Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia

Từ số liệu tính toán được trong bảng có thể thấy tỷ suất lợi nhuận theo chi phí của hoạt động xuất khẩu là khá nhỏ hay nói cách khác hiệu quả hoạt động xuất khẩu của công ty là không cao. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế theo chi phí cao nhất đạt được là năm 1998 và thấp nhất là năm 2000. Mặc dù doanh thu năm 2000 là lớn nhất nhưng do chi phí quá cao nên lợi nhuận thu được lại thấp hơn năm 1999 dẫn đến tỉ suất lợi nhuận rất nhỏ (3,19%). Năm 2001 mặc dù doanh thu rất thấp (chỉ bằng 40% của năm 2000) nhưng chi phí không lớn nên lợi nhuật đạt được có tốc độ giảm nhỏ hơn tốc độ giảm của doanh thu (lợi nhuận năm 2001 bằng 67% lợi nhuận năm 2000). Do đó tỉ suất lợi nhuận của năm 2001 khá cao (5,5%). Điều này chứng tỏ công ty đã có những cố gắng để giảm chi phí kinh doanh nhưng tỉ suất lợi nhuận theo chi phí vẫn còn rất nhỏ (tỉ suất lợi nhuận sau thuế theo chi phí trung bình trong giai đoạn này là 4,658%).

doc88 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới so với khối lượng của các nước xuất khẩu chủ yếu trên thế giới như sau: Biểu đồ: Tỷ trọng hàng tinh dầu của Việt Nam so với các nước xuất khẩu chủ yếu trên thế giới Như vậy tỷ trọng hàng xuất khẩu tinh dầu của Việt Nam so với các nước xuất khẩu tinh dầu chủ yếu còn rất nhỏ (khoảng 3,4%). Vì vậy tình hình thay đổi giá cả, khối lượng mặt hàng tinh dầu Việt Nam trên thị trường thế giới không ảnh hưởng đến tình hình chung của thị trường. Hay nói cách khác Việt Nam là nước chấp nhận giá trong suất khẩu tinh dầu ra nước ngoài do đặc điểm là một nước xuất khẩu với khối lượng nhỏ. Việt Nam có rất nhiều điều kiện để phát triển ngành tinh dầu như điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực dồi dào nhưng kết quả thu được còn rất khiêm tốn do nhiều nguyên nhân. Để đưa ngành tinh dầu vươn lên trong tương lai không còn cách nào khác là phải có sự hỗ trợ từ nhiều phía để giải quyết những khó khăn trước mắt. II-/ Phương hướng và mục tiêu phát triển của công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên trong thời gian tới. Căn cứ vào tình hình thực tế công ty đã đề ra kế hoạch cho năm 2002 như sau: Doanh số : 23,5 tỷ. Lợi nhuận gộp : khoảng 2,8 tỷ. Quĩ lương : 800 triệu. 1-/ Kinh doanh xuất khẩu: - Tinh dầu: 1 triệu USD (tối thiểu) tương đương 14 tỷ và lợi nhuận gộp từ xuất khẩu tinh dầu khoảng 1,4 tỉ đồng (10%). - Mặt hàng khác 200 USD tương đương 2,8 tỷ. Lợi nhuận gộp khoảng 140 triệu (8%). 2-/ Kinh doanh nhập khẩu: - Hoá chất các loại: 6 tỷ đồng. Lợi nhuận gộp từ nhập khẩu khoảng 360 triệu đồng (6%). - Hương liệu: 50 ngàn USD tương đương 700 triệu (10%). - Các mặt hàng khác: 200 ngàn USD tương đương 2,8 tỉ lợi nhuận gộp khoảng 140 triệu (5%). 3-/ Kinh doanh các mặt hàng tự sản xuất: Cố gắng đạt doanh số ít nhất 500 triệu... * Về công tác khác: - Tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đoàn kết nội bộ, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của toàn bộ CBCNV. - Tiếp tục khuyến khích người lao động tự học cũng như tạo điều kiện để nhiều người được học tập nâng cao chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp ngắn hạn. Tăng cường công tác đào tạo tại chỗ. - Tạo mọi điều kiện để người lao động có việc làm và việc làm phù hợp với khả năng của mình. - Động viên khuyến khích CBCNV tích cực tham gia các phong trào thi đua của Trung tâm và của công ty. - Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên đăng kí năm 2002 sẽ là đơn vị lao động xuất sắc. * Về thị trường: Tích cực thâm nhập thị trường các nước Châu á và thị trường Châu Mĩ, đây là hai thị trường khó khăn song cũng rất hấp dẫn đối với ngành hàng tinh dầu Việt Nam. Năm 2002 công ty đang đứng trước khó khăn về nguồn hàng xuất khẩu vì Nhà nước cấm xuất khẩu tinh dầu xá xị. Vì thế công ty phải vạch ra phương hướng mới. - Tiến hành nghiên cứu triển khai sản xuất các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trên thế giới như: tinh dầu hoa môi, nước gội đầu, chất tẩy rửa pha chế đơn chất hương thơm như: hương chanh, hương táo,... - Tiến hành nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào việc sản xuất những sản phẩm từ tinh dầu thô tạo ra sản phẩm cuối cùng như chiết suất Menthol từ tinh dầu bạc hà, Anethol từ tinh dầu hồi,.... Cùng với sự biến động của thị trường, sự thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu và những khó khăn trong những năm qua công ty đề ra phương hướng phát triển như sau: + Thứ nhất: ổn định nguồn hàng tinh dầu cung cấp cho công ty thực hiện phương châm “Mua tận gốc, bán tận ngọn”. Công ty tiến hành cử cán bộ kỹ thuật xuống từng địa phương giúp đỡ khâu nuôi trồng, chăm sóc và khai thác tinh dầu cho người nông dân, xây dựng các vùng chuyên canh về tinh dầu, xây dựng các trạm thu mua tinh dầu ở địa phương, ký trước các hợp đồng mua bán để nông dân yên tâm sản xuất. + Thứ hai: giảm chi phí sản xuất kinh doanh bằng cách cắt bỏ quá trình mua bán lòng vòng qua nhiều trung gian tiến hành làm thủ tục hải quan trước khi đưa hàng ra kho bãi để tránh trường hợp làm thủ tục quá lâu gây ra tổn thất chi phí kho bãi. Tiến hành kí kết các hợp đồng mua bán theo giá CIF để tăng thu nhập của công ty. + Thứ ba: đi đôi với việc nâng cao chất lượng sản phẩm là việc ổn định chất lượng sản phẩm tinh dầu của công ty. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định đến uy tín của công ty. Do đó công ty tự giác bảo đảm tuyệt đối chất lượng hàng hoá của mình trước bạn hàng nhằm tăng uy tín của mình trên thị trường quốc tế. + Thứ tư: tăng cường hoạt động Marketing như nghiên cứu thị trường, quảng cáo, chào hàng, lựa chọn bạn hàng nhằm thu hút khách hàng mua sản phẩm của công ty, giới thiệu công ty với các bạn hàng khác. + Thứ năm: trên cơ sở thị trường năm 2001 thị trường và bạn hàng của công ty năm 2002 sẽ được mở rộng hơn đẩy mạnh hoạt động buôn bán chính ngạch và tiểu ngạch với Trung Quốc giữ vững bạn hàng quen thuộc như Anh, Pháp, Italia... + Thứ sáu: cùng với hoạt động xuất khẩu công ty mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang nhập khẩu và bán hàng nội địa, sản xuất chế biến các loại tinh dầu nhựa thông chất lượng cao để xuất khẩu, hợp tác với các đơn vị trong trung tâm nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ tinh dầu hương liệu. Chuyển giao công nghệ trồng cây thu hái sản xuất, chế biến nâng cấp chất lượng các loại tinh dầu cho các cơ sở sản xuất của các ngành và các địa phương. Phương hướng đã được ban lãnh đạo công ty đề ra nhưng để thực hiện được phải có sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ công nhân viên và sự giúp đỡ từ phía trung tâm cũng như của Nhà nước vì trong tình hình mới công ty sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. III-/ Một số thuận lợi và khó khăn của công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên. 1-/ Những thuận lợi của công ty. Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên là một trong những tổ chức kinh doanh mặt hàng tinh dầu sớm nhất ở Việt Nam. Công ty lại thuộc Trung tâm khoa học và công nghệ quốc gia (do Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam thành lập). Do đặc điểm xuất phát đó mà công ty có những ưu điểm sau: (1) Là con đẻ của Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia - một trung tâm khoa học của đất nước do đó công ty có một môi trường khoa học rất thuận lợi. Điều này giúp công ty có thể tiếp thu được những công trình nghiên cứu khoa học mới nhất có thể liên kết với các đơn vị khoa học khác trong Viện như: Viện hoá học, Viện sinh thái tài nguyên, Viện sinh học,... để ứng dụng vào sản xuất. (2) Công ty tinh dầu có danh nghĩa là một doanh nghiệp Nhà nước lại thuộc Viện khoa học Việt Nam nên có sự nâng đỡ của Viện cũng như của Nhà nước. (3) Xuất phát từ cái nôi của nền khoa học nước nhà, công ty có một đội ngũ công nhân lành nghề có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật nhanh và có khả năng sáng tạo. (4) Do lợi thế về mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, thị trường thế giới có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này. Tinh dầu và nguyên liệu chứa tinh dầu có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Hàng năm trên thế giới tiêu thụ hàng vạn tấn nguyên liệu chứa tinh dầu. Theo tài liệu của GATT hàng năm tinh dầu được sản xuất trên thế giới thay đổi từ 25.000-30.000 tấn. Hơn nữa công ty lại có lợi thế do nguồn cung cấp nguyên liệu rất phong phú ở trong nước. Nhờ vậy công ty có rất nhiều triển vọng để mở rộng sản phẩm của mình phục vụ cho chiến lược xuất khẩu tinh dầu trong lâu dài. (5) Đội ngũ cán bộ khai thác, thu mua nguồn hàng đông đảo và có mặt ở mọi địa phương đáp ứng kịp thời công tác thu mua sản phẩm nguyên liệu cho công ty. (6) Thị trường xuất khẩu của công ty ngày càng có uy tín. Khách hàng tìm đến với công ty ngày càng nhiều. Những năm trước khi Liên Xô và các nước Đông Âu chưa tan rã công try chủ yếu xuất khẩu theo Nghị định thư sang thị trường này. Nhưng đồng thời công ty luôn tìm kiếm bạn hàng mới ở thị trường Châu Âu, Châu á, Châu Mỹ nên mặc dù thị trường Liên Xô và Đông Âu tan rã công ty vẫn đứng vững được và ngày phát triển. Hiện nay, thị trường của công ty là các nước Châu Âu như: Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Italia, Tiệp, Nga, thị trường Châu á có: Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc. Năm 2000, 2001 công ty còn thu hút được thị trường Mỹ và úc. Mục tiêu phát triển của công ty là ngày càng mở rộng thị trường sang thị trường Châu Mỹ và Châu á. 2-/ Những khó khăn của công ty. Trong giai đoạn hiện nay công ty phải đối đầu với rất nhiều khó khăn do tình hình thay đổi rất nhiều. Có thể điểm qua một số khó khăn của công ty như sau: (1) Do có nhiều đơn vị bắt đầu kinh doanh xuất khẩu mặt hàng tinh dầu nên sự cạnh tranh mua tinh dầu ngày càng nhiều gây ra khó khăn cho việc hoạch định chiến lược giá cả và phân chia lợi nhuận. Hiện nay một số doanh nghiệp không có nghiệp vụ về kinh doanh mặt hàng tinh dầu cũng đều được phép tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp, giữa các doanh nghiệp cũng cạnh tranh nhau để thu lợi nhuận, họ đều đi vào đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Do đó có rất nhiều cơ quan không đúng chức năng cũng tham gia xuất khẩu tinh dầu mà lượng tinh dầu trong nước tăng không đáng kể nên họ cạnh tranh với nhau để mua được tinh dầu làm cho giá tinh dầu trong nước không ổn định. Mặt khác, khi có tình trạng tranh mua như vậy, người sản xuất sẽ không chú ý đến chất lượng mà chú trọng đến số lượng. Ví dụ đã có tình trạng khan hiếm tinh dầu sả nên chưa đến ngày thu hoạch họ đã cắt dễ chưng cất tinh dầu kết quả là làm cho hàm lượng tinh dầu đạt 28-30% Citronella mà đáng ra tinh dầu sả xuất khẩu phải đạt hàm lượng 35% Citronella. Do vậy sẽ dẫn đến hiện tượng lộn xộn về chất lượng và giá cả làm giảm uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế gây thiệt hại cho người kinh doanh và người sản xuất. Bên cạnh đó đã xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà xuẩt khẩu cũng như các nhà cung cấp tinh dầu trong nước đã đẩy giá tinh dầu nội địa lên cao. Mặt khác các doanh nghiệp xuất khẩu tinh dầu lại tranh nhau cháo bán cho người nước ngoài dẫn đến thương nhân nước ngoài có điều kiện ép giá tinh dầu xuất khẩu của ta. Đồng thời ở trong nước tình trạng tranh mua tranh bán giữa các công ty làm cho giá xuất khẩu tinh dầu của ta giảm đi nhiều so với trước. Các doanh nghiệp khác do không được đầu tư về kỹ thuật và công nghệ như ở công ty tinh dầu nên chủ yếu xuất khẩu tinh dầu dưới dạng thô nên giá thành thấp hơn nhiều so với sản phẩm đã qua chế biến của công ty. Các bạn hàng nước ngoài do có nhiều điều kiện về khoa học công nghệ nên muốn mua tinh dầu thô với giá rẻ hơn là mua tinh dầu đã qua chế biến. Công ty có nhiệm vụ nghiên cứu triển khai cùng với nhiệm vụ kinh doanh xuất khẩu nên không thể chỉ xuất khẩu tinh dầu thô vì mục tiêu lợi nhuận như các doanh nghiệp khác. (2) Do điều kiện hoa học kỹ thuật chưa thực sự hiện đại nên công ty cũng chưa tạo ra được sản phẩm cuối cùng mà mới chỉ dừng lại ở dạng bán thành phẩm nên giá xuất khẩu thấp lãi thu hồi ít. Đó là chưa nói đến việc bạn hàng nước ngoài khó chấp nhận giá cả của tinh dầu bán thành phẩm của công ty hơn giá cả của tinh dầu thô của các đối thủ khác như đã nói ở trên. (3) Một khó khăn lớn nhất mà công ty gặp phải hiện nay là lệnh cấm xuất khẩu tinh dầu xá xị của Chính phủ bắt đầu từ năm 2001. Hiện tượng phá rừng tràn lan dần đến việc khai thác tinh dầu ở rừng gặp rất nhiều khó khăn. Thời gian sắp tới là thời gian thử thách đối với công ty vì tinh dầu xá xị là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty (có những năm xá xị chiếm 82,1% kim ngạch xuất khẩu). Tuy vậy năm 2001 do nỗ lực rất lớn công ty vẫn ổn định được hoạt động kinh doanh và đạt được những kết quả đáng khích lệ. IV-/ Các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu về phía công ty. Vấn đề cần phải giải quyết trước tiên là phải tìm được thị trường cho mặt hàng tinh dầu. Tinh dầu không phải mặt hàng tiêu dùng hàng ngày như quần áo, giày dép, thực phẩm,... Vì thế thị trường tiêu thụ của tinh dầu hẹp hơn của các hàng hoá khác rất nhiều. Các đơn vị nhập khẩu tinh dầu ngoài đơn vị kinh doanh trung gian còn lại phần lớn là các đơn vị thuộc ngành dược phẩm và các đơn vị công nghiệp khác,... Có nghĩa là tinh dầu không thể tiêu dùng ngay mà nó chỉ là bán thành phẩm cần thiết để sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng và phải qua khâu sản xuất nữa mới đến tay người tiêu dùng được. Vì vậy các đơn vị nhập khẩu tinh dầu phải là các cơ quan chuyên trách. Để tìm được thị trường và xuất khẩu được tinh dầu là cả một vấn đề khó khăn đối với công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên nói riêng và các đơn vị cung cấp tinh dầu nói chung. Do đặc điểm của mặt hàng này mà cách thức tiếp cận thị trường cũng có nhiều điểm khác biệt. Qua phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của công ty và tìm hiểu thị trường tinh dầu trong nước và thế giới kết hợp với những kim nghiệm trong việc chiếm lĩnh thị trường của công ty trước đây cũng như kinh nghiệm của các đơn vị kinh doanh tinh dầu trong và ngoài nước có thể đưa ra một vài biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên tại công ty ENTEROIL như sau: 1-/ Lập phòng Marketing trong công ty. Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên là một mô hình xí nghiệp có qui mô vừa và nhỏ. Do mới được thành lập nên hệ thống phòng ban còn nhiều trùng lặp và kiêm nhiệm nhiều công việc của nhau. Chẳng hạn phòng kinh doanh ngoài các công việc liên quan đến nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa còn kiêm luôn việc giao dịch nghiên cứu thị trường tìm kiếm bạn hàng chào hàng, quảng cáo,... Mặc dù đã có hai phòng kinh doanh nhưng công tác thị trường còn chưa được chú trọng vì chưa có bộ phận chuyên trách công việc này. Hơn thế nữa thị trường của mặt hàng tinh dầu có khá nhiều điểm khác biệt với thị trường của các mặt hàng khác. Chính vì thế hiệu quả kinh doanh còn thấp khách hàng ít thị trường còn nhỏ hẹp và công ty mới chỉ đáp ứng những nhu cầu nhỏ lẻ phân tán trên thị trường. Nền kinh tế thế giới đang phát triển mạnh mẽ, sự cạnh tranh gay gắt diễn ra trên thương trường giữa các công ty trong cùng 1 quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Trong điều kiện cạnh tranh như vậy hoạt động Marketing thực sự trở nên cần thiết. Marketing giúp cho mỗi doanh nghiệp phát hiện ra đâu là nhu cầu thực sự của mỗi khách hàng để có thể thoả mãn tốt nhất những nhu cầu đó bằng các kế hoạch chiến lược Marketing thông qua các chính sách về sản phẩm, giá cả phân phối, khuyếch trương. Marketing giúp cho các doanh nghiệp phát huy tối đa được các tiềm lực để chinh phục khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán giữa các công ty thuộc các quốc gia khác nhau. Vì vậy nó rất cần tới hoạt động Marketing để tìm được thị trường và tìm một vị trí thích hợp trên thị trường thế giới. Hoạt động Marketing càng cần thiết hơn vì thị trường quốc tế là thị trường rất rộng lớn và khó kiểm soát. Thị trường quốc tế gồm nhiều lãnh thổ vì vậy có những đặc điểm về chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hoá,... khácn hau. Để có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì hoạt động nghiên cứu thị trường và tiến hành chính sách Marketing không thể chỉ do một bộ phận riêng rẽ thực hiện mà còn phải có những bộ phận thực hiện riêng cho từng mặt hàng. Số loại sản phẩm ở công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên lại rất đa dạng. Để bạn hàng trên khắp thế giới biết đến và mua sản phẩm của công ty không còn cách nào khác là phải tăng cường các hoạt động Marketing. Công ty tuy là doanh nghiệp Nhà nước và trực thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia nhưng để chuyển sang tự hạch toán kinh doanh. Trong cơ chế thị trường công ty phải tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho mặt hàng tinh dầu mà không được hưởng bất kì sự ưu tiên đặc biệt nào. Công ty phải nghiên cứu ứng dụng sản xuất ra sản phẩm đồng thời sản phẩm ấy phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới và bạn hàng trên thế giới tìm đến với công ty để mua sản phẩm. Từ đó công ty mới thu được lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Như vậy hoạt động Marketing thực sự cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Hiện nay lực lượng lao động ở công ty không lớn. Tuy vậy số lượng cán bộ có năng lực và kim nghiệm không phải ít. Những cán bộ đã làm tại phòng kinh doanh trước đây cũng có thể có khả năng hoạt động trong lĩnh vực Marketing. Công ty có thể tận dụng nguồn nhân lực có sẵn và đầu tư đào tạo thêm về Marketing cho những cán bộ công nhân viên này để thành lập một phòng Marketing riêng biệt với các phòng khác. Chắc chắn rằng hiệu quả của hoạt động kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài thu được sẽ cao hơn. Phòng Marketing mới được thành lập này sẽ có những nhiệm vụ sau: Thứ nhất: phòng Marketing thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, cập nhật những thông tin liên quan đến thị trường, xác định nhu cầu của thị trường đó. Sau đó, đánh giá toàn bộ khả năng của công ty để đưa ra quyết định về lựa chọn thị trường nào là hiệu quả. Từ đó phòng Marketing sẽ lập các kế hoạch chiến lược Marketing và triển khai chiến lược Marketing thông qua việc đề ra các mục tiêu xuất khẩu và kế hoạch hoá các chính sách Marketing - Mix cho cả nhóm sản phẩm xuất khẩu. Thứ hai: phòng Marketing sẽ tiến hành những hoạt động quảng cáo, chào hàng giới thiệu sản phẩm nghiên cứu thu thập những thông tin về thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Thứ ba: phòng Marketing sẽ trực tiếp đề xuất và thực hiện các chính sách về sản phẩm, giá cả phân phối và xúc tiến các chính sách về thị trường và khách hàng,... Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty với sự ra đời của phòng Marketing Phòng nghiên cứu phát triển Phòng kiểm tra chất lượng Phòng Marketing Xưởng tái chế Phòng quản lý hành chính Phòng kế toán Phòng kinh doanh I Phòng kinh doanh II Phòng quản lý tổng hợp Phòng kinh doanh Giám đốc công ty Như vậy sự ra đời của phòng Marketing ở công ty ENTEROIL là thực sự cần thiết cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. 2-/ Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường. Với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cho dù loại hình nào, mặt hàng nào thì cũng đều có thị trường và nghiên cứu thị trường là hoạt động không thể thiếu nhất là trong điều kiện cạnh tranh. Như đã nói, tinh dầu là sản phẩm có tính chất khá đặc biệt, nó là nguyên liệu cho các ngành sản xuất sản phẩm tiêu dùng. Thị trường của mặt hàng tinh dầu cũng khá đặc biệt. Chính vì vậy hoạt động nghiên cứu thị trường được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên qua tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty ta đã biết công ty rất ít thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường, đối với mặt hàng tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên. Trươc đây công ty xuất khẩu tinh dầu với số lượng lớn sang thị trường Liên Xô theo Nghị định thư nên hầu như không cần đến hoạt động nghiên cứu thị trường. Trong tình hình mới hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty chủ yếu là tìm kiếm bạn hàng qua các cuộc hội thảo, hội nghị trong ngành và một phần là các khách hàng có nhu cầu tự tìm đến công ty. Công ty rất ít thông tin về các công ty khác có cùng hoạt động xuất khẩu tinh dầu. Các thông tin thu thập được chỉ là những con số rất chung chung như khả năng sản xuất tinh dầu của một số nước chủ yếu, lượng tiêu thụ bình quân hàng năm trên thế giới, nhưng số liệu không có tính cập nhật. Như vậy những thông tin cơ bản về thị trường như dung lược thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh,... công ty cũng chưa có khả năng nắm bắt để phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Điều này dẫn đến thị trường của công ty rất phân tán, công ty chưa thực sự có khách hàng lớn đặt quan hệ làm ăn lâu dài mà chỉ đáp ứng được những nhu cầu nhỏ lẻ và bất ổn định. Đặc biệt với cách thức kinh doanh còn ảnh hưởng của lối tư duy cũ tâm lý “Đánh quả”,, kiểu làm ăn mang tính “thương vụ” nên công ty chưa có sự đi sâu tìm hiểu thị trường nước ngoài cũng như thị trường sản xuất kinh doanh trong nước. Trong lâu dài công ty không thể đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu nếu bỏ qua công tác nghiên cứu thị trường. Với sự ra đời của phòng Marketing thì hoạt động nghiên cứu thị trường sẽ được phòng Marketing đảm nhiệm. Công ty nên thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường một cách chắc chắn, kỹ lưỡng và thường xuyên. Các thông tin về thị trường, về bạn hàng, về đối thủ cạnh tranh, về người cung ứng,... phải được cập nhật và chính xác. Các thông tin này có ý nghĩa rất thực tế và phục vụ trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu của công ty. Hoạt động này bao gồm những công việc chủ yếu sau: Thứ nhất: tìm kiếm những thị trường mới có nhu cầu về sản phẩm đánh giá các thị trường cũ về tất cả các mặt như kinh tế, chính trị, luật pháp, các đối thủ cạnh tranh đã và sẽ có trên thị trường. Cần thu thập các thông tin về dung lượng thị trường, độ rộng của thị trường và biến động của thị trường đó. Thứ hai, từ việc tìm kiếm, phòng Marketing sẽ tiến hành phân tích đánh giá các thị trường kết hợp với việc đánh giá các khả năng của thị trường để tìm các đoạn thị trường hoặc thị trường mà công ty có khả năng thâm nhập hoặc giữ vững và mở rộng thị phần của công ty. Thứ ba, thông qua việc đánh giá cơ hội thị trường để hoạch định các phương thức thâm nhập hoặc giữ vững đoạn thị trường đã được xác định. Việc tìm hiểu thông tin về thị trường có thể được thông qua nhiều cách bằng nhiều phương tiện như sách báo chuyên ngành, tạp chí, của Hiệp hội tinh dầu thế giới,... có thể tìm hiểu thông tin qua các cuộc hội thảo, hội nghị, qua tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài, qua phòng thương mại công nghiệp Việt Nam, qua Internet. Để tìm hiểu được cặn kẽ nhu cầu của từng khách hàng và nhóm khách hàng đòi hỏi công ty phải có quan hệ ngoại giao thường xuyên và thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài. Từ đó công ty có khả năng nắm bắt được nhu cầu để đáp ứng kịp thời. Nếu có thể công ty nên cử cán bộ đi ra nước ngoài để thăm dò, khảo sát, chào hàng thông qua đó tìm hiểu nhu cầu, tìm hiểu bạn hàng, đặt quan hệ làm ăn. Làm như vậy công ty sẽ dành được thế chủ động, đồng thời hiểu rõ hơn nhu cầu của khách hàng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu đó. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty. Do đó việc nghiên cứu thị trường là hoạt động quan trọng hàng đầu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong công ty. Hoạt động này sẽ được thực hiện tốt nhất nếu có sự ra đời của phòng Marketing. 3-/ Mở rộng thị trường xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường để nắm được thị trường đáp ứng nhu cầu thị trường và ngày càng mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doaqnh doanh nghiệp không thể đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh nếu sản phẩm của công ty chỉ tiêu thụ trên một số thị trường nhất định. Việc mở rộng thị trường giúp chia sẻ rủi ro và tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Mặt hàng tinh dầu cũng như các mặt hàng khác, khi sản xuất ra cũng cần có thị trường để trao đổi và tiêu thụ sản phẩm. Nếu chúng ta mở rộng được thị trường xuất khẩu thì việc sản xuất tinh dầu mới ổn định. Trong cơ chế hiện nay, Nhà nước không còn quản lý mặt hàng tinh dầu nữa để doanh nghiệp tự điều tiết và phát triển mặt hàng tinh dầu theo yêu cầu đòi hỏi của thị trường. Qua việc nghiên cứu kim ngạch xuất khẩu của công ty ta thấy thị trường Italia và thị trường Anh là những thị trường tiêu thụ phần lớn sản phẩm của công ty. Thị trường của một số nước ở Châu Mĩ và Châu á thì công ty hầu như chưa tiếp cận được. Chính vì vậy công ty phải có những biện pháp mở rộng thị trường tiềm năng đồng thời giữ vững những thị trường truyền thống. Phương hướng để tiến hành như sau: - Củng cố và giữ vững các thị trường tiêu thụ lớn về tinh dầu như Italia, Anh, Pháp,... - Khôi phục lại các thị trường truyền thống tiêu thụ tinh dầu trước đây như thị trường các nước XHCN cũ, Đài Loan, Đức,... - Tiếp tục tìm hiểu, đặt quan hệ để mở rộng thêm các thị trường mới bằng cách giới thiệu chào bán sản phẩm của công ty ở Châu Mĩ, Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản, Hà Lan,... - Cố gắng đáp ứng được nhu cầu của các thị trường mới bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm,... để từng bước chiếm lĩnh các thị trường này. Để làm tốt công tác thâm nhập và mở rộng thị trường thì công ty phải tích cực tham gia các hội trợ triển lãm quốc tế để quảng cáo cho các sản phẩm tinh dầu, cử cán bộ đi tìm hiểu thị trường và giới thiệu sản phẩm của công ty tại những thị trường mới, đẩy mạnh nghiên cứu thị trường. 4-/ Tạo nguồn hàng ổn định vững chắc. Như đã nói trong thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu và tình hình thị trường tinh dầu nội địa, nguồn hàng đang là vấn đề nan giải đối với công ty tinh dầu nói riêng và đối với các đơn vị kinh doanh mặt hàng này ở nước ta nói chung. Nguồn tinh dầu tự nhiên dù có kế hoạch đầu tư tái tạo cũng không phải là vô tận mà sẽ cạn kiệt nhất là khi diện tích rừng bị tàn phá nặng nền nhiều loại cây tinh dầu cũng bị tàn phá và cạn kiệt theo. Chính vì nguy cơ tàn phá rừng mà Nhà nước đã ra Quyết định cấm xuất khẩu tinh dầu xá xị (mặt hàng này không những là thế mạnh của công ty mà còn là sản phẩm kinh doanh chủ yếu của nhiều đơn vị kinh doanh tinh dầu). Nhu cầu của thị trường thế giới khá lớn đối với mặt hàng này nhưng công ty không còn khả năng cung cấp. Thay vào đó công ty phải có những sản phẩm khác để thay thế nếu không sẽ mất khách hàng mất thị trường uy tín kinh doanh giảm sút. Làm thế nào để có được nguồn hàng thay thế? Để làm được việc này không còn cách nào khác là phải đẩy mạnh trồng cây tinh dầu theo hướng hình thành các vùng chuyên canh lớn, đẩy mạnh sản xuất tinh dầu. Công ty nên cửa các cán bộ kỹ thuật về địa phương hướng dẫn kỹ thuật trồng khai thác tinh dầu, ký trước các hợp đồng mua bán tinh dầu sơ chế để người dân yên tâm sản xuất. Công ty phải duy trì một lượng hàng hoá dự trữ hợp lý, kí kết các hợp đồng với thương gia nước ngoài phù hợp với tình hình sản xuất trong nước và nguồn cung cấp hàng của các chân hàng. Công ty có thể ổn định nguồn cung cấp tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên dùng cho xuất khẩu bằng cách liên kết với các đơn vị trồng và sản xuất tinh dầu trong cả nước. Nếu giá cả thu mua tinh dầu ổn định người trồng tinh dầu nhận thức rõ được hiệu quả từ việc trồng cây tinh dầu để cung cấp tinh dầu xuất khẩu thì họ sẽ yêu tâm hơn. Thị trường thế giới luôn luôn biến động. Vì vậy công ty phải kịp thời nắm bắt để điều chỉnh nguồn cung cấp. Hoạt động thu mua phải được tổ chức hợp lý để hàng hoá được chuẩn bị đúng yêu cầu của khách hàng. Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển cây tinh dầu thành một mặt hàng xuất khẩu với số lượng lớn không thua kém các nước là cường quốc về tinh dầu hiện nay. Vấn đề đặt ra là phải tìm được thị trường cho đầu ra, sau đó cân đối được đầu ra với đầu vào. Công ty đã từng thu mua tinh dầu ở các vùng chuyên canh cây tinh dầu lớn như ở Hưng Yên, Tây Nguyên,... sắp tới công ty nên phát triển cây tinh dầu ở một số vùng khác nữa nếu tìm hiểu thấy có nhiều điều kiện thuận lợi. Công ty phải phối hợp với các đơn vị trồng cây tinh dầu từ khâu giống đến khâu chăm sóc thu hoạch, sơ chế. Làm như vậy công ty vừa có khả năng đảm bảo ổn định vững chắc nguồn hàng vừa có khả năng đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu. 5-/ Nâng cao chất lượng tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên xuất khẩu. Chất lượng hàng hoá giữa vai trò quan trọng trong việc củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ. Nâng cao chất lượng tức là nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Bởi vì trong giai đoạn khoa học kỹ thuật phát triển hiện nay, sự cạnh tranh về giá cả sẽ không còn là yếu tố quyết định trong kinh doanh. Sản phẩm tinh dầu ở công ty có hàm lượng khoa học công nghệ cao hơn sản phẩm tinh dầu ở các đơn vị khác vì công ty có dây chuyền chế biến tinh dầu xuất khẩu còn ở các đơn vị khác chỉ xuất tinh dầu thô. Tuy nhiên tinh dầu của công ty chỉ ở dạng tinh khiết hơn chứ chưa đạt được tới mức chất lượng như bạn hàng quốc tế yêu cầu. Chính vì vậy họ chỉ chấp nhận mua tinh dầu của công ty với giá thấp. Để đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu công ty phải nâng cao được chất lượng của sản phẩm. Muốn vậy công ty phải chú trọng đến những khâu sau: - Kiểm tra chặt chẽ lượng hàng xuất khẩu: kiểm tra các thông số về chỉ tiêu hàm lượng tinh dầu, độ trong, màu sắc, mùi vị đặc trưng của loại tinh dầu đó trước khi xuất khẩu để đảm bảo được uy tín với bạn hàng. - Bảo quản lưu giữ cẩn thận tinh dầu trong kho: tinh dầu phải được đóng trong bình kín không để tiếp xúc với kim loại nặng không để nơi nhiệt độ cao tinh dầu dễ bị bay hơi và phân huỷ. - Đầu tư để cải tiến công nghệ lọc tinh dầu, sản xuất tinh dầu đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, quan tâm đến chất lượng tinh dầu từ khi trồng cây tinh dầu đến khi chăm sóc, thu hoạch, sơ chế. Công ty cần nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào việc sản xuất những sản phẩm tinh dầu thô tạo ra sản phẩm cuối cùng (Ví dụ: như chiết suất Menthol từ tinh dầu bạc hà, Anethol từ tinh dầu hồi, Cinnamic từ tinh dầu quế,...) 6-/ Đa dạng hoá sản phẩm. Nhìn vào cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên ta thấy kim ngạch xuất khẩu phần lớn dựa vào hai mặt hàng sả và xá xị. Đó là sự mất cân đối lớn trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty. Đặc biệt năm 1999 thủ tướng Chính phủ ra Quyết định cấm xuất khẩu tinh dầu xá xị thì khó khăn của công ty ngày càng tăng nó ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu của công ty. Vấn đề đa dạng hoá sản phẩm là nhiệm vụ cấp bách của công ty trong thời gian tới. Để thay thế mặt hàng tinh dầu xá xị có thể phát triển các mặt hàng tinh dầu truyền thống như tinh dầu sả, tinh dầu hồi, tinh dầu quế,... các sản phẩm tự nhiên như màng tang, pơmu, hoa hồi,... Ngoài ra công ty tiến hàng nghiên cứu triển khai sản xuất các mặt hàng mới phù hợp với yêu cầu tiêu dùng trên thế giới như tinh dầu hoa môi, nước gội đầu, chất tẩy rửa pha chế, đơn chất thương thơm như hương chanh, hương táo,... Phần tinh dâu sau khi chiết suất còn lại hàm lượng thấp có thể tiếp tục nâng hàm lượng lên hoặc dùng cho các ngành công nghiệp chỉ cần đến hàm lượng tinh dầu thấp. Để đa dạng hoá sản phẩm cần phải giải quyết các vấn đề: - Không xuất khẩu tinh dầu thô như hiện nay vì như vậy sẽ không phát triển được sản xuất trong nước, giá xuất khẩu rẻ, hiệu quả kinh tế thấp. Đồng thời phải nâng cao chất lượng tinh dầu xuất khẩu để có thể bán với giá cao, thu lợi nhuận cao, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. - Mở rộng được thị trường, thúc đẩy xuất khẩu tạo được công ăn việc làm cho người lao động. Các sản phẩm của công ty cũng phải có khả năng đáp ứng được nhu cầu trong nước, thiết thực phục vụ cho các ngành sản xuất trong nước mà lâu nay những sản phẩm cùng loại chúng ta vẫn phải nhập khẩu. - Nâng dần tỷ trọng của một số loại tinh dầu khác như tinh dầu xả, tinh dầu hồi, tinh dầu quế,... trong tổng kim ngạch bằng cách tích cực tìm kiếm thị trường xuất khẩu và làm tốt công tác tạo nguồn. Đa dạng hoá danh mục mặt hàng xuất khẩu song vẫn phát triển một số mặt hàng chủ lực phấn đấu để thực hiện 80% doanh thu xuất khẩu là của 20% mặt hàng kinh doanh chủ yếu. 7-/ Khuyếch trương quảng cáo hàng xuất khẩu với bạn hàng. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu khuyếch trương quảng cáo hàng hoá cũng đóng vai trò quan trọng nhưng vị trí của hoạt động này như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vị thế của công ty, đặc điểm, chu kỳ sống của sản phẩm tiềm lực của công ty,... Hiện nay trên thị trường quốc tế mặt hàng tinh dầu Việt Nam cũng đã trở nên khá phổ biến và được tin tưởng về chủng loại và chất lượng. Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên có một thời gian khá dài hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu tinh dầu và đã có một uy tín nhất định với bạn hàng. Tuy nhiên do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan lượng khách hàng của công ty còn ít và tập trung chủ yếu ở Châu Âu. Thị trường ở một số khu vực khác công ty chưa có khả năng khai thác. Thực tế đặt ra đòi hỏi công ty phải tăng cường quảng cáo khuyếch trương. Công ty cần thông qua các hội chợ triển lãm, hội thảo, tích cực tham gia các hội thảo chuyên ngành để giới thiệu khẳng định chất lượng của mặt hàng tinh dầu và khả năng cung cấp mặt hàng này của công ty. Thông qua đó công ty có thể tạo ra các mối quan hệ thiết lập các thương vụ với bạn hàng mới khẳng định uy tín của mình với bạn hàng cũ. Càng ngày điều kiện cạnh tranh càng gay gắt nên càng cần phải tăng cường quảng cáo khuyếch trương. Ngoài ra công ty có thể thực hiện việc quảng cáo thông qua các tạp chí chuyên ngành có tính chất quốc tế hoặc qua các hoạt động uỷ thác các mặt hàng khác. Công tác khuyếch trương quảng cáo nên thực hiện thường xuyên dưới mọi hình thức có thể. Công ty kịp thời nắm được nhu cầu của thị trường trong từng thời điểm để gửi thư chào hàng đến từng bạn hàng, khuyếch trương quảng cáo trong thương mại quốc tế cũng thường có chi phí cao và hiệu quả đạt được phải trong thời gian dài. Tuy vậy công ty cũng nên chú trọng đến hoạt động này nếu muốn đẩy mặt hoạt động xuất khẩu sang những thị trường mới trên khắp thế giới. 8-/ Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Như đã thấy trong kết quả hoạt động kinh doanh của công ty doanh thu hàng năm của công ty rất lớn nhưng lợi nhuận thu được lại thấp do chi phí quá cao. Muốn tăng được hiệu quả thì phải làm thế nào giảm được chi phí. Giảm đựoc chi phí, hạ giá thành sản phẩm sẽ tăng được khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để có những biện pháp giảm chi phí trước tiên phải xem xét nguyên nhân. Chi phí cao có thể là do: - Khâu tổ chức thu mua nguyên liệu không có sự quản lý chặt chẽ không có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu nên nhiều khi gây ra sự rườm rà lãng phí không cần thiết. Chi phí cho đi lại của cán bộ thu mua, chi phí để vận chuyển chiếm một phần đáng kể. - Quá trình vận chuyển từ các trạm thu mua như Vinh - Nghệ An trạm thu mua tinh dầu Phú Yên chi nhánh số 1 Khánh Hoà,... về công ty để tinh chế đóng thành lô hàng nhiều khi cũng gây ra một chi phí lớn làm tăng chi phí sản xuất của công ty. - Thủ tục hải quan của Việt Nam trong việc xuất hàng hoá khá phức tạp nên thời gian lưu kho bãi lâu, ngoài ra có rất nhiều khoản phụ phí khác nên chi phí cho việc xuất hàng tăng, chưa kể đến những hao hụt, biến chất của hàng hoá trong thời gian lưu kho bãi dẫn đến giá hàng xuất khẩu tăng cao. - Do tình hình chung và cũng do điều kiện chưa cho phép cùng thói quen của những doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam công ty thường xuất hàng với giá FOB lợi nhuận thu được thấp. Từ những nguyên nhân này công ty phải có những biện pháp hữu hiệu để giảm chi phí nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các công ty xuất khẩu trong nước cũng như ở nước ngoài. Có thể đưa ra một số biện pháp cụ thể như sau: - Giảm chi phí ngay trong quá trình thu mua bằng cách gặp trực tiếp người snr xuất cử cán bộ xuống giúp đỡ người sản xuất cách trồng chăm sóc khai thác, sơ chế sản phẩm tinh dầu, tạo ra các vùng chuyên canh tinh dầu rộng lớn. Nên kế hoạch hoá việc khai thác và ký kết trước hợp đồng với người nông dân để họ yên tâm sản xuất. Làm như vậy cũng tránh được tình trạng tranh mua và nâng giá đầu vào dẫn đến giá thành cao và lên xuống thất thường bất lợi trong kinh doanh. - Với sản phẩm có thể tinh chế tại chỗ mà đảm bảo chất lượng công ty có thể đóng gói vận chuyển trực tiếp từ chỗ sản xuất ra cảng xuất mà không cần phải qua công ty để tiết kiệm chi phí vận tải. ở những vùng có thể phát triển thành vùng chuyên canh cây tinh dầu lớn công ty có thể liên kết để đặt ngay cơ sở chế biến tại đó cử cán bộ và đội ngũ công nhân kỹ thuật trực tiếp chế biến tinh dầu tại đó và coi đó như một cơ sở của công ty. - Tiến hành thực hiện các thủ tục hải quan trước khi đưa hàng vào kho bãi thực hiện việc chuyên trở thu mua và xuất hợp lý giảm thời gian lưu kho bãi tối thiểu. Nâng cao hiệu quả của công tác đàm phán giao dịch ký kết hợp đồng xuất khẩu tránh những chi phí không cần thiết. - Tận dụng nguồn nguyên liệu chế biến tinh dầu nâng cao hàm lượng tinh dầu tinh chế bằng cách sử dụng những công nghệ tiên tiến, khuyến khích ý thức tiết kiệm của cán bộ công nhân viên trong khâu sản xuất. - Bảo quản tốt tinh dầu trong kho giảm hao hụt nguy cơ cháy nổ dò rỉ mất phẩm chất. Ngoài ra công ty còn phải lập kế hoạch đề ra những mục tiêu cụ thể cho việc xuất khẩu tinh dầu tới thị trường. Công ty phải xác định mục tiêu chủ yếu của từng thị trường từ đó có những chính sách tăng hay giảm giá hợp lý để hướng tới từng thị trường cụ thể. Giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm được xem là một biện pháp rất thiết thức có tác dụng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu từ nhiều phía. Biện pháp này cũng liên quan đến nhiều bộ phận nhiều hoạt động của công ty nên đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng và phải có sự nhất quán từ ban lãnh đạo công ty đến từng cán bộ công nhân viên trong công ty. 9-/ Nhân tố con người. ở bất kỳ tổ chức, đơn vị kinh doanh nào thì con người cũng luôn luôn được đặt ở vị trí trung tâm và đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Mọi hoạt động đều được thực hiện thông qua con người và kết quả được quyết định cũng bởi con người. Chính vì thế muốn đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu phải nâng cao được trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty. Ban lãnh đạo công ty nên chú trọng đầu tư bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ, thường xuyên cử các cán bộ đi học tập nghiên cứu để nâng cao trình độ. Công ty là doanh nghiệp xuất khẩu nên đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức và kinh nghiệm về kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương phải thành thạo nghiệp vụ đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng phải giỏi ngoại ngữ đến mức đọ thông viết thạo. Từng cán bộ công nhân viên trong công ty cũng luôn luôn phải có ý thức trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm để nâng cao năng lực làm việc. Ban lãnh đạo công ty chăm lo tốt đời sống của cán bộ công nhân viên để họ yên tâm công tác và làm tốt công tác quản lý nhân sự đặt đúng người đúng việc giúp cán bộ công nhân viên phát huy hết khả năng của họ. Nên tạo một bầu không khí làm việc dân chủ có tinh thần trách nhiệm. Cơ cấu tổ chức bộ máy cũng cần có sự thay đổi phù hợp với yêu cầu của thực tế từ đó phát huy hơn nữa hiệu quả bộ máy trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu tổ chức mới phải đáp ứng được yêu cầu là linh hoạt có năng động sáng tạo cho mỗi cán bộ công nhân viên dù ở vị trí nào cũng thực sự chủ động trong công việc được giao phát huy hơn nữa năng lực góp phần thực hiện tốt mục tiêu của công ty đề ra. Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua để đề xuất. Do trình độ còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Những biện pháp trên đây muốn thực hiện được còn đòi hỏi nhiều điều kiện khác nữa và các chính sách này không thể tồn tại riêng lẻ mà cần có sự phối hợp liên kết giữa chính sách nọ với chính sách kia, chính sách này là động lực của chính sách khác và ngược lại. Chính vì vậy những biện pháp này chỉ mang tính chất tham khảo. IV-/ Các biện pháp đề xuất với Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên. 1-/ Thành lập hiệp hội tinh dầu. Trong tình hình hiện nay để giảm bớt các tình hình cạnh tranh mua bán để đồng thời đảm bảo quyền lợi chung của quốc gia và của người sản xuất Nhà nước nên có những chính sách và biện pháp hợp lý để quản lý việc xuất khẩu tràn lan như hiện nay. Để khắc phục tình trạng trên nên thành lập Hiệp hội tinh dầu để thuận lợi cho việc quản lý xuất nhập khẩu. Hiệp hội là tổ chức tự nguyện của các công ty xuất khẩu mặt hàng tinh dầu không nhất thiết phải là tổ chức Nhà nước. Mục đích của Hiệp hội là cùng nhau hợp tác thống nhất hỗ trợ nhau trong sản xuất và xuất khẩu. Hiệp hội sẽ nghiên cứu giá quốc tế và giá thành sản xuất trong nước để định ra mức giá tối thiểu luôn được thay đổi linh hoạt theo sự biến động của thị trường trong nước và thế giới. Các thành viên trong Hiệp hội phải chấp hành nghiêm những qui định của Hiệp hội như thống nhất giá bán tối thiểu nếu không sẽ bị phạt theo luật của Hiệp hội đề ra. Trong điều kiện như ở Việt Nam hiện nay đây là một việc làm rất khó nhưng cũng là vấn đề cấp bách cần được thực hiện. Trong thực tế, Hiệp hội tinh dầu, mỹ phẩm, hương liệu Việt Nam gọi tắt là VOCA được thành lập từ năm 1991 có 35 thành viên tham gia cùng các công ty sản xuất tinh dầu, hương liệu, mỹ phẩm và các doanh nghiệp xuất khẩu tinh dầu từ Bắc vào Nam. Công ty chưa phải thành viên của Hiệp hội này. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng trong mấy năm qua Hiệp hội chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà chưa thực hiện theo nhiệm vụ và mục đích đề ra. Trong tình hình sản xuất và xuất khẩu hiện nay việc thành lập các hiệp hội là cần thiết và tất yếu để đảm bảo quyền lợi chung của quốc gia. Mặt khác ta đã trở thành thành viên của ASEAN, vì vậy việc tham gia các tổ chức của ASEAN trong lĩnh vực tinh dầu, hương liệu, mỹ phẩm nói riêng là cần thiết. Ngoài ra chúng ta cần học hỏi tham khảo những kinh nghiệm của những nước tham gia vào hiệp hội, những nước xuất khẩu chè, cà phê, gạo, dầu lửa (OPEC),.. Những hiệp hội này hoạt động thực sựu có hiệu quả đảm bảo được quyền lợi của những nước tham gia vào hiệp hội. Hiệp hội tinh dầu sẽ tạo điều kiện cho công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh tinh dầu nói chung hội nhập vào các tổ chức kinh tế cùng lĩnh vực kinh doanh. Cả người sản xuất và người kinh doanh cùng tránh được những rủi ro và nguy cơ phải đối đầu với cạnh tranh không lành mạnh. 2-/ Chính sách khuyến khích xuất khẩu đối với mặt hàng tinh dầu. Nhà nước nên có chính sách hợp lý để động viên xuất khẩu nhưng đồng thời phải đảm bảo quyền lợi quốc gia nhất là đối với mặt hàng tinh dầu. Nên chăng cần qui định và giới hạn ở một mức nào đó cho phù hợp với đặc điểm chuyên ngành của từng doanh nghiệp, nhằm hạn chế hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. Từ năm 1989 đến nay, việc trồng và chế biến các cây dược liệu để chiết suất ra tinh dầu do người nông dân tự trồng khai thác và tiêu thụ. Vì vậy khi thị trường không có nhu cầu người nông dân tự trồng khai thác và tiêu thụ tinh dầu. Tình trạng như vậy kéo dài dẫn đến người nông dân sẽ bỏ hẳn trồng những cây dược liệu và thay thế bằng trồng những cây công nghiệp khác mà hiệu quả kinh tế đem lại không thể bằng những cây dược liệu để chiết suất tinh dầu. Do đó, Nhà nước nên có chính sách động viên khuyến khích người sản xuất trong nước mở rộng diện tích trồng và bảo vệ những cây dược liệu để chống hiện tượng khai thác cây dược liệu quá sớm không đảm bảo chất lượng tinh dầu xuất khẩu từ đó phá vỡ thị trường tiêu thụ. Mặt khác Nhà nước cũng cần hỗ trợ về giá cho người nông dân khi sản phẩm của họ được sản xuất ra nhưng lợi nhuận thu về không bù đắp được chi phí trong sản xuất. Cây tinh dầu xuất khẩu cũng cần được Nhà nước xem như sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu để có những chính sách khuyến khích xuất khẩu như các chính sách về thuế, về thủ tục hành chính, chính sách ưu tiên,... tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Nhà nước cần ban hành các văn bản dưới luật để cụ thể hoá luật đầu tư nhằm tạo điều kiện cho công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Nhà nước phải tạo môi trường thuận lợi để các công ty Việt Nam gây được lòng tin của các công ty nước ngoài nhằm thu hút đầu tư phát triển liên doanh với họ để tinh chế sản phẩm tinh dầu nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng tinh dầu Việt Nam trên thị trường thế giới. 3-/ Cơ chế quản lý. Tinh dầu là hàng hoá mang tính đặc thù riêng (hàng tiêu dùng trong công nghiệp chứ không phải hàng tiêu dùng) vì thế Nhà nước nên tổ chức theo hình thức vừa đa dạng hoá vừa tập trung hoá. Nói như vậy không có gì là mâu thuẫn. Đa dạng hoá hình thức thu mua thu gom tinh dầu xuất khẩu nhưng cần tập trung việc xuất khẩu trực tiếp vào một số công ty có kim ngạch xuất khẩu tinh dầu lớn. Việc tập trung này nhằm loại bỏ việc có quá nhiều đầu mối xuất khẩu tinh dầu trực tiếp gây khó khăn cho việc quản lý tinh dầu của Nhà nước và loại bỏ tình trạng cạnh tranh mua trong nước (làm tăng giá nội địa) và cạnh tranh bán trên thị trường thế giới (tình trạng hạ giá bán để xuất khẩu) giảm tình trạng ép giá của thương nhân nước ngoài đối với công ty xuất khẩu ở Việt Nam. Ngoài ra việc tập trung đầu mối xuất khẩu tinh dầu sẽ giúp Bộ y tế giảm được chi phí quản lý, các công ty xuất khẩu giảm được chi phí giao dịch và các loại chi phí không cần thiết. Nếu Nhà nước tập trung việc xuất khẩu tinh dầu và một số đầu mối trong nước sẽ khuyến khích các công ty trong nước yên tâm hơn trong việc thu gom tinh dầu xuất khẩu. Từ đó các doanh nghiệp trong nước sẽ có các biện pháp kế hoạch hoá chiến lược đầu tư, liên doanh, liên kết với các tổ chức thành viên đang tổ chức sản xuất loại cây cho tinh dầu. Thông qua biện pháp tập trung đầu mối xuất khẩu còn làm tăng khả năng sử dụng vốn đất và cơ cấu cây trồng một cách hợp lý. Nói như vậy là bởi vì các loại cây trồng tinh dầu ở Việt Nam thường được trồng hoặc mọc hoang ở các vùng núi cao không phù hợp với việc trồng cây công nghiệp. Vì vậy nếu Nhà nước có chính sách tập trung đầu mối xuất khẩu và có các chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này thì sẽ thúc đẩy người dân yên tâm trồng các loại cây cho tinh dầu. Khuyến khích xuất khẩu tinh dầu đối với một số vùng có tiềm năng sẽ có giá trị kinh tế cao hơn trồng các loại cây lương thực. 4-/ Đầu tư cho ngành tinh dầu. Nhà nước nên có sự đầu tư thích đáng cho khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại trong nuôi trồng cây tinh dầu và chiết suất các sản phẩm từ tinh dầu. Việc đầu tư này nâng cao số lượng cũng như chất lượng tinh dầu xuất khẩu và từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng tinh dầu trên thị trường quốc tế. Đầu tư cho khoa học công nghệ nuôi trồng chế biến tinh dầu thì điều cần thiết phải có một lượng vốn lớn. Điều này đối với các tổ chức hoặc cá nhân nuôi trồng sản xuất tinh dầu là điều không thể được. Cần thiết phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước bằng các biện pháp cho vay vốn với lãi suất trong khoảng thời gian dài hoặc thông qua viện trợ không hoàn lại nhưng chỉ hạn chế trong lĩnh vực kinh doanh tinh dầu. Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên nằm trong Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia là cái nôi cho ngành tinh dầu Việt Nam phát triển. Vì vậy công ty rất cần có sự quan tâm hỗ trợ từ phía Nhà nước về mọi mặt. Công ty không chỉ là đơn vị kinh doanh mà còn là đơn vị tiên phong trong nghiên cứu phát triển cây tinh dầu tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại nhất vào ứng dụng sản xuất tinh dầu. Nhà nước nên có những ưu tiên đặc biệt đối với công ty vì tương lai của ngành tinh dầu Việt Nam. 5-/ Một số chính sách hỗ trợ khác. Hoạt động xuất khẩu tinh dầu kích thích hoạt động nông nghiệp thay đổi cơ cấu cây trồng một cách hợp lý tăng hệ số sử dụng đất cho ngành nông nghiệp góp phần tạo công ăn việc làm cho người nông dân tăng thu nhập và đảm bảo đời sống cho họ góp phần đảm bảo trật tự an ninh xã hội. Vì vậy sự buông lỏng quản lý hoạt động xuất khẩu tinh dầu của Nhà nước trong thời gian qua để tình trạng cạnh tranh không lành mạnh xảy ra thì sẽ không tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển và do đó không khuyến khích được ngành nông nghiệp phát triển. Nên chăng Nhà nước cần có sự chú trọng quan tâm hơn đến hoạt động xuất khẩu tinh dầu trong thời gian tới thông qua một số biện pháp sau: - Thu thập thông tin tìm kiếm thông tin quan trọng về thị trường tinh dầu thế giới, sự biến động về giá cả, nhu cầu đặc điểm chủng loại mặt hàng tinh dầu một cách thường xuyên. Từ đó công ty có thể nhận được thông tin một cách kịp thời chính xác để có những chính sách kế hoạch xuất khẩu. - Trước khi có thể thành lập được Hiệp hội tinh dầu trong nước thì Nhà nước cần thiết phải có các chính sách hỗ trợ về giá, thuế các thủ tục hải quan, nguồn tài chính cho việc xuất khẩu mặt hàng này. - Thiết lập các chi nhánh đại diện như Văn phòng giao dịch thương mại ở các nước nhập khẩu tinh dầu chủ yếu của Việt Nam. Từ đó có thể thu thập được những thông tin cần thiết về sự biến động của thị trường giá cả và tạo điều kiện cho các công ty xuất khẩu trong nước hoạt động được dễ dàng. - Xây dựng chiến lược phát triển ngành tinh dầu trong dài hạn đầu tư thích đáng cho các vùng có tiềm năng về tinh dầu, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng tạo nguồn hàng dồi dào cho xuất khẩu. Kết luận Hoạt động xuất khẩu ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta là không ngừng tăng trưởng tổng sản phẩm kinh tế quốc dân phấn đấu rút ngắn khoảng cách kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực. Để đạt được mục tiêu này Nhà nước có chính sách mở rộng quan hệ xuất khẩu và trao nhiệm vụ này cho các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện. Tuy vậy hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong cơ chế thị trường diễn ra hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Mặc dù có những thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhưng các mặt hàng như tài nguyên khoáng sản, sản phẩm thô hoặc mới qua sơ chế vẫn là chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu của ta. Tinh dầu cũng là một sản phẩm được sơ chế, được chiết suất từ các loài thảo mộc. Hoạt động xuất khẩu tinh dầu ở Việt Nam có lịch sử tồn tại và phát triển chưa lâu nhưng lại phát triển nhanh chóng với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch hàng xuất. Cũng chính vì vậy mà hoạt động xuất khẩu tinh dầu ở các Công ty xuất khẩu trực tiếp tinh dầu còn gặp nhiều khó khăn. Là một doanh nghiệp tiên phong trong ngành, Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên đã nỗ lực khắc phục những khó khăn để hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Với mong muốn góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên ở Công ty ENTEROIL nói riêng và các doanh nghiệp trong nước nói chung, đề tài “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ở Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên” đề xuất một số biện pháp áp dụng cho ENTEROIL trong tình hình hiện nay cùng với một số kiến nghị giúp các chính sách này phát huy hiệu lực. Với ưu thế về mặt hàng xuất khẩu, lại là một đơn vị kinh doanh tinh dầu đầu tiên ở Việt Nam được sự quan tâm của Nhà nước và Trung tâm cùng với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên sẽ trở thành đơn vị kinh doanh tinh dầu lớn nhất trong cả nước và kim ngạch xuất khẩu ngày càng gia tăng trong tương lai không xa. Tài liệu tham khảo 1-/ Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế. PGS. PTS Trần Chí Thành - NXB Giáo dục - 2000. 2-/ Giao dịch và thanh toán thương mại quốc tế. PGS. TS Nguyễn Duy Bột - Trường Đại học KTQD - 2001. 3-/ Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương. PGS Vũ Hữu Tửu trường Đại học Ngoại thương - NXB Giáo dục - 2000. 4-/ Marketing quốc tế. TS Nguyễn Văn Cao - NXB Giáo dục - 2000. 5-/ Thương mại dịch vụ trong sự nghiệp CNH - HĐH - NXB Thống kê - 2000. 6-/ Báo cáo tình hình kinh doanh xuất khẩu của Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên giai đoạn 1995 - 2001. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11333.DOC
Tài liệu liên quan