người nộp thuế”, bao hàm
cả “người nộp thuế thật” (chủ thể làm phát
sinh hành vi chịu thuế) và “người nộp thuế
thay” (chỉ tiến hành thủ tục kê khai và nộp
thuế theo ủy quyền của chủ thể làm phát sinh
hành vi chịu thuế) trong trường hợp “người
nộp thuế thật” không tự tiến hành các thủ tục
kê khai và nộp thuế.
Hai là, đối với các sắc thuế cụ thể thì
thay khái niệm “người nộp thuế” theo quy
định hiện hành thành khái niệm mới là “đối
tượng nộp thuế”, ý chỉ “chủ thể làm phát
sinh hành vi chịu thuế”. Như vậy, với kiến
nghị này thì các sắc thuế cụ thể sẽ không
còn tồn tại khái niệm “người nộp thuế”, điều
này sẽ tạo được tính đồng bộ, không chồng
chéo giữa các sắc thuế cụ thể và Luật Quản
lý thuế về định nghĩa “người nộp thuế” như
quy định hiện hành. Theo đó, định nghĩa
“người nộp thuế” trong Luật Quản lý thuế
thuần túy chỉ nhóm chủ thể thực hiện các
hành vi về mặt thủ tục, còn định nghĩa “đối
tượng nộp thuế” trong các sắc thuế cụ thể
thì thuần túy chỉ nhóm chủ thể làm phát sinh
hành vi chịu thuế (nội dung).
Với đề xuất này, trong trường hợp
“đối tượng nộp thuế” (theo các sắc thuế cụ
thể) tự mình tiến hành các thủ tục kê khai và
đăng ký thuế (theo Luật Quản lý thuế) thì họ
sẽ đóng hai vai với hai khái niệm khác nhau
tương ứng, vừa là “đối tượng nộp thuế”,
vừa là “người nộp thuế”. Ngược lại, nếu họ
không tự mình thực hiện các thủ tục đó mà
ủy quyền cho chủ thể khác tiến hành thì họ
chỉ còn một vai là “đối tượng nộp thuế”, vai
còn lại tách ra cho người đi nộp thay “người
nộp thuế”. Sẽ không còn sự nhầm lẫn, nhập
nhằng về chủ thể ở đây, do cách hiểu không
thống nhất về khái niệm như quy định hiện
hành. Từ đó, việc vận dụng các quy định của
pháp luật vào trong thực tiễn sẽ rõ ràng và
dễ dàng hơn.
9 Giáo trình Luật Thuế tái bản (2016) - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
tháng 10/2016, tr. 46.
Trên cơ sở phân chia hai khái niệm
đó, các văn bản pháp luật sẽ định ra quyền
và nghĩa vụ pháp lý của từng nhóm chủ thể
với một cách hiểu thống nhất, “người nộp
thuế là người nộp thuế”, “đối tượng nộp
thuế là đối tượng nộp thuế”, quyền của
người nào thì người đó hưởng, nghĩa vụ của
người nào thì người đó chịu. Kiến nghị này
sẽ khắc phục được những hạn chế khi có
hành vi liên đới, nhập nhằng trong trường
hợp “người nộp thuế thay” (cũng được định
nghĩa là “người nộp thuế”) không thực hiện
các nội dung theo ủy quyền của “người nộp
thuế thật” (cũng được định nghĩa là “người
nộp thuế”). Trong khi đó, các quy định về
quyền và nghĩa vụ pháp lý thì vẫn đang dùng
chung cho khái niệm “người nộp thuế” mà
chưa có sự phân chia giữa họ với nhau như
quy định hiện hành. Khi xây dựng khái niệm
“đối tượng nộp thuế” trong các sắc thuế cụ
thể, phải trả lời được câu hỏi: ai phải nộp
thuế? vì sao phải nộp thuế? (sự kiện pháp
lý phát sinh nghĩa vụ thuế)9. Ngoài ra, theo
chúng tôi, cách phân chia này càng đúng với
tinh thần chung của lý luận pháp lý về thuế
“nghĩa vụ về thuế, xét đến cùng là nghĩa
vụ của người thực hiện hành vi chịu thuế”,
trong trường hợp “người nộp thuế thay”
không thực hiện hành vi theo ủy quyền về
thuế thì trách nhiệm suy đến cùng cũng do
“người nộp thuế thật” chịu. Ủy quyền giống
như một dạng của hợp đồng, có ký kết giao
ước thì cũng có ký kết thanh lý hợp đồng, từ
đó pháp luật hành chính và hình sự sẽ loại
trừ “hành vi trốn thuế” đối với người “nộp
thuế thay”, những thiệt hại do hành vi của
người “nộp thuế thay” sẽ chuyển về các quy
định bồi thường thiệt hại trong pháp luật
dân sự
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 19(347) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bat_cap_trong_khai_niem_nguoi_nop_thue_theo_phap_luat.pdf